Chuyên đề Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của Công ty Bia Hà Nội

Với sự cạnh tranh gay gắt trong nền kinh tế thị trường hiện nay các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì phải tìm cách sử dụng vốn sao cho đạt hiệu quả cao nhất. Do đó vấn đề sử dụng vốn kinh doanh một cách có hiệu quả là hết sức thiết thực đối với doanh nghiệp. Trong phạm vi luận văn này em xin nêu ra một số giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng vốn của Công ty bia Hà Nội với những nội dung chủ yếu : * Về lý luận : Trình bày có hệ thống lý luận chung về hiệu quả sử dụng vốn. - Những vấn đề cơ bản của vốn sản xuất kinh doanh. - Vai trò của việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. - Những biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. * Về thực tiễn : - Trình bày một số đặc điểm của Công ty ảnh hưởng đến việc sử dụng vốn. - Phân tích thực trạng hiệu quả sử dụng vốn. - Đề ra một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Do thời gian và điều kiện có hạn nên nội dung luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong sự đóng góp giúp đỡ của thầy cô và các bạn. Xin chân thành cảm ơn sự nhiệt tình giúp đỡ của thầy giáo Trương Đức Lực và các cô, chú, anh chị trong phòng kế toán - tài vụ Công ty bia Hà Nội đã giúp em hoàn thành luận văn này.

doc99 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1295 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của Công ty Bia Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g ứng với tỉ lệ 6,32%, trong khi đó nguyên giá TSCĐ năm 1998 tăng 6,10% so với năm 1997.Tốc độ tăng nguyên giá TSCĐ nhỏ hơn tốc độ tăng doanh thu. Tóm lại, TSCĐ có vai trò rất quan trọng đối với việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty. Khả năng sinh lợi của TSCĐ rất cao và tăng qua các năm, Công ty cần chú trọng đổi mới TSCĐ để đảm bảo sự đồng bộ, tăng năng lực sản xuất của Công ty. 2. Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn lưu động. * Tình hình tài sản lưu động (Biểu 14). Vốn lưu động của Công ty cuối năm tăng so với đầu năm là 54.469.666.000 đồng, tương ứng với tỷ lệ 38,657%. Trong cơ cấu vốn lưu động, vốn bằng tiền chiếm tỉ lệ lớn. Đầu năm chiếm 73,029% và cuối năm chiếm 76,84%. Hàng tồn kho cuối năm tăng 2.356.528.000 đồng so với đầu năm, tương ứng với tỷ lệ 8,129%. Các bộ phận trong hàng tồn kho đều tăng, trừ công cụ dụng cụ. Riêng bộ phận thành phẩm tăng mạnh, cuối năm tăng 243,07% so với đầu năm. Các khoản phải thu cuối năm tăng 1.987.442.000 đ so với đầu năm. Trong đó khoản phải thu của khách hàng tăng mạnh với tỷ lệ 85,673%. Sự tăng lên của các bộ phận hàng tồn kho, các khoản phải thu chứng tỏ quy mô sản xuất của Công ty cuối năm tăng hơn so với đầu năm. Sự bất hợp lý trong cơ cấu tài sản lưu động là lượng vốn bằng tiền chiếm khối lượng rất lớn. Đầu năm là 102.900.533.000 đ tương ứng với tỷ lệ 73,029% và cuối năm là 150.136.158.000 đ, ứng với tỷ lệ 76,84%. Rõ ràng lượng tiền lớn hơn rất nhiều so với tồn kho, các khoản phải thu và TSLĐ khác. Lượng tiền này Đơn vị 1000 đ TSLĐ Đầu năm Cuối năm So sánh Giá trị % Giá trị % Giá trị % I - Tiền 102.900.533 73,029 150.126.158 76,840 47.225.625 45,89 1. Tiền mặt 613.129 0,435 876.292 0,448 263.163 42,92 2. Tiền gửi NH 102.287.404 72,594 149.249.866 76,392 46.962.462 45,91 II - Hàng tồn kho 28.986.881 20,572 31.343.409 16,043 2.356.528 8,129 1. Hàng đi đường 2. Nguyên vật liệu 18.911.560 13,421 18.996.792 9,723 85.232 0,451 3. Công cụ dụng cụ 2.744.363 1,948 2.242.949 1,148 -501.414 -18,271 4. Chi phí SXKD dở dang 6.341.839 4,501 6.710.293 3,435 368.454 5,809 5. Thành phẩm 989.119 0,702 3.393.375 1,737 2.404.256 243,07 III - Các khoản phải thu 4.997.442 3,547 6.984.884 3,575 1.987.442 39,769 1. Phải thu của khách hàng 1.487.788 1,056 2.762.428 1,414 1.274.640 85,673 2. Trả trước cho người bán 2.964.892 2,104 3.671.242 1,879 706.350 23,82 3. Phải thu nội bộ 500.327 0,355 500.327 0,256 0 0 4. Phải thu khác 44.435 0,032 50.887 0,026 6.452 14,52 IV-TSLĐ khác 4.018.979 2,852 6.919.050 3,541 2.900.071 72,156 Tổng cộng 140.903.835 100 195.373.501 100 54.469.666 38,657 Biểu 14 : Tài sản lưu động không được đầu tư ngắn hạn cũng như dài hạn làm giảm khả năng sinh lợi của vốn. Bộ phận TSCĐ của Công ty như đã phân tích cần phải được đầu tư đổi mới, nhưng bộ phận tài sản lưu động tồn tại lượng tiền rất lớn, và không đầu tư vào tài sản cố định. Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động phải xem xét các chỉ tiêu về vốn lưu động (biểu 15). Đơn vị 1000 đ Chỉ tiêu 1997 1998 So sánh Chênh lệch % 1. Doanh thu thuần 209.483.071 219.235.000 9.751.929 4,655 2. Vốn lưu động bình quân 109.056.417 168.138.668 59.082.251 54,176 3. Số vòng luân chuyển 1.9209 1,3039 -0,617 -32,12 4. Độ dài 1 vòng luân chuyển 187,412 276,094 88,681 -47,32 5. Hệ số đảm nhiệm 0,5206 0,7669 0,2463 47,31 Biểu 15 : Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Với các chỉ tiêu trên ta nhận định : Vòng quay vốn lưu động giảm mạnh, từ 1,9209 xuống còn 1,3039. Do vậy số ngày của 1 vòng luân chuyển tăng nhanh từ 187,412 ngày lên 276,094 ngày. Để tạo ra 1 đồng doanh thu thuần năm 1997 cần 0,5206 đồng vốn lưu động,năm 1998 cần tới 0,7669 đồng.Số vốn lưu động mà Công ty đã lãng phí so sánh năm 1998 với 1997. (276,094-187,412)=54.006.160 (nghìn đồng) Sự lãng phí này khá lớn và cho thấy việc sử dụng vốn của Công ty không được triệt để. Tốc độ luân chuyển vốn lưu động rõ ràng không phù hợp với doanh nghiệp sản xuất bia. Thời gian luân chuyển quá dài trong khi thời hạn sản xuất các loại bia là 20 ngày với bia hơi, 28 ngày với bia chai và 45 ngày với bia lon. Nguyên nhân chính là do lượng tiền mặt tồn quá lớn. Để đánh giá rõ ảnh hưởng của các bộ phận trong tài sản lưu động tới hiệu quả sử dụng vốn lưu động cần xem xét bộ phận hàng tồn kho (biểu 16). Đơn vị 1000 đ Hình thái tài sản Đầu năm Cuối năm So sánh Giá trị % Giá trị % Giá trị % 1. Hàng gửi bán 2. Nguyên vật liệu 18.911.560 65,242 18.996.792 60,609 85.232 0,451 3.Công cụ dụngcụ 2.744.363 9,468 2.242.949 7,156 -501.414 -18,27 4. SP dở dang 6.341.839 21,878 6.710.293 21,409 368.454 5,809 5. Thành phẩm 989.119 3,412 3.393.375 10,826 2.404.256 243,07 Tổng số 28.986.881 100 31.343.409 100 2.356.528 8,129 Biểu 16 : Cơ cấu hàng tồn kho Hàng tồn kho cuối năm tăng 2.356.528.000 đ so với đầu năm, tương ứng với tỷ lệ 8,129%. Các bộ phận hàng tồn kho cuối năm tăng so với đầu năm. Trong cơ cấu hàng tồn kho nguyên vật