Chuyên đề Một số giải pháp nhằm tăng cường hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty chứng khoán Kim Long

Như vậy chúng ta đã xem xét một cách chi tiết về quá trình phát triển của KLS cũng như quá trình đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của KLS. Ra đời từ tháng 6 năm 2006 KLS đã có những bước phát triển vượt bậc so với các đối thủ cạnh tranh ra đời cùng thời gian với mình, đặc biệt là năm 2007 KLS đã có một sự phát triển vượt bậc thể hiện qua sự tăng trưởng tới 28 lần về lợi nhuận. Tuy nhiên hòa nhịp cùng TTCK Việt Nam KLS cũng có những vấp phải những khó khăn to lớn, đặc biệt là năm 2008 công ty phải chịu thua lỗ hơn 300 tỷ đồng. Những thành công và thất bại đó của KLS do nhiều tố đem lại, nhưng không thể kể đến một yếu tố hết sức quan trọng đó chính là hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của KLS. Mặc dù chưa thực sự phát huy tối đa hiệu quả nhưng hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của KLS đã có tác dụng nâng cao năng lực cạnh tranh của KLS thể hiện qua một số kết quả như làm cho KLS trở thành một thương hiệu nổi tiếng đối với các khách hàng, liên tục gia tăng thị phần trong vòng ba năm qua, có một trụ sở chính khang trang rộng rãi, và hệ thống phần mềm hiện đại hàng đầu trong số các CTCK của Việt Nam. Vẫn còn một số hạn chế trong công tác đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của KLS, nhưng hy vọng với những giải pháp đã đưa ra KLS có thể nâng tầm mình lên sánh ngang với các CTCK hàng đầu của Việt Nam hiện nay và góp phần nâng cao chất lượng của TTCK Việt Nam.

doc99 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1441 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp nhằm tăng cường hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty chứng khoán Kim Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ọp Đại hội đồng cổ đông,... * Dịch vụ khác: KLS đã triển khai làm đại lý đấu giá cho nhiều doanh nghiệp, trong đó bao gồm các doanh nghiệp lớn như Tổng Công ty Bảo Việt, Công ty Cổ phần Phân Đạm và Hóa Chất Dầu Khí, Công ty Cổ phần Đầu tư Phát triển Đô thị và Công nghiệp Sông Đà, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam..,triển khai đại lý phân phối chứng khoán cho Quỹ Đầu tư Doanh nghiệp hàng đầu Việt Nam (VF4) (tháng 01/2008). Mới đây nhất ngày 08/12/2008 Công ty chính thức làm đại lý đấu giá cổ phần của Ngân hàng Công thương Việt Nam, với số lượng cổ phần bán đấu giá là 53.600.000 cổ phần. Sau thời gian hơn ba năm hoạt động, KLS đã từng bước chiếm được niềm tin của khách hàng, tuy nhiên số lượng tài khoản giao dịch tại KLS vẫn khá khiêm tốn chỉ đạt hơn 5.500 tài khoản. b2. Nghiệp vụ tư vấn doanh nghiệp và bảo lãnh phát hành. * Tư vấn niêm yết: Thực hiện hoạt động tư vấn niêm yết, KLS cung cấp cho các công ty các dịch vụ: (1)Chuẩn hoá tài chính công ty phù hợp với các tiêu chuẩn niêm yết, (2) Xác định giá trị công ty, (3) Định giá chứng khoán niêm yết lần đầu, (4) Lập hồ sơ và xin phép Sở GDCK/TTGDCK để niêm yết chứng khoán, (5) Hỗ trợ công ty sau niêm yết. KLS đã tư vấn cho một số doanh nghiệp lớn niêm yết tại Sở GDCK TP.HCM và TTGDCKHN, tiêu biểu là hồ sơ của Công ty Cổ phần Sông Đà 2, Công ty Cổ phần phát triển Đô thị Kinh Bắc, Công ty Cổ phần Traphaco, Công ty Cổ phần Xây dựng số 5 (Vinaconex 5),... * Tư vấn chào bán chứng khoán huy động vốn: Từ tháng 11/2006 đến nay, KLS đã thực hiện tư vấn tài chính và chào bán chứng khoán thành công trên cả thị trường chứng khoán tập trung và phi tập trung cho nhiều doanh nghiệp lớn như Công ty Cổ phần Đầu tư phát triển đô thị và KCN Sông Đà (SJS), Công ty Cổ phần Đầu tư - Công nghiệp Tân Tạo (ITA), Công ty Công nghiệp Thương mại Sông Đà (STP), Công ty Cổ phần Traphaco,... KLS đang phấn đấu để hoạt động tư vấn tài chính và chào bán chứng khoán trở thành thế mạnh thực sự, xác lập vị thế của Công ty trong mảng hoạt động này. * Tư vấn chuyển đổi hình thức sở hữu doanh nghiệp: Mặc dù đã có dịch vụ này song vẫn chưa phát triển và còn ít doanh nghiệp được KLS tư vấn, thời gian qua, KLS chỉ thực hiện thành công được một dự án tư vấn chuyển đổi hình thức sở hữu doanh nghiệp cho Công ty TNHH United Motor Việt Nam (UMV). * Tư vấn quản trị doanh nghiệp: Đây là mảng mà KLS vẫn còn hạn chế, hầu hết KLS chỉ tư vấn công ty niêm yết và tư vấn chào bán chứng khoán huy động vốn còn mảng tư vấn quản trị doanh nghiệp, tư vấn chuyển đổi hình thức doanh nghiệp, tư vấn đầu tư còn hạn chế. * Hoạt động đại lý phát hành và bảo lãnh phát hành KLS đã cùng với Công ty Chứng khoán Bảo Việt đã thực hiện đồng bảo lãnh phát hành cho Công ty Cổ phần Giấy Hải Phòng (HAP), bảo lãnh phát hành cho Công ty Cổ phần United Motor Việt Nam. Ngoài ra, KLS còn làm đại lý phát hành cho một số doanh nghiệp lớn như Công ty Cổ phần Đầu tư phát triển Đô thị và Khu Công Nghiệp Sông Đà (SJS), Công ty Cổ phần Đầu tư - Công nghiệp Tân Tạo (ITA), Công ty Cổ phần Traphaco, Công ty Cổ phần Phát triển Đô thị Kinh Bắc (KBC),... Tuy nhiên nếu so với các CTCK khác như CTCK Bảo Việt và CTCK Ngân hàng Ngoại thương thì số khách hàng trong lĩnh vực này của KLS chưa cao và chưa phải là thế mạnh của KLS. b3. Nghiệp vụ lưu ký chứng khoán KLS đã hỗ trợ các nhà đầu tư mở tài khoản giao dịch tại KLS trong việc lưu ký các loại chứng khoán niêm yết. Trong hơn ba năm hoạt động, KLS đã hỗ trợ tích cực cho cổ đông của Công ty Cổ phần Sông Đà 2, Công ty Cổ phần Xây dựng số 5, Công ty Cổ phần Phát triển Đô thị Kinh Bắc,... thực hiện lưu ký chứng khoán tập trung tại Trung tâm lưu ký chứng khoán. c. Sự đa dạng hóa của dịch vụ Trong dịch vụ hỗ trợ giao dịch khách hàng KLS đã triển khai dịch vụ ứng trước tiền bán chứng khoán tự động cho khách hàng bắt đầu từ ngày 01/10/ 2008 . Công ty đã hoàn thành và đưa vào vận hành hệ thống ứng trước tiền bán chứng khoán tự động, ý tưởng triển khai dịch vụ này là của KLS và hiện thời chỉ duy nhất KLS cung cấp dịch vụ này cho Khách hàng của mình. Trong các dịch vụ gia tăng tiện ích đầu tư, cùng với việc cung ứng các dịch vụ mua bán chứng khoán truyền thống, KLS đã từng bước triển khai mở rộng và cung cấp các sản phẩm tiện ích khác như cầm cố chứng khoán, cho vay ứng trước tiền bán chứng khoán,... Trong nghiệp vụ tư vấn doanh nghiệp và bảo lãnh phát hành KLS đã có sự đa dạng hóa, cụ thể KLS đã có các dịch vụ tư vấn niêm yết, tư vấn chào bán chứng