Chuyên đề Một số giải pháp đẩy nhanh tiến độ cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam

CPH DNNN là quá trình phức tạp, liên quan đến nhiều vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước. Trên thế giới, nước được coi là tái cơ cấu DNNN nhanh nhất là Malayia cũng phải mất tới hơn 10 năm. Ở nước ta, số lượng DNNN quá lớn, tài chính hỗ trợ cho CPH thiếu nên tiến trình CPH DNNN tất yếu bị kéo dài, nhất là trong những năm đầu thử nghiệm. Tuy nhiên đã đến lúc phải đẩy nhanh CPH vì sức ép của hội nhập đã quá gần và chúng ta đã có khá nhiều kinh nghiệm trong vấn đề CPH. Để đẩy nhanh tiến độ CPH DNNN, bên cạnh việc sửa đổi bổ sung luật, Nhà nước cần tăng cường chuyên gia, tăng cường quyền lực cho ban đổi mới doanh nghiệp; hỗ trợ Công ty mua bán và xử lý tài sản tồn đọng của doanh nghiệp tiếp cận thông tin về tài sản và nợ của DN CPH; cho phép Hiệp hội các nhà đầu tư tài chính Việt Nam tham gia vào quá trình đấu giá cổ phần lần đầu của DN CPH; áp dụng các biện pháp hành chính “mạnh tay” buộc các doanh nghiệp thuộc diện CPH phải thực hiện; tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính; tuyên truyền, phổ biến kiến thức về CPH DNNN Tuy nhiên, vấn đề quan trọng hơn cả là Nhà nước phải đảm bảo tạo ra một môi trường kinh doanh bình đẳng giữa DNNN và các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác.

doc59 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1103 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp đẩy nhanh tiến độ cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ớn nhất khiến tiến trình CPH DNNN ở Việt Nam diễn ra chậm. Luôn có một khoảng cách lớn giữa chính sách coi mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật và thực tiễn. DNNN vẫn được hưởng rất nhiều ưu đãi về tín dụng, đất đai, thuế, hạn ngạch xuất nhập khẩu, được ưu tiên thực hiện những đơn đặt hàng hay gói thầu của Nhà nước… DNNN thường được Nhà nước bổ sung vốn, xoá nợ hoặc bảo lãnh, ít có nguy cơ bị phá sản do các chủ nợ (phần lớn là các DNNN khác) vẫn tin tưởng khách nợ của họ sẽ được hỗ trợ bởi Chính Phủ, các bộ, UBND. Ngoài ra, tần xuất thanh tra, kiểm tra các doanh nghiệp ngoài quốc doanh lớn hơn nhiều so với các DNNN. Vì DNNN được hưởng nhiều ưu đãi như trên nên lãnh đạo DNNN không muốn tiến hành CPH, nếu bị bắt buộc phải CPH thì tìm cách “chây ỳ”, do đó tiến độ CPH bị chậm. 2.2.1.2 Nhà nước chậm bổ sung, sửa đổi luật về CPH DNNN : Vấn đề định giá Về tổ chức tiến hành định giá. Theo Nghị định 64/CP, việc định giá DNNN có thể được thực hiện bởi Hội đồng định giá hoặc một tổ chức trung gian như ngân hàng thương mại, công ty tài chính. Việc định giá DNNN được thực hiện bởi Hội đồng định giá thường không chính xác và kéo dài vì các thành viên trong Hội đồng định giá (bao gồm lãnh đạo trong doanh nghiệp và cán bộ của các bộ, sở) thường không có đủ chuyên môn và thường “nghiêng” về các mục tiêu quản lý riêng nên khó thống nhất với nhau. Ví dụ, để xác định giá trị doanh nghiệp, 2 doanh nghiệp thuộc Tổng công ty Điện tử - Tin học Việt Nam, 4 doanh nghiệp thuộc Tổng công ty Điện lực đã phải mời rất nhiều các đoàn kiểm tra khác nhau của Bộ Tài chính, Bộ Khoa học công nghệ và môi trường, Bộ Công nghiệp, Bộ Kế hoạch và đầu tư, Tổng cục Địa chính. Các đoàn kiểm tra không thống nhất được ý kiến nên các doanh nghiệp đã phải chờ hơn một năm. Kết quả định giá của Hội đồng định giá không khách quan vì cổ phần của DN CPH được ưu tiên bán cho những người trong doanh nghiệp, người định giá doanh nghiệp vừa là người bán, vừa là người mua cổ phần, họ sẽ định giá thấp doanh nghiệp để dễ dàng mua được cổ phần của doanh nghiệp. Đây là một hiện tượng tiêu cực trong lĩnh vực CPH DNNN cần được loại bỏ. Về phương pháp định giá, theo Nghị định 64/CP, có 2 phương pháp định giá chính là phương pháp tài sản ròng và phương pháp chiết khấu theo dòng tiền (DCF) (1) Phương pháp tài sản ròng là phương pháp định giá doanh nghiệp dựa trên giá trị thị trường tại thời điểm định giá của các tài sản của doanh nghiệp. Phương pháp này dễ được áp dụng nhưng không giúp cơ quan định giá tính đủ giá trị doanh nghiệp vì không tính đến khả năng sinh lợi của doanh nghiệp trong tương lai. Vì vậy, trên thế giới, phương pháp này thường chỉ được áp dụng đối với các doanh nghiệp đang gặp khó khăn, không có khả năng phát triển trong tương lai. (2) Phương pháp chiết khấu theo dòng tiền là phương pháp định giá doanh nghiệp dựa trên các dòng tiền dự tính từ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đây là một phương pháp định giá tiên tiến trên thế giới, mới được áp dụng ở Việt Nam. Nó giúp tổ chức định giá xác định chính xác hơn giá trị doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp có khả năng phát triển trong tương lai, doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ. Tuy nhiên để áp dụng phương pháp này, doanh nghiệp phải tính những tỷ số chủ yếu như (1) tỷ suất lợi nhuận của doanh nghiệp trong 3-5 năm liền kề; (2) tỷ suất lợi nhuận dự kiến của doanh nghiệp; (3) tỷ lệ tăng trưởng của doanh nghiệp; (4) hệ số rủi ro của doanh nghiệp. Việc xác định các tỷ số trên khá khó khăn. Theo các doanh nghiệp, trong tình hình các chính sách thường xuyên thay đổi như hiện nay, họ không thể chắc chắn về kết quả kinh doanh trong tương lai. ở Việt Nam cũng chưa có một tổ chức nào xác định hệ số rủi ro của các doanh nghiệp. Vì vậy, theo quy định, các doanh nghiệp có thể sử dụng hệ số rủi ro được ghi trong Niên giám định giá 1999, Ibboston Associates, Inc. Tuy nhiên, hệ số rủi ro trong niên giám sẽ không được chấp nhận nếu cao hơn tỷ suất lợi nhuận của doanh nghiệp. Ngoài ra, để xác định các tỷ số trên, doanh nghiệp phải xác định tỷ lệ tăng trưởng của ngành, vùng. ở Việt Nam hiện nay, việc xác định tỷ lệ trên rất khó khăn. Về chi phí cho việc định giá. Theo quy định hiện hành, tổng chi phí cho việc CPH một DNNN không quá 0,01% giá trị doanh nghiệp. Với mức chi phí này, giá trị doanh nghiệp khó có thể được xác định một cách chuyên nghiệp, do đó thiếu chính xác. Bởi vì nếu áp dụng phương pháp giá trị tài sản ròng, các doanh nghiệp khó có đủ kinh phí để thuê các chuyên gia kỹ thuật thẩm định giá trị còn lại của các tài sản như dây chuyền máy móc, thiết bị, nhà cửa...Các doanh nghiệp sẽ sử dụng giá trị còn lại được ghi trong sổ sách vốn đã quá lỗi thời hoặc tự tính lại dựa trên ý kiến chủ quan của mình, do đó giá trị còn lại của tài sản sẽ không được xác định một cách chính xác. Nếu áp dụng phương pháp DCF, doanh nghiệp không đủ kinh phí để thuê chuyên gia xác định các tỷ lệ dự tính. Với nhiều