Chuyên đề Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu chè của tỉnh Phú Thọ trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế

Hội nhập kinh tế quốc tế đang là xu thế tất yếu của nền kinh tế thế giới. Xu thế này đã diễn ra với tốc độ nhanh chóng trong những năm cuối của thế kỷ XX và sẽ sôi động hơn, quyết liệt hơn trong những năm đầu của thế kỷ này. Hội nhập quốc tế mang lại cho các quốc gia rất nhiều cơ hội nhưng cũng không ít thách thức. Để tận dụng được các cơ hội và vượt qua được các thách thức đó, các quốc gia cần phải xây dựng chính sách chủ động hội nhập nhằm phát huy một cách hiệu quả sức mạnh tổng hợp của nền kinh tế dân tộc, nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu. Đối với sản phẩm chè của tỉnh Phú Thọ, để làm được điều đó cần thực hiện các biện pháp tổng thể từ quy hoạch vùng nguyên liệu, chăm sóc, thu hoạch chè, sản xuất và chế biến cho tới xây dựng, phát triển thương hiệu, quảng bá, xúc tiến thương mại. Chuyên đề được xây dựng trên cơ sở lý luận và thực tiễn ở Phú Thọ, kết hợp với những lý luận về hoạt động xuất khẩu đặc biệt là xuất khẩu nông sản. Chuyên đề đã hệ thống hoá các vấn đề lý luận chung nhất về xuất khẩu hàng hóa. Đánh giá thực trạng tình hình sản xuất, chế biến và xuất khẩu Chè của tỉnh Phú Thọ, từ đó đưa ra những nội dung và một số giải pháp cơ bản để đẩy mạnh xuất khẩu chè của tỉnh Phú Thọ hiện nay.

doc84 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1954 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu chè của tỉnh Phú Thọ trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ản lý chất lượng chè xuất khẩu. Do chạy theo lợi nhuận trước mắt, nhiều doanh nghiệp sản xuất chè kém chất lượng hoặc bán phá giá gây ảnh hưởng xấu đến uy tín chè của tỉnh Phú Thọ. Một số hộ lợi dụng danh tiếng chè Phú Thọ đã kinh doanh không lành mạnh, trà trộn chè của các tỉnh khác vào chè đem bán, gây mất lòng tin của khách hàng. Đối với long chè cũng có hiện tượng tương tự. Hai là, quảng bá và sử dụng thương hiệu. - Việc quảng bá và sử dụng thương hiệu này vẫn còn diễn ra một cách đơn lẻ, manh mún, mạnh ai nấy làm, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp và hộ trồng chè. Điều này dẫn đến tình trạng thương hiệu chè Phú Thọ chưa có được một hình ảnh thống nhất trên thị trường (mỗi khách hàng cảm nhận một cách khác nhau từ sản phẩm, đối tác mà họ tiến hành giao dịch). Các doanh nghiệp cũng tự do gắn nhãn mác “chè Phú Thọ” lên sản phẩm của mình mà chưa có một thiết kế, kiểu dáng, hình thức nhãn mác thống nhất. Tuy nhiên, nhìn chung năng lực quảng bá thương hiệu còn bộc lộ nhiều điểm yếu, không cơ bản, và không được đầu tư thoả đáng. Công tác xúc tiến thương mại, quảng bá, mở rộng thị trường tìm kiếm đầu ra cho sản phẩm chè cũng như các mặt hàng nông sản khác còn hạn chế; tham gia hội chợ triển lãm trong nước, quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng còn ít. - Mặc dù tỉnh Phú Thọ đã có chủ trương, chính sách phát triển ngành chè nhưng chưa có quy định rõ ràng và cụ thể về xây dựng và quảng bá thương hiệu chè Phú Thọ, chưa chỉ định rõ một (hoặc một số) cơ quan, tổ chức đứng ra đảm nhiệm và điều phối công tác này, cũng như chưa rõ những đối tượng nào sẽ được hưởng lợi từ thương hiệu sản phẩm tập thể địa phương này và cơ chế sử dụng chung và giải quyết tranh chấp phát sinh. Hiện tại các doanh nghiệp chè ở Phú Thọ, bao gồm cả các hộ trồng chè, đều hoạt động theo kiểu “mạnh ai nấy chạy”, mỗi doanh nghiệp lại sử dụng thương hiệu “chè Phú Thọ” theo cách riêng cho những mục đích riêng của mình. Tuy nhiên, nếu Hội nông dân của tỉnh hoặc hiệp hội chè Phú Thọ được thành lập với chương trình hành động cụ thể, hợp lý và nếu các cơ quan hữu quan của tỉnh ban hành những chính sách và triển khai những chương trình có sức thuyết phục cao thì sẽ có khả năng thu hút, gắn kết các doanh nghiệp, các hộ trồng chè ở Phú Thọ lại cùng nhau xây dựng và phát triển một thương hiệu chung cho chè Phú Thọ. Tình trạng vi phạm quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam là một vấn đề nhức nhối không chỉ riêng trong lĩnh vực này mà trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Đối với những thương hiệu sản phẩm tập thể nổi tiếng ở địa phương như nước mắm Phú Quốc, gốm sứ Bát Tràng, mặc dù đã được đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa và chỉ dẫn địa lý nhưng tình trạng sử dụng bất hợp pháp những nhãn hiệu trên vẫn diễn ra tràn lan, đòi hỏi các cơ quan quản lý thị trường và các cơ quan bảo vệ pháp luật phải vào cuộc. Do vậy, đối với thương hiệu “chè Phú Thọ” chưa được đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa và chỉ dẫn địa lý thì cũng dễ hiểu được tại sao lại có hàng ngàn các hộ kinh doanh và doanh nghiệp tùy tiện sử dụng tên gọi “chè Phú Thọ” với những hình thức nhãn hiệu hoàn toàn khác nhau cho sản phẩm chè của mình, phục vụ cho những mục đích riêng và nhiều khi gây ra những hậu quả xấu cho thương hiệu “chè Phú Thọ” nói chung. Trước tình hình trên, một trong những việc cần làm ngay trong kế hoạch xây dựng và phát triển thương hiệu chè Phú Thọ là cơ quan hữu quan của tỉnh cần tiến hành đăng ký ngay việc bảo hộ nhãn hiệu thương mại cho thương hiệu “chè Phú Thọ” và lên phương án cụ thể về việc ngăn ngừa và chống lại những vi phạm về sử dụng nhãn hiệu được đăng ký bảo hộ này. Ba là, xác định thị trường Định hướng quy mô phát triển sản xuất chưa đủ căn cứ khoa học; thiếu thông tin, chưa nắm bắt, đánh giá, xác định nhu cầu của thị trường một cách khoa học; công tác dự tính, dự báo thị trường dài hạn để định hướng sản xuất còn nhiều hạn chế. Thiếu chiến lược phát triển bền vững hàng hoá chất lượng cao và phát triển thương hiệu. Bốn là, hoạt động quảng bá, xúc tiến thương mại - Chưa gắn kết được sản xuất, chế biến và tiêu thụ, chưa xây dựng được hệ thống phân phối ổn định, nhất là sản phẩm đã qua chế biến. Việc xây dựng hệ thống các cửa hàng giới thiệu sản phẩm chè tại nước ngoài và các thành phố lớn trong nước để nhằm quảng bá, khẳng định về chất lượng của sản phẩm với người tiêu dùng trong và ngoài nước chưa được chú trọng. - Các doanh nghiệp chè Việt Nam nói chung cũng như các doanh nghiệp chè Phú Thọ nói riêng vẫn chưa chủ động hoặc chưa đủ khả năng tham gia các chương trình hội chợ, triển lãm hay các chương trình xúc tiến thương mại trong và ngoài nước để tìm kiếm những thị trường mới, tiềm năng hơn. Do vậy họ thường mất chủ động và phụ thuộc vào những thị trường truyền thống như I-rắc, Ấn Độ, Pakistan.... Mỗi khi những thị trường truyền thống này có biến động về chính trị và kinh tế thì các doanh nghiệp xuất khẩu chè lại