khoán huy động vốn, tư vấn chuyển đổi hình thức sở hữu doanh nghiệp, tư vấn quản trị doanh nghiệp Có thể nói việc đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh đã phát huy được hiệu quả trong việc tạo ra sự đa dạng hóa trong các dịch vụ của KLS, nhờ vậy mà hiện nay số lượng khách hàng của KLS ngày càng gia tăng. d. Mức độ chuyên nghiệp Mặc dù đây không phải là chỉ tiêu trực tiếp phản ánh kết quả và hiệu quả của hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của CTCK, nhưng xét một cách gián tiếp nó lại có liên quan đến hoạt động đầu tư này. Có thể nói sau ba năm đi vào hoạt động thì hiện này mức độ chuyên nghiệp của KLS đã được thể hiện khá rõ, cụ thể KLS đã xây dựng được chiến lược kinh doanh rõ ràng và khả thi, bộ máy hoạt động kinh doanh được tổ chức một cách khá khoa học, các quy trình cho từng nghiệp vụ được xây dựng một cách đầy đủ. Điều này nói lên một cách gián tiếp rằng hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của KLS đã có hiệu quả làm tăng mức độ chuyên nghiệp trong công ty. Không những thế sự chuyên nghiệp của KLS còn thể hiện qua một số khía cạnh sau: * Cơ sở vật chất khang trang Bắt đầu thành lập vào năm 2006 KLS phải đi thuê văn phòng làm việc trên đường Kim Mã, nhưng cuối năm 2007 công ty đã chuyển sang trụ sở chính mới được hoàn thành sau hơn 1 năm xây dựng trên đường Thành Công. Trụ sở mới của Công ty được đặt tại Tòa nhà KIMLONG BUILDING -địa chỉ tại 22 Thành Công, Ba Đình, Hà Nội với 01 tòa nhà 05 tầng khang trang trên diện tích đất 2.000 m2, diện tích mặt sàn mỗi tầng hơn 1.000 m2. Với thiết kế theo kiến trúc hiện đại, hệ thống hạ tầng công nghệ tiên tiến, trụ sở mới của KLS hoàn toàn đáp ứng yêu cầu về môi trường làm việc chuyên nghiệp cho toàn thể nhân viên cũng như nhu cầu giao dịch của các nhà đầu tư. Cũng nhờ chuyển sang trụ sở mới mà sàn giao dịch của KLS hiện được trang bị hiện đại, với diện tích khoảng 900m2, rất thoải mái đối với khách hàng, là nơi thường xuyên có rất đông các nhà đầu tư đến trong mỗi buổi giao dịch, đây cũng là nơi mà các nhà đầu tư có thể gặp gỡ lẫn nhau chia sẽ những kinh nghiệm, cảm xúc trong khi tham gia vào thị trường. Trụ sở này còn có một sân trước rất rộng dùng để xe ô tô, có thể chứa tới 15 chiếc xe ô tô, và một sân sau dùng để xe máy cho khách hàng và nhân viên trong công ty. * Máy móc, phương tiện vận tải và trang thiết bị hiện đại Với sự đầu tư không ngừng KLS đã có một hệ thống máy móc, trang thiết bị và công nghệ hiện đại. Cuối năm 2008 số máy tính các nhân đã lên tới 200 máy, trong khi con số này chỉ là hơn 170 máy vào năm 2007. Sàn giao dịch có , 08 bảng điện tử, 50 máy tính cá nhân, 4 camera phục vụ cho nhà đầu tư. Các phòng làm việc được trang bị đầy đủ máy tính cá nhân, điện thoại, máy in, máy fax, điều hòa nhiệt độ, đèn chiếu sáng, bàn ghế làm việc. Trên cùng tòa nhà có hệ thống mái che hấp thu năng lượng mặt trời có thể tiết kiệm phần nào chi phí sử dụng điện cho công ty. Hiện tại công ty có 6 ô tô đưa đón ban giám đốc hàng ngày và đưa đón nhân viên vào các dịp tiệc tùng. * Hệ thống công nghệ, phần mềm hiện đại. Hệ thống mạng của KLS được thiết kế với nhiều lớp theo đúng tiêu chuẩn của một số hãng bảo mật mạng hàng đầu hiện nay như Cisco. Với những thiết bị bảo mật cũng như các thiết bị mạng LAN,WAN hiện đại cùng với hệ thống cáp quang tốc độ cao kết nối giữa các tầng mạng, hệ thống dữ liệu đảm bảo luân chuyển nhanh và liên tục. Hệ thống mạng LAN được sử dụng lớp mạng đa tầng cùng với đường truyền tốc độ Gigabyte đồng bộ cho cả hệ thống từ máy PC đến server và giữa các switch. Để tăng tốc độ truy cập cũng như triển khai và tạo các đường truyền dự phòng nhằm duy trì sự ổn định trong hoạt động giao dịch, KLS hiện tại sử dụng đường truyền tốc độ cao của nhiều nhà cung cấp dịch vụ khác nhau như VNPT,VIETTEL, FPT. Với phương án dự phòng này, toàn bộ hệ thống luôn được đặt trong tình trạng sẵn sàng cao, khi đường truyền của một nhà cung cấp gặp sự cố sẽ không làm ảnh hưởng đến mọi hoạt động giao dịch diễn ra trong Công ty cũng như các kết nối tới Trung tâm và Sở giao dịch chứng khoán. KLS còn trang bị một hệ thống tổng đài hiện đại với những thiết bị tối ưu nhất của hãng sản xuất điện thoại nổi tiếng Siemen. Hệ thống tổng đài điện thoại tích hợp với VOIP được chia làm nhiều nhóm với những chức năng khác nhau cho phép nhà đầu tư thuận tiện hơn trong việc đặt lệnh hoặc hỏi đáp thắc mắc liên quan đến tài khoản. Với việc mở rộng tối đa lên 15.000 máy con, cũng như hơn 70 đường line điện thoại trượt vào, hệ thống tổng đài của KLS luôn đảm cho việc liên lạc ra ngoài cũng như gọi đến đặt lệnh của khách hàng thông suốt trong mọi điều kiện. KLS đã trang bị một hệ thống Server đồng bộ của HP với 30 máy servers có cấu hình mạnh chạy nhiều ứng dụng khác nhau, đảm bảo dữ liệu liệu kết nối liên tục với máy chủ. Ngoài ra KLS còn sử dụng công nghệ mạng SAN gồm hệ thống tủ đĩa (Storage) và hệ thống chuyển mạch (San Switch) ,một trong những công nghệ mạng mà không phải công ty chứng khoán nào cũng có thể thực hiện được vì những chi phí cũng như những cấu hình phức tạp. Hệ thống SAN với những kết nối chuyển mạch dùng cáp quang tốc độ 4GB cho phép truy xuất dữ liệu nhanh và an toàn. Toàn bộ hệ thống dữ liệu dùng cho mọi hoạt động của công ty được sử dụng nhiều loại cơ sở dữ liệu khác nhau như SQL và Oracle được sao lưu thường xuyên với một lịch trình tự động và được lưu trữ bằng băng từ. Để đảm bảo an toàn nguồn điện cho toàn bộ hệ thống mạng bao gồm Switch, router, firewall và các máy chủ, KLS đã đầu tư một hệ thống UPS công suất lớn có khả năng duy trì hoạt động tạm thời của toàn bộ hệ thống mạng phòng khi bị mất điện đột ngột. Ngoài ra KLS đã đầu tư một Data Center với diện tích hơn 70 m2 mang đầy đủ những tiêu chuẩn hiện đại với hệ thống điều hòa làm mát chính xác, hệ thống tĩnh điện, hệ thống tủ Rack đảm bảo an toàn cho máy Server cũng như thiết bị mạng hoạt động luôn luôn ổn định 24/7. KLS hiện đang trong quá trình đưa vào sử dụng phần mềm chứng khoán lõi, với những tính năng vượt trội so với các phần mềm chứng khoán hiện có ở Việt Nam. Đây là phần mềm hạt nhân cho mọi hoạt động quản lý và tác nghiệp của KLS, tuân thủ mọi quy định của pháp luật và quy trình nghiệp vụ của công ty chứng khoán. Phần mềm lõi chứng khoán của KLS được xây dựng và phát triển trên nền tảng công nghệ và ngôn ngữ lập trình mới nhất, với nhiều tính năng không những đáp ứng tốt mọi yêu cầu cơ bản mà còn đem lại cho khách hàng và người sử dụng nhiều tiện ích mới chưa hề có trên TTCKViệt Nam. Sau khi hoàn thiện, phần mềm lõi có đầy đủ tính năng của một phần mềm hiện đại, có khả năng kết nói đồng thời trực tiếp với nhiều Trung tâm/Sở giao dịch chứng khoán trong nước cũng như quốc tế. Phần mềm lõi chứng khoán của KLS có khả năng hoạt động liên tục, tập trung hóa dữ liệu, tốc độ xử lý cao, khả năng mở rộng và kết nối linh hoạt với các phần mềm khác (GL, ERP, CRM,...)