Chuyên đề Một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý trong hoạt động vận chuyển hàng nông, lâm, thuỷ sản ở Công ty Giao nhận kho vận ngoại thương Nghệ An

Góp phần nâng cao năng lực,trình độ quản lý trong hoạt động giao nhận kho vận ngoại thương luôn là mục tiêu của công ty nhưng các giải pháp thế nào để nâng cao trình độ,năng lực của người cán bộ điều hành,các nhân viên trong công ty nhằm nâng cao chất lượng của dịch vụ,tạo uy tín với đối tác kinh doanh, đây là một câu hỏi khó không phải doanh nghiệp nào kinh doanh dịch vụ cũng làm được nhất lại là công ty vận chuyển các mặt hàng nhạy cảm,khó bảo quản như các sản phẩm từ ngành nông nghiệp.Việc tìm ra những giải pháp quản lý cho người cán bộ là việc hết sức cần thiết nhất là trong giai đoạn CNH-HĐH đất nước ta như hiện nay.Em tin với những chiến lược đúng đắn,những biện pháp phù hợp công ty giao nhận kho vận ngoại thương Nghệ An sẽ ngày nâng cao vị thế của mình trên thị trường.

doc60 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1681 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý trong hoạt động vận chuyển hàng nông, lâm, thuỷ sản ở Công ty Giao nhận kho vận ngoại thương Nghệ An, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
át yêu cầu thị trường. Cơ chế quản lý KHCN chậm đổi mới, chưa có chính sách và biện pháp hữu hiệu để huy động các nguồn lực và sử dụng có hiệu quả nguồn lực Nhà nước đầu tư cho KHCN; thiếu cơ chế gắn kết nghiên cứu KHCN với hoạt động sản xuất, kinh doanh, hiệu quả ứng dụng các công trình nghiên cứu khoa học thấp; thiếu chính sách và biện pháp thúc đẩy các doanh nghiệp quan tâm đầu tư nghiên cứu và đổi mới công nghệ để nâng cao năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh... Mức đầu tư cho nghiên cứu và phát triển KHCN trong ngành nông nghiệp còn thấp so với nhu cầu nên chưa tạo được những bước đột phá trong sản xuất nông nghiệp. Việc tổ chức chuyển giao, ứng dụng KHCN vào sản xuất chưa được quan tâm đầu tư đúng mức, thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa công tác nghiên cứu và khuyến nông; chưa thu hút được nhiều thành phần kinh tế tham gia nghiên cứu và chuyển giao khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp. Về Giống, mặc dù đã có những văn bản pháp quy đối với quản lý giống, việc thực thi vẫn còn nhiều bất cập. Hệ thống quản lý chất lượng giống còn yếu kém, số cán bộ quản lý ngành giống ở cấp tỉnh quá ít, cấp huyện hầu như không có. Do đó, hệ thống sản xuất, cung ứng giống cho dân chưa được giám sát chặt chẽ, đặc biệt việc quản lý giống lưu thông trên thị trường còn lỏng lẻo nên vẫn còn tình trạng sử dụng giống kém chấ Môi trường đầu tư còn nhiều hạn chế (thiếu tính chiến lược, định hướng thu hút đầu tư nước ngoài; chi phí đầu tư cao; hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp, phát triển nông thôn còn nhiều bất cập; thủ tục hành chính rườm rà...) nên chưa thực sự tạo điều kiện thuận lợi để thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực này. Do đó, dòng vốn đầu tư nước ngoài vào vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn còn hết sức hạn chế và có xu hướng giảm sút trong những năm gần đây, chưa tương xứng với tiềm năng cũng như thế mạnh phát triển của nông nghiệp vùng nguyên liệu cung ứng. Hiệu quả thực hiện các dự án trong lĩnh vực này còn rất nhỏ so với hoạt động đầu tư nước ngoài trong các lĩnh vực khác. Ngoài một số dự án sản xuất giống, chế biến nông sản..., nhìn chung các dự án đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực này triển khai chậm do khó khăn về thủ tục cấp đất, nguồn nguyên liệu... Hơn nữa, còn thiếu cơ chế chính sách khuyến khích mạnh mẽ các doanh nghiệp và các cơ sở đào tạo, nghiên cứu chủ động trực tiếp tham gia vào công tác chuyển giao khoa học, kỹ thuật. Thực trạng an toàn vệ sinh thực phẩm trong những năm gần đây rất đáng lo ngại. Đặc biệt, trong sản xuất rau quả, việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, chất bảo quản không đúng quy định hoặc cấm lưu hành trên thị trường đã dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng tới sức khoẻ người tiêu dùng. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về VSATTP đến nay về cơ bản đã hoàn thành, tuy nhiên việc xây dựng hệ thống tiêu chuẩn VSATTP còn chậm, thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác quản lý và và các tiêu chuẩn quốc tế. Hệ thống cơ quan quản lý Nhà nước về VSATTP còn yếu, phân tán, chưa phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ ngành. Do đó ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm, điều kiện tiêu chuẩn cho thu gom các mặt hàng vận chuyển trong và ngoài nước Việc thực hiện ký kết hợp đồng sản xuất, tiêu thụ nông sản theo Quyết định 80 của Chính phủ vẫn còn nhiều bất cập. Nhà nước chưa tạo được một hành lang pháp lý phù hợp cho việc giải quyết tranh chấp trong liên kết giữa các nhà, đặc biệt là vấn đề hợp đồng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm giữa nhà doanh nghiệp và nhà nông. Các chính sách về tín dụng, vốn sản xuất, đầu tư cơ sở hạ tầng, giống mới, khoa học kỹ thuật…theo QĐ 80 chưa được các cấp, các ngành triển khai đồng bộ, chưa khai thông. Đối với những trường hợp thiệt hại do các nguyên nhân bất khả kháng (như thiên tai, dịch bệnh), Nhà nước chưa có chính sách cụ thể để hỗ trợ cho các bên tham gia hợp đồng. Các chương trình xúc tiến thương mại hiện nay vẫn chưa chú trọng vào phát triển thị trường phi truyền thống trong khi chính những thị trường này mới là những thị trường mà Nhà nước cần hỗ trợ xúc tiến thương mại để các doanh nghiệp có thể thâm nhập thị trường. Hiện nay các hoạt động đàm phán để ký kết các thoả thuận hoặc các hiệp định về thương mại rau quả của Việt Nam còn chậm và cần phải triển khai mở rộng cũng như đẩy nhanh tiến độ của các hoạt động nay thông qua đàm phán ký kết các FTA hoặc các hiệp định về buôn bán rau quả với một số thị trường trọng điểm như Trung Quốc, Nhật Bản, EU và Hoa Kỳ…Do chưa ký kết được thoả thuận song phương về buôn bán rau quả với một số thị trường, đặc biệt là với Trung Quốc nên rau quả của Việt Nam hiện nay rất kém cạnh tranh với rau quả của những nước đã có thoả thuận cắt giảm thuế quan như Thái Lan tại thị trường quốc tế. Đây là một trong những rào cản đối với rau quả của Việt Nam. Chính phủ Trung Quốc cũng thắt chặt hoạt động kiểm soát rau quả nhập khẩu sau khi Trung Quốc gia nhập WTO tạo thêm khó khăn cho rau quả xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường này. Công tác dự báo thị trường, tổ chức thu thập và xử lý thông tin đã có những tiến bộ đáng kể nhưng