lâm vào tình trạng doanh thu sụt giảm, lại phải bị động đi tìm kiếm những thị trường tiêu thụ khác. Năm là, cơ cấu chè xuất khẩu - Chè Phú Thọ xuất khẩu chủ yếu là chè đen, các loại chè chất lượng cao còn hạn chế, sản lượng ít, các sản phẩm chè còn thiếu tính đa dạng. - Đặc biệt trong năm 2008, lượng chè kho tồn kho của các doanh nghiệp sản xuất chế biến chè trên địa bàn tỉnh với số lượng lớn, kim ngạch xuất khẩu có xu hướng giảm so với năm 2007. Do ảnh hưởng của tình hình suy thoái kinh tế thế giới, người tiêu dùng thắt chặt chi tiêu. Do đó có nhiều hợp đồng xuất khẩu đã được kí kết từ đầu năm bị khó khăn về thanh toán, nhiều khách hàng đã xin giãn kế hoạch giao hàng. Thậm chí có nhiều khách hàng còn yêu cầu thay đổi về cơ cấu sản phẩm theo hướng tăng lượng hàng tốt, giảm lượng hàng có chất lượng trung bình. Điều này có liên quan nhiều đến công nghệ chế biến. Tiếp đó khách hàng còn yêu cầu trả chậm. Tất cả những điều đó đã gây ra nhiều khó khăn cho doanh nghiệp chè trong nước khi hầu hết là những doanh nghiệp tư nhân có quy mô nhỏ. Phân tích và dự báo các thị trường nhập khẩu chè Phú Thọ chủ yếu Sản phẩm chè của tỉnh Phú Thọ chủ yếu được xuất khẩu đi nhiều nước trên thế giới: Ấn Độ, Nga, Trung Quốc, Đức, Anh, Pakistan. Đặc biệt, sản phẩm chè của Phú Thọ đã xâm nhập một số thị trường khó tính như: Đức, Mỹ, Hà Lan, Nhật... Ngoài 2 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (Công ty Chè Phú Bền, Công ty Chè Phú Đa), trên địa bàn tỉnh còn có một số doanh nghiệp có khối lượng sản phẩm chè xuất khẩu lớn như: Công ty cổ phần Chè Phú Thọ, Công ty Chè Đại Đồng, Công ty TNHH Chè Hưng Hà, Công ty TNHH Hà Trang.... đã xây dựng được chiến lược mặt hàng với 2 loại chè đen công nghệ CTC và chè xanh truyền thống. Các sản phẩm sản xuất chủ yếu được xuất khẩu sang Châu Âu: Nga, Đức, Anh, Hà Lan, Pakistan, Irăc, Đài Loan, Trung Quốc. Để nâng cao chất lượng đáp ứng nhu cầu xuất khẩu, các doanh nghiệp này đã hoàn thiện và xây dựng được hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế. Việc xây dựng và sản xuất chế biến mặt hàng chè sạch được áp dụng theo hệ thống chỉ tiêu vệ sinh an toàn thực phẩm của Công ty đã được tổ chức quốc tế cấp Giấy chứng nhận áp dụng hệ thống quản lý chất lượng quốc tế theo tiêu chuẩn ISO- 9001: 2000 và hệ thống an toàn thực phẩm HACCP. Năm 2007 xuất khẩu chè khô của tỉnh đạt từ 15-16 ngàn tấn. Phấn đấu đến năm 2010 nâng diện tích chè lên 15 ngàn ha, năng suất bình quân 10 tấn/ha, sản lượng từ 120 đến 125 ngàn tấn, xuất khẩu 22 đến 24 ngàn tấn chè khô. Gần đây, một số quan chức Hoa Kỳ cũng đã tới Phú Thọ nghiên cứu các yếu tố vệ sinh an toàn thực phẩm để có thể cấp phép cho chè Phú Thọ được nhập khẩu vào thị trường Hoa Kỳ. Đây là những tín hiệu tốt và là cơ hội đối với người trồng chè Phú Thọ vì thị trường Hoa Kỳ là một thị trường rất lớn và đầy tiềm năng. Dự báo những thị trường có giá trị nhập khẩu lớn và tiềm năng tăng trưởng cao đối với chè Phú Thọ gồm: châu Âu (Đức, Pháp, Hà Lan, Nga, v.v.), Hoa Kỳ, Nhật Bản, Đài Loan, Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan, Trung Đông. Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẦY MẠNH XUẤT KHẨU CHÈ CỦA TỈNH PHÚ THỌ 3.1. QUAN ĐIỂM, ĐỊNH HƯỚNG SẢN XUẤT, CHẾ BIẾN VÀ XUẤT KHẨU CHÈ: Căn cứ vào điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, tiềm năng phát triển của ngành chè về đất đai, khí hậu, con người, cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có; căn cứ vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh; ngành chè đã đề ra những chủ trương phát triển cho cây chè trong giai đoạn tới như sau: Một là, xây dựng ngành chè thành một ngành kinh tế có tầm vóc trong sự nghiệp phát triển nông nghiệp và nông thôn, cũng như trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của tỉnh đã đề ra. Do vậy ngành chè cần phải: + Là một ngành kinh tế mũi nhọn trong việc phát triển kinh tế- xã hội ở Trung du và miền núi. + Đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng chè trong tỉnh, xuất khẩu ngày càng nhiều và có tích lũy để tái sản xuất mở rộng. + Góp phần vào việc phân bố lại lao động và dân cư, thu hút ngày càng nhiều lao động, cải thiện thu nhập, điều kiện làm việc và sinh hoạt cho người lao động, đặc biệt cho vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. + Góp phần phủ xanh đất trống, đồi núi trọc và bảo vệ môi sinh. Hai là, chú trọng việc phát triển khoa học và công nghệ để khắc phục những nhược điểm và yếu kém hiện nay. Cụ thể: + Đưa công nghệ mới vào kinh doanh và phát triển đồi chè (giống mới, kỹ thuật dâm cành, phân bón hữu cơ,…) + Lựa chọn loại hình công nghệ chế biến thích hợp, đổi mới bao bì, mẫu mã để nâng cao chất lượng chè xuất khẩu Có những giải pháp thích hợp để thu hút mọi nguồn vốn ở trong và ngoài tỉnh phục vụ cho mục tiêu phát triển cây chè. Định hướng trong hoạt động xuất khẩu chè của tỉnh Phú Thọ Đến năm 2010 sản lượng chè tỉnh Phú Thọ đạt 100-110 nghìn tấn, tăng 10.680- 20.680 tấn so với hiện nay, trong đó 80% sản phẩm qua chế biến dành cho xuất khẩu. 3.2. PHÂN TÍCH SWOT CỦA CHÈ PHÚ THỌ TRONG XUẤT KHẨU 3.2.1. Điểm mạnh (1) Sản phẩm chè của tỉnh Phú Thọ đã khá nổi tiếng, được người tiêu dùng biết đến từ lâu, trong khi sản phẩm chè của các đối thủ cạnh tranh (Hà Tây, Hà Nam, Sơn La…) chưa nổi tiếng và ít được biết đến; (2) Sản phẩm chè của tỉnh Phú Thọ có một số các ưu điểm sau - Giá cả tương đối hợp lý (8000-20000đ/kg tuỳ loại), nên hợp với túi tiền của đa số người tiêu dùng ( có khả năng tăng số lượng khách hàng). Mặt khác, do đời sống được cải thiện, nhu cầu sử dụng hoa quả tươi ngày một tăng. - Về giống chè: Phú Thọ có bộ giống chè đa dạng, đã lựa chọn được những cây đầu dòng, cây mẹ đầu dòng chất lượng cao hơn so với các đối thủ. Gần đây, Phú Thọ phát triển một số giống chè chín sớm, giống chè chín muộn nên đã hạn chế được tính mùa vụ; rải được vụ chè, cung cấp cho thị trường chè quả trong thời gian dài hơn (khoảng 2 tháng). - Về chất lượng sản phẩm: Với điều kiện đất đai thổ nhưỡng, khí hậu, tập quán canh tác và kinh nghiệm trong sản xuất của người trồng chè, chắc chắn chè Phú Thọ sẽ cho sản phẩm có chất lượng cao hơn các đối thủ. - Về xúc tiến thương mại và bình tuyển chè: Những người nông dân trồng chè đã thay đổi nhiều về nhận thức, tư duy theo hướng thị trường so với trước đây; đã thấy được và hưởng ứng việc xây dựng thương hiệu và quảng bá thương hiệu. Tỉnh đã chú ý đầu tư cho việc quảng bá thương hiệu chè HY như: tổ chức “Hội chợ chè HY 2005”, tham gia các hội chợ thương mại do tỉnh tổ chức, các hội chợ của Bộ NN-PTNT; thực hiện các quảng cáo trên thông tin đại