liệu chiếm tỷ trọng lớn nhất, đầu năm là 18.911.560 tương ứng 65,242%. Trong khi đó sản phẩm dở dang đầu năm là 6.341.839.000đ, cuối năm là 6.710.293.000đ, tương ứng với các tỷ lệ là 21,878% và 21,409%. Nguyên vật liệu lớn hơn sản phẩm dở dang rất nhiều trong khi quá trình sản xuất tương đối dài ngày. Như vậy nguyên vật liệu dự trữ nhiều, không hợp lý trong hàng tồn kho làm giảm tốc độ luân chuyển của vốn lưu động, tăng thêm các chi phí khác. Tình hình quản lý hàng tồn kho được phản ánh qua hệ số quay kho (biểu 17). Đơn vị 1000 đ Chỉ tiêu 1997 1998 So sánh Chênh lệch % 1. Doanh thu 394.683.050 419.617.000 2. Giá trị tồn kho trung bình 31.690.940 30.165.145 -1.525.795 4,81 3. Hệ số quay kho 12,454 13,9106 +1,4566 11,69 4. Thời gian 1 vòng quay 28,906 25,879 -3,027 10,47 Biểu 17 : Các chỉ tiêu phản ánh tình hình quản lý hàng tồn kho. Hệ số quay kho năm 1997 là 12,454, năm 1998 tăng lên 13,9106. Do vậy thời gian tồn kho trung bình được rút ngắn từ 28,906 ngày xuống 25,879 ngày. Đây là cố gắng của Công ty trong quản lý hàng tồn kho. Thời gian 1 vòng quay hàng tồn kho cho thấy loại sản phẩm Công ty sản xuất chủ yếu là bia chai và bia hơi, còn bia lon sản xuất rất ít vì thời gian tồn kho trung bình chênh lệch với thời gian sản xuất bia hơi và bia chai rất ít. Trong cơ cấu hàng tồn kho bộ phận hàng gửi bán đầu năm và cuối năm đều không có và bộ phận thành phẩm chiếm tỷ trọng nhỏ, đầu năm là 3,412% và cuối năm là 10,826%. Như vậy chứng tỏ sản phẩm của Công ty được tiêu thụ mạnh, có chất lượng, uy tín. Ta có thể xác định mức độ đảm bảo của nguồn vốn lưu động cho hàng tồn kho theo công thức : Mức đảm bảo = Nguồn vốn lưu động - Giá trị vốn lưu động thực tế hàng tồn kho Đơn vị 1000 đ Chỉ tiêu Đầu năm Cuối năm I. Vốn lưu động thực tế 33.153.037 34.153.037 1. Ngân sách cấp 29.082.251 29.082.251 2. Tự bổ sung 4.070.786 5.070.786 II. Hàng tồn kho 28.986.881 31.343.409 Mức đảm bảo VLĐ + 4.166.146 + 2.809.628 Biểu 19 : Mức độ đảm bảo vốn lưu động Qua biểu 19 cho thấy cả đầu năm và cuối năm Công ty huy động vốn thừa cho sản xuất. Đầu năm thừa 4.166.146.000 đ và cuối năm thừa 2.809.628.000 đ. Số thừa này bị ứ đọng hoặc bị chiếm dụng làm hiệu quả sử dụng vốn giảm. * Cơ cấu vốn lưu động theo nguồn. Biểu 20 : Cơ cấu vốn lưu động theo nguồn. Đơn vị 1000 đ Hình thái tài sản Đầu năm Cuối năm So sánh Giá trị % Giá trị % Giá trị % 1. Nguồn NS cấp 29.082.521 20,639 29.082.521 14,886 0 0 2. Nguồn tự bổ sung 4.070.786 2,889 5.070.786 2,595 1.000.000 24,56 3.Quỹ doanh nghiệp 71.033.093 50,413 125.682.235 64,329 54.649.142 76,93 4.Nguồnchiếm dụng 36.717.435 26,059 35.537.959 18,189 - 1.179.476 - 3,21 Tổng số 140.903.835 100 195.373.501 100 54.469.666 38,657 Qua biểu 20 có một số nhận xét về cơ cấu vốn lưu động theo nguồn. Nguồn vốn lưu động từ các quỹ của Công ty chiếm tỷ trọng lớn nhất. Đầu năm chiếm tỷ lệ 50,413% và cuối năm chiếm tỷ lệ 64,329%. Các quỹ chiếm một lượng vốn rất lớn và biểu hiện ở hình thái tiền mặt làm hiệu quả sử dụng vốn giảm xuống. Tài sản cố định có khả năng sinh lợi cao nhưng đầu tư đổi mới không nhiều trong khi lượng tiền mặt của các quỹ quá cao, đây là sự lãng phí về vốn. Nguồn ngân sách cấp không thay đổi trong năm. Nguồn tự bổ sung chiếm tỷ lệ nhỏ, đầu năm là 2,889% và cuối năm là 2,596%. Hai nguồn này đủ để tài trợ cho tài sản dự trữ của Công ty. Nguồn chiếm dụng đầu năm là 36.717.435.000 đ và cuối năm là 35.573.959.000 đ. Nguồn này lớn hơn tổng nguồn ngân sách và nguồn tự bổ sung. Nguồn vốn lưu động từ các nguồn còn lại thừa khả năng tài trợ cho các nhu cầu dự trữ, thanh toán của Công ty nhưng Công ty lại chiếm dụng lượng vốn khá lớn. Điều này không cần thiết và làm ảnh hưởng đến tốc độ luân chuyển, khả năng sinh lợi VLĐ. Công ty cần có biện pháp giảm nguồn này đến mức có thể. * Cơ cấu vốn lưu động theo quá trình tuần hoàn và chu chuyển. Đơn vị 1000 đ Hình thái tài sản Đầu năm Cuối năm So sánh Giá trị % Giá trị % Giá trị % 1. Vốn dự trữ 21.655.923 15,369 21.239.741 10,871 - 416.182 - 1,922 - Nguyên vật liệu 18.911.560 13,422 18.996.792 9,723 85.232 0,451 - Công cụ dụng cụ 2.744.363 1,948 2.242.949 1,148 - 501.414 -18,271 2. Vốn trong SX 10.062.088 7,141 13.370.672 6,844 3.308.584 32,88 - Chi phí SXKD dở dang 10.062.088 7,141 13.370.672 6,844 3.308.584 32,88 3. Vốn trong lưu thông 109.185.824 77,997 160.763.088 82,285 51.577.264 47,23 - Tiền 102.900.533 73,029 150.126.158 76,840 47.255.625 45,89 - Thành phẩm 989.119 0,702 3.393.375 1,737 2.404.256 243,07 - Vốn thanh toán 5.296.172 3,759 7.243.555 3,707 1.947.383 -36,76 Tổng cộng 140.903.835 100 195.373.501 100 54.469.660 38,657 Biểu 21 : Cơ cấu vốn lưu động theo quá trình tuần hoàn và chu chuyển. Qua biểu 21 rút ra một số nhận xét : - Vốn trong lưu thông chiếm tỷ trọng chủ yếu, đầu năm là 109.185.824.000đ, chiếm 77,997% , cuối năm là 160.763.088.000đ, chiếm 82,285%. Số tuyệt đối tăng thêm là 51.77.264.000 đ, với tỷ lệ tăng 47,23%. - Vốn dự trữ chiếm 15,369% đầu năm là 10,871% cuối năm vốn trong sản xuất chiếm tỷ lệ nhỏ nhất, đầu năm là 7,141% và cuối năm là 6,844%. Cơ cấu vốn theo quá trình tuần hoàn và luân chuyển của Công ty không hợp lý. Vốn trong lưu thông chiếm tỷ trọng quá cao mà chủ yếu là vốn bằng tiền. Số vốn bằng tiền này tồn tại dưới dạng tiền mặt hoặc tiền gửi ngân hàng, khả năng sinh lợi rất thấp ảnh hưởng đến khả năng sinh lợi của vốn. * Tình hình tài chính. Thông qua tài sản lưu động và các khoản nợ có thể đánh giá về tình hình tài chính của Công ty. Tình hình tài chính được phản ánh qua các chỉ tiêu biểu 22 Đơn vị 1000 đ Chỉ tiêu 1997 1998 So sánh Chênh lệch % 1 2 3 4 5 1. Tổng số vốn sản xuất 231.483.811 285.833.008 54.439.197 23,48 2. Tổng tài sản lưu động 140.903.835 195.373.501 54.469.666 38,66 3. Hàng tồn kho 28.986.881 31.343.409 2.356.258 8,129 4. Tổng số nợ 36.717.435 35.537.959 - 1.179.476 - 3,21 1 2 3 4 5 5. Nợ ngắn hạn 36.717.435 35.537.959 - 1.179.476 - 3,21 6. Vốn bằng tiền 102.900.533 150.126.158 47.225.625 45,89 7. Khả năng thanh toán ngắn hạn 3,837 5,497 1,66 42,26 8. Khả năng thanh toán nhanh 3,048 4,616 1,568 51,44 9. Chỉ số mắc nợ 0,159 0,124 - 0,035 - 22,01 10. Khả năng thanh toán tức thời 2,802 4,224 + 1,422 50,75 11. Tỉ suất thanh toán VLĐ 0,73 0,768 0,038 5,21 Biểu 22 : Các chỉ tiêu phản ánh tình hình tài chính Nhìn chung các chỉ số phản ánh khả năng thanh toán của Công ty rất cao và năm 1998 cao hơn năm 1997. Chỉ tiêu khả năng thanh toán ngắn hạn năm 1997 là 3,837 và năm 1998 là 5,497 trong