doanh nghiệp, việc tính các tỷ lệ này nằm ngoài khả năng của họ. Thời điểm định giá doanh nghiệp và thời điểm phê duyệt chuyển DNNN thành CTCP còn quá xa.Vì vậy có những doanh nghiệp phải xác định lại giá trị, khiến việc CPH kéo dài. Vấn đề xử lý tài chính Nhiều DNNN thua lỗ, nợ đọng kéo dài, thậm chí mất hết vốn nhưng vẫn được đưa vào diện CPH. Thời gian để xử lý các khoản nợ, lỗ trong các doanh nghiệp này rất dài. Ví dụ, một công ty liên hợp thực phẩm ở Hà Tây đã hoàn thành việc định giá doanh nghiệp vào tháng 9/2003. Nhưng do số nợ thuế tiêu thụ đặc biệt lên tới 17 tỷ đồng, ngành thuế phải đề nghị Bộ Tài chính cho phép xoá nợ. Trong thời gian chờ kết quả, doanh nghiệp không triển khai được các bước CPH tiếp theo. Quá tháng 9/2004 mà chưa có kết quả, doanh nghiệp đã phải xác định lại giá trị doanh nghiệp. Chúng ta thường cho rằng nên chọn doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả, thua lỗ để CPH vì đây mới là đối tượng cần được sắp xếp lại để nâng cao hiệu quả. Nhưng các nhà đầu tư thường không mua cổ phiếu của những doanh nghiệp này vì không muốn kế thừa các khoản nợ cũ của doanh nghiệp. Bản thân một số DNNN bị thua lỗ, nợ đọng cũng không muốn CPH vì nếu CPH họ sẽ phải dành phần lớn tiền bán cổ phiếu để bù lỗ, trả nợ, chi trả cho người lao động theo chính sách, vốn sẽ không còn để đầu tư phát triển. Trên thực tế, trong số hơn 600 DNNN đã CPH, hầu hết là những doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả cao. Điều đó có nghĩa là những DNNN thua lỗ rất khó thực hiện CPH. Vấn đề lao động dôi dư Việc giải quyết những khoản lỗ, nợ dù sao cũng không khó khăn bằng việc giải quyết những lao động dôi dư. Thực tế cho thấy, trong quá trình sắp xếp lại DNNN nói chung và CPH DNNN nói riêng, tình trạng dư thừa lao động là không thể tránh khỏi. Theo số liệu của Ban đổi mới và phát triển doanh nghiệp TW năm 2002, tình trạng dư thừa lao động ở các DNNN có 2 mức độ : dư thừa thực tế (chiếm 7,2% tổng số lao động trong các DNNN); dư thừa tiềm năng (đối tượng có thể cắt giảm mà không ảnh hưởng đến tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, chiếm 9,5% tổng số lao động trong các DNNN). Tình trạng dư thừa lao động ở các DNNN địa phương thường nghiêm trọng hơn các DNNN do Trung ương. Các doanh nghiệp ở lĩnh vực sản xuất công nghiệp, dịch vụ, thương mại có tình trạng dư thừa lao động nghiêm trọng hơn các doanh nghiệp ở lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản. Lao động vô thời hạn (số biên chế cũ) có tỷ lệ dư thừa cao nhất, sau đó là lao động dài hạn, cuối cùng là lao động theo hợp đồng thời vụ (dưới 1 năm). Có bốn nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng dư thừa lao động ở các DNNN: (1) DNNN gặp khó khăn về tiêu thụ sản phẩm; (2) Lao động trong DNNN không đáp ứng được trước sự thay đổi của công nghệ; (3) DNNN thiếu hệ thống quản lý nguồn nhân lực hiện đại; (4) Trách nhiệm của người đứng đầu doanh nghiệp trong việc tuyển dụng và sử dụng lao động chưa được quy định rõ ràng. Số lao động dư thừa khó kiếm việc làm mới, làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội. Để giải quyết vấn đề này, Đảng và Nhà nước chủ trương : Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động cùng giải quyết. Một số giải pháp cụ thể đã được đưa ra là : khuyến khích người lao động dư thừa tự nguyện nghỉ; hạ tuổi hưu trong một số ngành; đào tạo lại lao động; cho lao động vay với lãi suất thấp để họ tự tạo công việc cho mình. Tuy nhiên, những giải pháp trên chưa được thực hiện nghiêm túc và cần được bổ sung. Ngoài ra, một số văn bản luật về lao động gián tiếp cản trở việc CPH DNNN, ví dụ điều 31 trong Bộ luật lao động quy định : trường hợp doanh nghiệp chuyển quyền sở hữu thì người sử dụng lao động kế tiếp vẫn phải thực hiện hợp đồng với tất cả lao động của doanh nghiệp. Việc cho thôi việc đối với 3 chức danh là giám đốc, phó giám đốc và kế toán trưởng trong DNNN cũng gặp khó khăn vì các doanh nghiệp không biết giải quyết theo Nghị định 16/CP hay Nghị định 41/CP. Việc CPH bị đình trệ vì các doanh nghiệp không biết bố trí cán bộ đi đâu. Các văn bản luật về lao động chưa phù hợp với kinh tế thị trường, cản trở việc tái cơ cấu không chỉ cán bộ ở DNNN mà còn cản trở cả việc tái cơ cấu cán bộ quản lý hành chính sự nghiệp của Nhà nước. Chính sách đối với DN CPH và người lao động từ năm 1992 đến nay liên tục thay đổi và lần thay đổi sau có phần ưu đãi nhiều hơn, khiến cho doanh nghiệp có tâm lý chờ đến khi chính sách được sửa đổi mới tiến hành CPH. Bản thân chính sách CPH DNNN nói chung cũng không được hoạch định thống nhất từ đầu do quá trình CPH DNNN ở Việt Nam mang nhiều tính thử nghiệm và thận trọng. Chỉ từ năm 1998 trở lại đây, Đảng và Nhà nước mới quyết định tăng tốc CPH DNNN, chế độ ưu đãi vì thế cũng rộng rãi hơn. Có thể hiểu rằng Nhà nước chấp nhận trả chi phí để CPH DNNN thành công trong ổn định và tăng trưởng. Những chính sách khác có liên quan đến CPH DNNN còn thiếu nhiều. Ví dụ, Nghị quyết 26 của TW được ban hành từ ngày 23/3/2003 có nêu : trong quá trình sắp xếp lại DNNN phải đưa một phần giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp để CPH, nhưng đến giữa năm 2004 vẫn chưa có một hướng dẫn cụ thể bằng văn bản nào được ban hành. Chính sách CPH cho phép doanh nghiệp thoả thuận khoanh, giảm, giãn, xoá nợ với ngân hàng nhưng bản thân ngân hàng cũng là một doanh nghiệp, những khoản nợ khoanh, giãn, giảm, xoá đó hạch toán vào đâu chưa được hướng dẫn. Quy định về quản lý vốn của Nhà nước trong các DN CPH cũng còn nhiều điểm chưa rõ ràng. Ví dụ khi một công ty “con” tiến hành CPH thì công ty “mẹ” sẽ quản lý vốn Nhà nước, nhưng khi công ty “mẹ” cũng tiến hành CPH thì không biết ai sẽ chịu trách nhiệm quản lý vốn ở công ty “con”. 