chúng, tổ chức các tuor du lịch sinh thái… ; tổ chức bình tuyển chè (năm 1999 và 2005). - Về tiêu thụ: Chè nói riêng, cây chè Phú Thọ nói chung đã có chỗ đứng vững chắc trong tiềm thức và nhu cầu của người tiêu dùng. Thực tế đã chứng minh, những loại chè ngon (chè làm quà) hầu hết được tiêu thụ tại vườn, nhiều khi không đủ để cung cấp. Ngoài ra, hệ thống tiêu thụ chè bao gồm những tác nhân khá chuyên nghiệp (gồm người sản xuất, người thu gom, người bán lẻ, người chế biến, người tiêu dùng,…), hoạt động của họ khá đa dạng và có thể đáp ứng được những thay đổi trong sản xuất và thị trường. - Về chế biến: chế biến long chè đã thành “nghề” của nhiều hộ gia đình, ở một số xã đã hình thành các “làng nghề” chế biến chè. Đây là yếu tố rất quan trọng, nhằm tiêu thụ chè cho người sản xuất; hạn chế thiệt hại cho người trồng chè do việc mất giá khi được mùa (cung vượt cầu). Sản phẩm long chè, chè đóng hộp được nhiều người biết đến và sử dụng ngày càng nhiều giữa 2 mùa chè quả; nhất là long chè được xuất khẩu sang Trung Quốc, Hồng Công… (3) Về kinh nghiệm của người sản xuất: Do có “nghề” trồng chè từ lâu, nên người trồng chè của Phú Thọ tích luỹ được nhiều kinh nghiệm và ứng dụng các Tiến bộ kỹ thuật trong chăm sóc, điều khiển quá trình sinh trưởng, phát triển của cây chè, nhất là hiện tượng ra quả cách năm; hạn chế rủi ro mất mùa; chọn được những cây chè rất ngon và “ngoan” để nhân giống. (4) Đã thành lập được Hội chè Phú Thọ, thuận lợi cho việc đăng ký nhãn hiệu hàng hoá tập thể và bảo vệ quyền lợi người trồng chè trong tranh chấp thương mại. Thành lập HTX sản xuất chè Hồng Nam, Thị xã Phú Thọ có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng; là đầu mối quy tụ người trồng chè trong khu vực, sẽ giúp người trồng chè thực hiện việc trao đổi kinh nghiệm thâm canh, chăm sóc đảm bảo chất lượng; là đầu mối thương thảo, ký hợp đồng tiêu thụ, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người trồng chè trong các tranh chấp thương mại nếu có. 3.2.2. Điểm yếu: (1) Quy hoạch vùng nguyên liệu chè còn nhiều bất cập. (2) Tỉnh Phú Thọ chưa có nhiều chính sách ưu đãi đối với người trồng chè. (3) Về công nghệ: các doanh nghiệp sản xuất và chế biến chè chưa có công nghệ bảo quản chè tươi lâu sau khi thu hoạch, phục vụ vận chuyển đi xa tiêu thụ. Công nghệ chế biến long chè thủ công, năng suất thấp, không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm; chưa có công nghệ chế biến nước ép quả chè; công nghệ chế biến nước quả chè hiện tại lạc hậu, công suất thấp, sức cạnh tranh không cao. (4) Ngành chè của tỉnh Phú Thọ chưa có chiến lược cụ thể về xây dựng và quảng bá thương hiệu chè Phú Thọ. (5) Hoạt động Marketing và xúc tiến thương mại còn nhiều hạn chế. 3.2.3. Cơ hội: (1) Kinh tế phát triển, thu nhập và đời sống của đa số người tiêu dùng tăng; nhu cầu sử dụng hoa quả tươi hàng ngày tăng (nhu cầu tăng), nên có nhiều cơ hội cho người sản xuất phát triển. (2) Về tổng thể, chè vẫn là một trong số ít những loại hoa quả có cơ hội cạnh tranh với hàng ngoại nhập;"là một trong trong 6 loại cây ăn quả của Việt nam (gồm bưởi, thanh long, vú sữa, xoài, chè, vải thiều) có khả năng cạnh tranh cao với hàng ngoại nhập và có nhiều ưu thế hơn hẳn". Chè vừa là món ăn bổ dưỡng, vừa là vị thuốc có lợi cho sức khoẻ, nên người nội trợ lựa chọn mua Chè cho gia đình. (3) Nhu cầu tiêu dùng trong nước ngành càng tăng. Dân số khu vực đồng bằng Bắc Bộ khá cao (khoảng 15 triệu người), thị trường rộng và có sức mua lớn; nhất là Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố lớn khác. Đó là chưa kể một lượng chè được chuyển bằng đường hàng không vào thành phố Hồ Chí Minh do Phú Thọ gần sân bay Nội Bài, giao thông thuận lợi, khai thác yếu tố “ lệch pha” của mùa thu hoạch chè Phú Thọ với mùa thu hoạch chè miền Nam. Gần đây, một số công ty bán lẻ lớn như metro Hà Nội, công ty Phú Thái (Hà Nội), công ty Hoà An (Hải Dương)…đã nghiên cứu và đặt vấn đề với Phú Thọ cung cấp chè quả để tiêu thụ. Đặc biệt, một số quan chức Hoa Kỳ cũng đã tới Phú Thọ nghiên cứu các yếu tố vệ sinh an toàn thực phẩm để có thể cấp phép cho Chè Phú Thọ được nhập khẩu vào thị trường Hoa Kỳ. Đó là những tín hiệu tốt và là cơ hội đối với người trồng chè Phú Thọ. Tỉnh Phú Thọ ngày càng có nhiều chính sách khuyến khích, đầu tư phát triển chè Phú Thọ rõ nét hơn. (5) Hội nhập kinh tế quốc tế với việc Việt Nam gia nhập WTO Các nước thành viên sẽ được giảm thuế nhập khẩu chè, chè Phú Thọ sẽ có được những thuận lợi trong việc bán hàng, tiến hành các dịch vụ bán buôn, bán lẻ ở nước ngoài mà chè của Phú Thọ chủ yếu để xuất khẩu nên đây được coi là một lợi thế rất lớn cho chè Phú Thọ. Các doanh nghiệp có cơ hội tự do hơn trong việc mở rộng thị trường trong và ngoài nước bởi những ưu đãi về thuế suất cùng các luật lệ mà chính phủ các nước nhập khẩu chè buộc phải cắt giảm theo quy định chung, đặc biệt là mức thuế về chè là sản phẩm cuối cùng, tạo cơ hội cho chúng ta xuất khẩu chè thành phẩm đóng gói dưới 3 kg. 3.2.4. Thách thức: (1) Sản phẩm chè gặp khó khăn khi chịu sức ép cạnh tranh do mở cửa thị trường đối với nưới ngoài. (2) Nhu cầu tiêu dùng của khách hàng ngày càng đa dạng và phong phú. (3) Một số tỉnh như Sơn La, Hà Tây, Hà Nam, Thái Bình…phát triển mạnh việc trồng và tiêu thụ chè, trở thành các đối thủ trực tiếp, chia sẻ thị trường và cạnh tranh với chè Phú Thọ. (4) Việt nam gia nhập WTO, khi thực hiện lộ trình bỏ thuế quan, sản phẩm nông sản của Trung Quốc, Thái Lan …có chất lượng tốt, giá thành hạ sẽ cạnh tranh gay gắt ngay trên “sân nhà” Việt Nam. Các ưu đãi của Chính phủ cho các doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp Nhà nước sẽ không còn hoặc ngày càng giảm theo Luật doanh nghiệp và lộ trình mà các Chính phủ các nước thành viên WTO đã cam kết với nhau, trước hết là các ưu đãi trực tiếp cho xuất khẩu chè như: vay vốn, thưởng xuất khẩu… các hỗ trợ đầu vào như: thuế sử dụng đất, vật tư, nhiên liệu, năng lượng, thu thập tối thiểu và bảo hiểm của người lao động… Mức thuế nhập khẩu chè của Việt Nam cũng giảm dần. Như vậy các doanh nghiệp nước ngoài sẽ có nhiều cơ hội vào chiếm lĩnh thị trường về đất đai, vùng nguyên liệu, thiết bị, công nghệ, lao động, nguồn nguyên liệu, sản phẩm, dịch vụ, bán buôn, bán lẻ… của chúng ta có nghĩa là mức độ cạnh tranh trong nội bộ ngành chè sẽ ngày càng gia tăng, không tránh khỏi sẽ có những doanh nghiệp bị phá sản. 3.