… Bên cạnh phần mềm chứng khoán lõi, KLS còn tự nghiên cứu và phát triển nhiều phần mềm ứng dụng phục vụ khách hàng qua Internet như: Website cung cấp thông tin chứng khoán, bảng điện tử Infoshow phục vụ cập nhật trực tuyến giá chứng khoán, hệ thống SMS gửi tin nhắn thông báo thông tin đến nhà đầu tư,… Ngày 09/05/2008 Công ty đã thay đổi hệ thống phần mềm giao dịch tại Công ty đó là: Thay thế hệ thống phần mềm BOSC bằng hệ thống phần mềm mới hiện đại KAMS. Ngoài ra KLS luôn là công ty chứng khoán đi đầu trong việc sử dụng phần mềm có bản quyền: Windows server 2003, Window XP, Exchange,… Tóm lại, hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của KLS đã có hiệu quả trong việc tạo ra một CTCK hoạt động chuyên nghiệp trong các khâu: cơ cấu tổ chức, qui trình nghiệp vụ, phong cách làm việc của nhân viên, cơ sở vật chất, máy móc thiết bị, công nghệ hiện đại. Đây là một kết quả hết sức đáng khen trong việc đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của KLS nó có thể giúp cho KLS nhanh chóng đuổi kịp các bậc đàn anh trên TTCK mặc dù là một CTCK ra đời sau rất nhiều. e. Mức độ hài lòng của khách hàng Qua điều tra mẫu trên thị trường ngày 13/12/2008, KLS đã tiến hành hỏi 100 khách hàng tại sàn giao dịch của KLS, thì có đến 60 người nói rằng hài lòng với các dịch vụ của KLS mà họ tham gia, 27 người cho rằng các dịch vụ là chấp nhận được và số còn lại chưa hài lòng với các dịch vụ của KLS. Điều này cho thấy mặc dù tỷ lệ hài lòng là khá cao và mẫu điều tra là khá nhỏ chỉ với 100 người, xong việc có 13% nói không hài lòng với các dịch vụ của KLS cho thấy rằng KLS phải nâng cao hơn nữa chất lượng dịch vụ của mình để cạnh tranh với các CTCK hàng đầu khác. g. Sự phát triển của thương hiệu Mới thành lập vào năm 2006 nên có lẽ vào thời điểm đó ít nhà đầu tư biết đến KLS, tuy nhiên chỉ sau một năm Kim Long đã trở nên nổi tiếng và được đông đảo nhà đầu tư quan tâm, mở tài khoản. Một trong những minh chứng rõ nhất đó chính là từ cuối đầu năm 2008 đến nay mã chứng khoán KLS cùng với mã ACB luôn là hai mã có khối lượng giao dịch lớn nhất trên sàn HASTC. Cho đến bây giờ thì chắc hẳn không có nhà đầu tư nào tham gia vào TTCK mà không biết đến KLS. Tuy nhiên đó chỉ là việc thương hiệu KLS được khách hàng biết đến còn việc khách hàng tin tưởng và sử dụng dịch vụ của KLS thì lại chưa cao, điều này được thể hiện khá rõ qua miếng bánh thị phần của KLS hiện nay còn khá nhỏ. Hiện nay hình thức chủ yếu trong đầu tư vào Marketing của KLS vẫn chỉ dừng lại ở các chương trình quảng bá,tài trợ nhỏ cho sinh viên hoặc tổ chức các cuộc hội thảo mà chưa có những chương trình lớn để khẳng định thương hiệu công ty. Hơn nữa hiện nay khách hàng của KLS chủ yếu là nhà đầu tư trong nước còn các nhà đầu tư nước nước ngoài và các tổ chức lớn vẫn tập trung chủ yếu tại các CTCK hàng đầu. Ngoài ra cách thức thực hiện cụ thể của hoạt động đầu tư vào Marketing vẫn mang tính truyền thống chưa đa dạng, phong phú, chưa áp dụng các biện pháp hiện đại khi mà internet đang ngày càng đi sâu vào đời sống người dân. h. Qui mô hoạt động của công ty Hiện nay số chi nhánh của KLS mới chỉ có một. Những CTCK hàng đầu tại Việt Nam thường có từ ba, bốn chi nhánh, đại lý nhận lệnh trở nên trong khi đó KLS mới chỉ có một chi nhánh tại Thành phố. Hồ Chí Minh, điều này làm cho thị phần của KLS khó có thể cạnh tranh được so với các công ty khác. Sở dĩ qui mô hoạt động của KLS vẫn còn hạn chế vì công ty chưa chú trọng đầu tư làm tăng qui mô hoạt động qua việc mở thêm chi nhánh, tuyển thêm nhân viên tại các tỉnh ngoài Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. 2.2.2.3. Đánh giá khái quát hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của KLS giai đoạn 2006-2008 a. Những kết quả tích cực của hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của KLS - Tuy rằng hiện này thị phần của KLS vẫn còn nhỏ so với các CTCK hàng đầu trên TTCK Việt Nam, nhưng thị phần của KLS đã không ngừng gia tăng trong vòng ba năm qua. Không những thế thị phần trên một đơn vị vốn đầu tư của KLS cũng gia tăng mỗi năm trong vòng ba năm qua, thể hiện rằng hiệu quả đồng vốn đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của KLS đang tăng lên - Năm 2007 KLS đã có một năm đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh đúng hướng và hiệu quả dẫn đến lợi nhuận của KLS đã tăng đột biến so với năm 2006, cùng với đó là chỉ tiêu mức tăng lợi nhuận trên vốn đầu tư và chỉ tiêu ROA cũng tăng đột biến trong năm 2007 không kém gì so với các CTCK hàng đầu trên TTCK Việt Nam. - Sau hơn ba năm hoạt động đội ngũ nhân viên của KLS đã tăng về số lượng từ 47 lên 111 người, trong đó có một số được công ty cử đi đào tạo tại Singapore đã trở về. Không những thế tinh thần làm việc và sự trung thành của nhân viên KLS cũng tăng lên, nhờ có chính sách đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh vào nguồn nhân lực của KLS. - Chất lượng dịch vụ của KLS trong nghiệp vụ môi giới giao dịch chứng khoán đã gia tăng đáng kể. - KLS đã có sự đa dạng hóa trong dịch vụ của mình nhất là ở các nghiệp vụ môi giới giao dịch chứng khoán và nghiệp vụ tư vấn doanh nghiệp. - Mức độ chuyên nghiệp trong hoạt động của KLS đã được nâng lên không kém gì các CTCK hàng đầu khác. - Nhờ có sự đầu tư vào phát triển thương hiệu đúng đắn, hiện nay thương hiệu của KLS đã trở nên nổi tiếng đối với nhà đầu tư, và khách hàng. b. Những hạn chế của hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của KLS - Cơ cấu vốn đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của KLS chưa hợp lý, KLS đã quá chú trọng đầu tư vào cơ sở hạ tầng, máy móc thiết bị, công nghệ mà chưa chú ý đến hoạt động đầu tư vào nguồn nhân lực và đầu tư phát triển thương hiệu. - Đầu tư vào nguồn nhân lực còn hạn chế về hình thức đào tạo và