còn rời rạc, chậm về thời gian, thiếu hệ thống từ cơ sở vật chất đến phương thức tổ chức, nghèo nàn về nội dung, chưa thực sự trở thành một công cụ mạnh để chỉ đạo, hướng dẫn sản xuất. Do thiếu thông tin về thị trường nên người sản xuất rất lúng túng trong việc quyết định đầu tư nên trồng cây gì? qui mô ra sao? để có hiệu quả. Thị trường chưa thực sự hướng dẫn sản xuất, chưa có tác động tích cực đổi mới cơ cấu sản xuất hướng theo nhu cầu của thị trường. Công tác tổ chức dự báo thị trường, thu thập xử lý thông tin chậm về thời gian, mức độ, tin cậy không cao, trên thực tế chưa trở thành công cụ mạnh hướng dẫn sản xuất. Tầm vĩ mô, hoạt động của các cơ quan quản lý Nhà nước trong việc xây dựng và phát triển thị trường, xúc tiến thương mại, xây dựng các quan hệ song phương và đa phương, tạo điều kiện xuất khẩu rau quả còn rất hạn chế, thiếu chủ động. Hoạt động nghiên cứu tiếp thị thuộc các tổ chức kinh tế, chuyên môn chậm phát triển, còn bị xem nhẹ, chưa tương xứng với yêu cầu phát triển ngành rau quả nói chung, đẩy mạnh xuất khẩu rau quả nói riêng. Sự yếu kém trong việc xác định hệ thống thị trường xuất khẩu chủ lực và những mặt hàng rau quả xuất khẩu trọng điểm là một trong những nguyên nhân hạn chế quá trình phát triển sản xuất - lưu thông - xuất khẩu rau quả. Để sản xuất đạt hiệu quả cao cần đầu tư vào những lĩnh vực thị trường thực sự có nhu cầu. Người sản xuất đòi hỏi phải có nhu cầu thường xuyên về thông tin thị trường tiêu thụ để có quyết định đầu tư sản xuất hợp lý. Tuy vậy, người sản xuất không thể tự giải quyết vấn đề này cho mình, mà đòi hỏi có sự hỗ trợ của Nhà nước, các tổ chức kinh tế và các doanh nghiệp. Nguyên nhân ,tồn tại và những vấn đề đặt ra cần giải quy ết Xét về nguyên nhân khách quan, xuất phát điểm của nông nghiệp Việt Nam thấp trong khi nguồn lực của cả Nhà nước và nhân dân còn hết sức hạn hẹp. Hơn nữa, một bộ phận cán bộ và một số ngành, địa phương chưa nhận thức đầy đủ được tầm quan trọng và tính cấp thiết của việc phát triển một nền nông nghiệp hàng hoá theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, có năng suất, chất lượng cao, đa dạng hoá sản phẩm và định hướng thị trường nên chưa thực sự quan tâm chỉ đạo và có cơ chế chính sách đủ mạnh để thực hiện. Việc đầu tư phát triển hệ thống thông tin giá cả, thị trường chưa theo kịp yêu cầu nên khả năng phân tích, dự báo còn nhiều yếu kém, chưa hướng dẫn cho nông dân nên sản xuất loại sản phẩm gì để có hiệu quả cao. Hạ tầng dịch vụ phục vụ thương mại hàng nông sản còn thiếu nhiều, hệ thống chợ bán buôn hàng nông sản chưa được quy hoạch và đầu tư phát triển mạnh, thiếu các cảng chuyên dụng, chi phí bốc xếp, lưu kho cao...làm giảm hiệu quả tiêu thụ, chưa khuyến khích được người nông dân phát triển sản xuất. Công tác quản lý Nhà nước trong lĩnh vực nông nghiệp còn nhiều bất cập. Nhiều chủ trương chính sách đã được ban hành những còn chậm trong việc hướng dẫn tổ chức thực hiện. Một số chính sách chậm được điều chỉnh để phù hợp với yêu cầu của chuyển đổi cơ cấu và phát triển sản xuất. Việc tuyên truyền phổ biến các chính sách để nâng cao nhận thức của người nông dân, giúp họ định hướng sản xuất hợp lý ở nhiều nơi vẫn còn chậm và chưa thực sự quan tâm. Cơ cấu đầu tư chậm được điều chỉnh để phù hợp với yêu cầu phát triển của cơ cấu kinh tế mới. Nhu cầu vốn cho đầu tư cho CSHT nông thôn rất lớn trong khi nguồn chi Ngân sách Nhà nước cho nông, lâm, thuỷ sản chỉ chiếm khoảng 6% tổng chi ngân sách và đáp ứng được khoảng 60 - 70% yêu cầu thực tế. Vốn của nông dân và các doanh nghiệp, HTX chiếm tỷ trọng lớn nhất trong đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh nông nghiệp nhưng số doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp thường có quy mô vừa và nhỏ lại chỉ chiếm gần 10% tổng số doanh nghiệp cả nước, do đó tốc độ mở rộng đầu tư của các doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp còn hạn chế. Trong khi đó, chưa có nhiều cơ chế, chính sách hữu hiệu nhằm khuyến khích, thu hút các nguồn vốn đầu tư nước ngoài cho đầu tư hạ tầng nông nghiệp nên nguồn vốn này chỉ mới chiếm khoảng 7% tổng vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Một số quy định về đất đai vẫn còn chưa thực sự phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường, chưa khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp trên quy mô lớn. Hiện nay, có nhiều doanh nghiệp, nông hộ mong muốn xây dựng được những vùng sản xuất nguyên liệu tập trung ổn định lâu dài nhưng lại gặp khó khăn về dồn đổi, chuyển nhượng đất nông nghiệp. Phát triển sản xuất nhiều loại cây trồng, trong đó có rau, hoa, quả còn phân tán và mang nặng tính tự phát. Chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn nhìn chung còn chậm so với yêu cầu, chưa thực sự tạo nên chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức của người nông dân về tầm quan trọng của việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Nhiều nơi nông dân vẫn tập trung vào sản xuất các loại cây truyền thống, ít chịu đổi mới. Năng lực, trình độ cũng như việc tổ chức quản lý công tác nghiên cứu khoa học, nhất là trong lĩnh vực nghiên cứu công nghệ cao chưa đáp ứng được nhu cầu. Cơ sở vật chất - kỹ thuật của các tổ chức nghiên cứu KH&CN còn thiếu, lạc hậu, chưa đồng bộ và sử dụng kém hiệu quả, thiếu các cán bộ có trình độ chuyên môn cao đã ảnh hưởng đến tiến độ và hiệu quả của công tác nghiên cứu. Việc áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất chưa tạo ra bước đột phá để tăng nhanh năng suất, chất lượng và hiệu quả nhằm phục vụ quá trình chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp. Việc quản lý giống thiếu sự chặt chẽ làm ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả kinh tế của nhiều loại rau, quả. Mạng lưới khuyến nông tuy đã hình thành đến tận cụm xã nhưng nhìn chung vẫn chưa phát triển tương xứng với yêu cầu của sản xuất. Khâu quản lý chất lượng hàng hoá còn nhiều bất cập gây tâm lý bất an của người tiêu dùng đối với các sản phẩm sản xuất trong nước. Công tác giáo dục, tuyên truyền về VSATTP trong cộng đồng chưa triệt để; thực trạng kinh tế nông nghiệp sản xuất nhỏ, manh mún, chưa đủ điều kiện để áp dụng kỹ thuật cao trong sản xuất; hầu hết các địa phương chưa có một bộ máy hữu hiệu để quản lý vấn đề này;… Đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý và kiểm nghiệm về Vệ sinh an toàn thực vật và kiểm dịch thực vật còn hạn chế về trình độ chuyên môn và kinh nghiệm, trang thiết bị của một số cơ sở kiểm định thuốc BVTV còn nghèo nàn đã ảnh hưởng đến hiệu quả của hoạt động kiểm nghiệm, đánh giá dư lượng