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU CHÈ CỦA TỈNH PHÚ THỌ 3.3.1. Nhóm giải pháp cơ chế chính sách - Cần có cơ chế quản lý chất lượng các khâu từ trồng, chăm bón, thu hái đến chế biến tại các hộ gia đình để đảm bảo nguyên liệu chè không có tồn dư thuốc bảo vệ thực vật (trong đó đặc biệt là thuốc trừ sâu); tăng cường công tác khuyến nông, khuyến cáo các doanh nghiệp và nông dân bảo vệ vườn chè bằng các biện pháp sinh học; thành lập cơ quan kiểm tra chất lượng của ngành chè... - Xây dựng các chính sách khuyến khích hỗ trợ sản xuất, chế biến chè an toàn. Tập huấn, phổ biến quy trình kỹ thuật cho nông dân về sản xuất chè an toàn. Tổ chức xây dựng mô hình sản xuất, chế biến chè an toàn tại các vùng chè sản xuất tập trung, tuyên truyền và khuyến cáo mở rộng mô hình sản xuất chè an toàn. Đào tạo, tập huấn về sản xuất chè an toàn và chứng nhận sản phẩm chè an toàn trên địa bàn tỉnh. - Xây dựng, hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện các văn bản quản lý nhà nước về sản xuất chè an toàn, chỉ đạo thực hiện kiểm tra giám sát và chứng nhận điều kiện sản xuất chè an toàn cho các cơ sở sản xuất chè. Quản lý, chỉ đạo, giám sát, kiểm tra, thanh tra về sản xuất chè an toàn, chứng nhận sản phẩm chè an toàn và công nhận các tổ chức chứng nhận sản phẩm chè an toàn. - Để khắc phục việc tranh mua, tranh bán và không quan tâm đến chất lượng chè nguyên liệu như hiện nay, cần có cơ chế chính sách hợp lý quy định cụ thể doanh nghiệp nào đầu tư phát triển trồng chè thì được độc quyền thu mua nguyên liệu và cần có cơ chế thông thoáng gắn quyền lợi của doanh nghiệp với quyền lợi của người dân làm chè. Cần sớm quy hoạch lại hoạt động sản xuất kinh doanh ngành chè và khẩn trương thành lập sàn giao dịch, trung tâm đấu giá sản phẩm chè. - Tập trung điều tra, nghiên cứu, phân tích và đánh giá các yếu tố liên quan đến chất lượng sản phẩm tại những nơi trồng nhiều giống chè ngon, người dân có kinh nghiệm, hiểu biết khá về kỹ thuật trồng, thâm canh chè như huyện Phù Ninh, Hạ Hoà, Thanh Ba, Thanh Sơn, Yên Lập. - Khuyến khích các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào những vùng chè chủ lực, chuyển giao công nghệ chế biến theo tiêu chuẩn của những thị trường khó tính như châu Âu, Mỹ, Nhật Bản... - Nghiên cứu, xây dựng bộ tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm chè (bao gồm các quy định về hàm lượng các hoá chất được sử dụng và các hoá chất cấm sử dụng trong sản xuất, chế biến và bảo quản chè) được phép xuất khẩu ra thị trường ngoài nước và tiêu thụ nội địa nhằm đảm bảo sức khỏe của người tiêu dùng. Đồng thời, có biện pháp xử lý nghiêm đối với các doanh nghiệp vi phạm những quy định về tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm chè. 3.3.2. Nhóm giải pháp về quy hoạch - Quy hoạch vùng nguyên liệu phù hợp với kết quả khảo sát về thổ nhưỡng, nông học, quy hoạch số lượng và công suất các cơ sở chế biến chè phù hợp với vùng nguyên liệu theo hướng tránh lãng phí nguồn lực và thiếu hụt nguyên liệu do dư thừa công suất. Ngoài ra, tuyệt đối hạn chế việc mở rộng diện tích trồng chè để tập trung đầu tư chiều sâu nhằm nâng cao năng suất và chất lượng cho sản phẩm chè Phú Thọ. Từ nay đến năm 2015 tiếp tục đầu tư tập trung pháp triển sản xuất chè tại các huyện Hạ Hoà, Thanh Ba,Yên Lập, Phù Ninh, Tân Sơn, Thanh Sơn … - Quy hoạch các cơ sở chế biến công nghiệp gắn chặt với vùng chè, khắc phục tình trạng thừa nhà máy, thiếu nguyên liệu. - Quy hoạch các vùng sản xuất chè an toàn tập trung trong phạm vi toàn tỉnh, chỉ đạo các huyện xây dựng quy hoạch vùng sản xuất chè an toàn tại các địa phương. Phát triển vùng chè an toàn, chất lượng cao.Trên cơ sở quy hoạch vùng trồng chè được duyệt, xây dựng mô hình thâm canh áp dụng tiến bộ kỹ thuật trong trồng trọt, thu hoạch, bảo quản với qui mô 600 ha/năm. Các huyện, thành, thị tổ chức chỉ đạo triển khai quy hoạch chi tiết và kế hoạch cụ thể xây dựng vùng sản xuất chè an toàn, đảm bảo các nội dung, tiêu chuẩn quy định, đến năm 2015 vùng chè chất lượng cao có qui mô tập trung khoảng 18.000-20.000 ha. - Triển khai kế hoạch trồng mới trên diện tích chuyển đổi từ vườn tạp, cải tạo vùng đồi hoang, đất sấu chưa canh tác sang trồng chè theo từng giai đoạn cụ thể; bố trí theo giống trồng, theo vùng, đồi. - Đối với các vườn chè tập trung hiện có tại các huyện Thanh Sơn, Tân Sơn, Yên Lập, Hạ Hoà, Thanh Ba, Phù Ninh tập trung thâm canh cao, đảm bảo mật độ trồng dặm và mở rộng diện tích bằng các giống chè mới. 3.3.3. Nhóm giải pháp về đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ, tiến bộ kỹ thuật: Về giống chè Cần có cơ chế để chủ động cơ cấu giống, cải tạo giống để sản xuất đa dạng sản phẩm, nâng cao năng suất, chất lượng, thích ứng nhanh với biến động nhu cầu của thị trường cạnh tranh hội nhập. Chuyển đổi cơ cấu giống chè: Mở rộng diện tích các giống chè mới có năng suất cao, chất lượng tốt phù hợp với điều kiện sinh thái của từng vùng, kể cả trồng mới và trồng thay thế giống cũ, theo phương thức cuốn chiếu. Để xây dựng vùng chè chất lượng cao và an toàn cần phát triển các giống chè mới LDP1, LDP2. Lấy Viện nghiên cứu chè làm nòng cốt - xúc tiên việc khu vực hóa, nhân và đưa nhanh các giống có năng suất cao, chất lượng tốt vào các vườn chè. Tại các đơn vị sản xuất chè, khôi phục các vườn giống chè, sử dụng các giống mới có chất lượng cao nhằm cung cấp giống cho trồng dặm, trồng mới của dân, mục tiêu đến năm 2015 phải có được 90% diện tích chè bằng giống có chất lượng cao. Xem xét lại hệ thống tổ chức của ngành chè từ khâu ươm giống - trồng trọt - chế biến đến khâu tiêu thụ trong nước, ngoài nước nhằm giảm chi phí, điều hòa lợi ích giữa các đối tượng tham gia sản xuất, kinh doanh chè. Ngoài ra, trên cơ sở đó để củng cố lại hệ thống kênh phân phối trong nước và ngoài nước theo hướng coi thị trường ngoài nước là chủ đạo trong khi vẫn hết sức khai thác tiềm năng to lớn của thị trường trong nước. Áp dụng các biện pháp canh tác tiến bộ Trong trồng chè nên trồng đúng mật độ đối với từng giống chè, trồng theo đường đồng mức, có cây che bóng lá nhỏ, họ đậu, tăng độ mùn của đất, chống nóng, giữ ẩm, chống xói mòn đất. Đối với chè trồng mới và trồng thay thế: triệt để thực hiện quy trình thiết kế nương đồi, làm đất bằng cơ giới, trồng cây cải tạo đất, bón đủ phân hữu cơ, trước khi trồng chè phải trồng cây che bóng... Những nơi có độ dốc trên 25% phải thực hiện các biện pháp che ủ đất, chống xói mòn và thực hiện canh tác nông lâm kết hợp. Áp dụng quy trình trồng chè cành bằng bầu kích thước lớn, trồng tăng mật độ hợp lý. Đối với chè kinh doanh: Áp dụng quy trình hái dãn lứa, sửa tán và bón thúc đủ, cân đối các loại phân sau mỗi lứa hái, kết hợp tưới giữ ẩm để tăng hiệu quả của phân bón. Những nương chè cằn cỗi phải tăng cường bón bổ sung phân hữu cơ, phân hữu cơ vi sinh, phân bón lá để chè nhanh