cách thức thực hiện. Nguồn nhân lực của KLS chất lượng còn thấp so với các đối thủ cạnh tranh hàng đầu trên TTCK và kinh nghiệm còn hạn chế. - Hoạt động đầu tư phát triển thương hiệu chưa đa dạng và chưa đúng mức. Hiện nay hình thức chủ yếu trong đầu tư vào Marketing của KLS vẫn chỉ dừng lại ở các chương trình quảng bá,tài trợ nhỏ cho sinh viên hoặc tổ chức các cuộc hội thảo mà chưa có những chương trình lớn để khẳng định thương hiệu công ty. Cách thức thực hiện cụ thể của hoạt động đầu tư vào Marketing vẫn mang tính truyền thống chưa đa dạng, phong phú, chưa áp dụng các biện pháp hiện đại. - Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của KLS chưa làm qui mô hoạt động của KLS tăng lên. Hiện nay số chi nhánh của KLS mới chỉ có một tại Thành Phố Hồ Chí Minh. - Mức độ hài lòng của khách hàng với chất lượng dịch vụ của KLS vẫn chưa thực sự cao. Qua điều tra mẫu thì có tới 13% nói chưa hài lòng với các dịch vụ của KLS, trong khi con số này ở các CTCK hàng đầu của Việt Nam khá thấp. - Một số dịch vụ của KLS còn hạn chế so với các đối thủ cạnh tranh như tư vấn chuyển đổi hình thức sở hữu doanh nghiệp, tu vấn quản trị doanh nghiệp, hoạt động đại lý phát hành và bảo lãnh phát hành. 2.2.2.4. Nguyên nhân của những hạn chế. Hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh còn một số hạn chế đã nêu, nguyên nhân của những hạn chế đó là: - Quá trình đầu tư chỉ chú trọng vào việc đáp ứng những yêu cầu trước mắt, hiện tại mà chưa có kế hoạch chiến lược phát triển lâu dài. Hầu hết các dự án, kế hoạch đầu tư của công ty khi thực hiện đều đem lại hiệu quả ngay tức thì chưa có những dự án mà có thể hiện nay chưa phát huy hiệu quả, nhưng trong tương lai sẽ đem lại hiệu quả to lớn cho công ty. - Hoạt động đầu tư nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của KLS chưa thực sự bài bản, xem nhẹ khâu chuẩn bị đầu tư lẽ ra phải bao gồm các bước cụ thể, rõ ràng đó là: nghiên cứu cơ hội đầu tư, lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, lập báo cáo nghiên cứu khả thi, và thẩm định. - Nguồn nhân lực nói riêng cho công tác lập kế hoạch đầu tư còn chưa cao, dẫn đến hậu quả là hiệu quả đầu tư chưa ổn định. Công ty hiện nay chưa có nhân viên thực sự chuyên làm việc lập kế hoạch đầu tư, thẩm định dự án đầu tư, giám sát đầu tư. - Công ty chưa chú trọng cho hoạt động đầu tư. Do hiện nay công ty quá chú trọng vào kinh doanh mà chưa quan tâm đúng mức tới việc đầu tư cho phát triển lâu dài. Điều này được thể hiện là KLS chưa có phòng, ban nào chuyên đảm nhận về công việc đầu tư nhằm nâng cao sức cạnh tranh mà chỉ lấy nhân lực từ các phòng chức năng nghiệp vụ để phục vụ cho những kế hoạch và triển khai kế hoạch mỗi khi có những dự án đầu tư. CHƯƠNG 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CTCK KIM LONG 3.1. Định hướng phát triển của công ty chứng khoán Kim Long 3.1.1 Triển vọng của TTCK Việt Nam đến năm 2015 Hiện nay TTCK Việt Nam đang bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu làm cho VNIndex đã có lúc rơi xuống đáy 240 điểm, theo nhiều chuyên gia có thể cuối năm 2009 khi mà các yếu tố vĩ mô ấm dần lên thì TTCK có thể sẽ phục hồi trở lại, tuy nhiên để có thể phục hồi như thời điểm trước khi có khủng hoảng tài chính toàn cầu thì còn phải mất nhiều thời gian nữa. Tuy nhiên xét trong dài hạn thì TTCK Việt Nam rất có triển vọng bởi vì nền kinh tế Việt Nam đang tăng trưởng rất nhanh, rất nhiều công ty lớn kể cả các công ty có vốn đầu tư nước ngoài vẫn chưa niêm yết trên TTCK, còn rất nhiều nhà đầu tư là các cá nhân chưa vào cuộc. Hơn nữa, hiện nay Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới nên các cá nhân và tổ chức nước ngoài chắc chắn sẽ đầu tư vào TTCK Việt Nam nhiều hơn nữa. Vì vậy nhìn dài hại, rất nhiều chuyên gia nhận định rằng TTCK Việt Nam là một kênh huy động vốn quan trọng cho các doanh nghiệp muốn huy động vốn phục vụ cho mục tiêu đầu tư mở rộng sản xuất, tái sản xuất, và là một kênh đầu tư có khả năng sinh lời rất cao cho các nhà đầu tư muốn tìm kiếm lợi nhuận. Vì thế các CTCK với vai trò như những mắt xíc nối nhà đầu tư và các doanh nghiệp với thị trường sẽ có cơ hội rất lớn để phát triển trong dài hạn. 3.1.2. Phân tích SWOT của KLS 3.1.2.1. Strengths ( Điểm mạnh ) - KLS có thương hiệu phát triển Mặc dù mới thành lập và đi vào hoạt động được ba năm nhưng KLS đã được đông đảo nhà đầu tư và các doanh nghiệp biết tới trên TTCK Việt Nam. Cổ phiếu của KLS cùng với cổ phiếu của Ngân hàng Á Châu luôn là hai mã dẫn đầu thị trường về khối lượng giao dịch trên sàn Hà Nội trong một năm trở lại đây. Chính điều này khiến cho KLS cùng với CTCK Sài Gòn (SSI) và CTCK Bảo Việt (BVS) luôn thu hút được sự quan tâm chú ý của rất nhiều các nhà đầu tư hơn các CTCK khác hiện có trên thị trường. - Hệ thống phần mêm hiện đại KLS ra đời khá muộn so với các CTCK trên TTCK Việt Nam, với lợi thế là một CTCK mới ra đời KLS đã mạnh dạn đầu tư rất nhiều vốn vào phát triển công nghệ. Và sự đầu tư đó đem lại hiệu quả hiện nay KLS có một hệ thống công nghệ phần mềm rất hiện đại. Ngày 24/12/2008 SGDCK TP HCM đã công bố danh sách 38 trên tổng số 70 CTCK thành viên đạt yêu cầu kỹ thuật kết nối giao dịch trực tuyến với HOSE, với lợi thế này KLS sẽ tạo điều kiện thuận tiện nhất cho các nhà đầu tư tại KLS khi HOSE tiến tới áp dụng giao dịch không sàn trong thời gian tới. 3.1.2.2. Weaknesses ( Điểm yếu ) - Năm 2008 KLS là CTCK thua lỗ lớn thứ ba trên trong số các CTCK với lợi nhuận là -347.4 tỷ đồng Mặc dù bối cảnh năm 2008 tất cả các CTCK đều gặp khó khăn song KLS lại đứng thứ ba trong danh sách các CTCK lỗ lớn nhất trên TTCK. Điều này sẽ gây ra một ảnh hưởng không tốt tới tâm lý của các khách hàng khiến cho họ không an tâm vào chất lượng dịch vụ tại KLS. Thêm vào đó với số lỗ lớn như vậy KLS sẽ đã mất đi một phần lớn trong tổng tài sản của mình, và nguồn vốn giành cho hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh cũng bị thu hẹp đi rất nhiều. - Thị phần của KLS hiện nay vẫn còn rất nhỏ so với các đối thủ cạnh tranh hàng đầu Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCK) cho biết, tính đến hết quý II/2008, thị phần môi giới của các CTCK tuy vẫn tập trung mạnh ở các công ty lớn, mặc dù đang có sự dịch chuyển dần sang các CTCK mới hoạt động. Cụ thể, 3 công ty là Công ty Chứng khoán Ngân hàng Ngoại thương (VCBS), Công ty Chứng khoán Ngân