thuốc BVTV đối với hàng nông sản. Trình độ nhận thức của nông dân còn hạn chế nên việc sử dụng phân bón, thuốc BVTV, thuốc bảo quản còn nhiều bất cập; nhiều nơi, nhất là các vùng ven đô thị đã xây dựng được các vùng rau, quả “an toàn” nhưng số lượng còn nhỏ bé, chưa thiết lập được mạng lưới kiểm soát, chứng nhận nên vẫn chưa khuyến khích phát triển sản xuất. Trong quản lý, sản xuất kinh doanh, nhiều hợp tác xã còn lệ thuộc rất lớn vào chính quyền địa phương. Việc chuyển đổi và thành lập mới HTX còn mang nặng tính hình thức và thiếu những mô hình hoạt động có hiệu quả. Trình độ quản lý điều hành sản xuất, kinh doanh và nhận thức về HTX kiểu mới và Luật HTX của nhiều cán bộ cơ sở còn hạn chế; nhiều hợp tác xã khó khăn về cơ sở vật chất và thiếu vốn, không đủ sức cạnh tranh với tư nhân; cơ chế cho hợp tác xã vay vốn còn bất cập; thiếu cập nhật thông tin thị trường... nên hiệu quả hoạt động chưa cao. Các chính sách mới thường chậm đến với hợp tác xã, kể cả văn bản dưới luật. Các HTX nông nghiệp còn quá nhiều hạn chế và yếu kém cả về tổ chức, quản lý và hoạt động. Quá trình đổi mới các hình thức tổ chức sản xuất, tiêu thụ trong nông nghiệp, nông thôn chậm chuyển biến, thiếu tính đồng bộ. Chưa hình thành được hệ thống phân phối, kênh tiêu thụ phù hợp với nền sản xuất hàng hoá quy mô lớn, hiện đại và yêu cầu hội nhập, mở cửa thị trường. Phát triển Kinh tế trang trại còn thiếu nguồn vốn để xây dựng những kế hoạch đầu tư dài hơi nên nhiều trang trại hoạt động chưa hiệu quả, nhiều địa phương còn thiếu quy hoạch tổng thể và chưa xác định được mô hình trang trại phù hợp nên đã nảy sinh nhiều vấn đề như hệ thống cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn chưa đủ đáp ứng được nhu cầu cần thiết của các trang trại. Hơn nữa, do đầu ra còn hạn chế nên việc đầu tư chế biến, bảo quản nông sản sau thu hoạch chưa thực sự được các chủ trang trại quan tâm, dẫn đến nông sản của nhiều trang trại thiếu tính cạnh tranh so với những mặt hàng cùng loại được sản xuất với quy mô nhỏ. Phát triển kinh tế trang trại chưa thực sự đầu tư vào những sản phẩm mang tính lâu dài, những loại cây trồng mang lại hiệu quả kinh tế; chưa đầu tư có chiều sâu và thiếu định hướng lâu dài về xây dựng những mô hình sản xuất hiện đại. Công tác tổ chức triển khai, phổ biến, tuyên truyền và vận động doanh nghiệp, người dân thực hiện Quyết định 80 còn yếu, chủ yếu mới chỉ dừng lại ở cấp tỉnh, chưa được triển khai mạnh đến cấp huyện và nhất là cấp xã. Nhiều địa phương chưa chú ý đúng mức đến vai trò và tầm quan trọng của hình thức tiêu thụ nông sản thông qua hợp đồng. Việc triển khai thực hiện còn nặng về hình thức, thiếu đi sâu vào nội dung, chưa chủ động sáng tạo ban hành những chính sách cụ thể của địa phương để hỗ trợ các bên tham gia hợp đồng. Do đó, bà con nông dân và ngay cả chính quyền tại một vài địa phương chưa hiểu biết đầy đủ về chính sách liên kết ''4 nhà'', còn nhiều lúng túng trong cả khâu sản xuất và tiêu thụ. Trong sản xuất, chế biến và bảo quản nông sản, đặc biệt ngành hàng rau quả, vẫn chưa tạo được sự gắn kết chặt chẽ giữa vùng nguyên liệu và cơ sở sản xuất, bảo quản, chế biến. Do đó, chưa tận dụng được hết công suất, hiệu quả của các nhà máy đồng thời tác động làm cho giá cả hàng hoá thiếu ổn định, ảnh hưởng đến thu nhập của người sản xuất. Kết cấu hạ tầng cho vùng nguyên liệu chưa thực sự được quan tâm đầu tư. Trong lĩnh vực kinh doanh xuất khẩu nông sản các chính sách đã ban hành bước đầu đã tạo nên khung khổ pháp lý mang tính hệ thống, tạo môi trường hoạt động để kinh doanh xuất khẩu đi vào quỹ đạo của quản lý luật pháp và theo các qui luật của thị trường. Thành tựu về kinh doanh xuất khẩu nông sản thời gian qua là yếu tố quan trọng khẳng định hiệu quả của hệ thống chính sách và cơ chế đã ban hành. Tuy nhiên, trong lĩnh vực sản xuất - chế biến - lưu thông xuất khẩu rau, hoa, quả, Nhà nước, các Bộ, ngành có liên quan chưa tạo lập được cơ chế quản lý và chính sách kinh tế thực sự khuyến khích đối với người kinh doanh rau, hoa, quả nói chung, kinh doanh xuất khẩu rau, hoa, quả nói riêng như chính sách đầu tư vào lĩnh vực nghiên cứu khoa học; đầu tư cho công nghệ sau thu hoạch; chính sách khuyến khích về thuế; chính sách khuyến nông; chính sách bảo hiểm đối với lĩnh vực kinh doanh xuất khẩu rau quả... Đồng thời, chưa có các giải pháp đủ mạnh có tác dụng thúc đẩy tăng trưởng của xuất khẩu rau, hoa, quả. Những chính sách đã ban hành chung trong lĩnh vực sản xuất - lưu thông xuất khẩu nông sản vẫn còn hạn chế ở nhiều khía cạnh, cần được bổ sung nhằm khuyến khích xuất khẩu rau, hoa, quả. Bên cạnh đó, trong cam kết WTO, Việt Nam phải bỏ toàn bộ trợ cấp xuất khẩu đối với hàng nông sản ngay khi gia nhập; với các khoản hỗ trợ trong nước được duy trì ở mức 10% giá trị sản lượng như các nước đang phát triển khác trong WTO. Trước mắt, năm 2007 sẽ bỏ thưởng xuất khẩu đối với thành tích xuất khẩu và thưởng vượt kim ngạch xuất khẩu. Để phát huy lợi thế so sánh h àng nông sản trên thị trường thế giới, để thúc đẩy xuất khẩu rau, hoa quả cần phải có cơ chế quản lý và chính sách kinh tế thực sự tạo môi trường thuận lợi, khuyến khích xuất khẩu, phát huy tiềm năng của mọi thành phần kinh tế đầu tư sản xuất và tham gia xuất khẩu rau, hoa, quả. Đồng thời, thực thi đồng bộ các giải pháp kinh tế - tổ chức - kỹ thuật nhằm nâng cao hiệu quả của kinh doanh rau, hoa, quả xuất khẩu, thúc đẩy hoạt động kinh doanh xuất khẩu rau, hoa, quả phát triển. 2.6. Chính sách của Nhà nước về Thuế, các khoản phải nộp đối với công ty CNH-HĐH đất nước,nền kinh tế hội nhập mở cửa,các doanh nghiệp,công ty đều được cổ phần hoá,tự kinh doanh các mặt hàng theo đăng ký với cơ quan Nhà nước.Công ty giao nhận kho vận Ngoại thương Nghệ An cũng không nằm ngoài quy luật phát triển đó.,luôn đứng vững, đương đầu với những thách thức khó khăn.Nhà nước cũng có những chính sách hỗ trợ, ưu đải đối với các khoản thuế và thuế thu nhập của công ty nhất là từ hoạt động giao nhận các sản phẩm từ nông nghiệp.Tuy nhiên các khoản thuế phải nộp còn khá cao, ảnh hưởng đến tổng thu nhập chung của công ty. Nhà nước có những chính sách khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi ngành nghề, trong đó có sản xuất,vận chuyển,tiêu thụ các mặt hàng rau quả, đầu tư phát triển sản xuất. Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 18/2002/TT-BTC hướng dẫn thi hành Nghị định số 30/1998/NĐ-CP và Nghị định số 26/2001/NĐ-CP của Chính phủ về Luật thuế thu nhập doanh nghiệp. Theo đó, các cơ sở sản xuất thuộc lĩnh vực ngành nghề được ưu đãi đầu tư (như trồng cây ăn quả lâu năm trên đất hoang hoá đồi núi trọc, chế biến bảo quản rau quả, ứng dụng công nghệ trong sản xuất giống cây…) được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 2 năm đầu kể từ khi có thu nhập chịu thuế và được giảm 50% số thuế phải nộp trong 3 năm tiếp theo. Cơ sở sản xuất mới thành lập thuộc các lĩnh vực ngành nghề ưu tiên đầu tư ở các tỉnh miền núi được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 4 năm đầu và giảm 50% số thuế phải nộp trong thời hạn từ 7 đến 9 năm; nếu phát sinh lỗ, doanh nghiệp còn được chuyển lỗ trong vòng 5 năm. - Về Thuế VAT: Để khuyến khích tiêu thụ nông sản, các doanh nghiệp được miễn thuế VAT và thuế thu nhập doanh nghiệp trên khâu lưu thông theo Thông tư số 91/2000/TT-BTC ngày 06/9/2000 của Bộ Tài chính về hướng dẫn thi hành Nghị quyết 09/2000/NQ-CP ngày 15/6/2000 của Chính phủ. - Về Thuế sử dụng bến bãi cho các sản phẩm từ nông nghiệp: Nghị định số 129/2003/NĐ-CP ngày 03/11/2003 của Chính phủ đã quy định chi tiết thi hành Nghị quyết số 15/2003/QH11,ngày 17/6/2003 của Quốc hội về miễn, giảm thuế sử dụng đất vào m ục đ ích kinh doanh bến bãi cho các sản phẩm từ nông nghiệp. Các hộ nghèo, hộ sản xuất nông nghiệp ở các xã đặc biệt khó khăn được miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp trên toàn bộ diện tích đất sản xuất nông nghiệp; người nông dân được Nhà nước giao đất sản xuất nông nghiệp, xã viên hợp tác xã… nhận đất giao khoán ổn định để sản xuất nông nghiệp đều được miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp trong hạn mức; người nông dân được quyền đóng góp ruộng đất của mình để thành lập Hợp tác xã sản xuất nông nghiệp theo Luật Hợp tác xã. - Các chính sách tài chính khác của Nhà nước đối với các Doanh nghiệp: Với Quyết định số 80/2002/QĐ-TTg ngày 24/6/2002 của Thủ tướng Chính phủ về một số chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hoá thông qua hợp đồng, người sản xuất và kinh doanh nông sản, trong đó có rau quả, được đảm bảo đủ nhu cầu vay vốn và tạo thuận lợi về thủ tục vay vốn ngân hàng (thế chấp bằng tài sản hình thành từ vốn vay, vay vốn bằng tín chấp, vay theo dự án sản xuất kinh doanh có hiệu quả)… Nhà nước luôn quan tâm ưu tiên cung cấp đầu tư cho các doanh nghiệp. Ngành Ngân hàng có nhiều cải tiến nhằm tạo thuận lợi về cho vay đối với người sản xuất và các doanh nghiệp, tăng hỗ trợ thông qua Ngân hàng chính sách xã hội để giúp người nghèo và các đối tượng chính sách đầu tư phát triển sản xuất, cải thiện đời sống. - Về Thuế thu nhập doanh nghiệp: Nhà nước có những chính sách khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi ngành nghề, trong đó có sản xuất rau quả, đầu tư phát triển sản xuất. Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 18/2002/TT-BTC hướng dẫn thi hành Nghị định số 30/1998/NĐ-CP và Nghị định số 26/2001/NĐ-CP của Chính phủ về Luật thuế thu nhập doanh nghiệp. Theo đó, các cơ sở sản xuất thuộc lĩnh vực ngành nghề được ưu đãi đầu tư (như trồng cây ăn quả lâu năm trên đất hoang hoá đồi núi trọc, chế biến bảo quản rau quả, ứng dụng công nghệ trong sản xuất giống cây…) được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 2 năm đầu kể từ khi có thu nhập chịu thuế và được giảm 50% số thuế phải nộp trong 3 năm tiếp theo. Cơ sở sản xuất mới thành lập thuộc các lĩnh vực ngành nghề ưu tiên đầu tư ở các tỉnh miền núi được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 4 năm đầu và giảm 50% số thuế phải nộp trong thời hạn từ 7 đến 9 năm; nếu phát sinh lỗ, doanh nghiệp còn được chuyển lỗ trong vòng 5 năm. - Về Thuế VAT: Để khuyến khích tiêu thụ nông sản, các doanh nghiệp được miễn thuế VAT và thuế thu nhập doanh nghiệp trên khâu lưu thông theo Thông tư số 91/2000/TT-BTC ngày 06/9/2000 của Bộ Tài chính về hướng dẫn thi hành Nghị quyết 09/2000/NQ-CP ngày 15/6/2000 của Chính phủ. - Về Thuế sử dụng đất nông nghiệp: Nghị định số 129/2003/NĐ-CP ngày 03/11/2003 của Chính phủ đã quy định chi tiết thi hành Nghị quyết số 15/2003/QH11,ngày 17/6/2003 của Quốc hội về miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp. Các hộ nghèo, hộ sản xuất nông nghiệp ở các xã đặc biệt khó khăn được miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp trên toàn bộ diện tích đất sản xuất nông nghiệp; người nông dân được Nhà nước giao đất sản xuất nông nghiệp, xã viên hợp tác xã… nhận đất giao khoán ổn định để sản xuất nông nghiệp đều được miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp trong hạn mức; người nông dân được quyền đóng góp ruộng đất của mình để thành lập Hợp tác xã sản xuất nông nghiệp theo Luật Hợp tác xã. - Các chính sách tài chính khác: Với Quyết định số 80/2002/QĐ-TTg ngày 24/6/2002 của Thủ tướng Chính phủ về một số chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hoá thông qua hợp đồng, người sản xuất và kinh doanh nông sản, trong đó có rau quả, được đảm bảo đủ nhu cầu vay vốn và tạo thuận lợi về thủ tục vay vốn ngân hàng (thế chấp bằng tài sản hình thành từ vốn vay, vay vốn bằng tín chấp, vay theo dự án sản xuất kinh doanh có hiệu quả)… Để đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn, Nhà nước luôn quan tâm ưu tiên cung cấp tín dụng đầu tư cho các địa phương. Ngành Ngân hàng có nhiều cải tiến nhằm tạo thuận lợi về cho vay đối với người sản xuất và các doanh nghiệp ở nông thôn, tăng hỗ trợ thông qua Ngân hàng chính sách xã hội để giúp người nghèo và các đối tượng chính sách đầu tư phát triển sản xuất, cải thiện đời sống. 2.7. Hệ thống sản phẩm và dịch vụ và trình tự giao nhập hàng xuất nhập khẩu. Trình tự giao hàng xuất khẩu *Ðối với hàng xuất khẩu phải lưu kho, bãi của cảng Việc giao hàng gồm 2 bước lớn: chủ hàng ngoại thương (hoặc người cung cấp trong nước) giao hàng xuất khẩu cho cảng, sau đó cảng tiến hành giao hàng cho tàu. Giao hàng XK cho cảng: - Giao Danh mục hàng hoá XK ( Cargo List) và đăng ký với phòng điều độ để bố trí kho bãi và lên phương án xếp dỡ - Chủ hàng liên hệ với phòng thương vụ để ký kết hợp đồng lưu kho, bốc xếp hàng hoá với cảng - Lấy lệnh nhập kho và báo với hải quan và kho hàng, - Giao hàng vào kho, bãi của cảng. - Giao hàng XK cho tàu: - Chuẩn bị trước khi giao hàng cho tàu: + Kiểm nghiệm, kiểm dịch (nếu cần), làm thủ tục hải quan + Báo cho cảng ngày giờ dự kiến tàu đến (ETA), chấp nhận Thông báo sẵn sàng + Giao cho cảng Danh mục hàng hoá XK để cảng bố trí phương tiện xếp dỡ. Trên cơ sở Cargo List này, thuyền phó phụ trách hàng hoá sẽ lên Sơ đồ xếp hàng + Ký hợp đồng xếp dỡ với cảng, - Tổ chức xếp và giao hàng cho tàu. + Trước khi xếp phải vận chuyển hàng từ kho ra cảng, lấy lệnh xếp hàng, ấn định số máng xếp hàng, bố trí