phục hồi và sinh trưởng tốt. Những nơi sản xuất chè xanh chất lượng cao và có điều kiện tưới cần thực hiện phương thức đốn trái vụ (đốn vào cuối vụ chè xuân) để rải vụ và tăng hiệu quả kinh tế. Cơ giới hoá khâu làm đất; kế hoạch cơ giới hoá, chú trọng các khâu làm đất, chăm sóc, đốn hái, phòng trừ sâu bệnh...; Xây dựng, cải tạo các công trình giữ nước và dẫn nước; Triệt để áp dụng biện pháp trồng cây che bóng, chắn gió, ủ gốc... Áp dụng các công nghệ tưới tiết kiệm nước để tăng năng suất và chất lượng chè. Đưa máy đốn, máy hái và các dụng cụ làm đất vào canh tác. Tiến tới cơ giới hoá, tự động hoá các khâu: theo dõi điều kiện khí tượng, chế độ dinh dưỡng đất, chế độ chăm sóc, canh tác; cơ giới hoá thu hái, đốn, làm đất, bón phân, vận chuyển nguyên liệu…để nâng cao năng suất, chất lượng đồi chè. - Sử dụng nguồn phân hóa học cho chè: Trong chăm sóc tạo lượng phân bón dồi dào, có khối lượng lớn, bón nhiều phân hữu cơ, vi sinh, chuyển đổi phân vô cơ sang phân hữu cơ để cải tạo đất cơ bản giàu mùn, tầng canh tác tơi xốp và dày, cung cấp đủ chất dinh dưỡng cho cây chè. Phân hóa học cho chè bao gồm nguyên tố đại lượng và vi lượng. Nguyên tố đại lượng gồm NPK (đạm, lân, kali) rất cần thiết và quyết định năng suất chè. Nếu N được bón cân đối với P và K, N sẽ làm búp phát triển nhanh và sớm đạt tiêu chuẩn hái, búp từ lúc phát động đến khi đủ tiêu chuẩn hái chỉ cần 28 ngày, trong khi không có bón đạm cần đến 60 ngày. Vì vậy N tăng năng suất chè bằng tổng số búp đạt tiêu chuẩn, do đó lứa hái sẽ ngắn hơn. Tuy nhiên cũng cần lưu ý là việc sử dụng N phải dưới 300kg/ha để đảm bảo chất lượng chè cho chế biến. Nguyên tố vi lượng như Zn, Bo và Mg có tác dụng làm búp phát triển đồng đều, không bị nhỏ hay biến dạng và tăng chất lượng búp. Phân hữu cơ cho chè đóng vai trò quan trọng trong việc tăng độ mùn, độ xốp và giữ ẩm cũng như cung cấp dưỡng liệu cho chè. Có hai nguồn phân hữu cơ: một là phân gia súc cung cấp cho chè lúc mới trồng và bón định kỳ 2-3 năm; nguồn thứ hai là các loại phân xanh và cây phân xanh họ đậu. Cây được trồng giữa hai hàng chè để vừa làm cây phân xanh vừa làm cây che bóng tạm thời cho cây chè con lúc mới trồng đến 2 năm sau và giúp cây con chống chịu qua mùa khô. Khi chè được 3 năm thì đốn bỏ cây che bóng tạm thời để làm phân xanh tủ gốc. Các loại đậu như đậu trắng, đậu nành cũng được trồng xen giữa hai hàng chè. - Chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh. Ứng dụng kỹ thuật quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) trên cây chè để đảm bảo có nguồn nguyên liệu chè an toàn. Tích cực bảo vệ thiên địch, hạn chế tối đa việc sử dụng thuốc hoá học cho chè, trường hợp phải sử dụng, hãy thực hiện nghiêm ngặt quy định; tăng cường sử dụng các loại thuốc thảo mộc và thuốc có nguồn gốc sinh học, sử dụng đúng loại thuốc đặc hiệu. Trong vấn đề thuốc bảo vệ thực vật: Nên tìm dùng những loại thuốc hữu cơ, thuốc sinh học không gây độc hại, an toàn cho người sử dụng, phải giảm số lượng, giảm số lần phun trong năm, chủ động phòng chống sâu bệnh. Tìm và nuôi dưỡng các loài thiên địch trên vùng chè. Nghiên cứu chủ động tưới tiêu ở những vùng khô hạn, tưới nhỏ giọt vào gốc chè, bón phân theo chế độ tưới nước. 3.3.4. Nhóm giải pháp phát triển ngành công nghiệp sản xuất và chế biến chè - Thu hái búp chè đúng quy trình, đạt phẩm cấp, đủ độ chín kỹ thuật theo yêu cầu của sản xuất, phù hợp công suất nhà máy. Thu hái và vận chuyển không làm dập nát, luôn giữ cho búp chè non tươi. - Đẩy mạnh khâu đào tạo, nâng cao ý thức trách nhiệm trong chế biến chè - Chủ động sản xuất chế biến, có lịch sản xuất theo vụ mùa, thu mua nguyên liệu phù hợp với công suất thiết bị, thực hiện các thông số kỹ thuật phù hợp nguyên liệu và thời tiết vụ mùa. - Cải tiến thiết bị, dây chuyền chế biến, giảm lao động nặng nhọc tạo chất lượng sản phẩm đồng đều. - Đa dạng hoá sản phẩm đáp ứng nhu cầu phong phú của người tiêu dùng, đi sâu nghiên cứu các sản phẩm chè có tác dụng tốt tới bồi bổ sức khoẻ. - Nâng cao chất lượng chè đen xuất khẩu, bằng cách chỉ sản xuất và xuất khẩu chè đen được chế biến từ các dây chuyền thiết bị hiện đại và bảo đảm vệ sinh công nghiệp và an toàn thực phẩm. Đối với chè xanh, tổ chức chế biến theo hộ gia đình bằng thiết bị nhỏ nhưng hiện đại để nâng cao giá trị hàng hóa. - Chọn vùng, chọn giống chè để sản xuất sản phẩm chè có chất lượng cao, xuất khẩu vào thị trường Châu Âu, Châu Mỹ với giá trị cao. - Thực hiện xây dựng quản lý theo hệ thống quản lý chất lượng ISO, HACCP, phòng ngừa khuyết tật, kiểm soát các thông số kỹ thuật trong tất cả các nhà máy chế biến chè. 3.3.5. Nhóm giải pháp về đào tạo nguồn nhân lực Yếu tố con người có ảnh hưởng quyết định đến chất lượng sản phẩm và giảm được chi phí sản xuất một cách hợp lý. Ngành chè của tỉnh cần tổ chức đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ kỹ thuật tại cơ sở. Do hiện tại lực lượng cán bộ kỹ thuật còn thiếu, trình độ còn yếu kém, tay nghề chưa cao, trong sản xuất chưa kiên quyết uốn nắn theo quy trình, chưa phát hiện được kịp thời các khuyết tật và sự cố xảy ra. Ngoài ra, cần thường xuyên tổ chức thi thợ bậc giỏi, thi nâng bậc, ca sản xuất có chất lượng, nâng cao trình độ kỹ thuật, tay nghề thợ bậc cao trong lĩnh vực sản xuất, chế biến chè nhằm ổn định và nâng cao kỹ thuật sử dụng thiết bị và kỹ thuật chế biến chè tại cơ sở. Mặt khác tạo cơ hội cho cán bộ quản lý các doanh nghiệp được tiếp xúc nhiều hơn nữa với những kiến thức mới trong quản lý thị trường để họ có thể kết hợp giữa kiến thức chuyên môn với kinh nghiệm quản lý nhằm giải quyết tốt công việc. 3.3.6. Nhóm giải pháp về tăng cường công tác hợp tác quốc tế, xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường tiêu thụ chè, tăng sức cạnh tranh của các doanh nghiệp chè. - Hàng năm nhân ngày giỗ Tổ 10-3 Âm lịch, tổ chức hội chợ Hùng Vương nhằm giới thiệu sản phẩm của miền trung du đến khách thập phương hành hương về đất Tổ, trong đó đặc biệt chú trọng đến sản phẩm chè. - Tích cực tham gia các hội chợ nông nghiệp, hội chợ thương mại quốc tế do Bộ NN-PTNT, Bộ Công Thương tổ chức và một số đoàn doanh nghiệp đi nước ngoài theo Chương trình Xúc tiến Thương mại trọng điểm quốc gia do Bộ Công thương chủ trì. - Trong những năm gần đây, đa số doanh nghiệp xác định truyền thông là phương tiện hiệu quả nhất trong việc xây dựng và quảng bá hình ảnh của mình. Đó là các chương trình quảng cáo, tuyên truyền trên báo chí, tham gia hội chợ triển lãm, tài trợ, thông qua hoạt động giao tiếp cộng đồng... với quan điểm của một số chuyên gia trên thế giới khi sử dụng hình ảnh “bà đỡ” để nói về vai trò của truyền