hàng Á châu (ACBS) và Công ty Chứng khoán Sài Gòn (SSI) hiện chiếm gần 55% thị phần. Trong đó, VCBS chiếm khoảng 22%, ACBS xấp xỉ 22% và SSI chiếm 10,92% thị phần; tiếp theo là nhóm Công ty Chứng khoán Bảo Việt với 3,7% thị phần; Công ty Chứng khoán Ngân hàng Đầu tư và Phát triển (BSC) nắm 4,82% thị phần.... Nhóm công ty mới hoạt động gồm Công ty Chứng khoán FPT (FPTS) nắm 1%, Công ty Chứng khoán Kim Long (KLS) chỉ nắm 0,92% thị phần. - Khách hàng của KLS hiện nay hầu hết là các nhà đầu tư cá nhân trong nước không có nhiều nhà đầu tư nước ngoài và nhà đầu tư có tổ chức Dù được biết đến như là một CTCK mới nổi nhưng hiện nay hầu hết các khách hàng có tài khoản tại KLS lại chỉ là các nhà đầu tư cá nhân trong nước, hầu như không có các nhà đầu tư nước ngoài và các nhà đầu tư có tổ chức. Có lẽ bởi vì các nhà đầu tư có tổ chức còn chưa thực sự tin tưởng vào KLS, và do ra đời muộn hơn so với các đối thủ cạnh tranh hàng đầu nên miếng bánh thị phần này của KLS đã bị chiếm lĩnh hết. 3.1.2.3. Opportunities ( Cơ hội ) - TTCK Việt Nam sẽ phát triển trong dài hạn Với một nền kinh tế hàng năm tăng trưởng cao so với các nước trong khu vực và Châu Á như Việt Nam thì TTCK Việt Nam hứa hẹn sẽ còn phát triển bển vững trong dài hạn, bởi vì TTCK luôn là kênh huy động vốn rất quan trọng đối với các doanh nghiệp và là kênh đầu tư mang lại lợi nhuận cao đối với các nhà đầu tư. Trong bối cảnh đó các CTCK với vai trò như những mắt xích quan trọng trên TTCK sẽ có cơ hội rất lớn để phát triển, mở rộng thị phần Hơn nữa hiện nay vẫn còn một bộ phận rất lớn các cá nhân có tiềm lực kinh tế chưa tham gia vào TTCK, mà sẽ hứa hẹn trong tương lai sẽ đầu tư vào kênh này, cũng như còn rất nhiều các doanh nghiệp lớn chưa niêm yết trên TTCK Việt Nam nên trong tương lai các CTCK sẽ có cơ hội rất lớn để mở rộng thị phần, thu hút được nhiều các khách hàng là các nhà đầu tư, các doanh nghiệp. - Sự gia tăng thị phần, và sự phát triển về thương hiệu của KLS trong thời gian qua. Thị phần của KLS không ngừng gia tăng trong giai đoạn 2006-2008, hứa hẹn là một dấu hiệu tích cực đối với KLS, năm 2009 KLS đã nâng vốn điều lệ lên 600 tỷ đồng, trở thành một trong những CTCK có vốn điều lệ lớn nhất TTCK Việt Nam, mở ra triển vọng phát triển đối với công ty. Thương hiệu KLS đã trở nên nổi tiếng nhất là với giới đầu tư, ít ai tham gia vào TTCK mà lại không biết đến mã chứng khoán KLS khi mà mã này luôn có khối lượng giao dịch lớn nhất sàn Hà Nội cùng với mã ACB của Ngân hàng Á châu. Không những thế KLS cũng được biết đến đối với các sinh viên, những chủ nhân tương lai của nền kinh tế Việt Nam, bởi các chương trình tài trợ, các chương trình học bổng cho sinh viên. Với những dấu hiệu tích cực đó, KLS đang có cơ hội lớn để nâng tầm của mình lên sánh ngang với các CTCK hàng đầu của Việt Nam hiện nay. - Thời gian tới KLS sẽ phát triển chi nhánh tại Thành phố Hồ Chí Minh và mở thêm chi nhánh tại Hà Nội và Hải Phòng. Trong chiến lược phát triển của công ty, ban lãnh đạo và các cổ đông của KLS đã có kế hoạch phát triển chi nhánh tại Thành phố Hồ Chí Minh cho lớn mạnh không kém trụ sở chính tại Hà Nội. Thêm vào đó trong tương lai KLS sẽ mở thêm một đại lý nhận lênh tại Hà Nội và một chi nhánh tại Hải Phòng, do khoảng cách về địa lý các nhà đầu tư tại các tỉnh khó có cơ hội được tiếp cận với KLS, chính vì vậy KLS sẽ có kế hoạch mở thêm một chi nhánh tại Hải phòng nhằm tranh chấp thị phần với CTCK Hải Phòng hiện nay đang chiếm lĩnh thị phần lớn tại Hải Phòng. 3.1.2.4. Threats ( Đe dọa ) - TTCK Việt Nam trong năm 2009 còn gặp nhiều khó khăn Theo nhận định của các chuyên gia năm 2009 sẽ tiếp tục là một năm khó khăn đối với TTCK Việt Nam do ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng tài chính thế giới, nền kinh tế Việt Nam dự đoán chỉ tăng trưởng ở mức 5% trong năm 2009, và phải đến cuối năm 2009 chúng ta mới có thể phục hồi nền kinh tế. Chính vì vậy mà các CTCK trong năm 2009 sẽ phải đối mặt với tình trạng các nhà đầu tư không mặn mà với TTCK, các doanh nghiệp hoãn chưa niêm yết trên TTCK, đây sẽ là một khó khăn lớn với các CTCK. - Đối thủ cạnh tranh. Theo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCK) cho biết, tính đến hết quý II/2008, thị phần môi giới của các CTCK tuy vẫn tập trung mạnh ở các công ty lớn, mặc dù đang có sự dịch chuyển dần sang các CTCK mới hoạt động. Cụ thể, 3 công ty là Công ty Chứng khoán Ngân hàng Ngoại thương (VCBS), Công ty Chứng khoán Ngân hàng Á châu (ACBS) và Công ty Chứng khoán Sài Gòn (SSI) hiện chiếm gần 55% thị phần. Trong đó, VCBS chiếm khoảng 22%, ACBS xấp xỉ 22% và SSI chiếm 10,92% thị phần; tiếp theo là nhóm Công ty Chứng khoán Bảo Việt với 3,7% thị phần; Công ty Chứng khoán Ngân hàng Đầu tư và Phát triển (BSC) nắm 4,82% thị phần.... Nhóm công ty mới hoạt động gồm Công ty Chứng khoán FPT (FPTS) nắm 1%, Công ty Chứng khoán Kim Long (KLS) chỉ nắm 0,92% thị phần. Chính vì vậy thời gian tới KLS sẽ phải nỗ lực rất lớn nếu muốn giành được thị phần từ các CTCK hàng đầu. - Môi trường pháp lý chưa hoàn thiện Chính thức đi vào hoạt động từ tháng 7/2000, TTCK Việt Nam, tuy nhiên môi trường pháp lý đặc biệt là trong TTCK vẫn chưa thực sự hoàn thiện, hiện nay hiệu lực pháp lý của các văn bản còn thấp, chế tài sử phát với các vi phạm chưa đủ mạnh để răn đe các sai phạm diễn ra trên TTCK. Hơn nữa tính khả thi của các quy định pháp lý còn hạn chế. Các quy định mang tính nguyên tắc cho vận hành thị trường được xây dựng chủ yếu dựa trên lý thuyết, không có cơ sở thực tiễn. - Thị trường vẫn còn thiếu minh bạch Đã có rất nhiều ý kiến đóng góp về tình hình thiếu minh bạch của TTCK Việt Nam, nhưng hiện nay tình trạng này còn còn tiếp diễn, đã có rất nhiều các tình huống do thông tin sai lệch, do tin đồn mà nhiều nhà đầu tư phải thua thiệt. Hơn nữa hiện nay hệ thống kiểm toán của Việt Nam chưa thưc sự phản ánh đúng chính xác tình hình hoạt động của các doanh nghiệp, vẫn có tình trạng doanh nghiệp làm ăn thua lỗ nhưng vẫn báo cáo có lãi. 3.1.3. Mục tiêu của KLS đến năm 2015. * Gia tăng thị phần ngang bằng với các CTCK hàng đầu hiện nay Hiện nay thị phần của KLS còn khá nhỏ so với các CTCK hàng đầu như Công ty Chứng khoán Ngân hàng Ngoại thương (VCBS), Công ty Chứng khoán Ngân hàng Á châu (ACBS) và Công ty Chứng khoán Sài Gòn (SSI). Mục tiêu của KLS tới năm 2015 là phải đẩy mạnh việc phát triển thị