2.2.1.3 Nhà nước chậm cải cách thủ tục hành chính Thời gian xây dựng, trình duyệt đề án CPH dài do các thủ tục còn rườm rà. Vì cơ chế “xin-cho”, các doanh nghiệp phải mất rất nhiều thời gian mới lo đủ thủ tục CPH. Ví dụ như trường hợp của Công ty điện tử Phú Thọ (thuộc Tổng công ty Điện tử Việt Nam), trong quá trình bán cổ phần của công ty này, Tổng công ty điện tử Việt Nam đã đề xuất bán 15% cổ phiếu cho đối tác nước ngoài. Tuy nhiên, họ đã phải trình duyệt rất nhiều cơ quan chức năng như Bộ Công nghiệp,Văn phòng Chính phủ… mới nhận được quyết định đồng ý vào tháng 3/2001. Nhưng lúc này nhà đầu tư nước ngoài, do phải chờ quá lâu, đã quyết định không mua cổ phiếu nữa. 2.2.2 Về phía lãnh đạo trong DNNN và các cơ quan chủ quản của DNNN Lãnh đạo trong DNNN và các cơ quan chủ quản của doanh nghiệp có tâm lý chờ đợi, níu kéo vì quyền lợi riêng, nhất là khi vẫn còn tồn tại sự phân biệt đối xử giữa DNNN và DN CPH. Một số giám đốc DNNN vẫn coi giám đốc là một chức vụ, cùng với nó là quyền lực và bổng lộc. Những giám đốc năng lực kém biết rõ rằng nếu DNNN được CPH thì họ sẽ không được bầu vào vị trí giám đốc. Vì vậy bề ngoài các giám đốc có vẻ nhất trí với việc CPH nhưng trên thực tế lại tìm cách trì hoãn bằng nhiều hình thức hoặc “mạo danh” CPH để biến DNNN thành sở hữu của riêng mình. Ví dụ như việc CPH ở một công ty xây dựng kinh doanh nhà ngoại ô (thành viên của Tổng công ty Đầu tư và phát triển nhà Hà Nội). Công ty này hoạt động yếu kém trong nhiều năm, do đó có nhiều khả năng sẽ bị sáp nhập. Giám đốc công ty không muốn bị mất chức quyền nên đã nộp đơn lên Ban đổi mới doanh nghiệp cấp trên xin được CPH trong khi chưa có sự chấp thuận của Tổng công ty. Chỉ 3 tháng sau, việc CPH đã được hoàn tất, công ty trở thành công ty đầu tư và thương mại với 100% vốn tư nhân. Với các lãnh đạo trong các cơ quan chủ quản của DNNN, họ biết rằng các DNNN sau khi được CPH sẽ không còn là đối tượng chịu sự quản lý của họ nữa, có nghĩa là quyền lực của họ sẽ bị thu hẹp lại rất nhanh. Do đó, họ đã tìm mọi cách để trốn tránh như : (1) Lập đề án đề nghị giữ lại một số DNNN thuộc diện CPH, đặc biệt là những doanh nghiệp lớn, là thành viên của Tổng công ty, có lợi nhuận cao với lý do : các doanh nghiệp này rất quan trọng trong dây chuyền sản xuất suất kinh doanh (các doanh nghiệp thương mại, xuất nhập khẩu, cung ứng vật tư, vận tải), hoặc các doanh nghiệp này hiện chưa đạt tiêu chuẩn (về vốn và hiệu quả) để được Nhà nước tiếp tục nắm giữ 100% vốn, nhưng đang được đầu tư để nâng cao hiệu quả và có kế hoạch tăng vốn, để đến năm 2005 thuộc diện doanh nghiệp Nhà nước tiếp tục nắm giữ 100% vốn. Trong đề án CPH, các cơ quan chủ quản muốn giữ lại nhiều DNNN, chưa theo tinh thần của Quyết định 58/2002/QĐ-TTg nên đề án đã bị trả lại nhiều lần; (2) Trì hoãn thời điểm CPH. Nhiều đề án dự kiến lộ trình CPH kéo dài và tập trung vào năm 2005 hoặc chậm hơn, không còn thuộc chương trình trình cải cách DNNN giai đoạn 2001-2005; (3) Sáp nhập hoặc hợp nhất doanh nghiệp; (4) Chuyển thành đơn vị hành chính sự nghiệp hay đơn vị trực thuộc đơn vị khác.Ví dụ, Bộ giáo dục và đào tạo đã đề nghị chuyển Xí nghiệp liên hợp xây dựng về trường đại học Bách khoa Hà Nội trong khi xí nghiệp thuộc diện CPH và hoạt đông của xí nghiệp không gắn kết với mục tiêu hoạt động của trường. Ngoài việc tìm cách trốn tránh CPH như trên, để đối phó với sự chỉ đạo gay gắt của Chính Phủ về CPH, nhiều ngành và địa phương đã tiến hành CPH DNNN thuộc quyền mình quản lý nhưng lại giữ cổ phần khống chế, do đó doanh nghiệp sau CPH vẫn có các cơ quan chủ quản. 2.2.3 Về phía người lao động trong doanh nghiệp Người lao động trong doanh nghiệp chưa hiểu biết đầy đủ về CPH do chưa được giải thích một cách rõ ràng. Một bộ phận lao động, đặc biệt là những lao động đã làm cho doanh nghiệp từ thời bao cấp, vẫn có tư tưởng “biên chế suốt đời” nên họ không ủng hộ việc CPH. Mặc dù người lao động được mua cổ phần với giá ưu đãi nhưng họ vẫn ngần ngại vì thu nhập còn thấp. Giám đốc một doanh nghiệp trong ngành bưu điện (một ngành có mức lương bình quân tương đối cao so với các ngành khác) cho biết “ với thu nhập khoảng 800.000 đến 900.000 một tháng, người lao động khó còn dư tiền để mua cổ phần ”. 2.2.4 Về phía ban đổi mới doanh nghiệp Những cán bộ trong ban đổi mới doanh nghiệp còn thiếu và chưa được tập huấn tốt để lập và thực hiện kế hoạch CPH. Do đó, họ thiếu tự tin khi triển khai, khiến thời gian CPH bị kéo dài. Ngoài ra, họ bị phụ thuộc lớn vào các cơ qun chủ quản, không đủ quyền lực để đẩy nhanh tiến độ CPH. 2.2.5 Về phía nhà đầu tư ngoài doanh nghiệp Nhà đầu tư ngoài doanh nghiệp chưa mua muốn cổ phiếu của doanh nghiệp do chưa tin tưởng vào hiệu quả của các doanh nghiệp này. Một số DNNN trước khi được CPH hoạt động quá yếu kém, nhiều khoản nợ, lỗ chưa được xử lý. Chúng như những món hàng “ế”, bán không ai mua. Một lý do khác khiến các nhà đầu tư không muốn mua cổ phiếu của các DN CPH là : nhiều DN CPH vẫn do Nhà nước giữ cổ phần chi phối, hoạt động của những doanh nghiệp này không thay đổi nhiều so với trước đó vì mọi vấn đề đều do cổ đông lớn nhất là Nhà nước quyết định, các cổ đông khác có rất ít quyền đối với doanh nghiệp. Điều 3, Luật DNNN năm 2005 có ghi rõ “ Những doanh nghiệp cổ phần mà Nhà nước giữ trên 50% vốn điều lệ thì Nhà nước giữ quyền chi phối doanh nghiệp đó ”. Quyền chi phối được cụ thể hoá là “ Quyền định đoạt đối với điều lệ hoạt động, việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các chức danh quản lý chủ chốt, việc tổ chức quản lý và các quyết định quản lý quan trọng khác của doanh nghiệp ”. Thực tế, giám đốc DNNN vẫn tiếp tục làm giám đốc CTCP, các cơ quan cấp trên vẫn tiếp tục can thiệp sâu vào công việc sản xuất kinh doanh của công ty. Theo số liệu của Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp TW, hơn 75% cán bộ lãnh đạo DN CPH là cán bộ lãnh đạo của DNNN trước đây chuyển sang. Gần đây, một số giám đốc DN CPH muốn doanh nghiệp mình tham gia niêm yết trên Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội, nhưng người đại diện phần vốn Nhà nước lại không chấp thuận. Một ví dụ khác, giám đốc một DN CPH có phương án đầu tư xây dựng một nhà xưởng mới, rất khả thi và hiệu quả dự tính khá cao, nhưng người đại diện vốn Nhà nước không chấp thuận bởi đơn vị chủ quản cũng có một số doanh nghiệp trực thuộc cùng ngành nghề với DN CPH, đang gặp khó khăn trong kinh doanh và họ không muốn có thêm đối thủ cạnh tranh. Nếu các CTCP cần tăng vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh thì Nhà nước và các cổ đông khác cùng phải tăng vốn. Trong trường hợp Nhà nước không góp thêm vốn trong khi các cổ đông khác tăng vốn thì tỷ lệ vốn Nhà nước trong công ty sẽ giảm. Vì không muốn tỷ lệ vốn của Nhà nước giảm nên ở một số DN CPH, bên đại diện Nhà nước không cho phép doanh nghiệp phát hành thêm cổ phiếu để thu hút thêm vốn. Thực tế cho thấy, nhiều doanh nghiệp chỉ bán cổ phiếu cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp, thậm chí khi các cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp không mua hết cổ phiếu, doanh nghiệp cũng không không bán cổ phiếu ra bên ngoài vì sợ cổ đông bên ngoài làm mất tính ổn định của CTCP. Không thể phủ việc Nhà nước vẫn nắm cổ phần chi phối đối với DN CPH đã làm yên lòng một số lãnh đạo DNNN quen nhận sự hỗ trợ từ Nhà nước. Các doanh nghiệp thành viên của tổng công ty cũng an tâm