thông đối với các sản phẩm, kế hoạch kinh doanh, rộng hơn là hình ảnh của doanh nghiệp… Bởi khi đã đóng vai trò “bà đỡ”, truyền thông trở thành một lực lượng chính hậu thuẫn cho những thành công của doanh nghiệp. Chính vì vậy, công tác truyền thông phải được tiến hành thường xuyên, kiên trì, liên tục trong nhiều năm, khắc hoạ cho được hình ảnh về “Chè Phú Thọ”, là sự lựa chọn số 1 của khách hàng; sao cho Chè, cùng với hình ảnh của thành phố “ngã ba sông” Việt Trì, với những rừng cọ, đồi chè qua những làn điệu xoan, ghẹo... luôn trong trí nhớ người tiêu dùng và trở thành biểu tượng của Phú Thọ. - Thiết kế một số chương trình phóng sự trên thông tin đại chúng, nhất là kênh VTV4 Đài truyền hình quốc gia (là kênh phát sóng cho đối tượng người xem ở nước ngoài), kể cả gắn với bộ phim về những miền quê Phú Thọ và các trang báo điện tử có nhiều độc giả từ nước ngoài như VnExpress, v.v. Thiết kế, in ấn đẹp, hấp dẫn và phát hành vào dịp mùa lễ hội, giỗ Tổ Hùng Vương các tờ tin (Brochure) về chè Phú Thọ. - Tổ chức các hội thảo chuyên đề liên quan đến ngành chè, tiếp tục triển khai thực hiện kế hoạch xúc tiến, tham gia hội chợ, quảng bá thương hiệu. + Dự kiến tổ chức một số hội thảo chuyên đề về xúc tiến xuất khẩu chè, nghiên cứu các thị trường xuất khẩu trọng điểm của chè Phú Thọ, bàn về các biện pháp nâng cao chất lượng chè Phú Thọ. + Học tập trao đổi kinh nghiệm xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường trong và ngoài nước (có sự tham gia của các chuyên gia tư vấn). - Lập cổng Portal “Phu Tho Tea” thông qua Website của tỉnh www.phutho.gov.vn Cần hợp đồng thuê các chuyên gia quảng cáo, tin học tư vấn và xây dựng trang “phuthotea” trong Website Phú Thọ do Hiệp hội chè Phú Thọ thực hiện, đồng thời cần có sự liên kết với các công ty chuyên quảng cáo để tạo ra những đường Link tới Website “phuthotea”, từ đó sớm cung cấp những thông tin về chè tới các đối tác quan tâm; vừa để xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm, thương hiệu chè và hình ảnh Phú Thọ với bạn bè trong và ngoài nước; vừa bảo vệ người tiêu dùng, tránh cho người tiêu dùng khỏi mua nhầm sản phẩm. - Khai thác tối ưu và đa dạng hoá phương pháp tiếp thị cho sản phẩm chè thông qua các kênh như: Tiếp thị trực tuyến bằng các công cụ như: e-mail, hiển thị quảng cáo trong kết quả tìm kiếm trực tuyến…sẽ giúp các nhà marketing chè Phú Thọ tăng cường tiếp xúc của họ bằng cách truyền những nội dung được định sẵn mà các khách hàng mục tiêu của họ yêu thích hơn. - Tổ chức các tour du lịch sinh thái thăm vườn chè và di tích danh thắng. Qua thực tế cho thấy, những hoạt động này đã có, tuy nhiên chỉ mang tính hình thức, nhỏ lẻ, cần được đẩy mạnh và tổ chức có quy mô và tính chuyên nghiệp hơn. Tỉnh cần giao cho Sở Thương mại - Du lịch chủ trì, phối hợp với các ngành, các tỉnh tổ chức lễ hội (du lịch về cội nguồn) lồng ghép với các tour du lịch sinh thái, đưa khách về thăm các vườn chè và mua chè Phú Thọ. Thông qua PR và quảng cáo truyền miệng giới thiệu về hình ảnh, con người Phú Thọ, đưa du khách thăm vườn quả sinh động trên địa bàn tỉnh, nhất là vào mùa thu hái để giới thiệu với du khách các danh thắng, đất và người Phú Thọ. Quảng bá với du khách trong và ngoài nước về truyền thống văn hoá, lịch sử, các danh thắng và sản vật trên đất Phú Thọ. Điều đó giúp khách hàng thư giãn với không khí trong lành, yên tĩnh, vừa quảng bá hình ảnh về Phú Thọ, chè Phú Thọ, vừa tiêu thụ chè cho người trồng chè - Tổ chức “Hội chợ chè và bình tuyển sản phẩm chè Phú Thọ” hàng năm Hội chợ sẽ được tổ chức vào dịp lễ hội hàng năm. Tổ chức hội chợ sẽ là dịp thu hút khách về với Phú Thọ và thực hiện quảng bá sản phẩm, quảng bá hình ảnh Phú Thọ một cách hữu hiệu nhất. - Tổ chức một số hội thảo liên quan đến chè Phú Thọ. Ngay tại Hội chợ, kết hợp tổ chức một số cuộc hội thảo về chè và quảng bá chè Phú Thọ, như: Bình tuyển chè thông qua cuộc thi nghệ thuật trong pha chè. Các biện pháp chăm sóc, lựa chọn giống chè tốt cho năng suất cao. Các giải pháp kỹ trong thu hái, chế biến, bảo quản, đóng gói đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm; Xúc tiến thương mại chè Phú Thọ - thực trạng và giải pháp phát triển; Thực trạng và giải pháp quảng bá thương hiệu chè Phú Thọ. - Tiếp tục tăng cường tổ chức các tour du lịch sinh thái với tần suất lớn hơn, chuyên nghiệp hơn. - Tổ chức Lễ hội văn hoá “Chương trình du lịch về cội nguồn”. Chương trình "Du lịch về cội nguồn", sự hợp tác phát triển thương mại- du lịch của 3 tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ. Đây là chương trình quy mô với các hoạt động có ý nghĩa thiết thực, hấp dẫn, đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc. Đây sẽ là cơ hội để các tỉnh có dịp giới thiệu với bè bạn, du khách trong và ngoài nước về danh lam, thắng cảnh, con người, nhất là các sản vật của quê hương mình, mà trong đó chè Phú Thọ là điển hình. - Tiến hành xúc tiến thương mại, tham dự các hội chợ quốc tế nhằm tìm kiếm và mở rộng thị trường ra các nước châu Âu và Mỹ. Tiếp tục khai thác các thị trường truyền thống như: Ấn Độ, Trung Quốc, Đức, Anh, Pakixtan, từng bước đưa sản phẩm chè Phú Thọ bao gồm chè xanh, chè đen... xâm nhập vào một số thị trường khó tính như: Đức, Mỹ, Hà Lan, Nhật... thông qua các chương trình xúc tiến thương mại và hội chợ quốc tế ở Trung Quốc, Hàn Quốc, Đức, Mỹ.... - Xúc tiến phát triển thêm hệ thống kênh phân phối nhằm mở rộng phát triển các thị trường mục tiêu. Tỉnh có thể hỗ trợ để Hiệp hội chè Phú Thọ tổ chức gặp mặt, động viên, chia sẻ, cổ vũ những người buôn bán, thu gom chè. Xác định rõ vai trò của họ, đồng thời xúc tiến thành lập “hội” hoặc “câu lạc bộ” “những người tiêu thụ - chế biến chè”; tạo ra một sự liên kết, hợp tác tiêu thụ chè trong khi phải cạnh tranh với các đối thủ trong và ngoài nước, giảm bớt sự cạnh tranh nội bộ dẫn đến bất lợi cho người sản xuất chè. - Các cơ sở phân phối ở nước ngoài theo hướng: củng cố các cơ sở tiêu thụ chè ổn định tại Trung Quốc, Ấn Độ, Pakixtan thông qua thị trường Trung Quốc để sang Hồng Công, Ma Cao, Đài Loan, Hàn Quốc. Xây dựng kế hoạch nghiên cứu xâm nhập các thị trường mới như Đức, Nhật, Mỹ. Qua đó dần từng bước đặt chân vào những thị trường này thông qua các tổ chức, tập đoàn, công ty phân phối uy tín như hiệp hội nông sản, hiệp hội những người chế biến và sản xuất chè, cục quản lý thực phẩm và dược... vv. - Tăng thị phần chè Phú Thọ trên các nước Mỹ, Nhật, EU bằng cách tìm hiểu thị hiếu, khẩu vị của người dùng chè, nghiên cứu và áp dụng khoa học và qui trình công nghệ chè tiên tiến từ khâu trồng trọt, thu hái, ủ sao, đóng gói, mẫu mã, bao bì, bảo