phần của KLS ngang bằng với các đối thủ cạnh tranh hàng đầu. * Đạt lợi nhuận cao trong các năm. Mặc dù năm 2008 KLS bị thua lỗ khá nặng, xong đó là do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, dự kiến sẽ kết thúc vào cuối năm 2009 đầu năm 2010. Chính vì vậy KLS đặt ra mục tiêu là đạt lợi nhuận cao trong các năm hoạt động từ giờ tới năm 2015. Bởi vì chỉ có giành được lợi nhuận cao công ty mới có nền tảng phát triển bền vững trên TTCK. * Tạo ra một thương hiệu hàng đầu trong lĩnh vực chứng khoán. Hiện nay thương hiệu của KLS chưa thực sự được biết đến là một CTCK có chất lượng tốt mà chỉ được biết đến như là một CTCK tầm trung mới nổi, chính vì vậy KLS đặt ra mục tiêu là tạo được một thương hiệu hàng đầu trên TTCK Việt Nam. * Xây dựng bộ máy tổ chức khoa học, có công nghệ tiên tiến và nguồn nhân lực chất lượng. Để thực hiện các mục tiêu của mình trong tương lai, KLS đặt ra một mục tiêu đó là phải có ba yếu tố quyết định tới sự phát triển của KLS đó là: bộ máy tổ chức khoa học, công nghệ tiên tiến và nguồn nhân lực chất lượng. Nếu thiếu một trong ba yếu tố đó thì không thể đạt được các mục tiêu đã đề ra. * Nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho nhân viên. Muốn nhân viên làm việc hết sức mình, cống hiến toàn bộ tâm huyết cho công ty thì phải đảm bảo cho họ một đời sống vật chất tinh thần cao. KLS hiểu được điều này và đã đề ra mục tiêu đảm bảo đời sống vật chất tinh thần cho nhân viên thông qua chính sách khuyến khích vật chất. 3.2. Một số giải pháp nhằm tăng cường hoạt động đầu tư góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của KLS. 3.2.1. Đa dạng hóa nguồn vốn đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của KLS. Để hoạt động có hiệu quả thì yêu cầu đặt ra đối với KLS là phải huy động được vốn đầu tư nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho công ty. KLS có thể căn cứ vào mục tiêu phát triển của công ty, tình hình của TTCK và những cơ hội, thách thức để đề ra các giải pháp cụ thể để có thể huy động vốn được từ nhiều nguồn khác nhau. Có rất nhiều hình thức để huy động vốn cho CTCK. Hiện nay KLS đã thực hiện khá tốt những hình thức huy động vốn như thông qua việc phát hành cổ phiếu, huy động vốn tự có, huy động vốn qua các tổ chức tài chính, tuy nhiên KLS lại chưa chú trọng vào hình thức huy động vốn từ cán bộ, công nhân viên của công ty. Có thể huy động vốn từ cán bộ, công nhân viên vì hiện nay thu nhập của các nhân viên chứng khoán nói chung vẫn khá cao. So với việc đi vay vốn từ các tổ chức tìn dụng thì hình thức huy động này tỏ ra có ưu thể hơn ở chỗ không chịu sự giám sát từ tổ chức cho vay, không phải có tài sản đảm bảo. Để làm được điều này KLS phải làm theo các bước cụ thể sau đây: - Chuẩn bị kế hoạch vay vốn từ cán bộ, nhân viên trong công ty, xem xét số lượng vốn cần vay, thời gian hoàn trả và lãi suất thích hợp, lên danh sách dự kiến số nhân viên có thể cho công ty vay vốn - Thông báo cho toàn thể cán bộ, nhân viên trong công ty biết về nhu cầu vay vốn này thông qua mạng Lan trong công ty hoặc mở một cuộc họp giữa ban lãnh đạo và toàn thể nhân viên trong công ty, và phải nói rõ việc vay vốn nhằm vào mục đích gì, cách thức cho vay và trả lãi cụ thể. - Nếu như ai có nhu cầu cho công ty vay vốn thì công ty có thể tiến hành làm một khế ước vay tiền với nhân viên đó hoặc thành lập hợp đồng vay vốn trung hoặc dài hạn với từng nhân viên. Trong hợp đồng phải ghi rõ số lượng vốn vay, thời gian vay, lãi suất và một số điều khoản khác. 3.2.2. Chuyển dịch cơ cấu đầu tư ngày càng hợp lý hơn. Việc doanh nghiệp huy động được vốn đầu tư cho hoạt động đầu tư đã khó thì việc sử dụng thế nào cho hiệu quả nguồn vốn đó càng phức tạp hơn. Trong lĩnh thời gian qua KLS đã đầu tư nhiêu vào cơ sở hạ tầng, máy móc thiết bị, tuy nhiên để phát huy được tối đa hiệu quả đồng vốn thì KLS phải sử dụng nguồn vốn huy động được một cách hài hòa hợp lý hơn, cụ thể công ty phải chuyển dịch cơ cấu vốn đầu tư theo hướng tăng vốn đầu tư cho nguồn nhân lực và phát triển thương hiệu hơn nữa. Hiện nay tỷ lệ vốn đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh cho nguồn nhân lực và phát triển thương hiệu của KLS ở mức rất thấp so với các nội dung khác. Chính vì vậy trong thời gian tới năm 2015 KLS cần phải nỗ lực nâng cao tỷ lệ này lên. Cụ thể đối với nguồn vốn đầu tư vào nguồn nhân lực KLS có thể nâng tỷ lệ này lên 20% so với tổng vốn đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh ( tỷ lệ này hiện đang được một số CTCK có tên tuổi áp dụng như CTCK Thăng Long, CTCK FPT ). Với nguồn vốn đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh cho phát triển thương hiệu và nâng cao chất lượng dịch vụ hiện nay ở mức rất thấp 4.76% trong thời gian tới KLS cần phải nâng tỷ lệ này lên 20% nhằm tạo ra một thương hiệu phát triển và gia tăng chất lượng sản phẩm dịch vụ. Để có thể chuyển dịch được một cơ cấu đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh như vậy KLS cần phải làm một số việc cụ thể sau: - Nhận thức lại về tầm quan trọng của đầu tư vào nguồn nhân lực cũng như đầu tư phát triển thương hiệu và đầu tư nâng cao chất lượng dịch vụ - Giảm bớt vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng và đầu tư vào máy móc thiết bị không cần thiết, vì hiện nay KLS có rất nhiều máy móc thiết bị không cần thiết bỏ không như một số máy tính điện thoại chưa được sử dụng, công ty có quá nhiều ô tô không dùng đến… - Trong hoạt động đầu tư vào nguồn nhân lực và đầu tư phát triển thương hiệu, chất lượng dịch vụ cần chú trọng áp dụng thêm nhiều hình thức tiên tiến cho dù có phải tốn nhiều vốn đầu tư cũng phải chấp nhận. Ví dụ trong đào tạo nhân lực có thể cử một số nhân viên giỏi đi học nước ngoài dù cho hình thức đào tạo này khá tốn kém. - Tránh thất thoát lãng phí trong việc đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh bằng một số biện pháp sẽ được đề cập ở phần sau. - Coi trọng công tác lập kế hoạch chuẩn bị đầu tư sẽ được đề cập ở phần sau, bởi vì chỉ khi có một quá trình lập kế hoạch cẩn thận thì cơ cấu vốn đầu tư mới được phân bổ một cách hợp lý 3.2.3. Coi trọng công tác lập kế hoạch, chuẩn bị đầu tư. - Công tác lập kế hoạch phải dựa trên cơ sở tài liệu quá khứ và hài hòa các kế hoạch ngắn và dài hạn của công ty. Vì nếu chỉ tập trung vào kế hoạch ngắn hạn thì sẽ chỉ đáp ứng được các mục tiêu trước mắt mà