khi chỉ tiêu này xấp xỉ bằng 1 phản ánh tình hình tài chính doanh nghiệp là bình thường. Chỉ tiêu khả năng thanh toán tức thời nếu > 0,5 thì tình hình khả quan, còn của Công ty rất cao. Chỉ tiêu tỉ suất thanh toán VLĐ rất cao. Chỉ tiêu này lớn hơn 0,5 phản ánh tình trạng ứ đọng vốn bằng tiền. Chỉ số mắc nợ của Công ty rất thấp và chỉ là nợ ngắn hạn. Như vậy tình trạng tài chính của Công ty là độc lập và khả quan. Tuy nhiên các chỉ số cũng phản ánh sự ứ đọng vốn của Công ty. * Tình hình bảo toàn và phát triển vốn lưu động Đơn vị 1000 đ Chỉ tiêu Giá trị So sánh NS cấp Tự bổ sung 1. VLĐ phải bảo toàn đầu năm 33.153.037 29.082.251 4.070.786 2. VLĐ phải bảo toàn cuối năm 34.153.037 29.082.251 5.070.786 3. VLĐ thực tế bảo toàn 34.153.037 29.082.251 5.070.786 4. Chênh lệch 0 0 0 Biểu 23 : Bảo toàn và phát triển vốn lưu động Qua biểu 23 ta thấy Công ty thực hiện tốt công tác bảo toàn vốn lưu động. Công ty cần cố gắng hơn trong việc phát triển vốn lưu động. * Tình hình sử dụng vốn lưu động (biểu 24). Chỉ tiêu 1997 1998 So sánh Chênh lệch % 1. Sức sản xuất VLĐ 3,619 2,495 - 1,124 - 31,06 2. Sức sinh lợi VLĐ 0,725 0,519 - 0,206 - 28,41 Biểu 24 : Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn lưu động Nhìn chung hiệu quả sử dụng vốn lưu động của Công ty giảm xuống. Năm 1997,1 đồng vốn lưu động mang lại 3,619 đồng doanh thu và 0,725 đồng lợi nhuận. Năm 1998,1 đồng vốn lưu động chỉ mang lại 2,495 đồng doanh thu và 0,519 đồng lợi nhuận. Lượng vốn lưu động của Công ty thừa so với nhu cầu và ứ đọng vốn, giảm tốc độ luân chuyển của vốn và khả năng sinh lợi. Công ty cần có những biện pháp để huy động vốn lưu động hợp lý, đầu tư VLĐ thừa vào các hoạt động kinh doanh sinh lợi hơn. 3. Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn sản xuất. Chỉ tiêu 1997 1998 So sánh Chênh lệch % 1. Doanh thu 394.683.050 419.617.000 24.933.950 6,32 2. Lợi nhuận 79.042.529 87.199.260 8.156.731 10,32 3. Vốn sản xuất bình quân 219.934.405 258.658.409 38.724.004 17,6 4. Hiệu quả sử dụng VSX 1,794 1,622 - 0,172 - 9,58 5. Tỉ suất lợi nhuận VSX 0,359 0,337 - 0,022 - 6,13 Biểu 25 : Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn sản xuất Qua biểu 25 rút ra các nhận xét : Vốn sản xuất của Công ty có tỷ suất lợi nhuận cao. Năm 1997 là 0,359 năm 1998 là 0,337. Đây là tỉ lệ cao so với các ngành khác. Năm 1997,1 đồng vốn sản xuất mang lại 1,794 đồng doanh thu và năm 1998 nó mang lại 1,622 đồng. Như vậy hiệu quả sử dụng vốn sản xuất năm 1998 giảm so với năm 1997. Tài sản cố định của Công ty được sử dụng với hiệu quả tăng lên nhưng hiệu quả sử dụng tài tản lưu động lại giảm xuống làm cho hiệu quả sử dụng vốn sản xuất giảm. a) Những thành tích trong quản lý và sử dụng vốn sản xuất . Là một doanh nghiệp Nhà nước chuyển sang cơ chế thị trường thực hiện hạch toán độc lập Công ty đã gặp khó khăn chung là trình độ kỹ thuật lạc hậu, thiếu vốn... nhưng với sự cố gắng của toàn Công ty với những chủ trương đúng đắn Công ty đã thu được những thành tựu nhất định. Về quản lý và sử dụng tài sản cố định, Công ty đã tận dụng gần mức tối đa năng lực sản xuất của máy móc thiết bị vào sản xuất kinh doanh, công suất của máy móc thiết bị huy động trên 90% công suất thiết kế qua các năm. Công ty đã tận dụng tối đa nguồn vốn của ngân sách cấp và nguồn tự bổ sung, đồng thời huy động thêm một lượng vốn vay đổi mới công nghệ qua các giai đoạn để nâng cao công suất và chất lượng sản phẩm. Công ty luôn trích đủ số khấu hao theo kế hoạch và bổ sung vào quỹ khấu hao để đảm bảo tái sản xuất tài sản cố định. Bên cạnh đầu tư mua sắm máy móc thiết bị mới, Công ty đã sử dụng tối đa những máy móc thiết bị cũ chưa cần phải thay thế ngay nên vừa có thể tăng năng lực máy móc thiết bị, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường và tiết kiệm được những nguồn vốn đầu tư chưa thật cần thiết. Các bộ phận TSCĐ không tham gia vào sản xuất được giảm xuống mức có thể. Để dành giật khách hàng nhiều Công ty đã áp dụng nhiều phương thức thanh toán nhưng Công ty Bia Hà Nội vẫn luôn được khách hàng thanh toán tiền ngay, làm tăng nhanh vòng quay của vốn, tránh tình trạng ứ đọng vốn, chiếm dụng vốn. Tình trạng tài chính của Công ty rất khả quan, Công ty có khả năng độc lập về tài chính cao, tạo điều kiện để Công ty huy động thêm nguồn vốn cần thiết. Thông qua việc quản lý và sử dụng vốn Công ty đã góp phần tạo uy tín với khách hàng, nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. Công ty đã bảo toàn và phát triển vốn cố định và vốn lưu động trong điều kiện khó hiện nay. Thành tựu lớn nhất trong hoạt động sử dụng vốn là Công ty đã tạo ra lợi nhuận lớn, tỉ suất lợi nhuận cao trong khi hiện nay nhiều doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, phá sản... b) Những tồn tại trong quản lý và sử dụng vốn. Mặc dù nhu cầu tiêu thụ bia rất cao nhưng máy móc thiết bị vẫn chưa hoạt động hết công suất. Công ty đổi mới công nghệ từng bộ phận và theo các giai đoạn nên máy móc thiết bị không đồng bộ. Vẫn còn tồn tại một số máy móc thiết bị cũ trong dây chuyền ảnh hưởng đến việc tăng sản lượng và chất lượng sản phẩm. Trình độ lao động còn hạn chế nên không làm chủ các công nghệ để tận dụng hết công suất. Riêng bia lon hoạt động chỉ đạt 1/3 công suất làm cho giá thành bia lon tăng (do trích khấu hao 2/3 còn lại), bia lon bán ra chậm. Việc trích khấu hao TSCĐ còn thấp, gây khó khăn cho đổi mới tài sản cố định. Công ty vẫn còn tồn tại bộ phận tài sản cố định chờ thanh lý và tài sản cố định chưa cần dùng. Mặc dù giá trị chúng nhỏ nhưng Công ty cần nhanh chóng thanh lý các tài sản cố định để huy động vốn vào đổi mới công nghệ và huy động các TSCĐ chưa dùng tham gia vào sản xuất. Tài sản lưu động Công ty đang sử dụng không có hiệu quả. Vòng quay vốn lưu động dài ngày, tốc độ luân chuyển chậm. Số vốn lưu động lớn hơn nhu cầu cần thiết của Công ty, cơ cấu vốn lưu động chưa hợp lý, vốn lưu động ở khâu lưu thông quá lớn, trong khi vốn ở khâu sản xuất lại thấp. c) Nguyên nhân tồn tại. Sự hạn chế về vốn là nguyên nhân chính làm giảm hiệu quả sử dụng vốn sản xuất. Nhu cầu vốn để đổi mới công nghệ của Công ty quá lớn (500 tỷ đồng) trong khi nguồn vốn tự có của Công ty nhỏ và khó tìm nguồn vốn vay với lãi suất thị trường. Công ty phải đổi mới công nghệ nhiều giai đoạn dẫn đến hiện tượng thiếu đồng bộ. Công ty chưa chú ý đến công tác marketing nên đầu tư vào sản phẩm bia lon, là loại bia nặng không phù hợp với nhu cầu tiêu dùng. Năm 1995 Công ty ngừng sản xuất bia