quản, vận chuyển... phù hợp với thị hiếu, khẩu vị của người tiêu dùng. - Tăng cường xúc tiến thương mại, quảng bá và từng bước khẳng định thương hiệu, nhãn hiệu chè Việt Nam nói chung và chè Phú Thọ riêng trên các trị trường Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan, Mỹ, EU. - Sử dụng có hiệu quả kinh phí hỗ trợ từ ngân sách của chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm và hỗ trợ xuất khẩu từ Quỹ hỗ trợ xuất khẩu để mở rộng thị trường đã có và tìm kiếm thị trường mới, nhất là thị trường có tỷ trọng xuất khẩu lớn. - Tăng cường mối quan hệ với EU nhằm tranh thủ được sự hỗ trợ khoa học ở cấp Nhà nước (đầu tư giống, công nghệ trồng và chế biến...) đây là hình thức thâm nhập tốt nhất vào hệ thống phân phối phức tạp của nước này, đặc biệt là vệ sinh an toàn thực phẩm. - Duy trì và nâng cao vai trò của Hiệp hội chè trong hoạt động kinh doanh và xúc tiến thương mại của các doanh nghiệp nhằm đảm bảo lợi ích chung cho cả ngành, tránh "mạnh ai nấy chạy", gây tình trạng bán phá giá, tranh mua nguyên liệu... - Thành lập các liên doanh sản xuất - tiêu thụ hoặc liên doanh kinh doanh - phân phối chè Phú Thọ với các nước. Nghiên cứu mô hình hợp đồng giữa các nhà: Khoa học - Trồng trọt - Chế biến - Xuất khẩu - Nhập khẩu. - Mục tiêu của tỉnh Phú Thọ nói chung và các doanh nghiệp chè Phú Thọ trong thời gian tới là phát triển một thương hiệu chè Phú Thọ an toàn trên cơ sở những vùng nguyên liệu sạch, đảm bảo các tiêu chuẩn nghiêm ngặt của châu Âu, Nhật Bản. Hiện nay, đã có khoảng 60% nguyên liệu chè đạt được các tiêu chuẩn an toàn của châu Âu, song cần phải tiếp tục nâng cao tỷ lệ này. Về lâu dài, việc đầu tư mạnh vào hệ thống hạ tầng cơ sở, thủy lợi cho các vùng chè là yếu tố quan trọng giúp người dân vùng chè yên tâm phát triển sản xuất. Tiến hành rà soát, thay thế các giống chè chất lượng thấp bằng các loại chè có giá trị cao, phát triển các vùng chè đặc trưng cho điều kiện khí hậu từng địa phương thông qua chương trình hỗ trợ về cây giống, kỹ thuật chăm sóc, thu hoạch... 3.3.7. Nhóm giải pháp xây dựng và phát triển thương hiệu chè của tỉnh Phú Thọ Trước tiên, để xây dựng thương hiệu chè Phú Thọ cần thực hiện đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa cho chè của tỉnh Phú Thọ cụ thể như sau: Một là, nhãn hiệu hàng hóa. Vừa qua Chủ tịch UBND tỉnh Phú Thọ đã có những kết luận chính liên quan đến việc xây dựng thương hiệu cho chè Phú Thọ như sau: - Giao cho Sở Nông nghiệp & Phát triển nông thôn phối hợp cùng Sở Khoa học và Công nghệ nghiên cứu lập hồ sơ xin đăng ký nhãn hiệu hàng hoá cho sản phẩm chè Phú Thọ với Cục Sở hữu trí tuệ. - Giao cho Sở Nông nghiệp & Phát triển nông thôn lập đề án thành lập Hiệp hội Chè Phú Thọ và chịu trách nhiệm về mặt quản lý Nhà nước như: xúc tiến thương mại, hội chợ, tổ chức hội nghị, hội thảo về cây chè, kế hoạch tài chính... vv. - Cho phép Hiệp hội chè Phú Thọ được sử dụng địa danh “Phú Thọ” để đăng ký nhãn hiệu tập thể; Sở Khoa học và Công nghệ thông qua Hiệp hội tổ chức khai thác tên nhãn hiệu này khi đã được Cục Sở hữu trí tuệ cấp giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hàng hóa cho sản phẩm Chè Phú Thọ. Các tổ hợp tác, các doanh nghiệp phải áp dụng nghiêm ngặt quy chế sử dụng nhãn hiệu tập thể chè Phú Thọ, bao gồm: chế biến chè từ nguyên liệu tại Phú Thọ; cơ sở sản xuất, chế biến đóng trên địa bàn tỉnh; sản lượng sản phẩm chè ổn định hàng năm đạt từ một tấn thành phẩm chè búp khô trở lên; thành phẩm chè xây dựng có chất lượng ổn định. Và tên nhãn hiệu được đăng ký bảo hộ là “Chè Phú Thọ”. Hai là, kiểu dáng bao bì. Sau khi được thành lập, Hiệp hội chè Phú Thọ sẽ tiến hành đăng ký nhãn hàng hoá, kiểu dáng bao bì cho một số sản phẩm chè Phú Thọ. Sau đây là một số mẫu giả định: Tất cả các chè hàng hoá, bao bì đều ghi rõ xuất xứ hàng hoá, tên và địa chỉ cơ sở sản xuất, ngày sản xuất, định lượng hàng hoá, các thông số kỹ thuật và một số thông tin liên quan… giúp người tiêu dùng hiểu và lựa chọn mua chè Phú Thọ. Ba là, thành lập Hiệp hội chè Phú Thọ. Trên cơ sở chỉ đạo của lãnh đạo UBND tỉnh, Sở Nông nghiệp & Phát triển nông thôn cần nhanh chóng hoàn thiện đề án thành lập Hiệp hội chè Phú Thọ trình UBND tỉnh phê duyệt và ra quyết định. Ban đầu Hiệp hội ước có khoảng trên 50 hội viên gồm những doanh nghiệp sản xuất chế biến trong tỉnh, các hợp tác xã, các tổ hợp tác, người có kinh nghiệm và gắn bó với nghề trồng chè tham gia. Tỉnh cần hỗ trợ xây dựng Hiệp hội chè và các Hiệp hội kiến thức, kinh nghiệm quản trị nội bộ, kỹ năng thu thập thông tin, kiến thức thị trường, xây dựng các tổ chức này thành hạt nhân, liên kết theo chuỗi ngành hàng, gắn kết người sản xuất – người chế biến – người kinh doanh nhằm đảm bảo vốn, thông tin, hàng hoá và chia sẻ rủi ro; nối mọi tác nhân thành khối thống nhất trên con đường xây dựng, phát triển thương hiệu chè Phú Thọ. Bốn là, xây dựng Quy chế sử dụng nhãn hiệu tập thể Quy chế cần được Ban chấp hành Hiệp hội thông qua và được UBND tỉnh đồng ý. Quy chế sử dụng nhãn hiệu tập thể cần xác định rõ: - Hội viên là các tổ chức, doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác, cá nhân, hộ gia đình, sản xuất chế biến kinh doanh chè, đáp ứng các tiêu chuẩn do Hiệp hội đề ra, đồng ý với các quy định của điều lệ Hiệp hội và quy chế này, được Ban chấp hành kết nạp vào Hiệp hội. - Chủ sở hữu nhãn hiệu tập thể đối với nhãn hiệu “Chè Phú Thọ” là tổ chức đứng tên trong đơn xin cấp giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu tập thể (Hiệp hội chè Phú Thọ) có quyền sở hữu đối với nhãn hiệu tập thể, có nghĩa vụ duy trì, bảo vệ nhãn hiệu tập thể. - Đồng sử dụng nhãn hiệu là các cá nhân, hộ gia đình, tổ chức thành viên của Hiệp hội được quyền sử dụng nhãn hiệu tập thể. - Sản phẩm mang nhãn hiệu là các sản phẩm được gắn nhãn hiệu “Chè Phú Thọ” bao gồm: Chè xanh, chè đen và các sản phẩm chế biến từ chè Phú Thọ. - Hình thức sử dụng nhãn hiệu, có thể gắn trực tiếp lên sản phẩm, lên bao bì hàng hoá, phương tiện dịch vụ, giấy tờ giao dịch trong hoạt động kinh doanh; trong lưu thông, xuất khẩu hàng hoá mang nhãn hiệu, chào bán, quảng cáo,… nhằm để bán, tàng trữ, vận chuyển hàng hoá mang nhãn hiệu “chè Phú Thọ”. - Sản phẩm mang nhãn hiệu phải đảm bảo các tiêu chuẩn về chất lượng, vệ sinh, an toàn thực phẩm theo các quy định của pháp luật. Ngoài ra quy chế cũng quy định cụ thể trách nhiệm, quyền hạn của hội viên, những điều cấm trong sử dụng nhãn hiệu tập thể. Năm là, quy định tiêu chuẩn chất lượng chè Phú Thọ Theo Điều lệ Hiệp hội và Quy chế sử dụng nhãn hiệu tập thể được UBND tỉnh thông qua, tiêu chuẩn chất lượng chè Phú Thọ do