không có sự chuẩn bị tạo đà cho các kế hoạch trung và dài hạn. - Trong kế hoạch công ty cần có dự báo và phải có nhiều phương án khác nhau để giải quyết các tình huống có thể xảy ra, sẽ giảm thiểu rủi ro, tránh trạng thái bị động và tăng khả năng thành công của kế hoạch. - Trong công tác lập kế hoạch cần có sự giám sát của người quản lý nhằm đảm bảo cho kế hoạch không xa rời mục tiêu phát triển của công ty, đảm bảo tiến độ, đảm bảo khách quan. Ngoài ra việc này sẽ tạo ra động lực khuyến khích cán bộ lập kế hoạch hoàn tốt công việc được giao. - Kế hoạch lập ra cần đảm bào phù hợp với chính sách của nhà nước và phù hợp với xu thế thời đại nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh. 3.2.4. Sử dụng vốn có hiệu quả, tránh thất thoát lãng phí. Trong hoạt động đầu tư KLS cần thực hiện một cách có trọng điểm tránh tình trạng thất thoát lãng phí vốn đầu tư. KLS cần phải quản lý chặt chẽ vấn đề thu chi và kiểm toán về tình trạng sử dụng vốn, chỉ khi làm được điều này thì công ty mới hạn chế được tình trạng thất thoát lãng phí và đảm bảo thực hiện theo đúng mục tiêu đã đề ra. Để đảm bảo sử dụng vốn có hiệu quả tránh thất thoát lãng phí KLS phải làm được những việc cụ thể sau: - Phải có đường lối chiến lược đầu tư đúng đắn, đầu tư phải có trọng điểm, tránh phân tán tản mạn, coi trọng tính hệ thống, tính đồng bộ của đầu tư xây dựng cơ bản để có được hiệu quả tối đa. Khi ra một quyết định đầu tư phải lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chuẩn cơ bản, để xây dựng phương án phát triển. - Trong quá trình đầu tư vào cơ sở hạ tầng phải cố gắng giảm chi phí vật tư. - Tổ chức lại một cách khoa học tất cả những hoạt động quản lý liên quan đến quá trình đầu tư, đảm bảo tiết kiệm thời gian và kinh phí. - Kiểm tra kiểm soát thật chặt chẽ việc sử dụng công quĩ trong các dự án đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh. - Thực hiện việc sử dụng tối đa những máy móc thiết bị hiện có trong công tác đầu tư cũng như trong kinh doanh tránh tình trạng thừa thãi. Hiện nay tại KLS có nhiều máy tính cá nhân chưa dùng đến và bỏ không rất lãng phí. 3.2.5. Tăng cường đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực Phát triển nguồn nhân lực là một trong ba nền tảng quan trọng trong chiến lược phát triển của công ty thể hiện ở các mặt xây dựng bộ máy tổ chức khoa học, có công nghệ tiên tiến và nguồn lực chất lượng được KLS đề ra. Hiện nay công tác đào tạo của KLS chưa được thực hiện bài bản và hình thức đào tạo còn sơ sài chưa đa dạng chủ yếu là đào tạo tại nơi làm việc, các nhân viên cũ có kinh nghiệm hướng dẫn cho các nhân viên mới. Như vậy dẫn đến chất lượng của công tác đào tạo chưa thực sự đạt hiệu quả cao. Để có thể đào tạo nhân viên hiệu quả với đặc điểm hiện nay của KLS thì công tác đào tạo phải được thực hiện đầy đủ theo các bước sau: - Đánh giá và phân loại nhân sự: Đây là cơ sở để xây dựng nhu cầu, nội dung và phương pháp đào tạo thích hợp với từng đối tượng, nên sử dụng các tiêu thức phân loại sau: + Phân loại theo trình độ học vấn + Phân loại theo trình độ nghề nghiệp chuyên môn + Phân loại theo chức vụ cán bộ - Xác định mục tiêu, nhu cầu và nội dung đào tạo Đối với từng loại nhân sự cần căn cứ vào tình hình thực hiện thực tế. Những nội dung cần đào tạo lại những mảng kiến thức bị hiếu so với những yếu cầu về nhân lực chuyên môn cần thiết để hoàn thành công việc trong hiện tại và tương lai Để xác định mục tiêu, nhu cầu và nội dung chương trình đào tạo có thể kết hợp từ hai phía: một phía là nhân viên phụ trách đào tạo, một phía là đối tượng cần được đào tạo - Áp dụng hình thức đào tạo thích hợp Đối với mỗi đối tượng, mỗi nội dung chương trình cần có hình thức và phương pháp đào tạo thích hợp mới mang lại hiệu quả cao. Với đặc điểm của KLS có thể sử dụng các phương pháp đào tạo sau: + Đào tạo tập trung trong thời gian ngắn với phương pháp đào tạo chủ yếu là theo bài giảng + Đào tạo dưới hình thức tổ chức các cuộc hội thảo + Đào tạo tại nơi làm việc + Đào tạo tại các trường đại học + Đào tạo qua các tổ chức quốc tế - Đánh giá hiệu quả đào tạo: Mục đính để xem xét lại mục tiêu đào tạo đã đạt được ở mức độ nào, mặt khác để rút ra kinh nghiệm cho những kế hoạch chương trình kế tiếp * Tăng cường tuyển dụng từ bên ngoài Hiện này KLS đang thực hiện chính sách mở rộng qui mô hoạt động mà tổng số nhân viên hiện có của KLS chỉ là 111 nhân viên vì vậy việc tăng cường tuyển dụng từ bên ngoài là điều tất yếu. Để đảm bảo việc tuyển dụng này có chất lượng cao, KLS phải đảm bảo: - Thành lập qui trình tuyển dụng chặt chẽ, bao gồm hệ thống tiêu chuẩn và cách thức tổ chức thi tuyển - Công khai hóa thông tin tuyển dụng nhằm tạo khả khả năng thu hút nhân tài từ nhiều nguồn khác nhau, tránh tình trạng bưng bít thông tin tuyển dụng để có điều kiện tuyển dụng con ông cháu cha - Tổ chức thi tuyển dụng nghiêm túc theo đúng qui trình kể cả người điều hành, tránh tình trạng con ông cháu cha mà qua loa hình thức, lựa chọn người không có năng lực - Đối với những bộ phận cần nguồn nhân lực có chất lượng cao, cần nhiều kỹ năng trong một nhân viên, cần có chính sách đãi ngộ thích hợp 3.2.6. Tăng cường đầu tư vào marketing Trong điều kiện các đối thủ cạnh tranh đang giành phần lớn thị phần thì việc xây dựng phát triển thương hiệu, chú trọng đầu tư vào marketing là một bước đi đúng đắn và quan trọng. Đầu tư vào marketing phải đảm bảo các yêu cầu sau đây: * Nghiên cứu thị trường - Tăng cường khả năng phân tích thông tin Các thông tin, số liệu chỉ là vô hồn, nó không thể tự nói lên điều mà chúng ta mong muốn. Chính khả năng phân tích chúng mới thực sự cho ta hiểu được thực chất của vấn đề ẩn sau các thông tin, số liệu thống kê thuần túy. Hoạt động phân tích thông tin và số liệu thống kê của KLS trong thời gian qua còn nghèo nàn là do KLS mới đi vào hoạt động. Trong thời gian tới, môi trường kinh doanh thực sự gặp khó khăn do các yếu tố cạnh tranh khốc liệt vì vậy nâng cao chất lượng trong việc phân tích và xử lý thông tin trong hoạt động kinh doanh của KLS là một việc làm cần thiết Để nâng cao khả năng phân tích và xử lý thông tin KLS cần: - Ứng dụng kỹ thuật hiện đại hơn nữa vào hoạt động phân tích thông tin - Tập trung đội ngũ cán bộ giỏi, có khả năng phân tích vào bộ phận tổng hợp hoạch định chính sách - Kiện toàn hệ thống thống kê, kế toán đảm bảo tinh gọn * Tổ chức thu