xe và công nhân và người áp tải (nếu cần) + Tiến hành giao hàng cho tàu. Việc xếp hàng lên tàu do công nhân cảng làm. Hàng sẽ được giao cho tàu dưới sự giám sát của đại diện. Trong quá trình giao hàng, nhân viên kiểm đếm của cảng phải ghi số lượng hàng giao . Phía tàu cũng có nhân viên kiểm đếm và ghi kết quả. + Khi giao nhận một lô hoặc toàn tàu, cảng phải lấy Biên lai thuyền phó để lập vận đơn. Sau khi xếp hàng lên tàu, căn cứ vào số lượng hàng đã xếp ghi trong Tally Sheet, cảng sẽ lập Bản tổng kết xếp hàng lên tàu (General Loading Report) và cùng ký xác nhận với tàu. Ðây cũng là cơ sở để lập B/L. - Lập bộ chứng từ thanh toán. Căn cứ vào hợp đồng mua bán và L/C, cán bộ giao nhận phải lập hoặc lấy các chứng từ cần thiết để tập hợp thành bộ chứng từ thanh toán, xuất trình cho ngân hàng để thanh toán tiền hàng. Bộ chứng từ thanh toán theo L/C thường gồm: B/L. hối phiếu, hoá đơn thương mại, giấy chứng nhận phẩm chất, Giấy chứng nhận xuất xứ, phiếu đóng gói, giấy chứng nhận trọng lượng, số lượng.. - Thông báo cho người mua về việc giao hàng và mua bảo hiểm cho hàng hoá nếu cần. - Thanh toán các chi phí cần thiết cho cảng như chi phí bốc hàng, vận chuyển, bảo quản, lưu kho. Tính toán thường phạt xếp dỡ, nếu có *Ðối với hàng hóa không lưu kho bãi tại cảng Ðây là các hàng hoá XK do công ty vận chuyển từ các kho riêng của mình hoặc từ phương tiện vận tải của mình để giao trực tiếp cho tàu . Các bước giao nhận cũng diễn ra như đối với hàng qua cảng. Sau khi đã đăng ký với cảng và ký kết hợp đồng xếp dỡ, hàng cũng sẽ được giao nhận trên cơ sở tay ba ( cảng, tàu và công ty). Số lượng hàng hoá sẽ được giao nhận, kiểm đếm và ghi vào Tally Sheet có chữ ký xác nhận của ba bên. *Ðối với hàng XK đóng trong container Nếu gửi hàng nguyên( FCL/FCL) - Công ty hoặc người được công ty uỷ thác điền vào Booking Note và đưa cho đại diện hãng tàu hoặc đại lý tàu biển để xin ký cùng với Danh mục hàng XK. - Sau khi ký Booking Note, hãng tàu sẽ cấp lệnh giao vỏ container để chủ hàng mượn và giao Packing List và Seal; - Chủ hàng lấy container rỗng về địa điểm đóng hàng của mình - Chủ hàng mời đại diện hải quan, kiểm nghiệm, kiểm dịch, giám định( nếu có) đến kiểm tra và giám sát việc đóng hàng vào container. Sau khi đóng xong, nhân viên hải quan sẽ niêm phong kẹp chì container. Chủ hàng điều chỉnh lại Packing List và Cargo List, nếu cần; - Chủ hàng vận chuyển và giao container cho tàu tại CY quy định hoặc hải quan cảng, trước khi hết thời gian quy định  ( closing time) của từng chuyến tàu ( thường là 8 tiếng trước khi bắt đầu xếp hàng) và lấy Mate's Receipt; - Sau khi hàng đã được xếp lên tàu thì mang Mate's Receipt để đổi lấy vận đơn. Nếu gửi hàng lẻ (LCL/LCL) - Công ty gửi Booking Note cho hãng tàu hoặc đại lý của hãng tàu, cung cấp cho họ những thông tin cần thiết về hàng xuất khẩu. Sau khi Booking Note được chấp nhận, công ty sẽ thoả thuận với hãng tàu về ngày, giờ, địa điểm giao nhận hàng; - Công ty hoặc người được công ty uỷ thác mang hàng đến giao cho người chuyên chở hoặc đại lý tại CFS hoặc ICD - Công ty mời đại diện hải quan để kiểm tra, kiểm hoá và giám sát việc đóng hàng vào container của người chuyên chở hoặc người gom hàng. Sau khi hải quan niêm phong, kẹp chì container, công ty hoàn thành nốt thủ tục để bốc container lên tàu và yêu cầu cấp vận đơn, - Người chuyên chở xếp container lên tàu và vận chuyển đến nơi đến; - Tập hợp bộ chứng từ để thanh toán Phương thức gửi hàng lẻ được sử dụng khi người gửi hàng không đủ lượng hàng để xếp đầy một container. Quy trình - Công ty đóng nhiều lô hàng lẻ của các chủ hàng khác nhau vào cùng một container bằng chi phí của mình. - Người vận chuyển xếp container lên tàu. - Tại cảng đến, đại lý giao nhận nhận container được dỡ từ tàu xuống, vận chuyển về trạm làm hàng lẻ để rút hàng. - Các lô hàng được tách ra riêng biệt và giao cho người nhận ( người NK) Trách nhiệm của các bên: * Người gửi hàng: - Vận chuyển hàng từ kho hay nơi chứa hàng của mình đến trạm làm hàng lẻ của cảng gửi giao cho người gom hàng và phải chịu chi phí vận chuyển này. - Chuyển các chứng từ cần thiết liên quan đến thương mại, vận tải, thủ tục xuất khẩu cho người gom hàng. - Nhận vận đơn và trả cước hàng lẻ. * Người nhận hàng: - Xin giấy phép nhập khẩu và làm thủ tục hải quan cho lô hàng. - Xuất trình vận đơn hợp lệ cho người nhận hàng. - Nhanh chóng nhận hàng tại trạm CFS. * Người vận chuyển hàng lẻ: Có thể là người vận chuyển thực sự tức hãng tàu hoặc có thể là người thầu vận chuyển hàng lẻ nhưng lại không có tàu. - Người vận chuyển thực sự ( hãng tàu) vận chuyển hàng lẻ với tư cách người gom hàng, ký phát vận đơn thực cho người gửi hàng, xếp hàng lên tàu, chuyên chở đến cảng đích và dỡ hàng xuống cảng, giao hàng cho người nhận tại trạm CFS cảng đến. - Người thầu vận chuyển hàng lẻ thường do công ty giao nhận đảm trách với tư cách người gom hàng, là người chuyên chở theo hợp đồng vận chuyển chứ không phải là đại lý . Người thầu vận chuyển hàng lẻ chịu trách nhiệm suốt quá trình vận chuyển hàng từ khi nhận hàng tại cảng gửi đến khi giao trả hàng xong tại cảng đích. Vận đơn họ ký phát cho người gửi hàng có thể là vận đơn tập thể hoặc vận đơn do Hiệp hội những người giao nhận quốc tế soạn thảo nếu họ là thành viên của hội này. *Trình tự nhận hàng nhập khẩu Ðối với hàng phải lưu kho, lưu bãi tại cảng Cảng nhận hàng từ tàu: - Trước khi dỡ hàng, tàu hoặc đại lý phải cung cấp cho cảng Bản lược khai hàng hoá , sơ đồ hầm tàu để cảng và các cơ quan chức năng khác như Hải quan, Ðiều độ, cảng vụ tiến hành các thủ tục cần thiết và bố trí phương tiện làm hàng;  - Cảng và đại diện tàu tiến hành kiểm tra tình trạng hầm tàu. Nếu phát hiện thấy hầm tàu ẩm ướt, hàng hoá ở trong tình trạng lộn xộn hay bị hư hỏng, mất mát thì phải lập biên bản để hai bên cùng ký. Nếu tàu không chịu ký vào biên bản thì mời cơ quan giám định lập biên bản mới tiến hành dỡ hàng  - Dỡ hàng bằng cần cẩu của tàu hoặc của cảng và xếp lên phương tiện vận tải để đưa về kho, bãi. Trong quá trình dỡ hàng, đại diện tàu cùng cán bộ giao nhận cảng kiểm đếm và phân loại hàng hoá cũng như kiểm tra về tình trạng hàng hoá và ghi vào Tally Sheet;  - Hàng sẽ được xếp lên ô tô để vận chuyển về kho theo phiếu vận chuyển có ghi rõ số lượng, loại hàng, số B/L;  - Cuối mỗi ca và sau khi xếp xong hàng, cảng và đại diện tàu phải đối chiếu số lượng hàng hoá giao nhận và cùng ký vào Tally Sheet;  - Lập Bản kết toán nhận hàng với tàu ( ROROC) trên cơ sở Tally Sheet. Cảng và tàu đều ký vào Bản kết toán này, xác nhận số lương thực giao so với Bản lược khai hàng (Cargo Manifest) và B/L; - Lập các giấy tờ cần thiết trong quá trình giao nhận như Giấy chứng nhận hàng hư hỏng (COR) nếu hàng bị hư hỏng hay yêu cầu tàu cấp Phiếu thiếu hàng (CSC), nếu tàu giao thiếu. Cảng giao hàng cho chủ hàng:  - Khi nhận được thông báo hàng đến, chủ hàng phải mang vận đơn gốc, giấy giới thiệu của cơ quan đến hãng tàu để nhận lệnh giao hàng. Hãng tàu hoặc đại lý giữ lại vận đơn gốc và trao 3 bản D/O cho người nhận hàng;  - Chủ hàng đóng phí lưu kho, phí xếp dỡ và lấy biên bản; - Chủ hàng mang biên lai nộp phí, đến văn phòng quản lý tàu tại cảng để ký xác nhận  và tìm vị trí hàng, tại đây lưu 1 bản ;  - Chủ hàng mang 2 bản còn lại đến bộ phận kho vận để làm phiếu xuất kho. Bộ phận này giữ một và làm hai phiếu xuất kho cho chủ hàng; Chủ hàng làm thủ tục hải quan Sau khi hải quan xác nhận hoàn thành thủ tục hải quan chủ hàng có thể mang ra khỏi cảng và chở hàng về kho riêng.  