vì sau CPH, công ty “mẹ” giữ đa số vốn và sẽ tiếp tục hỗ trợ nhiều cho họ. Điều này làm các nhà đầu tư ngoài doanh nghiệp nản lòng vì họ không muốn “ bỏ tiền ra mua một cái máy mà cái máy ấy vẫn là của Nhà nước ” (theo lời của một nhà đầu tư). Điều các nhà đầu tư mong muốn là được tham gia quản lý doanh nghiệp một cách thực sự, thay đổi cách thức quản lý vốn đã quá lỗi thời trong doanh nghiệp để doanh nghiệp hoạt động hiệu quả hơn, mang lại nhiều lợi nhuận cho họ. Niềm tin của các nhà đầu tư càng giảm sút khi những tiêu cực phát sinh trong lĩnh vực CPH đã trở thành phổ biến như xác định sai giá trị doanh nghiệp, cổ phiếu chỉ có giám đốc, nhân viên doanh nghiệp và những người thân quen của họ mới mua được…. Chủ trương của Nhà nước trong việc CPH là thu hút các nhà đầu tư chiến lược đầu tư vào DN CPH. Nhưng trên thực tế, các nhà đầu tư chiến lược vẫn rất khó có cơ hội mua cổ phiếu của DN CPH. Theo kết quả thống kê của Bộ tài chính năm 2004, tỷ lệ cổ phiếu bán ra ngoài bình quân của các DN CPH là 4,8% (tỷ lệ cao nhất là 8%), có 860 DN CPH (chiếm 38,4% tổng số DN CPH) không có cổ phiếu bán ra ngoài doanh nghiệp. Rất nhiều doanh nghiệp không thuộc diện Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối nhưng các bộ, ngành vẫn kiên quyết nắm giữ cổ phần chi phối, phổ biến nhất là trong các tổng công ty thuộc Bộ giao thông vận tải và Bộ thương mại. Bộ Giao thông vận tải có tới 82% số DN CPH Nhà nước nắm giữ vốn chi phối. Bộ thương mại có 36/59 DN CPH không bán cổ phiếu ra bên ngoài. Cá biệt, tỉnh Hải Dương có 28/28 DN CPH không bán cổ phiếu ra bên ngoài. Việc bán cổ phần lần đầu của các CPH chưa được thực hiện tốt. Theo quy định tại thông tư số 80/2002/TT-BTC, việc tổ chức bán đấu giá cổ phần lần đầu cho các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp phải đảm bảo công khai, minh bạch, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia. Tuy nhiên, trong thực tế, các nhà đầu tư bên ngoài rất khó có được thông tin quan trọng về doanh nghiệp như kế hoạch định giá, kế hoạch CPH, kế hoạch kinh doanh hậu CPH do các cơ quan chủ quản rất ít khi công bố những thông tin đó trên các phương tiện thông tin truyền thông, đặc biệt ở giai đoạn chuẩn bị bán đấu giá cổ phần. Thông tin về đấu giá cổ phần (nhất là những thông tin quan trọng như tình hình tài chính, tài sản của doanh nghiệp) nếu có được công bố thì cũng rất sơ sài. Thông tin về việc đấu giá ở một số doanh nghiệp chỉ được đăng trên báo địa phương mà không được đăng trên báo trung ương. Việc công bố thông tin lại không kịp thời. Thời điểm công bố trên báo và thời điểm tổ chức đấu giá quá sát nhau (thường chỉ trong vòng 7 đến 14 ngày), gây bất lợi cho nhà đầu tư. Hiện tượng CPH khép kín như trên tất yếu dẫn tới hiện tượng doanh nghiệp bị định giá thấp so với giá thị trường, gây thất thoát tài sản của Nhà nước. Chuyện CPH khách sạn Phú Gia năm 2000 là một ví dụ điển hình. Khách sạn rộng tới 8.000 mét vuông và nằm ngay gần Hồ Gươm, một trong những vị trí đẹp nhất Hà Nội nhưng chỉ được định giá 3 tỷ đồng trong khi đó giá một mét vuông đất ở vị trí này ở thời điểm đó tối thiểu là 3 triệu đồng/m2 (giá đất ở khu vực này theo quy định mới nhất là 4,5 triệu đồng/m2, giá thị trường còn cao hơn nhiều). Nhà hàng bánh tôm Hồ Tây nổi tiếng, với diện tích trên 1.000 mét vuông, nằm ở một trong những đường phố đẹp nhất Hà Nội cũng chỉ được CPH với giá 800 triệu đồng. 2.2.6 Về phía các cơ quan chức năng chịu trách nhiệm trong việc CPH Các cơ quan chức năng của Bộ, ngành, địa phương còn lúng túng trong việc chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện CPH, không tích cực hỗ trợ Ban đổi mới doanh nghiệp. Nhiều cấp bộ đảng mới chỉ dừng lại ở mức phổ biến nghị quyết, chưa tổ chức học tập, nghiên cứu sâu để đảng viên thấy hết sự cần thiết và lợi ích của việc CPH. Ngoài ra, một số đề án tổng thể về CPH của các Bộ, ngành và địa phương chưa bám sát quy hoạch phát triển của ngành, địa phương cũng như thực trạng của doanh nghiệp nên phải được sửa lại, làm chậm tiến độ CPH. 2.2.7 Về phía các tổ chức cung cấp dịch vụ hỗ trợ CPH Các tổ chức tài chính như ngân hàng thương mại, công ty tài chính, công ty chứng khoán, công ty kiểm toán… đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tiến trình CPH DNNN. Đây chính là những tổ chức cung cấp các dịch vụ hỗ trợ DNNN thực hiện CPH như : tư vấn lập đề án CPH, tư vấn xác định giá trị doanh nghiệp, lập kế hoạch kinh doanh sau CPH, tư vấn lập phương án vốn, phân chia lợi nhuận… Tuy nhiên, các công ty kiểm toán của Việt Nam còn thiếu và còn hạn chế về trình độ. Trong số các công ty kiểm toán của Việt Nam, mới chỉ có VACO được Bộ Tài chính tạo điều kiện cho tham gia kiểm toán và định giá Công ty bảo hiểm Bảo Minh. Ngoài ra, giữa các công ty chứng khoán có sự cạnh tranh khốc liệt để được cơ quan quyết định CPH chọn là tổ chức thực hiện bán đấu giá cổ phần nên họ bị phụ thuộc lớn vào cơ quan này, do đó không phát huy đúng vai trò của một chủ tịch Hội đồng đấu giá. Trên thực tế, chức danh này chỉ là hình thức. Nhiều thành viên trong Hội đồng đấu giá là cán bộ của cơ quan cấp trên của doanh nghiệp và các cơ quan quản lý nhà nước khác. Họ không có chuyên môn sâu trong việc tổ chức đấu giá nên không thể chuẩn bị tốt cho các cuộc đấu giá kéo dài ít nhất trong 2 tháng. Các quy định về đấu thầu, trách nhiệm của đơn vị cung cấp dịch vụ và các thành viên trong Hội đồng đấu giá đối với kết quả cuối cũng còn thiếu. Chương 3 Một số giải pháp góp phần đẩy nhanh tiến độ CPH DNNN ở Việt Nam 3.1 Kế hoạch CPH DNNN năm 2005-2006 Trong 2 năm 2005-2006, cả nước sẽ nỗ lực cao nhất đẩy nhanh tiến trình CPH DNNN. CPH được tiếp tục khẳng định là một trong những giải pháp chủ yếu để nâng cao hiệu quả của hệ thống DNNN và cả nền kinh tế Việt Nam nói chung. Theo Đề án tổng thể về sắp xếp, đổi mới DNNN đã được Thủ tướng Chính Phủ phê duyệt, chỉ tiêu CPH năm 2005 là 394 doanh nghiệp (128 doanh nghiệp thuộc bộ, 214 doanh nghiệp thuộc tỉnh, 52 Tổng công ty), cộng thêm số doanh nghiệp đã được phê duyệt CPH mà chưa được thực hiện từ những năm trước, tổng số DNNN sẽ được CPH trong năm 2005 lên đến 724 doanh nghiệp. Trong đó, Hà Nội phải CPH 49 DNNN (6 doanh nghiệp Nhà nước nắm cổ phần chi phối, 43 doanh nghiệp Nhà nước nắm cổ phần mức thấp hoặc không nắm cổ phần), thành phố Hồ Chí Minh CPH 60 doanh nghiệp, tỉnh Thái Nguyên CPH 10 doanh nghiệp. Số DNNN sẽ được CPH trong năm 2006 là 676 doanh nghiệp. Với 18 Tổng công ty 91 và 19 Tổng công ty 90 chưa thể được CPH toàn bộ trong năm 2005, các doanh nghiệp thành viên của những Tổng