Ban chấp hành Hội quy định, có tham khảo ý kiến của các nhà kỹ thuật, nhà quản lý. Vì vậy, mỗi giai đoạn, tuỳ theo yêu cầu của chất lượng chè để Hiệp hội đưa ra quy định chất lượng áp dụng phù hợp. Sáu là, thiết kế logo. Logo được thiết kế sao cho khắc hoạ được đặc tính tiêu biểu nhất của sản phẩm “Chè Phú Thọ”; nghĩa là, nhấn mạnh yếu tố chất lượng và yếu tố văn hoá, truyền thống của chè Phú Thọ. Bảy là, thiết kế slogan: Trong phạm vi hạn hẹp, đề tài đưa ra một số khẩu hiệu để nghiên cứu, hoàn thiện và lựa chọn: “Hương vị đất Tổ Hùng Vương” “Trà dâng vua Hùng” “Vị trà trăm năm tuổi” Tám là, thiết lập các văn bản đề nghị bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá Hồ sơ đăng ký nhãn hiệu hàng hoá bao gồm một số văn bản chính sau: - Đơn xin đăng ký nhãn hiệu hàng hoá của Hiệp hội chè Phú Thọ; - Quy chế sử dụng nhãn hiệu tập thể; - Quyết định thành lập Hiệp hội chè Phú Thọ; - Quyết định phê duyệt Điều lệ Hiệp hội chè Phú Thọ của UBND tỉnh Phú Thọ. - Biểu tượng, mẫu nhãn hiệu; - Báo cáo kế hoạch, phương hướng hoạt động của Hiệp hội chè Phú Thọ. Trên cơ sở các văn bản đề nghị của tỉnh Phú Thọ, Bộ Khoa học Công nghệ, mà trực tiếp là Cục sở hữu trí tuệ tiếp nhận văn bản, thông báo rộng rãi theo đúng các cam kết quốc tế về sở hữu trí tuệ tới các nước thành viên WTO, đăng tải trên website, sau 6 tháng nếu không có tranh chấp, kiện tụng về sở hữu nhãn hiệu, Cục sở hữu trí tuệ mới cấp Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hàng hoá cho người/ tổ chức đứng đơn đăng ký. Khi đó nhãn hiệu hàng hoá mới chính thức được bảo hộ về mặt pháp lý. 3.3.8. Nhóm giải pháp về huy động nguồn vốn và khai thác có hiệu quả sử dụng vốn đầu tư: - Tằng cường công tác xúc tiến đầu tư, chủ động nắm bắt và vận dụng phù hợp các chủ trương, chính sách của nhà nước để xây dựng các dự án, tranh thủ sự hỗ trợ về vốn đầu tư từ ngân sách Trung ương và các nhà tài trợ trong nước và quốc tế đối với các chương trình dự án phát triển cây chè của tỉnh. Nhất là vốn hỗ trợ có mục tiêu, vốn ODA, AFD... - Chuẩn bị tốt các điều kiện để triển khai thực hiện dự án, tăng khả năng huy động các nguồn vốn cho công tác duy tu bảo dưỡng các công trình hạ tầng phục vụ ngành sản xuất và chế biến chè. - Tiếp tục củng cố, nâng cao hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại, các quỹ tín dụng; tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, hộ kinh doanh chè vay vốn tín dụng phát triển để đầu tư mở rộng sản xuất. Thu hút các ngân hàng, tổ chức tín dụng trong và ngoài nước mở chi nhánh hoạt động trên địa bàn tỉnh. KẾT LUẬN Hội nhập kinh tế quốc tế đang là xu thế tất yếu của nền kinh tế thế giới. Xu thế này đã diễn ra với tốc độ nhanh chóng trong những năm cuối của thế kỷ XX và sẽ sôi động hơn, quyết liệt hơn trong những năm đầu của thế kỷ này. Hội nhập quốc tế mang lại cho các quốc gia rất nhiều cơ hội nhưng cũng không ít thách thức. Để tận dụng được các cơ hội và vượt qua được các thách thức đó, các quốc gia cần phải xây dựng chính sách chủ động hội nhập nhằm phát huy một cách hiệu quả sức mạnh tổng hợp của nền kinh tế dân tộc, nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu. Đối với sản phẩm chè của tỉnh Phú Thọ, để làm được điều đó cần thực hiện các biện pháp tổng thể từ quy hoạch vùng nguyên liệu, chăm sóc, thu hoạch chè, sản xuất và chế biến cho tới xây dựng, phát triển thương hiệu, quảng bá, xúc tiến thương mại. Chuyên đề được xây dựng trên cơ sở lý luận và thực tiễn ở Phú Thọ, kết hợp với những lý luận về hoạt động xuất khẩu đặc biệt là xuất khẩu nông sản. Chuyên đề đã hệ thống hoá các vấn đề lý luận chung nhất về xuất khẩu hàng hóa. Đánh giá thực trạng tình hình sản xuất, chế biến và xuất khẩu Chè của tỉnh Phú Thọ, từ đó đưa ra những nội dung và một số giải pháp cơ bản để đẩy mạnh xuất khẩu chè của tỉnh Phú Thọ hiện nay. Thông qua nghiên cứu thực trạng tình hình phát triển chè ở Phú Thọ; đánh giá tiềm năng, xu hướng phát triển và dự báo các thị trường, các yếu tố tác động đến chất lượng chè và thị trường tiêu thụ, chuyên đề cũng đề xuất một số giải pháp chủ yếu để phát triển bền vững vùng Chè an toàn, chất lượng cao, nhằm nâng cao giá trị xuất khẩu cho Chè của tỉnh Phú Thọ. Giúp các nhà hoạch định chính sách, các nhà quản lý hoạch định chiến lược phát triển chè Phú Thọ cho phù hợp và có tính khoa học cao; nhằm phát triển sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân, bảo tồn, phát huy bản sắc văn hoá một miền quê gắn liền với sản phẩm Chè Phú Thọ nổi tiếng từ lâu. Tuy còn có những tồn tại, hạn chế; song có thể nói, về cơ bản chuyên đề đạt được các mục tiêu đã đề ra. Tác giả mong nhận được sự đóng góp ý kiến, bổ sung của các thầy, cô giáo và bạn đọc quan tâm đến lĩnh vực này để chuyên đề được hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn/ DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình Kinh tế quốc tế- Tập 1- NXB Thống kê (2003) Giáo trình Kinh tế ngoại thương- NXB Lao động xã hội (2008) Báo cáo quy hoạch phát triển ngành nghề nông thôn tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2007- 2010, định hướng 2020- Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn Phú Thọ- Tháng 5/2007 Điều chỉnh quy hoạch phát triển công nghiệp trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2006-2010, định hướng 2015- Sở Công nghiệp- Tháng 11/2005 Báo cáo tình hình sản xuất kinh doanh xuất khẩu chè năm 2008 và giải pháp thực hiện năm 2009- Phòng xuất nhập khẩu- Sở Công thương Phú Thọ. Báo cáo đánh giá công tác xuất nhập khẩu tỉnh Phú Thọ từ năm 2005- 2007, 6 tháng năm 2008 và phương hướng đến nam 2010- Phòng Quản lý xuất nhập khẩu- Sở Công thương Phú Thọ. Niên giám thống kê 2007 tỉnh Phú Thọ- NXB Thống kê- Tháng 8/2008 MỤC LỤC DANH MỤC SƠ ĐỒ BẢNG BIỂU Bảng 1: So sánh các đối thủ cạnh tranh ở thị trường 26 các tỉnh Phía Bắc 26 Bảng 2: Cơ cấu giá trị cây chè trong ngành trồng trọt năm 2002 28 Bảng 3: Cơ cấu giá trị cây chè trong ngành trồng trọt năm 2007 28 Bảng 4: Cơ cấu giá trị xuất khẩu chè tỉnh Phú Thọ năm 2002 29 Bảng 5: Cơ cấu giá trị xuất khẩu chè tỉnh Phú Thọ năm 2007 29 Bảng 6: Diễn biến diện tích trồng chè giai đoạn 2002 - 2007 35 Bảng 7: Diễn biến sản lượng chè giai đoạn 2002 - 2007 36 Bảng 8: Số liệu về kim ngạch xuất khẩu chè của tỉnh Phú Thọ 39 Bảng 9: Giá bán lẻ bình quân chè búp khô giai đoạn 2003 - 2007 40 Bảng 10: Tỷ trọng xuất khẩu của từng loại chè của Phú Thọ 40 giai đoạn (1990-2007) 40 Bảng 11:Thị trường tiêu thụ chè Phú Thọ năm 2007 41 Sơ đồ 1: kênh hàng cung ứng chè Phú Thọ ra thị trường 42

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21431.doc
Tài liệu liên quan