Ðối với hàng không lưu kho, bãi tại cảng Khi chủ hàng có khối lượng hàng hoá lớn chiếm toàn bộ hầm hoặc tàu hoặc hàng rời như phân bón, xi măng, clinker, than quặng, thực phẩm...thì chủ hàng hoặc người được công ty ủy thác có thể đứng ra giao nhận trực tiếp với tàu. Trước khi nhận hàng, công ty phải hoàn tất các thủ tục hải quan và trao cho cảng B/L, lệnh giao hàng( D/O). Sau khi đối chiếu với Bản lược khai hàng hoá , cảng sẽ lên hoá đơn cước phí bốc xếp và cấp lệnh giao hàng thẳng để chủ hàng trình cán bộ giao nhận cảng tại tàu để nhận hàng. Sau khi nhận hàng, công ty và giao nhận cảng cùng ký bản tổng kết giao nhận và xác nhận số lượng hàng hoá đã giao nhận bằng Phiếu giao hàng kiêm phiếu xuất kho.  Ðối với hàng nhập bằng container *Nếu là hàng nguyên  - Khi nhận được thông báo hàng đến , công ty mang B/L gốc và giấy giới thiệu đến hãng tàu để lấy D/O;  - Công ty mang D/O đến hải quan làm thủ tục và đăng ký kiểm hoá,công ty có thể đề nghị đưa cả container về kho riêng hoặc ICD để kiểm tra hải quan; - Sau khi hoàn thành thủ tục hải quan, công ty mang toàn bộ chứng từ nhận hàng cùng D/O đến Văn phòng quản lý tàu xác nhận D/O; - Lấy phiếu xuất kho và nhận hàng.  Nếu là hàng lẻ( LCL/LCL) Công ty mang vận đơn gốc hoặc vận đơn gom hàng đến hãng tàu hoặc đại lý của người gom hàng để lấy D/O, sau đó nhận hàng tại CFS quy định và làm các thủ tục như trên Trên đây là tổng kết đánh giá toàn bộ những hoạt động của Chi nhánh Vietrans Nghệ An(Trực thuộc Tổng công ty giao nhận kho vận Ngoại thương-Bộ Th ương Mại) trong năm 2007 và phương hướng phát triển kinh doanh năm 2008 Chi nhánh đã luôn nhận được sự quan tâm giúp đỡ của Tổng Giám đốc công ty,lãnh đạo Công ty,các Phòng chức năng Công ty để Chi nhánh tiếp tục hoàn thành chỉ tiêu,kế hoạch trong những năm tiếp theo. CHƯƠNG 3: MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ TRONG HOẠT ĐỘNG VẬN CHUYỂN HÀNG NÔNG-LÂM-THUỶ SẢN Ở CÔNG TY GIAO NHẬN KHO VẬN NGOẠI THƯƠNG NGHỆ AN 3.1. Phương hướng mục tiêu Góp phần vào tình hình phát triển chung của Công ty giao nhận kho vận ngoại thương Nghệ An và nâng cao hiệu quả của công ty về đổi mới công tác quản lý.Tăng hiệu quả lợi ích kinh doanh. 3.2. Hoàn thiện hệ thống cung cấp dịch vụ trong quá trình vận chuy ển hàng nông sản xuất khẩu 3.2.1 Một là, phát triển và mở rộng nguồn hàng vận chuyển nông sản xuất khẩu đi đôi với lựa chọn các mặt hàng chủ lực. Việc mở rộng mặt hàng vận chuyển nông sản xuất khẩu đòi hỏi phải thực hiện đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp theo hướng đất nào cây ấy, khí hậu nào, vùng nào cây con ấy. Mục tiêu chủ yếu của đa dạng hoá hàng vận chuyển nông sản là nhằm khai thác tối đa tiềm năng v ận chuyển và tạo ra nguồn hàng xuất khẩu với qui mô lớn, chủng loại sản phẩm phong phú để có thể dễ dàng hơn trong việc tiếp cận thị trường thế giới. Cùng với việc phát triển đa dạng mặt hàng vận chuyển xuất khẩu phải xác định được các mặt hàng mà công ty vận chuyển thuận l ợi , đầu tư phát triển theo chiều sâu nhằm tạo mặt hàng vận chuyển xuất khẩu chủ lực. Trước mắt, khi trình độ công nghệ còn thấp và vốn còn ít thì về căn bản công ty phải tập trung khai thác lợi thế của công ty, tức lợi thế về nguồn tài nguyên tự nhiên và lao động sẵn có, trong đó hướng ưu tiên hàng đầu cần dành cho những sản phẩm vận chuyển kết hợp được cả hai yếu tố: Cần ít vốn và sử dụng ít lao động như: Gạo, rau quả, cà phê, cao su , thuỷ hải sản ... Với những sản phẩm này, ưu việt của chúng là vừa cung cấp đầu vào cho công nghiệp chế biến, nhưng cũng vừa có thể xuất khẩu thô khi chưa tạo đủ năng lực chế biến. Còn trong tương lai, khi những sản phẩm này mất dần lợi thế thì dĩ nhiên sẽ chuyển sang những sản phẩm có lợi thế "động", tức những sản phẩm vận chuyển có hàm lượng kỹ thuật và công nghệ cao. Muốn vậy, cần tính toán một cách kỹ lưỡng để đầu tư xây dựng một cách hợp lý đối với toàn bộ quá trình bảo quản, vận chuyển và dịch vụ. Chú trọng đầu tư đồng bộ giữa các khâu, nâng nhanh tỷ trọng sản phẩm v ận chuyển xuất khẩu có giá trị gia tăng cao. Việc lựa chọn mặt hàng vận chuyển xuất khẩu chủ lực phải căn cứ vào điều kiện sản xuất và năng lực cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường thế giới. Tuy nhiên, các mặt hàng vận chuyển xuất khẩu chủ yếu chỉ là lương thực, thực phẩm, mà trên thị trường thế giới giá vận chuyển những mặt hàng này ngày càng thấp, thậm chí có thời kỳ giảm, do đó, cho dù sản lượng hàng vận chuyển xuất khẩu của c ông ty có tăng lên thì giá trị kim ngạch vẫn nhỏ. Cho nên, trong thời gian tới, ngoài những mặt hàng xuất khẩu này, công ty cần phải tạo thêm những mặt hàng phi lương thực thực phẩm có nguồn gốc từ nông, lâm nghiệp 3.2.2.Hai là, nâng cao sức cạnh tranh của quá trình vận chuyển hàng hoá Chủ động nắm bắt các thông tin thị trường một cách cập nhật. công ty phải vươn lên sử dụng các phương tiện thông tin hiện đại, sử dụng hệ thống thương mại điện tử phục vụ cho hoạt động giao dịch, kinh doanh của mình. Khi biết được thông tin rồi, công ty phải chủ động tham gia các hoạt động xúc tiến thương mại, tiến tới ký kết những hợp đồng tiêu thụ có lợi nhất; Nâng cao tỷ trọng hàng hoá chế biến tinh và sâu trong kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản. Việc xuất khẩu nông sản thô đã dẫn đến tình trạng sản lượng hàng hoá xuất khẩu tăng lên nhưng kim ngạch tăng không tương xứng, thậm chí có lúc còn giảm xuống. Để tồn tại và phát triển trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt và tiến bộ KH – CN diễn ra với tốc độ ngày càng nhanh chóng, đòi hỏi các đơn vị kinh doanh hàng nông sản xuất khẩu phải phát triển mạnh công nghiệp chế biến theo hướng hiện đại và đa dạng. Trang