công ty này sẽ được CPH trước. Về thời gian trung bình để CPH một DNNN, theo ông Phạm Viết Muôn, Phó trưởng Ban chỉ đạo và đổi mới doanh nghiệp TW, thời gian trung bình để CPH một DNNN phải được rút xuống còn 200 ngày, trong đó thời gian thực hiện 3 khâu thành lập ban đổi mới, định giá và phê duyệt phương án kéo dài không quá 100 ngày Nhà nước chủ trương mở rộng diện CPH, do đó việc CPH sẽ được tiến hành ở một số Tổng công ty và DNNN lớn trong các ngành quan trọng như điện lực, luyện kim, cơ khí, hoá chất, phân bón, xi măng, xây dựng, vận tải đường bộ, đường sông, hàng không, hàng hải, viễn thông, Ngân hàng, bảo hiểm. Một số Tổng công ty và DNNN lớn sẽ được CPH trong năm 2005 là : Tổng công ty điện tử - tin học Việt Nam, Tổng công ty xuất nhập khẩu và xây dựng Việt Nam, Tổng công ty thương mại và xây dựng, Ngân hàng ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long. Tổng công ty thương mại và xây dựng thuộc Bộ giao thông vận tải là một trong những Tổng công ty đầu tiên được CPH trong năm 2005. Theo quyết định đã được phê duyệt, Tổng công ty sẽ được CPH theo hình thức giữ nguyên phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu để huy động thêm vốn. Công ty cổ phần sẽ có tên viết tắt là VIETRACIMEX, ngành nghề kinh doanh chính là xây dựng dân dụng và công nghiệp, xuất nhập khẩu hàng hoá, đại lý vận tải và môi giới hàng hải. Tám đơn vị hạch toán độc lập thuộc Tổng công ty sẽ được CPH là : Công ty thương mại và xây dựng Bạch Đằng, Công ty xuất khẩu lao động và du lịch Sao Vàng, Công ty xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng, Công ty xây dựng và thương mại miền núi, Công ty thương mại và xây dựng Hải Phòng, Công ty xây dựng và thương mại Việt - Nhật, Công ty thương mại và xây dựng Đà Nẵng. Văn phòng và các đơn vị hạch toán phụ thuộc của Tổng công ty sẽ được chuyển thành công ty “mẹ” với tên mới là Tổng công ty cổ phần thương mại và xây dựng. Tổng công ty xuất nhập khẩu - xây dựng Việt Nam (VINACONEX) là Tổng công ty đầu tiên của Bộ xây dựng được CPH. Theo đề án, Tổng công ty sẽ được CPH theo hình thức giữ nguyên phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu để huy động thêm vốn. Hầu hết các doanh nghiệp thành viên của Tổng công ty sẽ được CPH trong năm 2005. Công ty “mẹ” sẽ có tên là Tập đoàn VINACONEX, vừa trực tiếp kinh doanh, vừa đầu tư vốn vào các công ty “con” và các công ty khác. Tổng công ty điện tử - tin học Việt Nam (VEIC) sẽ được CPH theo quyết định số 06-2005 của Thủ tướng Chính Phủ. Các công ty TNHH Nhà nước một thành viên thuộc VEIC như Công ty điện tử Thủ Đức, Công ty điện tử Hoà Bình, Công ty điện tử Đống Đa, Công ty điện tử - viễn thông Nghệ An và Công ty công nghệ thông tin GENPACIFIC sẽ được chuyển thành CTCP. Việc CPH Tổng công ty thương mại và xây dựng, Tổng công ty xuất nhập khẩu - xây dựng Việt Nam và Tổng công ty điện tử - tin học Việt Nam phải được hoàn thành ngay trong 6 tháng đầu năm Tổng công ty hoá chất Việt Nam sẽ CPH 10 doanh nghiệp thành viên (trong đó có 4 doanh nghiệp Nhà nước giữ cổ phần chi phối) Hai mạng điện thoại di động Mobiphone và Vinaphone thuộc Tổng công ty bưu chính viễn thông Việt Nam sẽ hoàn tất các thủ tục CPH trong năm 2005. Việc CPH hai mạng này đã được ghi trong Quyết định số 58/2005/QĐ-TTg phê duyệt đề án thành lập thí điểm Tập đoàn bưu chính viễn thông Việt Nam. Sau khi hợp đồng giữa Mobiphone và Comvik kết thúc vào tháng 5/2005, công việc định giá Mobiphone sẽ được tiến hành. Ngân hàng ngoại thương Việt Nam (VCB) và Ngân hàng nhà đồng bằng sông Cửu Long sẽ được CPH trong năm 2005. Nếu việc CPH hai Ngân hàng này diễn ra thành công, Nhà nước sẽ tiếp tục CPH các NHTMNN khác. Lý do là lĩnh vực Ngân hàng, bảo hiểm sẽ được mở ra chậm nhất là năm 2008. Theo Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ (BTA), giai đoạn 2001-2009, các Ngân hàng Mỹ chỉ hoạt động ở Việt Nam dưới hình thức liên doanh với tỷ lệ vốn góp từ 30% đến 40 %. Đến năm 2010, các Ngân hàng Mỹ sẽ được bình đẳng với các Ngân hàng Việt Nam. Khi các “rào cản” với Ngân hàng Mỹ được loại bỏ, các Ngân hàng Việt Nam sẽ gặp khó khăn khi cạnh tranh với các Ngân hàng Mỹ vốn có ưu thế vượt trội về công nghệ, trình độ quản lý và vốn. Điều này buộc các Ngân hàng của Việt Nam phải được đầu tư cải tiến công nghệ. Với các NHTMNN, biện pháp phù hợp nhất để đạt mục tiêu trên là CPH. VCB đã được chọn là Ngân hàng đầu tiên thí điểm CPH. Việc CPH VCB thể hiện sự tích cực của Việt Nam trong việc thực hiện các cam kết cải cách tài chính với các tổ chức tài chính quốc tế. Đến tháng 3/2004, vốn chủ sở hữu của VCB là 4.042 tỷ đồng, Ngân hàng đặt mục tiêu đến hết năm 2005 sẽ có vốn chủ sở hữu là 9.000 tỷ đồng. Khi VCB được CPH, Nhà nước sẽ giữ 51% cổ phần, tương ứng với 4.590 tỷ đồng. Vốn Nhà nước tại VCB năm 2004 là 4.042 tỷ đồng, do đó vốn chủ sở hữu của Ngân hàng phải được bổ sung 548 tỷ đồng từ ngân sách Nhà nước. Số vốn điều lệ cần được bổ sung còn lại là 4.410 tỷ đồng. Ngân hàng sẽ thu hút được số vốn này thông qua việc phát hành cổ phiếu. Theo tính toán của CVB, với mức bán bình quân cho cán bộ, nhân viên trong ngân hàng là 100 triệu đồng/người thì tổng số vốn được huy động mới chỉ là 400 tỷ đồng, ngân hàng phải huy động hơn 4.000 tỷ đồng từ các nhà đầu tư bên ngoài. Tháng 7 năm 2004, Thống đốc NHNN đã ra quyết định nêu rõ tiến trình CPH NHTMNN bao gồm 2 giai đoạn. Giai đoạn 1 : xây dựng đề án tăng vốn tự có thông qua việc phát hành cổ phiếu ưu đãi. Giai đoạn 2 : gồm 2 bước : (1) trình Chính Phủ xin chủ trương về những vấn đề lớn như tỷ lệ cổ phần nắm giữ của Nhà nước, CPH các công ty trực thuộc, xác định nợ xấu…, (2) xây dựng đề án chi tiết, trình Chính Phủ phương án cuối cùng vào quý 3 năm 2005. Về mặt chủ trương CPH, từ Chính Phủ đến các Bộ đều đồng tình, VCB cũng sẵn sàng thực hiện. Tuy nhiên, đây là lần đầu tiên chúng ta CPH một NHTMNN nên việc thực hiện gặp nhiều khó khăn. Khó khăn lớn nhất là thiếu cơ sở pháp lý để CPH NHTMNN. Vì nếu áp dụng các quy định hiện hành về CPH thì việc CPH NHTMNN không thể thực hiện được. Tài sản của Ngân hàng có khối lượng lớn, đa dạng, trong đó phần lớn là tài sản tài chính, có giá trị phụ thuộc chủ yếu vào mức độ rủi ro, mức sinh lời dự tính…Việc định giá Ngân hàng phức tạp hơn việc định giá một doanh nghiệp thông thường. 