lon và hiện nay dây chuyền bia lon chỉ hoạt động 1/3 công suất. Công ty chưa chú ý đến đào tạo và bồi dưỡng lao động, ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng máy móc, thiết bị. Tài sản lưu động của Công ty sử dụng không có hiệu quả do tiền tồn quá nhiều và lượng nguyên liệu phải dự trữ lớn (khoảng 28 tỷ đồng). Đây là 2 khoản mục không tạo ra lợi ích cho doanh nghiệp. Về nguyên liệu, để giảm lượng mua Công ty tìm mua từ nhiều bạn hàng để hạn chế nguyên liệu tồn kho (chủ yếu là uỷ thác). Vì nhập khẩu uỷ thác nên gây khó khăn cho Công ty trong việc giảm lượng mua. Công ty có cố gắng giảm lượng mua nên hệ số quay kho của Công ty năm 1998 giảm xuống. Mặc dù vậy lượng dự trữ này lớn trong khi nhu cầu cả năm khoảng 90 tỷ đồng. Về vốn bằng tiền bị ứ đọng lớn nên Công ty tìm đến sự an toàn bằng cách gửi ngân hàng (khoảng 150 tỷ đồng). Số tiền đó hàng năm đem lại lợi tức nhỏ, chưa tính mức lạm phát có thể cao hơn lãi suất. Nếu mức lạm phát cao thì vô hình Công ty để vốn mình mất đi. Trong tương lai Công ty cần đầu tư vào TSCĐ vì loại tài sản này đóng góp rất lớn để tạo ra lợi nhuận. Phần III Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của Công ty bia Hà Nội Trên cơ sở phân tích những đặc điểm chủ yếu ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn sản xuất, phân tích thực trạng hiệu quả sử dụng vốn sản xuất, để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất Công ty cần thực hiện một số giải pháp sau : I - Đẩy mạnh đổi mới công nghệ, nâng cao công suất máy móc thiết bị. Đổi mới công nghệ là vấn đề đang được quan tâm của bất cứ doanh nghiệp nào hoạt động trong nền kinh tế thị trường. Đối với Công ty Bia Hà Nội từ năm 1989 trở lại đây Công ty đã từng bước hiện đại hoá công nghệ sản xuất và mang lại những hiệu quả kinh tế nhất định. Nhưng do số vốn để đổi mới công nghệ còn hạn hẹp nên Công ty tiến hành đổi mới công nghệ từng phần. Điều đó dẫn đến máy móc thiết bị thiếu đồng bộ, hạn chế việc tăng công suất máy móc thiết bị. Cho đến nay phần giá trị còn lại chiếm khoảng 1/3 nguyên giá và một số TSCĐ đã khấu hao hết nhưng chưa có điều kiện đổi mới. Nếu không đẩy mạnh đổi mới công nghệ thì sản lượng của Công ty tăng ít, không đáp ứng nhu cầu khách hàng, làm cho thị phần của Công ty giảm xuống. Mặt khác nếu không đổi mới công nghệ thì việc hạ giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm sẽ khó khăn. Trong điều kiện hiện nay sự cạnh tranh trong ngành bia rất gay gắt và để tồn tại và phát triển đòi hỏi các doanh nghiệp không ngừng nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm. Bởi vậy Công ty phải tiếp tục đẩy mạnh đổi mới công nghệ. Bên cạnh việc đảm bảo sự đồng bộ trong hệ thống máy móc thiết bị, Công ty đổi mới công nghệ để nâng công suất lên 100 triệu lít/năm vào năm 2000 theo kế hoạch. Để tiếp tục đổi mới công nghệ thì việc đầu tiên Công ty cần làm là phải huy động nguồn vốn để Công ty có đủ vốn đầu tư phục vụ quá trình đổi mới công nghệ. Để có số vốn 500 tỷ đồng đổi mới công nghệ Công ty cần phải đa dạng hoá các nguồn vốn huy động. Bên cạnh nguồn vốn ngân sách cấp và vốn tự có Công ty cần huy động từ các nguồn : - Vốn vay các tổ chức tài chính, tín dụng. Nguồn vốn tín dụng ngân hàng là nguồn quan trọng được sử dụng rộng rãi để đổi mới công nghệ có hiệu quả. Công ty cần tính toán vay vốn sao cho có hiệu quả nhất như xác định tỷ lệ vốn vay so với vốn chủ sở hữu. Công ty cần xác định một cơ cấu tài chính tối ưu cho phép mang lại hiệu quả sử dụng vốn cao nhất trong một mức độ rủi ro chấp nhận được. Trong giai đoạn 1989 - 1995, vốn vay của ngân hàng là : 68,921 tỷ đồng trong tổng số vốn đầu tư là 184,114 tỷ đồng. Đây là lượng vốn lớn và do đôi rmới công nghệ có hiệu quả nên cho đến nay Công ty có thể sử dụng nguồn vốn vay như là nguồn quan trọng để đầu tư đổi mới công nghệ. - Phát hành trái phiếu doanh nghiệp. Để huy động nguồn vốn trong dân, Công ty có thể phát hành trái phiếu doanh nghiệp. Trái phiếu Công ty là giấy chứng nhận Công ty vay nợ bên ngoài và đảm bảo thanh toán cả vốn lẫn lãi trong một thời hạn nhất định. Thực tế Công ty Bia Hà Nội ngày càng củng cố vững chắc vị thế của mình trên thị trường, sản phẩm của Công ty chất lượng ngày càng nâng cao và tạo được uy tín với khách hàng. Đây là lợi thế để phát hành trái phiếu Công ty nhằm bổ sung vốn cho quá trình đổi mới công nghệ. Bằng uy tín của mình Công ty có thể huy động nguồn vốn trong dân và của các doanh nghiệp khác. Nhưng nếu phát hành trái phiếu thì phải được sự cho phép của Nhà nước và sử dụng vốn đảm bảo để có khả năng thanh toán cho khách hàng. - Vay vốn nước ngoài. Công ty có thể chủ động tìm nguồn vốn vay của các tổ chức tài chính tín dụng quốc tế trong điều kiện nguồn vốn trong nước còn hạn chế. Công ty có thể vay vốn nước ngoài dưới hình thức ODA. Đây là số vốn bổ sung cho quá trình đổi mới công nghệ. - Liên doanh liên kết. Trong điều kiện hiện nay ngành bia đang có sự cạnh tranh rất gay gắt. Nhiều hãng bia nổi tiếng ở nước ngoài cũng như người Công ty sản xuất bia trong nước xuất hiện ở thị trường Việt Nam. Công ty bia Hà Nội bằng những lợi thế của mình có thể mở rộng liên doanh liên kết với các doanh nghiệp khác để khắc phục những tồn tại, tạo thêm nguồn vốn cần thiết để đổi mới công nghệ. Ngoài ra để huy động vốn Công ty có thể thương lượng với các Công ty nước ngoài để được phép thanh toán theo phương thức trả chậm khi mua các thiết bị máy móc cũng như các bí quyết công nghệ của họ. Khi có được nguồn vốn thì Công ty cần tính toán để đầu tư vào các bộ phận thiết yếu. Việc đổi mới công nghệ phải đảm bảo cân đối giữa phần cứng và phần mềm để phát huy hiệu quả công nghệ mới. Để nâng cao năng lực công nghệ, Công ty cần xây dựng mối quan hệ với các cơ quan nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật để phát triển công nghệ theo chiều sâu, làm chủ công nghệ hiện đại. Có thể dự kiến hiệu quả kinh tế khi Công ty áp dụng công nghệ mới của sản phẩm bia chai (biểu 26). - Mức tăng lợi nhuận do áp dụng công nghệ mới : DP = [(P1 - Z1)Q1] - [(P0-Z0) Q0) Trong đó : P0, P1 là giá bán sản phẩm trước và sau khi áp dụng công nghệ mới. Z0, Z1 là giá thành đơn vị sản phẩm trước và sau khi áp dụng công nghệ mới. Q0, Q1 là số sản phẩm sản xuất ra trong năm trước và sau khi áp dụng công nghệ mới. Biểu 26 : Dự kiến bia chai khi áp dụng công nghệ mới 1998 2000 (dự kiến) P0 Z0 Q0 P1 Z1 Q1 10.000 đồng 3.097 đồng 32.012 1000 lít 11.000 đồng 3.500 đồng 70.000 1000 lít áp dụng công