bị các công nghệ hiện đại để làm sạch sản phẩm, bảo đảm tiêu chuẩn quốc tế. 3.2.3.Ba là, cải tiến tổ chức hoạt động vận chuyển hàng hoá xuất khẩu Phát triển xuất khẩu trở thành ngành mũi nhọn không chỉ có ý nghĩa làm tăng kim ngạch, tạo nguồn ngoại tệ cho kinh tế của công ty, mà còn khai thác được nguồn tài nguyên sẵn có, tạo được nhiều việc làm, tăng thu nhập và cải thiện đời sống cho cán bộ công nhân viên . Muốn vậy, cần tổ chức tốt các hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật, bồi dưỡng kiến thức về xuất nhập khẩu cho thương nhân. Lựa chọn một số doanh nghiệp thương mại nhà nước, các công ty thương mại lớn liên kết chặt chẽ với tổng công ty của Trung ương, hỗ trợ đầu tư để tạo ra những chủ thế mạnh, làm nòng cốt hợp tác rộng rãi, lôi kéo các cơ sở sản xuất kinh doanh tham gia hoạt động xuất khẩu trong các mô hình tổ chức thích hợp như Hiệp hội ngành nghề. Công ty mẹ - công ty con, cơ sở đầu mối và các tổ chức vệ tinh. Đối với từng nhóm hàng cần phải có một đơn vị đóng vai trò trung tâm chịu trách nhiệm chính nhằm qui tụ, hướng dẫn các thành viên khác cùng hoạt động theo quĩ đạo chung. Cụ thể là: đối với nhóm hàng nông, lâm, thủy sản thì các công ty xuất nhập khẩu của tỉnh phải làm nòng cốt, tổ chức các công ty con liên kết với các doanh nghiệp, các hợp tác xã, các hộ trang trại để hợp đồng hỗ trợ đầu tư, chuyển giao công nghệ, bao tiêu sản phẩm, chế biến và xuất khẩu hàng hoá; Đối với nhóm hàng thủy sản thì đóng vai trò nòng cốt phải là công ty xuất nhập khẩu thuỷ sản của mỗi tỉnh. Các công ty này phải chịu trách nhiệm chủ yếu liên kết với các cơ sở nuôi trồng, khai thác và chế biến thủy sản, thông qua Hiệp hội thủy sản để hỗ trợ đầu tư, chuyển giao công nghệ, hợp đồng bao tiêu nguyên liệu, chế biến và xuất khẩu thủy sản; Nhanh chóng xây dựng và đăng ký thương hiệu hàng hoá với các nước trên thế giới 3.3.Đổi mới trang thiết bị vận chuyển hàng hoá của công ty nâng cao chất lượng vận chuyển và đa dạng hóa phương thức vận chuyển các mặt hàng nông-lâm thuỷ sản - Đẩy mạnh đầu tư chiều sâu,mua sắm thêm xe phương tiện vận chuyển, đổi mới công nghệ, trang thiết bị để nâng cao năng lực sản xuất, tận dụng tối đa năng lực đã đầu tư để sản xuất máy và thiết bị phụ tùng cung cấp cho vận chuyển nông, lâm, thuỷ sản. Các trang thiết bị này cần sử dụng luân chuyển một cách hợp lý để nâng cao năng suất,hiệu quả sử dụng.Phát triển mạng lưới cung ứng máy và thiết bị, phụ tùng thay thế, vật tư…, làm tốt công tác bảo hành và các dịch vụ sau bán hàng. Tạo điều kiện tốt cho các thành phần cở sở nhỏ cùng tham gia để mở rộng mạng lưới cung ứng . 3.4. Đào tạo đội ngũ cán bộ của công ty .Chi nhánh đã mạnh dạn tiếp nhận và đào tạo,bồi dưỡng nghiệp vụ cho các đồng chí còn trẻ vừa mới ra trường,trẻ hoá đội ngũ cán bộ,tuổi trung bình tại Chi nhánh là 30 tuổi.Mọi chế độ chính sách của Đảng,pháp luật của Nhà nước và các quy chế của công ty được chi nhánh triển khai và thực hiện đúng, đầy đủ. Đào tạo đội ngũ cán bộ của công ty, đây là nhiệm vụ mà ban lãnh đạo công ty luôn quan tâm,nhất là cán bộ quản lý, cán bộ khoa học kỹ thuật và công nhân có tay nghề làm việc trong ngành. Công tác cán bộ được chi nhánh đặc biệt quan tâm, đây là một trong những yếu tố quan trọng nhất để thực hiện hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch được giao.Thu nhập của người lao động ổn định,CBCNV yên tâm công tác phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ được giao. Công tác thi đua khen thưởng được thực hiện suốt trong quá trình sản xuất kinh doanh,hàng tháng,hàng quý đều bình xét khen thưởng đúng mức cho CBCNV nên tạo được không khí phấn đấu vươn lên trong công việc,cuối năm Chi nhánh đã bình xét được một số đồng chí có thánh tích xuất sắc để đề nghị Công ty và Bộ Thương Mại khen thưởng. Công tác phòng cháy chữa cháy,phòng chống bão lụt,bảo vệ cơ quan đều được thực hiện nghiêm túc,trong thời gian qua không có một vụ việc nào xấu xảy ra, đảm bảo an toàn lao động sản xuất kinh doanh. Chi nhánh tạo điều kiện tốt cho các đồng chí cán bộ học thêm các lớp về nghiệp vụ,chuyên môn thường xuyên tiếp xúc với các bạn hàng học hỏi kinh nghiệm,nâng cao nghiệp vụ,kỹ năng khai thác thị trường quyết tâm hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. 3.5.Liên kết chặt chẽ giữa người cung ứng sản phẩm nông nghiệp với Công ty Vietrans Nghệ An và với các đối tác nhận hàng cung ứng trong giao nhận kho vận Trong quá trình kinh doanh,ban lãnh đạo công ty luôn có những quyết sách tốt nhất để thúc đảy công ty phát triển.Liên kết để tạo mối quan hệ bạn hàng lâu dài là trong những giải pháp tạo thế mạnh rất lớn cho công ty nhằm liên kết giữ người cung cấp các sản phẩm cho Công ty,công ty sẽ đáp ứng nhu cầu về vận chuyển tốt nhất đảm bảo đến đối tác nhận hàng hoá Tiếp tục rà soát quy hoạch các vùng nguyên liệu nông, lâm, thuỷ sản, xây dựng vùng nguyên liệu tập trung với năng suất chất lượng cao, giá thành hạ, đảm bảo cung cấp ổn định nguyên liệu.Tạo mối liên kết chặt chẽ này nhằm thu nguồn hàng lớn trong công tác thâu vận. Phát triển các cơ sở chế biến nông, lâm, thuỷ sản phải gắn với quy hoạch và quy mô phát triển vùng nguyên liệu. Đầu tư phát triển các cơ sở chế tạo thiết bị phục vụ công nghiệp chế biến Để tạo điều kiện cho hoạt động của các Hiệp hội, cần có văn bản pháp quy của Nhà nước quy định cơ chế phối hợp hoạt động giữa các Bộ ngành liên quan với các Hiệp hội, giữa các Hiệp hội với nhau và giữa các thành viên trong Hiệp hội. Chính sách liên kết trong sản xuất theo mô hình - Đẩy mạnh liên kết 4 nhà, gồm: Nhà nông, nhà doanh nghiệp, nhà khoa học và nhà nước trong sản xuất kinh doanh sản phẩm nông lâm thuỷ sản chế biến. - Mô hình liên kết Hiệp hội: Tăng cường năng lực cho các Hiệp hội ngành hàng để làm vai trò thống nhất hành động giữa các thành viên trong sản xuất, kinh doanh, xúc tiến thương mại... - Mô hình liên kết Hợp tác: Trong bối cảnh sản xuất hàng hoá phát triển, sự cạnh tranh trong kinh tế thị trường gay gắt, việc liên doanh, liên kết sẽ tạo điều kiện cho các hợp tác xã nâng cao năng lực, sản xuất theo quy hoạch và có kế hoạch; tiết kiệm được mức chi phí sản xuất dẫn đến giảm giá thành sản phẩm; tạo khả năng cạnh tranh để thúc đẩy sản xuất phát triển; ổn định giá cả ngay từ đầu vụ thông qua việc thực hiện các hợp đồng kinh tế chính thức... Trong quá trình hội nhập kinh tế, hàng hoá và dịch vụ xuất, nhập khẩu có khả năng cạnh tranh cao về giá cả và chất lượng, sức mua của các khu vực ngày càng tăng, các HTX sẽ là đầu mối quan trọng liên kết nhiều công đoạn của quá trình sản xuất, tiêu thụ. Do đó công ty cần chủ động tiếp cận các , các hợp tác xã NN và đầu tư theo hướng vừa liên kết, vừa cạnh tranh, từng bước phát triển các liên hiệp hợp tác xã với quy mô và hình thức đa dạng như liên kết tổ chức sản xuất, bảo quản giống cây trồng; liên kết sản xuất - tiêu thụ sản phẩm...