3.2 Một số giải pháp góp phần đẩy nhanh tiến độ CPH DNNN ở Việt Nam 3.2.1 Tiếp tục bổ sung, sửa đổi luật về CPH : Về đối tượng CPH : cần mở rộng hơn nữa đối tượng được phép CPH, (tức thu hẹp đối tượng Nhà nước cần giữ 100% vốn). Về quyền mua cổ phần lần đầu của DN CPH : theo quy định hiện hành, các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước được mua cổ phần với số lượng không hạn chế. Tuy nhiên quy định trên không còn ý nghĩa khi Nhà nước vẫn yêu cầu phải đảm bảo quyền sở hữu cổ phần chi phối của Nhà nước trong doanh nghiệp. Do vậy Nhà nước nên bỏ quy định về quyền nắm giữ cổ phần chi phối của Nhà nước trong DN CPH. Với những DNNN đã thực hiện CPH, trong đó Nhà nước giữ cổ phần chi phối, phải tiến hành bán tiếp cổ phiếu của Nhà nước cho người lao động và nhà đầu tư ngoài doanh nghiệp. Có như vậy, việc CPH mới đạt được mục tiêu huy động vốn của các cá nhân, tổ chức kinh tế, xã hội trong và ngoài nước để tăng năng lực tài chính, đổi mới công nghệ, đổi mới phương thức quản lý, nâng cao hiệu quả của cả nền kinh tế. Về hình thức CPH, khuyến khích hình thức giữ nguyên vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu để thu hút thêm vốn của xã hội. Thực hiện điều này cũng là để đạt được mục tiêu của CPH DNNN Trong việc định giá doanh nghiệp để CPH, cần bổ sung, sửa đổi một số điểm sau : Về tổ chức tiến hành định giá, theo Nghị định 187/CP, hình thức định giá thông qua Hội đồng định giá đã bị loại bỏ, cơ quan quyết định giá trị DN CPH thuê một hay một số tổ chức định giá chuyên nghiệp ( công ty kiểm toán, công ty tài chính...) trong danh sách do Bộ tài chính công bố. Đây là một quy định rất hợp lý vì việc định giá được tiến hành bởi Hội đồng định giá thường kéo dài và không khách quan. Tuy nhiên chỉ có 44 tổ chức trong danh sách các tổ chức định giá do Bộ tài chính công bố. Con số này quá ít so với số DNNN cần được định giá để CPH trong thời gian tới. Mặt khác, công việc định giá các DNNN lớn ( NHTMNN, tổng công ty...) rất phức tạp, cần được thực hiện bởi các tổ chức định giá lớn của quốc tế, trong đó có những tổ chức chưa có văn phòng ở Việt Nam. Theo Nghị định 187/CP, trường hợp cơ quan quyết định giá trị doanh nghiệp thuê tổ chức định giá nước ngoài chưa hoạt động ở Việt Nam thì phải được sự thoả thuận của Bộ Tài chính. Việc tìm hiểu các tổ chức định giá quốc tế chưa có văn phòng ở Việt Nam, sau đó xin ý kiến chấp thuận bằng văn bản của Bộ tài chính chắn chắn sẽ mất nhiều thời gian. Do đó, Bộ tài chính nên xem xét bổ sung thêm các tổ chức định giá nước ngoài chưa có văn phòng ở Việt Nam vào danh sách các tổ chức được phép định giá DNNN để CPH. Các doanh nghiệp sẽ chỉ việc chọn một trong số các tổ chức trong danh sách này. Để giúp các doanh nghiệp chọn lựa nhanh, Bộ Tài chính cũng nên cung cấp thông tin về các tổ chức định giá cho doanh nghiệp, thậm chí tư vấn cho doanh nghiệp lựa chọn tổ chức phù hợp. Về phương pháp định giá, Bộ tài chính nên bổ sung thêm phương pháp so sánh với những đơn vị tương tự đã CPH thành công. Việc định giá theo phương pháp ít tốn kém, có thể được thực hiện nhanh, phù hợp với những doanh nghiệp nhỏ, không cần thuê tổ chức định giá. Về chi phí định giá, Bộ tài chính nên nâng cao mức chi phí tối đa cho việc định giá bởi vì trong thời gian tới nhiều DNNN tiến hành CPH có quy mô lớn, việc định giá cần được thực hiện bởi các tổ chức quốc tế. Mức giá do các tổ chức này đưa ra thường khá cao. Về vấn đề quyền sử dụng đất, Nhà nước không nên tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp, thay vào đó áp dụng hình thức cho thuê đất với mọi DNNN tiến hành CPH và thường xuyên điều chỉnh giá cho thuê đất theo giá thị trường. Bởi vì giá trị quyền sử dụng đất rất lớn, nếu được tính ngay vào giá trị doanh nghiệp sẽ đẩy giá cổ phiếu lên cao, cổ phiếu sẽ khó bán trong khi chúng ta đang muốn CPH nhanh. Ngoài ra, phương pháp sử dụng khung giá đất của Nhà nước không thể thích ứng với sự biến đổi của thị trường nên nhiều khả năng Nhà nước sẽ bị “thua thiệt”. Nếu Nhà nước muốn xác định giá trị quyền sử dụng đất theo giá thị trường thì vấn đề khó khăn là : hiện nay Nhà nước chưa quản lý tốt thị trường bất động sản do đó không có cơ sở để xác định giá trị quyền sử dụng đất. Biện pháp Nhà nước cho thuê đất với mọi DNNN tiến hành CPH và thường xuyên điều chỉnh giá thuê đất theo giá thị trường vừa đảm bảo phản ánh một phần giá trị đất đai trong giá trị doanh nghiệp ( tiền thuê đất có được tính trong giá trị doanh nghiệp ) vừa đảm bảo giá cổ phiếu không quá cao nên nhiều người dân mua được và giảm nguy cơ thiệt hại cho Nhà nước. Số tiền thuê đất rất nhỏ so với giá trị quyền sử dụng đất nên nếu giá thuê đất bị xác định thấp hơn so với giá thị trường thì phần thiệt hại của Nhà nước cũng nhỏ hơn rất nhiều so với trường hợp Nhà nước có tính giá trị quyền sử dụng đất trong giá trị doanh nghiệp, sau đó giá trị quyền sử dụng đất bị định giá thấp hơn so với giá thị trường. Về ưu đãi dành cho doanh nghiệp CPH : Những doanh nghiệp gặp khó khăn (hiệu quả hoạt động thấp, hoạt động trong những ngành, địa bàn kém hấp dẫn) khi tiến hành CPH sẽ được hưởng nhiều ưu đãi hơn các doanh nghiệp bình thường, cụ thể mức miễn giảm thuế TNDN trong thời gian đầu cao hơn; thời gian được miễn giảm thuế TNDN dài hơn; được ưu đãi về tín dụng; được cung cấp thông tin về thị trường, khoa học công nghệ... Các DN CPH tham gia niêm yết trên thị trường chứng khoán cũng được hưởng những ưu đãi mở rộng như trên trong thười gian đầu. Tuy nhiên, Nhà nước chỉ nên khuyến khích chứ không nên ép buộc các DN CPH tham gia niêm yết trên thị trường chứng khoán vì việc có tham gia niêm yết trên thị trường chứng khoán hay không là quyền của mỗi doanh nghiệp. Với một doanh nghiệp bình thường, việc tổ chức và quản lý một doanh nghiệp vừa mới CPH đã là điều không đơn giản, nếu phải gánh thêm áp lực từ việc niêm yết thì doanh nghiệp sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Chính sách ưu đãi cho DN CPH là hết sức đúng đắn vì nó giúp cho các DNNN tích cực tiến hành CPH hơn. Tuy nhiên, chính sách trên chỉ nên được áp dụng với doanh nghiệp trong một thời gian ngắn, nếu không sẽ tạo ra sự bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp. Sau thời gian này, thay vì cấp ưu đãi cho DN CPH “như đối với công ty nhà nước”, Nhà nước nên xoá bỏ dần các ưu đãi cho DNNN kinh doanh, để các doanh nghiệp này hoạt động cùng với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác trong một môi trường kinh doanh bình đẳng. Thực hiện được điều này, Nhà nước sẽ khắc phục được nguyên nhân lớn nhất dẫn tới việc CPH diễn ra chậm vì một khi các DNNN hoạt động kém hiệu quả và không được hưởng ưu đãi từ phía Nhà nước, họ sẽ tự nguyện tiến hành CPH. Về ưu đãi dành cho người lao động trong doanh nghiệp CPH : Nhà nước tạo điều kiện cho người lao động được làm chủ doanh nghiệp và được tiếp