thức trên ta có : DP = (11.000 - 3.500) x 70.000 - (10.000 - 3.097) x 32.012 = = 304.021.164 (nghìn đồng) Như vậy nếu áp dụng công nghệ mới thì đến năm 2000 mức lợi nhuận tăng khoảng 304 tỷ đồng. II - Tận dụng tối đa dây chuyền sản xuất bia lon. Thực tế tại Công ty dây chuyền sản xuất bia lon hoạt động chưa hết công suất. Năm 1997 sản lượng bia lon sản xuất là 3,048 triệu lít. Năm 1998 giảm xuống còn 2,106 triệu lít. Công suất thiết kế bia lon là 9 triệu lít/năm. Giá trị khấu hao bình quân hàng năm là 1,8 tỷ đồng. Việc sản xuất thấp so với công suất làm cho giá thành sản phẩm tăng lên vì chi phí khấu hao toàn bộ máy móc. Năm 1997 giá thành tăng thêm 400 đ/lít, năm 1998 tăng thêm 657 đ/lít. Bên cạnh đó công nhân vẫn phải trả lương vì phương thức trả lương của Công ty là theo thời gian. Từ thực tế đó Công ty cần tận dụng dây chuyền sản phẩm bia lon hết công suất. Nếu như dây chuyền bia lon hoạt động hết công suất thì sẽ đem lại các kết quả : - Tăng lượng bia tiêu thụ, tăng thị phần của Công ty. - Chi phí hấu hao trong giá thành hạ xuống còn 200đ/lít. Nhưng điều khó khăn là làm thế nào để tiêu thụ lượng bia lon tăng thêm. Hiện nay phòng kế hoạch và tiêu thụ bán ra với tỷ lệ 80/20 (khách hàng mua 80% chai bia và 20% bia lon). Lượng bia lon bán cưỡng ép cho khách hàng, họ phải mua bia lon để được mua bia chai. Để bán được bia lon họ phải bán với giá thấp hơn giá mua tại Công ty. Bên cạnh đó Công ty bia Hà Nội không quảng cáo cho mặt hàng của mình. Có đại lý đến lấy hàng không được chiết khấu, giảm giá mà còn phải ký cược vỏ chai, nếu chai hỏng hoặc thiếu thì bị khấu trừ vào tiền cược. Việc cược vỏ chai gây nhiều phiền hà cho khách hàng nếu khi đến lấy bia phải đổi số chai đúng như lượng bia sẽ lấy. Nếu chai không đảm bảo kỹ thuật thì khách phải mua bù vào hoặc sẽ được bộ phận kiểm tra chai viết giấy chứng nhận thiếu chai và khách hàng phải cầm giấy đó để bộ phận bán hàng viết hoá đơn cho thuận lợi. Vì những lý do trên để bán được bia lon Công ty nên cải thiện hoạt động bán hàng bằng cách chiết khấu, giảm giá, khuyến mại cho khách hàng khi mua bia lon. Hiện nay dây chuyền bia lon chỉ hoạt động 23,33% công suất. Nếu hoạt động hết công suất và giữ giá như hiện nay thì sẽ tiết kiệm được 1,380 tỷ đồng. Nếu hạ giá thì sau tăng giá sẽ khó khăn. Số tiền tiết kiệm này sẽ được trích ra để khuyến mại, chiết khấu cho khách hàng và các đại lý. Nếu Công ty nâng công suất thực tế bia lon lên 9 triệu lít/năm và tiêu thụ hết lượng bia này thì kết quả rất khả quan. - Thị phần của Công ty tăng thêm, uy tín với khách hàng sẽ được nâng cao khi tất cả các loại sản phẩm được tiêu thụ mạnh mẽ. Hình ảnh mới về bia Hà Nội được tạo ra đối với người tiêu dùng, nó ngày càng lớn mạnh cùng với sự phát triển của công nghiệp bia Việt Nam. - Tạo ra sự gắn bó giữa các đại lý, khách hàng và Công ty - đây là điều quan trọng để tiếp nhận những thông tin phản hồi từ các đại lý và khách hàng. - Tận dụng nguồn lao động sẵn có. - Giảm chi phí tồn kho nguyên vật liệu, góp phần tăng nhanh vòng quay vốn lưu động. - Hạ giá thành sản phẩm xuống mức có thể. - Nếu các chi phí khuyến mại, quảng cáo ít hơn 1,8 tỷ đồng thì Công ty có thể tăng thêm lợi nhuận. Năm 1998 lợi nhuận bia lon là 4,6332 tỷ đồng. Nếu hoạt động hết công suất và giữ giá bán như hiện nay thì lợi nhuận sẽ là 19,8 tỷ đồng. IV - Cải thiện công tác khấu hao TSCĐ. Trong những năm qua Công ty thực hiện khấu hao theo quyết định 1062/TC/QĐ/CSTC, khấu hao đường thẳng với tỷ lệ 10% - 12%/năm khấu hao cơ bản. Với tỷ lệ này 8 năm - 10 năm mới khấu hao hết TSCĐ và thực hiện đổi mới hoàn toàn TSCĐ./ Thực tế Công ty có những máy móc thiết bị lạc hậu, cần phải đổi mới. Dưới sự tác động của tiến bộ kỹ thuật, sự biến động của giá cả, sự hư hỏng mất mát giảm công suất máy móc trước thời hạn là nguyên nhân làm cho quỹ khấu hao không thể bù đắp để tái đầu tư vào TSCĐ. Trong thời gian tới Công ty cần phải có sự đổi mới công tác trích khấu hao, cụ thể là tăng tỷ lệ khấu hao tài sản cố định để đảm bảo tái đầu tư vào TSCĐ. Công ty cần phân loại từng nhóm tài sản cố định và xác định tỷ lệ khấu hao mỗi nhóm cho phù hợp. Theo quy định về khấu hao hiện nay Công ty có thể trích khấu hao cơ bản TSCĐ với tỷ lệ 20%. Để tăng nguồn vốn tự có cho đổi mới công nghệ, tuỳ theo nhóm tài sản cố định Công ty có thể tăng tỷ lệ trích khấu hao trên 10 - 12%. Ví dụ : Dây chuyền chiết bia chai có nguyên giá 47.504.679.000 đồng, đưa vào sử dụng đầu năm 1994. KHCB đã trích năm 1994 : 6.530.755.000 đ Giá trị còn lại đến ngày 01/01/1995 : 40.973.924.000 đ Nếu mức khấu hao cơ bản hàng năm là 12% thì thời gian thu hồi vốn là : T1 = + 1 ằ 8 năm Nếu mức khấu hao cơ bản hàng năm là 20% thì thời gian thu hồi vốn là : T2 = + 1 ằ 5 năm Như vậy với tỷ lệ trích khấu hao cơ bản mới Công ty rút ngắn 3 năm cho thời gian thu hồi vốn. Điều này thể hiện sự phù hợp với thực tế phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ và sự rút ngắn chu kỳ đổi mới máy móc thiết bị. Đồng thời nó hạn chế được sự ảnh hưởng của hao mòn vô hình. Tuy vậy việc áp dụng tỉ lệ trích khấu hao 20% sẽ làm tăng giá thành dẫn đến tăng giá bán các loại bia. Công ty cần xác định tỉ lệ trích khấu hao hợp lý để vừa có thể thu hồi vốn nhanh, vừa không làm ảnh hưởng nhiều đến giá thành, giá bán các loại bia. Thực tế tài sản cố định Công ty sử dụng rất có hiệu quả trong những năm qua. Do vậy Công ty có điều kiện để tăng tỉ lệ khấu hao cơ bản, đẩy mạnh đổi mới TSCĐ. IV - áp dụng mô hình quản lý tiền mặt Millerr - Orr 1 Lưu Thị Hương-Tài chính doanh nghiệp-NXB Giáo dục 1998,trang 141 . Như phần trên đã trình bày Công ty giữ một lượng tiền mặt tương đối lớn. Lượng tiền này gửi với lãi suất thấp và ảnh hưởng không tốt đến việc quản lý và sử dụng vốn lưu động. Nếu giữ một lượng tiền lớn thì sẽ tránh được thiếu tiền một cách tạm thời và do đó không phải đi vay ngắn hạn. Tuy nhiên giữ tiền cũng có chi phí vì nếu Công ty nắm giữ tiền thì tiền đó không sinh lãi, ứ động vốn. Vấn đề đặt ra là Công ty cần giữ một lượng tiền mặt để vừa đảm bảo không thiếu vốn tạm thời, vừa đảm bảo chi phí giữ là là ít nhất. Do đó Công ty có thể áp dụng mô hình Miller - Orr trong việc quản lý tiền mặt. Miller và Orr đã nghiên cứu một vấn đề là làm thế nào để doanh nghiệp có thể quản lý được việc cân đối tiền mặt của nó nếu như doanh nghiệp không thể dự đoán mức thu chi ngân quỹ hàng ngày. Để trả lời câu hỏi này chúng ta xem đồ thị 1 dưới đây. Giới hạn trên Mức tiền mặt theo thiết