Để việc liên kết đạt hiệu quả, trước hết cần có sự thay đổi tư duy của cán bộ quản lý để khuyến khích và tạo thuận lợi cho việc phát triển các hình thức liên kết hợp tác. Nhanh chóng thành lập Quĩ hỗ trợ phát triển HTX nhằm hỗ trợ các HTX đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động, thúc đẩy hình thành các mô hình liên kết HTX... Thông qua Quỹ, chính sách hỗ trợ khuyến khích của Nhà nước đối với HTX sẽ tập trung hỗ trợ cho các hoạt động như: đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý HTX - Mô hình liên kết vệ tinh với vai trò lãnh đạo là các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu: Để phát triển mạng lưới hàng hoá quy mô lớn, đa dạng, có năng suất và chất lượng cao, định hướng thị trường, cần đẩy mạnh tiêu thụ thông qua hợp đồng giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế và công ty (hợp tác xã, hộ nông dân, trang trại hoặc đại diện hộ nông dân),. Do đó, cần chủ động, tích cực triển khai ký kết hợp đồng với người sản xuất, tạo nên sự tin cậy giữa hai bên, gắn kết chặt chẽ trách nhiệm và quyền lợi mỗi bên trong việc thực hiện hợp đồng; gắn sản xuất với bảo quản, sơ chế, chế biến hàng hoá, tạo ra vùng nguyên liệu ổn định để đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu. Dựa trên điều kiện sinh thái của từng vùng, các cơ quan có thẩm quyền ở địa phương quy hoạch lại vùng sản xuất, xác định để phát triển các loại rau, hoa, quả có tiềm năng, đem lại giá trị cao và đáp ứng nhu cầu tiêu dùng. Trên cơ sở đó, các doanh nghiệp ký kết hợp đồng với người sản xuất ngay từ đầu vụ với nhiều hình thức như: ứng trước vốn, vật tư nông nghiệp (giống, phân bón, thuốc BVTV...), hỗ trợ về công nghệ bảo quản, sơ chế và mua lại rau quả hàng hoá; Công ty và nông dân cần nhận thức rõ được tầm quan trọng của sự liên kết để tạo ra sản phẩm chất lượng cao, giá thành hạ là con đường duy nhất để tồn tại trong nền kinh tế hội nhập, trước sự cạnh tranh hết sức gay gắt về chất lượng và giá cả của thị trường rau, quả trong khu vực và thế giới. Về tài chính, tín dụng, tạo điều kiện cho người sản xuất ký hợp đồng tiêu thụ sản phẩm được vay vốn từ các ngân hàng thương mại để đầu tư phát triển sản xuất; Cải tiến thủ tục vay vốn từ Quỹ Hỗ trợ phát triển để công ty được vay vốn được thuận lợi, đồng thời tăng mức vốn vay đầu tư ưu đãi từ Quỹ hỗ trợ phát triển để đầu tư xây dựng vùng nguyên liệu tập trung, tiêu thụ nông sản hàng hoá. Nghiên cứu xây dựng chế độ bảo hiểm, bảo lãnh hợp đồng, ban hành văn bản qui phạm pháp luật về chế tài xử lý tranh chấp đối với các hợp đồng thu mua nông sản thực hiện theo Quyết định 80 của Chính phủ. - Mô hình liên doanh với doanh nghiệp vốn đầu tư nước ngoài: Tiến trình hội nhập kinh tế tạo điều kiện cho hàng nông sản Việt Nam hướng mạnh ra xuất khẩu đồng thời đem lại cơ hội đổi mới công nghệ sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa. Cơ chế chính sách ngày càng đổi mới theo hướng phù hợp với các thông lệ quốc tế sẽ tạo niềm tin cho các nhà đầu tư nước ngoài tăng thêm đầu tư vào ngành nông nghiệp. Mặt khác, việc chuyển dịch cơ cấu theo hướng đa dạng hoá sản phẩm và nâng cao giá trị hàng hoá, tăng cường đầu tư xây dựng mới và nâng cấp cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn cũng mở ra những cơ hội để thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực này. Để xây dựng một nền nông nghiệp hàng hoá mạnh, đa dạng và bền vững; áp dụng khoa học kỹ thuật làm ra các sản phẩm có chất lượng và khả năng cạnh tranh cao, đáp ứng nhu cầu thị trường trong và ngoài nước, cải thiện đời sống của người nông dân, đòi hỏi phải huy động mọi nguồn lực kể cả nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Cần hướng nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào việc phát triển công nghệ sinh học để tạo ra giống mới có năng suất, chất lượng cao; đổi mới công nghệ bảo quản, chế biến để tăng giá trị nông sản hàng hoá... Các mô hình sản xuất có thể với các hình thức: huy động 100% vốn nước ngoài hoặc liên doanh giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài. Các địa phương cần chủ động xây dựng phát triển cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn để tạo địa bàn tiếp nhận vốn đầu tư nước ngoài một cách thuận lợi. Tăng cường sự liên kết giữa các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài với các doanh nghiệp trong nước để đẩy mạnh chuyển giao công nghệ nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh của ngành rau quả Viẹt Nam, đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài tích cực dùng nguyên liệu hoặc máy móc thiết bị, sản phẩm phụ trợ do các doanh nghiệp Việt Nam sản xuất . 3.6. Xây dựng hình ảnh và chiến lược của công ty Tạo hình ảnh, liên tục quảng bá sản phẩm vận chuyển chất lượng được mong đợi cho đối tác bằng hình thức quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng như:Báo, đài phát thanh,truyền hình,và qua trang web củaTtổng công ty muốn vậy ban lãnh đạo công ty cần có chiến lược,sách lựoc cụ thể,có mối quan hệ sâu rộng nhằm đưa hình ảnh công ty đến với mọi người. KẾT LUẬN Góp phần nâng cao năng lực,trình độ quản lý trong hoạt động giao nhận kho vận ngoại thương luôn là mục tiêu của công ty nhưng các giải pháp thế nào để nâng cao trình độ,năng lực của người cán bộ điều hành,các nhân viên trong công ty nhằm nâng cao chất lượng của dịch vụ,tạo uy tín với đối tác kinh doanh, đây là một câu hỏi khó không phải doanh nghiệp nào kinh doanh dịch vụ cũng làm được nhất lại là công ty vận chuyển các mặt hàng nhạy cảm,khó bảo quản như các sản phẩm từ ngành nông nghiệp.Việc tìm ra những giải pháp quản lý cho người cán bộ là việc hết sức cần thiết nhất là trong giai đoạn CNH-HĐH đất nước ta như hiện nay.Em tin với những chiến lược đúng đắn,những biện pháp phù hợp công ty giao nhận kho vận ngoại thương Nghệ An sẽ ngày nâng cao vị thế của mình trên thị trường. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa KTNN-PTNT và các anh chị trong công ty thực tập đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình KTNN trường ĐHKTQD 2. Tài liệu báo cáo tình tình sản xuất kinh doanh của Công ty giao nhận kho vận ngoại thương Nghệ An 3. Văn kiện Đại Hội Đảng Toàn Quốc 4. website: http:// www.vietrans.com MỤC LỤC Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33332.doc
Tài liệu liên quan