tục làm việc trong doanh nghiệp. Tuy nhiên, quyền làm chủ và quyền làm việc của người lao động cần được tách bạch. Nhà nước không nên để người lao động hiểu nhầm là muốn được tiếp tục làm việc cho doanh nghiệp thì phải mua cổ phần của doanh nghiệp và khi đã mua cổ phần của doanh nghiệp thì đương nhiên sẽ được làm việc tại doanh nghiệp. Để tạo điều kiện cho người lao động làm chủ DN CPH, Nhà nước cần tăng cường hỗ trợ cho họ bằng cách bán cổ phần với giá ưu đãi; bán chịu cổ phần (không tính lãi); xoá bỏ mức khống chế về giá trị ưu đãi cho người lao động. Tuy nhiên, việc người lao động có được làm việc trong DN CPH hay không thì do doanh nghiệp quyết định. Nhà nước không thể bắt buộc CTCP sử dụng số lao động hiện có mà chỉ có thể giúp người lao động có được cơ hội làm việc tại doanh nghiệp bằng cách đào tạo lại họ. Người lao động cần được giải thích rõ ràng về điều này để họ tích cực học việc, nâng cao tay nghề, đáp ứng yêu cầu của CTCP. Nếu người lao động bị buộc phải thôi việc thì Nhà nước cần tăng mức trợ cấp; đơn giản hoá thủ tục nhận trợ cấp; quy định rõ hơn về quyền và trách nhiệm của người đứng đầu doanh nghiệp trong việc giải quyết lao động dôi dư và tăng cường kiểm tra để ngăn chặn sự thông đồng giữa DNNN và người lao động nhằm trục lợi từ quỹ hỗ trợ giải quyết lao động dôi dư. Chính sách ưu đãi cũng cần được hoạch định trong cái nhìn tổng thể giữa mục tiêu CPH, khả năng tài chính của Nhà nước, áp lực của việc có nhiều người bị mất việc và trách nhiệm chia sẻ của công dân với Nhà nước để có tính dài hạn hơn. Khi chính sách đã ổn định, trách nhiệm công dân, cán bộ và Nhà nước đã rõ ràng thì tiến trình CPH DNNN sẽ diễn ra nhanh hơn. Về trách nhiệm của những các nhân làm chậm quá trình CPH DNNN. Mặc dù trong Nghị định 64/CP và Nghị định 187/CP đã có những quy định về trách nhiệm của cán bộ các bộ, ngành, doanh nghiệp, địa phương trong việc làm chậm quá trình CPH DNNN, nhưng do chưa có một chế tài cụ thể nên cho đến nay chưa có trường hợp nào bị xử lý ( trong khi có khá nhiều doanh nghiệp CPH chậm ). Vì vậy, Nhà nước cần có quy định các mức xử phạt cụ thể đối với những cá nhân làm chậm quá trình CPH, ví dụ : nếu giám đốc cố tình trì hoãn việc CPH thì sẽ bị cách chức, với các cán bộ khác cũng vậy. Việc CPH DNNN mang tính pháp lệnh (quy hoạch tổng thể đã được Chính Phủ phê duyệt), chúng ta không thể để tiến trình CPH bị làm chậm bởi những cá nhân này. * Các quy định pháp luật hiện hành về CPH DNNN nhìn chung còn thiếu tính hệ thống và phần lớn là các văn bản dưới luật (thông tư, chỉ thị, quyết định của các ngành). Ví dụ, sau khi ban hành Nghị định số 64/2002/NĐ-CP, Nhà nước đã ban hành tới 17 văn bản liên quan tới việc thực hiện Nghị định này. Khi các văn bản luật mâu thuẫn với nhau, các cơ quan chức năng phải mất thời gian xem xét lại các văn bản luật trước khi quyết định cho doanh nghiệp tiếp tục thực hiện CPH. Do đó, chúng ta cần một văn bản có tính pháp lý cao hơn về CPH, ví dụ như Luật CPH. Mọi vấn đề liên quan tới CPH DNNN (bao gồm những quy định được bổ sung, sửa đổi theo mục 3.2.1 trên đây) sẽ được quy định một cách thống nhất trong luật này để việc CPH được thực hiện một cách dễ dàng, nhanh chóng hơn. 3.2.2 Tiếp tục bổ sung, sửa đổi luật liên quan gián tiếp đến CPH Luật DNNN 2003 có quy định các DN CPH mà Nhà nước giữ cổ phần chi phối cũng là DNNN. Đây là một quy định không hợp lý, nó khiến cho việc CPH không còn ý nghĩa. Quy định Nhà nước giữ cổ phần chi phối ở một số DN CPH đã khiến cho các nhà đầu tư ngần ngại trước việc mua cổ phiếu của doanh nghiệp. Với quy định mới trên, các nhà đầu sẽ càng ngần ngại hơn và tiến độ CPH sẽ vẫn chậm như hiện nay. Do đó, Nhà nước cần xoá bỏ quy định này. Hiện nay, theo Luật khuyến khích đầu tư trong nước, các nhà đầu tư nước ngoài chỉ được phép mua tối đa 30% tổng số cổ phần của CTCP hoạt động trong những ngành nghề thuộc danh sách do Thủ tướng Chính phủ quyết định. Số ngành nghề được quy định trong danh sách trên còn quá lớn. Điều này không hợp lý vì ở nhiều ngành nghề, phía nước ngoài đã được phép đầu tư đến 100% vốn của doanh nghiệp dưới hình thức đầu tư trực tiếp. Do đó, Bộ trưởng Bộ kế hoạch và đầu tư nên chỉ đạo nghiên cứu sửa đổi Luật khuyến khích đầu tư trong nước theo hướng nâng tỷ lệ cổ phần bán cho nhà đầu tư nước ngoài khi CPH DNNN. Việc xây dựng Luật chứng khoán cần được hoàn thành vào năm 2005, tạo điều kiện cho thị trường chứng khoán phát triển. Khi thị trường chứng khoán phát triển, tính thanh khoản của các cổ phiếu tăng, do đó các nhà đầu tư sẽ tích cực mua cổ phiếu của DN CPH hơn. Ngoài việc bổ sung, sửa đổi một số văn bản luật trên, Chính Phủ cũng nên tích cực triển khai rộng rãi Luật phá sản doanh nghiệp bởi hiện nay có khá nhiều DNNN đủ điều kiện phá sản nhưng chưa thực hiện phá sản. Theo kết quả thống kê của Bộ tài chính, tính đến 12/2004 có hơn 150 DNNN đủ điều kiện phá sản nhưng chưa thực hiện phá sản. Số doanh nghiệp yếu kém này được đưa vào diện CPH khiến quá trình CPH bị chậm lại. Chính Phủ cần kiên quyết cho phá sản những DNNN quá yếu kém thay vì đưa chúng vào diện CPH để đẩy nhanh tiến độ CPH DNNN. 3.2.3 Hoàn thiện bộ máy Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp từ TW đến địa phương và tăng cường quyền lực cho các ban này Nếu Chính Phủ, các Bộ đưa ra các chính sách cụ thể để giải quyết từng vấn đề cho DNNN thực hiện CPH thì có xu hướng cứng nhắc vì mỗi doanh nghiệp có một hệ thống các vấn đề riêng. Do đó Chính Phủ phải phân cấp cho các bộ, ngành, địa phương, đặc biệt là cho ban chỉ đạo đổi mới doanh nhiệp ở địa phương quyền và trách nhiệm xử lý các vấn đề cụ thể của doanh nghiệp. Kinh nghiệm của các quốc gia tiến hành CPH DNNN thành công cho thấy, bộ máy tổ chức chỉ đạo CPH rất quan trọng. Nghị quyết TW III khoá IX cũng đã xác định “Bộ chính trị chỉ đạo Ban cán sự Đảng, Chính Phủ và các ban của Đảng có liên quan thành lập tổ chức tương xứng để làm nhiệm vụ tham mưu, xây dựng cơ chế, chính sách và giúp Chính Phủ chỉ đạo tốt nhiệm vụ sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN”. Tuy nhiên, hiện nay, các ban chỉ đạo đổi mới doanh nghiệp ở các ngành, địa phương không đủ chuyên gia và quyền hạn để đẩy nhanh quá trình CPH. Do đó, Nhà nước cần tăng cường chuyên gia, tăng cường quyền lực cho các ban này. Các chuyên gia của ban đổi mới phải có quyền hành động độc lập, không phụ thuộc vào các thủ trưởng ngành, địa phương và tự chịu trách nhiệm về hành động của mình. 3.2.4 Hỗ trợ Công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp (DATC) tiếp cận số liệu nợ và tài sản loại trừ ở các DNNN thuộc diện CPH Những tồn tại về tài chính trong các DNNN thuộc diện CPH là một trong những nguyên nhân chính làm chậm tiến trình CPH. Do vậy, Chính Phủ đã thành lập Công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp (DATC) để giúp các doanh nghiệp xử lý những vấn đề tài chính trước khi CPH. Tuy nhiên, công ty hiện còn gặp nhiều khó khăn do các giám đốc doanh nghiệp vẫn không muốn tiếp xúc với công ty vì cho rằng công ty chỉ là tổ chức “đòi nợ thuê”. Do đó, công ty cần được hỗ trợ để tiếp cận số liệu nợ và tài sản loại trừ ở các doanh nghiệp. Có như vậy công ty mới có thể phát huy vai trò của mình, tăng nhanh tốc độ xử lý nợ ở các DNNN trước khi CPH. 3.2.5 Cho phép Hiệp hội các nhà đầu tư tài chính Việt Nam (FAVI) tham gia vào quá trình đấu giá cổ phần lần đầu của DN CPH. Việc thuê các tổ chức chuyên nghiệp định giá DN CPH là rất quan trọng. Tuy nhiên, việc tổ chức đấu giá cổ phần lần đầu của DN CPH còn quan trọng hơn vì kết quả định giá chỉ là căn cứ để đưa ra mức giá khởi điểm, giá đấu thành công mới là giá trị thực của doanh nghiệp (theo Nghị định 187/CP). Qua việc tổ chức đấu giá cổ phần, Nhà nước bán được vốn với đúng giá trị thực, đồng thời tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư vào doanh nghiệp, nâng cao chất lượng quản trị ở CTCP sau này. Tuy nhiên, hoạt động này chỉ có ý nghĩa khi được thực hiện theo đúng nguyên tắc công khai, minh bạch. Để tăng tính công khai, minh bạch trong các cuộc đấu giá, Chính Phủ nên cho phép Hiệp hội các nhà đầu tư tài chính Việt Nam (FAVI) tham gia vào quá trình đấu giá cổ phần DN CPH theo đúng nguyện vọng của hiệp hội. FAVI sẽ tham gia vào tiến trình đấu giá cổ phần với tư cách là một tổ chức xúc tiến đầu tư chuyên nghiệp (theo điều lệ của Hiệp hội đã được Bộ Nội vụ phê duyệt), cung cấp thông tin tối đa cho các nhà đầu tư, tổ chức một số diễn đàn đầu tư và các chuyến tham quan doanh nghiệp. Các bộ, ngành, UBND, tổng công ty nhà nước phải thường xuyên cung cấp cho FAVI danh sách các DNNN tiến hành CPH, tiến độ CPH, hồ sơ định giá doanh nghiệp, phương án CPH và các văn bản có liên quan đến việc CPH từng đơn vị trực thuộc. Các tổ chức tài chính trung gian xác định giá trị doanh nghiệp phải công bố toàn bộ hồ sơ định giá và báo cáo tài chính trong 3 năm gần nhất của DNNN tiến hành CPH trên website của doanh nghiệp và website của FAVI ngay sau khi cơ quan chủ quản công bố giá trị doanh nghiệp. Khi các tổ chức này tiến hành bán đấu giá cổ phần, họ phải cung cấp ngay toàn bộ thông tin về cuộc đấu giá cho các nhà đầu tư khi nhận được thông tin từ phía doanh nghiệp chứ không phải đợi sát đến ngày tổ chức đấu giá mới công bố. Ngoài ra, FAVI cũng có thể cử các thành viên tham gia Hội đồng đấu giá, giám sát các cuộc bán đấu giá cổ phần. 3.2.6 Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính. Nhà nước tiếp tục cải tiến thủ tục hành chính liên quan đến CPH như cấp giấy tờ sở hữu tài sản, thủ tục rút tiền từ Quỹ hỗ trợ CPH… Để các cơ quan hành chính thực sự tạo điều kiện cho DNNN tiến hành CPH, Nhà nước phải thành lập cơ quan kiểm tra các cơ quan hành chính và đề cao ý thức, khả năng sử dụng pháp luật của doanh nghiệp. Nếu cơ quan kiểm tra phát hiện những biểu hiện “chây ỳ” của cơ quan hành chính, các cơ quan hành chính phải chịu trách nhiệm trước Chính Phủ. 3.2.7 Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức về CPH Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, các cơ quan chức năng tiếp tục phổ biến chủ trương CPH DNNN, giới thiệu các DN CPH thành công nhằm củng cố niềm tin của cán bộ quản lý DNNN, người lao động và toàn thể xã hội. Các báo và website nên có một chuyên mục riêng về CPH. Thông tin về CPH phải thường xuyên được cập nhật để người dân nắm được tình hình. Tuy nhiên, việc phổ biến kiến thức về CPH còn quan trọng hơn do có những DNNN và cơ quan chủ quản nắm vững chủ trương CPH của Nhà nước nhưng thiếu kiến thức nền tảng về CPH nên họ không tự tin khi triển khai, khiến tiến độ CPH bị chậm. Các DNNN thuộc diện CPH nên tổ chức các khoá học ngắn hạn về CPH cho người lao động, trong đó đặc biệt chú trọng tới những kiến thức nền tảng về CTCP, thị trường chứng khoán để họ có thể tham gia quản lý doanh nghiệp sau CPH. Kết luận CPH DNNN là quá trình phức tạp, liên quan đến nhiều vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước. Trên thế giới, nước được coi là tái cơ cấu DNNN nhanh nhất là Malayia cũng phải mất tới hơn 10 năm. ở nước ta, số lượng DNNN quá lớn, tài chính hỗ trợ cho CPH thiếu nên tiến trình CPH DNNN tất yếu bị kéo dài, nhất là trong những năm đầu thử nghiệm. Tuy nhiên đã đến lúc phải đẩy nhanh CPH vì sức ép của hội nhập đã quá gần và chúng ta đã có khá nhiều kinh nghiệm trong vấn đề CPH. Để đẩy nhanh tiến độ CPH DNNN, bên cạnh việc sửa đổi bổ sung luật, Nhà nước cần tăng cường chuyên gia, tăng cường quyền lực cho ban đổi mới doanh nghiệp; hỗ trợ Công ty mua bán và xử lý tài sản tồn đọng của doanh nghiệp tiếp cận thông tin về tài sản và nợ của DN CPH; cho phép Hiệp hội các nhà đầu tư tài chính Việt Nam tham gia vào quá trình đấu giá cổ phần lần đầu của DN CPH; áp dụng các biện pháp hành chính “mạnh tay” buộc các doanh nghiệp thuộc diện CPH phải thực hiện; tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính; tuyên truyền, phổ biến kiến thức về CPH DNNN …Tuy nhiên, vấn đề quan trọng hơn cả là Nhà nước phải đảm bảo tạo ra một môi trường kinh doanh bình đẳng giữa DNNN và các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. danh mục tài liệu tham khảo “Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam” - LATSKT Nguyễn Thị Thơm “Kinh tế Nhà nước và quá trình đổi mới doanh nghiệp Nhà nước”- PGS.TS Ngô Quang Minh “Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước - những vấn đề lý luận và thực tiến” - PGS.TS Lê Hồng Hạnh Website : www.mof.gov.vn Website : www. vneconomy.com.vn danh mục ký hiệu viết tắt CPH : Cổ phần hoá DNNN : Doanh nghiệp Nhà nước CTCP : Công ty cổ phần NMTM : Ngân hàng thương mại XHCN : Xã hội chủ nghĩa Nhận xét của giáo viên Họ và tên giáo viên : Chức vụ : Nhận xét luận văn tốt nghiệp của sinh viên: Nguyễn Phan Tùng Lớp : TCDN 43A Đề tài: Một số giải pháp đẩy nhanh tiến độ cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam Số điểm: - Bằng số - Bằng chữ Hà Nội, ngày … tháng … năm …. Người nhận xét Lời cam đoan Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong khoá luận là hoàn toàn trung thực và có nguồn gốc rõ ràng. Sinh viên Nguyễn Phan Tùng Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0340.doc
Tài liệu liên quan