kế Giới hạn dưới Mức cân đối tiền mặt Thời gian Đồ thị 1 Nhìn vào đồ thị ta thấy mức cân đối tiền mặt dao động lên xuống và không thể dự đoán được cho đến khi nó đạt tới mức giới hạn trên. Tại giới hạn trên doanh nghiệp sử dụng số tiền vượt quá mức tiền mặt thiết kế để mua thượng phiếu và cân đối tiền mặt trở về mức dự kiến. Với quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, cân đối tiền mặt lại tiếp tục dao động cho đến khi tụt xuống dưới giới hạn dưới - là điểm mà doanh nghiệp cần phải có sự bổ sung tiền mặt để đáp ứng cho những hoạt động cần thiết, do vậy tại giới hạn dưới doanh nghiệp phải bán thương phiếu để có 1 lượng tiền mặt ở mức dự kiến. Như vậy mô hình này cho phép việc nắm giữ tiền mặt ở những mức độ hoàn toàn tự do trừ phi nó đạt đến điểm giới hạn trên hoặc giới hạn dưới. Tại giới hạn trên hoặc giới hạn dưới doanh nghiệp sẽ phải điều chỉnh bằng cách mua hoặc bán thương phiếu để có mức tiền mặt theo như thiết kế ban đầu. Doanh nghiệp nên để mức cân đối tiền mặt dao động trong khoảng nào ? Mô hình này chỉ ra rằng khoảng dao động của mức cân đối tiền mặt phụ thuộc vào 3 yếu tố. Nếu như mức dao động của thu chi ngân quỹ hàng ngày rất lớn hoặc chi phí cố định của việc mua bán thương phiếu cao thì doanh nghiệp nên quy định khoảng dao động tiền mặt lớn. Ngược lại nếu như lãi suất cao thì doanh nghiệp nên thu hẹp khoảng dao động tiền mặt. Khoảng dao động tiền mặt được xác định theo công thức sau : = 3 ( x ) Nhìn vào đồ thị trên ta thấy mức cân đối tiền mặt thiết kế không nằm giữa giới hạn trên và giới hạn dưới. Doanh nghiệp thường thiết kế mức cân đối tiền mặt ở điểm 1/3 khoảng cách kể từ giới hạn dưới lên giới hạn trên. Mức tiền mặt theo thiết kế được xác định : = + Mô hình của Miller - Orr chỉ ra rằng nếu doanh nghiệp luôn duy trì được mức cân đối tiền mặt theo như thiết kế ban đầu thì doanh nghiệp sẽ tối thiểu hoá được chi phí giao dịch và chi phí do lãi suất gây ra. Trên thực tế việc áp dụng mô hình Miller - Orr rất dễ dàng.Tuy nhiên mô hình này chỉ thực hiện được khi các loại thương phiếu được mua bán tự do trên thị trường .Sự hình thành thị trường chứng khoán là điều kiện để thực hiện mô hình này. Công ty cần thực hiện những bước sau : - Bước thứ nhất : Công ty xác định giới hạn dưới của cân đối tiền mặt. Giới hạn dưới có thể bằng 0 và cũng có thể lớn hơn 0 để đảm bảo mức an toàn tối thiểu. - Bước thứ hai : Công ty cần ước tính phương sai của thu chi ngân quỹ. Dựa vào số liệu thu chi ngân quỹ 100 ngày để tính toán phương sai cho mẫu. Việc tiêu thụ sản phẩm bia mang tính mùa vụ nên Công ty cần chọn mẫu theo từng mùa đặc thù. - Bước thứ ba là quan sát lãi suất và chi phí giao dịch mỗi lần mua bán thương phiếu. - Bước cuối cùng là tính toán giới hạn trên và mức tiền mặt theo thiết kế đồng thời đưa ra những thông tin để nhân viên tài chính thực hiện chiến lược kiểm soát theo giới hạn được xác định bởi mô hình Miller - Orr. V - Tăng cường hoạt động Marketing. Trong nền kinh tế thị trường mang đầy tính cạnh tranh như ngày nay thì hoạt động marketing là không thể thiếu được nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và hoạt động sử dụng vốn nói riêng. Hoạt động marketing tiến hành phân tích khả năng thị trường, lựa chọn thị trường mục tiêu, soạn thảo chương trình marketing - mix với các chính sách (sản phẩm, giá cả, phân phối, xúc tiến) tác động mạnh tới hoạt động sử dụng vốn của Công ty. Thông qua hoạt động marketing Công ty sẽ biết được nhu cầu của người tiêu dùng đối với từng loại sản phẩm, từ đó Công ty sẽ đầu tư dài hạn vào sản xuất các sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị trường. Mặt khác hoạt động marketing sẽ thúc đẩy khả năng tiêu thụ sản phẩm, góp phần tăng doanh thu, lợi nhuận, tốc độ luân chuyển vốn... Thực tế thời gian qua tại Công ty chưa chú trọng đến hoạt động marketing. Điều này được thể hiện rõ qua mô hình tổ chức bộ máy của Công ty là không có phòng marketing. Hoạt động marketing của Công ty mang tính đơn lẻ, không tập trung. Hoạt động marketing nằm phân tán ở các phòng như phòng kế hoạch - tiêu thụ (phụ trách các vấn đề kế hoạch, chính sách giá cả, tiêu thụ sản phẩm...), phòng kỹ thuật (nghiên cứu sản phẩm mới). Hoạt động marketing của Công ty không được chú trọng nên đã dẫn đến một quyết định sai lầm trong việc đầu tư vào sản phẩm mới là bia lon Trúc Bạch. Do việc nghiên cứu thị trường và nghiên cứu sản phẩm mới của Công ty không đầy đủ nên sản phẩm bia lon Trúc Bạch có độ nặng, không hợp lý với nhu cầu người tiêu dùng dù việc Công ty tung thêm sản phẩm ra thị trường là đúng đắn. Kết quả là hoạt động sản xuất bia lon bị thua lỗ và bia lon Trúc Bạch chỉ tồn tại 4 năm. Mặt khác hiện nay các hoạt động đẩy mạnh tiêu thụ như quảng cáo, chiết khấu, khuyến mãi Công ty vẫn chưa chú trọng. Do đó hiện nay sản phẩm bia lon của Công ty tiêu thụ chậm và hoạt động sản xuất bia lon ở mức thấp so với công suất. Theo kế hoạch Công ty sẽ sản xuất 100 triệu lít/năm vào năm 2000. Liệu Công ty có dễ dàng tiêu thụ được khối lượng sản phẩm lớn như vậy để đảm bảo sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư nếu không đẩy mạnh hoạt động marketing. Vì vậy vấn đề cấp bách hiện nay là Công ty cần phải đẩy mạnh hoạt động marketing. Công ty nên thành lập phòng marketing để chuyên phụ trách hoạt động marketing. Hoạt động marketing bao gồm những nhiệm vụ cơ bản : * Nghiên cứu thị trường, lựa chọn thị trường mục tiêu. - Nghiên cứu thị trường hiện tại, thị trường tiềm năng của Công ty theo khu vực địa lý, thu nhập của người tiêu dùng. Cần xác định quy mô, cơ cấu, sự vận động của các loại thị trường này. - Nghiên cứu nhu cầu đối với từng loại bia : bia lon, bia chai, bia hơi, xác định những nhu cầu có khả năng thanh toán mà Công ty có thể đáp ứng. - Nghiên cứu những yêu cầu của khách hàng về chất lượng, giá cả, mẫu mã, phương thức thanh toán. - Nghiên cứu tình hình cạnh tranh của thị trường bia. Công ty cần chú ý các đối thủ cạnh tranh với các chiến lược cũng như tiềm năng của họ, từ đó đề ra chính sách đối phó để duy trì và phát triển thị phần của Công ty. Từ những nghiên cứu trên Công ty lựa chọn thị trường mục tiêu cho mình. Theo thực tế của Công ty hiện nay, Công ty nên chọn đoạn thị trường mà mức thu nhập đầu người từ trung bình đến sát mức thu nhập cao. Đây là đoạn thị trường mà hiện tại sản phẩm của Công ty đã đáp ứng được nhu cầu của khách hàng về chất lượng và giá cả nhưng lại chưa đáp ứng nhu cầu về số lượng. * Xây dựng chính sách sản phẩm. Công ty cần xây dựng chính sách chủng loại và cơ cấu sản phẩm bia. Hiện tại Công ty có ba loại sản phẩm, bia chai, bia lon, bia hơi. Công ty có thể thay đổi cơ cấu của chúng để phù hợp với nhu cầu thị trường. Công ty có thể nghiên cứu và đưa vào thị trường loại bia tươi, là loại bia đang được người tiêu dùng chấp nhận. Ngoài ra Công ty cần hoàn thiện và nâng cao chất lượng bia cũng như mẫu mã, kích thước chai bia, lon bia. Hiện tại mẫu mã, nhãn mác bia Hà Nội còn kém xa các loại bia khác. Công ty cần thay đổi để hấp dẫn người tiêu dùng hơn. Mặt khác Công ty cần đa dạng hoá kích cỡ sản phẩm để phục vụ nhu cầu 1 người hoặc nhiều người. Để nâng cao chất lượng Công ty cần tạo ra hương vị đặc trưng của bia khác biệt với các loại bia của các hãng khác. * Xây dựng chính sách giá cả. Giá cả có tác động mạnh mẽ đến thu nhập và từ đó tác động đến lợi nhuận của Công ty. Mặc dù hiện nay trên thị trường cạnh tranh về giá cả đã nhường vị trí hàng đầu cho cạnh tranh về chất lượng và thời gian nhưng giá cả vẫn có vai trò quan trọng đối với cạnh tranh, nhất là trong nền kinh tế nước ta hiện nay. Do vậy Công ty cần xây dựng chính sách giá cả linh hoạt để phù hợp với sự biến động nhu cầu. Công ty căn cứ vào chi phí xây dựng các mức giá dự kiến ngoài ra Công ty cần xem xét giá của các loại bia khác nhau của các đối thủ cạnh tranh để định giá cho phù hợp để duy trì và phát triển thị phần. Ngoài ra Công ty cần áp dụng chính sách giá phân biệt. Khi khối lượng sản phẩm sản xuất tăng lên thì Công ty cần phân biệt giá để tăng tốc độ tiêu thụ. * Xây dựng chính sách phân phối. Chính sách phân phối hợp lý thúc đẩy hàng hoá lưu thông nhanh về hiệu quả, tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm. Trong thời gian tới sản lượng Công ty tăng 100 triệu lít/năm thì phân phối sản phẩm có vai trò quan trọng. Mặc dù nhu cầu bia của Công ty bia Hà Nội rất lớn nhưng để tiêu thụ hết 100 triệu lít/năm thì Công ty phải tổ chức lại và hoàn thiện hệ thống kênh phân phối. Hiện tại hệ thống kênh phân phối của Công ty bao gồm các loại khách hàng : người tiêu dùng trực tiếp (chiếm 0,5% doanh thu), người bán lẻ (1,5%), người bán buôn (41%) và các đại lý (57%). Công ty chỉ bán hàng cho các khách hàng có khả năng thanh toán ngay. Để thúc đẩy khả năng tiêu thụ, đối với các đại lý Công ty cần tháo gỡ những khó khăn trong thanh toán. Các đại lý gặp khó khăn là phải thanh toán ngay khi mua hàng. Để thuận lợi Công ty có thể cho phép trả chậm sau một thời gian nhất định. Bên cạnh đó cần chiết khấu các đại lý thanh toán tiền ngay, các đại lý mua với số lượng lớn. Bia Hà Nội hiện nay chủ yếu tiêu thụ ở thị trường miền Bắc. Công ty cần mở thêm các đại lý ở các tỉnh miền Trung, miền Nam và tăng thêm các đại lý ở miền Bắc. Công ty cần tạo ra sự gắn bó giữa Công ty và các loại khách hàng để biết rõ tình hình tiêu thụ sản phẩm, kiểm soát việc tiêu thụ sản phẩm, những khó khăn của các thành viên trong kênh phân phối. Vấn đề lưu thông sản phẩm của Công ty gặp khó khăn do các khách hàng nhận hàng tại kho của Công ty trong khi công nhân và phương tiện bốc xếp hạn chế. Mặt khác khách hàng vận chuyển sản phẩm chỉ vận chuyển một số giờ trong ngày do đường vào Công ty bị cấm. Công ty cần xây dựng các kho phân phối sản phẩm ở các đầu mối giao thông quan trọng đi các tỉnh, tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng vận chuyển sản phẩm. * Chính sách giao tiếp và khuyếch trương. Hiện nay Công ty chưa đẩy mạnh quảng cáo sản phẩm. Để mở rộng thị trường tại khu vực miền Trung, miền Nam Công ty cần chú ý quảng cáo về sản phẩm của Công ty. Bên cạnh đó Công ty thực hiện các hoạt động kích thích tiêu thụ như xổ số, trò chơi, tham gia hội thảo và triển lãm chuyên ngành. Các chính sách marketing phải phối hợp với nhau chặt chẽ, thống nhất để tăng cường hiệu quả hoạt động marketing, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động sử dụng vốn. VI - Cải tiến cơ cấu vốn phù hợp với quá trình sản xuất kinh doanh của Công ty nhằm sử dụng hợp lý và tiết kiệm vốn. Hiệu quả sử dụng vốn không chỉ phụ thuộc vào khối lượng vốn đưa vào sản xuất kinh doanh mà còn phụ thuộc rất lớn vào cơ cấu lượng vốn đó. Tùy thuộc vào đặc điểm kinh tế của từng ngành, từng doanh nghiệp mà từ đó xác định cơ cấu vốn tối ưu. Hiện nay cơ cấu vốn của Công ty vẫn chưa hợp lý trong việc phân phối vào tài sản. Như đã phân tích, tài sản cố định của Công ty có khả năng sinh lợi cao nhưng việc đổi mới tài sản cố định chưa mạnh mẽ, các bộ phận thiếu đồng bộ, công suất thực tế vẫn chưa đạt mức thiết kế. Trong khi đó tài sản lưu động chiếm tỷ trọng lớn hơn nhưng sử dụng không có hiệu quả. Tốc độ luân chuyển chậm và bị ứ đọng. Sản phẩm của Công ty được tiêu thụ mạnh mẽ nên được khách hàng thanh toán ngay khi mua hàng. Do đó vốn lưu động của Công ty bị chiếm dụng rất ít (3,5% giá trị tài sản lưu động). Hàng tồn kho chiếm tỷ lệ 20,5% và 16,04% giá trị tài sản lưu động đầu năm và cuối năm. Bộ phận nguyên vật liệu trong hàng tồn kho chiếm tỷ trọng cao nhưng Công ty đã có những cố gắng để giảm xuống mức có thể. Như vậy các khoản nợ phải thu và hàng tồn kho của Công ty tương đối hợp lý. Nguyên nhân của tình trạng sử dụng vốn lưu động kém hiệu quả là do lượng tiền tồn quá nhiều. Về tình hình tài chính, tổng số nợ của Công ty chiếm tỷ lệ thấp so với tổng số vốn sản xuất (15,9% đầu năm và 12,4% cuối năm). Từ những phân tích trên cho thấy để xây dựng một cơ cấu vốn hợp lý thì Công ty nên đầu tư vào tài sản cố định bằng phần vốn bằng tiền dư thừa. Cơ cấu vốn sản xuất của Công ty đầu năm là : Vốn lưu động : 140.903.835.000 đ Giá trị tài sản cố định : 90.579.976.000 đ Tổng tài sản : 231.483.811.000 đ Cơ cấu của tài sản lưu động. Tiền : 102.900.523.000 đ TSLĐ khác : 38.003.302.000 đ Tỷ suất thanh toán vốn lưu động : = 0,73 Chỉ tiêu này lớn hơn 0,5 chứng tở lượng tiền ứ đọng vì mức hợp lý của chỉ tiêu này là Ê 0,5 và ³ 0,1. Để đảm bảo khả năng thanh toán cao, giả sử chỉ tiêu tỉ suất thanh toán vốn lưu động đầu năm là 0,5 thì vốn bằng tiền là : 38.003.302.000 đ. Khi đó cơ cấu tài sản lưu động thay đổi. Tiền : 38.003.302.000 đ TSLĐ khác : 38.003.302.000 đ Tổng TLSĐ : 76.006.604.000 đ Vốn bằng tiền còn lại sau khi điều chỉnh cơ cấu vốn lưu động : 102.900.533.000 - 328.003.302.00 = 64.897.231.000 đ Với số vốn bằng tiền này đầu tư vào tài sản cố định sẽ mang lại hiệu quả cao hơn để ứ đọng. Nếu hiệu suất sử dụng tài sản cố định khi được đầu tư thêm vào không đổi thì năm 1998 doanh thu tăng thêm. 64.897.231.000 x 1,67 = 108.378.376.000 đ Khả năng thanh toán tức thời đầu năm là : = 1,035 Như vậy mặc dù giảm tiền nhưng khả năng thanh toán cao. Sau khi TSCĐ được đầu tư thì công suất thực tế sẽ nâng cao, lượng vốn lưu động dư thừa sẽ giảm, tăng vòng quay vốn lưu động. Để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn Công ty cần cố gắng giảm khối lượng nguyên vật liệu dự trữ để giảm hàng tồn kho đến mức tối thiểu. VII - Đào tạo đội ngũ lao động. Đội ngũ lao động có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng vốn nói riêng. Đội ngũ lao động hiện nay của Công ty đã được nâng cao trình độ, năng lực so với những năm trước. Tỷ lệ lao động có trình độ đại học từ 6,3% năm 1993 lên 11,2% năm 1997. Tỷ lệ lao động phổ thông giảm từ 90% (1993) xuống 83,6% (1997). Nhìn chung Công ty đã nhận thức được vai trò quan trọng của việc phát triển nhân lực thông qua đào tạo nâng cao năng lực trình độ lao động. Công ty đã có chương trình, phương pháp đào tạo phù hợp với điều kiện của mình như đào tạo chuyên gia đánh giá tác động môi trường, bồi dưỡng kiến thức liên quan đến công nghệ, bồi dưỡng đội ngũ đốc công, trưởng ca, tổ trưởng sản xuất. Ngoài ra Công ty tổ chức công tác nâng bậc, nâng cấp cho công nhân lao động. Tuy nhiên công tác đào tạo chưa hợp lý, Công ty chỉ tập trung đào tạo về nâng cao năng lực kỹ thuật, kinh tế trong khi đào tạo năng lực quản trị còn bỏ ngỏ. Hình thức đào tạo chưa phong phú, chỉ dừng lại ở các hình thức truyền thống như đào tạo ngắn hạn tại các trường đại học. Do vậy Công ty cần đổi mới hoạt động đào tạo. Công ty cần mở rộng nội dung đào tạo, kết hợp nâng cao năng lực chuyên môn kỹ thuật với nâng cao năng lực quản trị. Số người có trình độ trên đại học còn rất ít, Công ty có thể bố trí tuyển chọn những người có năng lực dưới 40 tuổi để đào tạo trên đại học, đặc biệt là chuyên ngành quản trị kinh doanh để nâng cao năng lực quản trị. Bên cạnh đó Công ty cần đào tạo bộ phận chuyên trách marketing. Không chỉ nâng cao trình độ chuyên môn, Công ty cần giáo dục các giá trị tinh thần góp phần làm phong phú trình độ nhận thức chung của người lao động. Công ty cần sử dụng các hình thức, phương pháp đào tạo hiện đại. Bên cạnh việc đào tạo tại các trường đại học Công ty cần mời các nhà quản lý có kinh nghiệm thực tiễn trong và ngoài nước để giảng dạy. Thay đổi phương pháp đào tạo bằng đào tạo tình huống. Ngoài ra Công ty cần sự giúp đỡ từ phía các nhà cung cấp công nghệ để nâng cao trình độ người lao động, làm chủ các công nghệ mới. Hiệu quả đào tạo đội ngũ lao động là rất lớn và khó đo lường kết quả đem lại. Hàng năm Công ty chi 1 triệu đồng cho một cán bộ công nhân viên để đào tạo thì tổng chi phí đào tạo khoảng 700 triệu. Đây là con số khiêm tốn so với lợi nhuận hàng năm của Công ty nhưng vẫn đảm bảo khả năng đào tạo. Để tiến hành đào tạo, vào thời kỳ sản xuất không bận rộn như vào đầu mùa đông, sau tết 1 tháng cán bộ công nhân viên có thể đi học theo sự sắp xếp của Công ty. Một số kiến nghị với Nhà nước. Nhà nước cần có những chính sách hỗ trợ Công ty bia Hà Nội để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn bên cạnh những nỗ lực của Công ty. Dưới đây là một số kiến nghị với Nhà nước. - Tạo điều kiện thuận lợi cho Công ty huy động vốn để đưa công suất lên 100 triệu lít / năm. Công ty cần huy động một lượng vốn là 500 tỷ đồng. Là một doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, đóng góp nhiều cho ngân sách, Công ty bia Hà Nội cần được sự cấp vốn của ngân sách để đổi mới công nghệ. Thông qua hệ thống ngân hàng, Nhà nước tạo điều kiện cho Công ty vay vốn nhanh chóng và có những nguồn vốn ưu đãi ,Nhà nước nên cho phép Công ty phát hành trái phiếu huy động vốn trong dân. - Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để hình thành rộng rãi các tổ chức tư vấn công nghệ, các cơ quan nghiên cứu công nghệ để tạo điều kiện cho doanh nghiệp tìm được công nghệ thích hợp cũng như nâng cao năng lực công nghệ. - Nhà nước cần có chính sách tài chính thích hợp để huy động các nguồn vốn ứ đọng vào sản xuất kinh doanh, hình thành và phát triển thị trường vốn, thị trường chứng khoán để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp khai thác mọi nguồn vốn. - Nhà nước kiên quyết thực hiện chống buôn lậu, hàng giả, tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và lành mạnh giữa các doanh nghiệp. Kết luận Với sự cạnh tranh gay gắt trong nền kinh tế thị trường hiện nay các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì phải tìm cách sử dụng vốn sao cho đạt hiệu quả cao nhất. Do đó vấn đề sử dụng vốn kinh doanh một cách có hiệu quả là hết sức thiết thực đối với doanh nghiệp. Trong phạm vi luận văn này em xin nêu ra một số giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng vốn của Công ty bia Hà Nội với những nội dung chủ yếu : * Về lý luận : Trình bày có hệ thống lý luận chung về hiệu quả sử dụng vốn. - Những vấn đề cơ bản của vốn sản xuất kinh doanh. - Vai trò của việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. - Những biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. * Về thực tiễn : - Trình bày một số đặc điểm của Công ty ảnh hưởng đến việc sử dụng vốn. - Phân tích thực trạng hiệu quả sử dụng vốn. - Đề ra một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Do thời gian và điều kiện có hạn nên nội dung luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong sự đóng góp giúp đỡ của thầy cô và các bạn. Xin chân thành cảm ơn sự nhiệt tình giúp đỡ của thầy giáo Trương Đức Lực và các cô, chú, anh chị trong phòng kế toán - tài vụ Công ty bia Hà Nội đã giúp em hoàn thành luận văn này. Tài liệu tham khảo 1. Quản trị tài chính doanh nghiệp. Vũ Duy Hào - Đàm Văn Huệ - NXB thống kê 1997 2. Quản trị tài chính doanh nghiệp. Lưu Thị Hương - NXB Giáo dục 1998 3. Phân tích tài chính doanh nghiệp. Josette Peyrard - NXB Thống kê 1997 4. Tài chính doanh nghiệp sản xuất Trường Đại học tài chính - kế toán Hà Nội - NXB Thống kê 1991 5. Bảo toàn và phát triển vốn. Nguyễn Công Nghiệp - Phùng Thị Đoan - NXB Thống kê 1992. 6. Giải pháp huy động, sử dụng nguồn vốn. Uỷ ban kế hoạch Nhà nước 1991 7. Quản lý tài chính vi mô Trung tâm xuất bản Hà Nội 1990 8. Niên giám thống kê 1996 9. Tạp chí Thông tin tài chính số 22/1998, số 1/1997. 10. Tạp chí Ngân hàng số 14/1998, số 9/1998. 11. Chế độ quản lý, sử dụng, trích khấu hao TSCĐ NXB Tài chính 1996. mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36768.doc