thập thông tin bằng điều tra mẫu thị trường Đây là việc làm khá phổ biến đối với các ngành kinh tế khác và được tiến hành thường xuyên nhưng với KLS có thể coi là mới và chưa được quan tâm đúng mức Để làm tốt việc điều tra theo cách này, KLS cần phải - Quan tâm đúng mức đến các kỹ thuật để nghiên cứu, điều tra mẫu thị trường - Đổi mới tư duy, tỏn việc nghiên cứu thị trường, phải sử dụng các nguồn lực trực tiếp để nghiên cứu thị trường. Tránh thiên về các phương pháp chung chung, nên đi sau sử dụng các phương pháp cụ thể và tiếp cận trực tiếp thị trường - Sử dụng tốt đặc điểm về lượng khách hàng đông đảo của KLS trong việc điều tra mẫu thị trường - Tổ chức nghiên cứu thông tin khách hàng. Bộ phận tổng hợp nghiên cứu thị trường phải coi đây như một công việc thường xuyên, bắt buộc trong quá trình nhiên cứu, nắm bắt thông tin và phân tích chúng để giúp lãnh đạo ra được các quyết định phù hợp với yêu cầu - Xác định thị phần riêng cho từng mảng dịch vụ * Đối với quản lý hoạt động xúc tiến, khuyếch trương. - Tìm kiếm cách thức quảng cáo cho khách hàng hiện có để tranh thủ khách hàng tiềm năng - Tổ chức quảng cáo thông tin qua đội ngũ cán bộ nhân viên đông đảo của KLS. Nó mang lại nhiều kết quả, đây là một hình thức quảng cáo rất dễ để khách hàng tin cậy. Hơn nữa nó không giống các biện pháp quảng cáo khác là chỉ truyền đạt thông tin một chiều, quảng cáo qua đội ngũ nhân viên có thể thực hiện được thông tin hai chiều. Cần lưu ý rằng biện pháp quảng cáo qua báo, đài, các phương tiện truyền thông thường có nhược điểm lớn là khả năng lưu trữ thông tin rất kém trong ý thức khách hàng. Để làm được KLS phải thường xuyên thông báo đến cán bộ, nhân viên của mình tất cả các nội dung cần quảng cáo. 3.2.7. Cần có một phòng, ban riêng đảm nhận công tác đầu tư nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty. Hiện nay việc đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của KLS thường được phòng tự doanh kiêm đảm nhận, mà hoạt động chính của phòng tự doanh là đầu tư vào TTCK nhằm tìm kiếm lợi nhuận. Vì vậy trong thời gian tới KLS phải xây dựng được cho mình một phòng ban riêng chuyên đảm nhận hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh cho công ty. Có như vậy mới đảm bảo sự chuyên nghiệp và hiệu quả của việc đầu tư. Tuy nhiên nếu như có một phòng ban riêng đảm nhận nhiệm vụ này sẽ có một số vấn đề này sinh sau cần phải giải quyết: - Sẽ có sự lẫn lộn về nhiệm vụ giữa phòng tự doanh và phòng đảm nhận hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh vì lâu nay phòng tự doanh của KLS thường kiêm đảm nhận việc đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty. Vì thế ban lãnh đạo cần chỉ rõ ràng rằng việc đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh sẽ chỉ do phòng đảm nhận hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh đảm nhận còn phòng tự doanh sẽ chỉ chuyên sâu vào nghiệp vụ tự doanh. - Về nhân sự của phòng đảm nhận công tác đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh này sẽ được lấy một hai người có kinh nghiệm trong đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh từ phòng tự doanh số còn lại công ty phải tuyển thêm từ bên ngoài. - Phòng đảm nhận việc đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh này sẽ hoạt động giống như các phòng khác, đảm nhận hoàn toàn từ khâu lập kế hoạch, chuẩn bị đầu tư tới khi thực hiện đầu tư, và chịu sự giám sát chỉ đạo của ban giám đốc. - Do đặc thù của việc đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh không mang tính liên tục nên có thời gian không có dự án nào thì số nhân lực trong phòng có thể sẽ được cử đi học, một số có thể cho về hỗ trợ các phòng có liên quan, ví dụ nhân viên phòng này hoàn toàn có thể hỗ trợ phòng phân tích và phòng marketing. Chỉ giữ lại một đến hai người quan trọng để nghiên cứu cơ hội đầu tư và theo dõi sự thay đổi của thị trường cũng như những thay đổi của các đối thủ cạnh tranh để từ đó có những ý tưởng đầu tư đúng đắn. KẾT LUẬN Như vậy chúng ta đã xem xét một cách chi tiết về quá trình phát triển của KLS cũng như quá trình đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của KLS. Ra đời từ tháng 6 năm 2006 KLS đã có những bước phát triển vượt bậc so với các đối thủ cạnh tranh ra đời cùng thời gian với mình, đặc biệt là năm 2007 KLS đã có một sự phát triển vượt bậc thể hiện qua sự tăng trưởng tới 28 lần về lợi nhuận. Tuy nhiên hòa nhịp cùng TTCK Việt Nam KLS cũng có những vấp phải những khó khăn to lớn, đặc biệt là năm 2008 công ty phải chịu thua lỗ hơn 300 tỷ đồng. Những thành công và thất bại đó của KLS do nhiều tố đem lại, nhưng không thể kể đến một yếu tố hết sức quan trọng đó chính là hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của KLS. Mặc dù chưa thực sự phát huy tối đa hiệu quả nhưng hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của KLS đã có tác dụng nâng cao năng lực cạnh tranh của KLS thể hiện qua một số kết quả như làm cho KLS trở thành một thương hiệu nổi tiếng đối với các khách hàng, liên tục gia tăng thị phần trong vòng ba năm qua, có một trụ sở chính khang trang rộng rãi, và hệ thống phần mềm hiện đại hàng đầu trong số các CTCK của Việt Nam. Vẫn còn một số hạn chế trong công tác đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của KLS, nhưng hy vọng với những giải pháp đã đưa ra KLS có thể nâng tầm mình lên sánh ngang với các CTCK hàng đầu của Việt Nam hiện nay và góp phần nâng cao chất lượng của TTCK Việt Nam. DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG VIỆT 1. Phạm Văn Hùng ( 2008 ) , “ Giáo trình thị trường vốn ” 2. Nguyễn Bạch Nguyệt, Từ Quang Phương (2007), “ Giáo trình kinh tế đầu tư ” 3. Lưu Thị Hương, Vũ Duy Đào (2007), “ Tài chính doanh nghiệp ” 4. Từ Quang Phương (2003), Hiệu quả đầu tư và các giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước, Luận án tiến sĩ kinh tế, Đại học Kinh tế Quốc Dân 5. Phan Hồng Quang (2008), Nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Luận án tiến sĩ kinh tế, Viện nghiên cứu thương mại 6. Trần Thị Hòa (2006), Nghiên cứu thống kê hiệu quả kinh tế vốn đầu tư cơ bản trong ngành dầu khí Việt Nam ( Lấy số liệu của Tổng công ty dầu khí Việt Nam làm thí dụ minh hoạ), Luận án tiến sĩ kinh tế, Đại học Kinh tế quốc dân 7.Trang web của KLS: www.kls.vn 8.Trang web của CTCK VNDirect: www.vnds.com.vn 9.Trang web của UBCKNN: www.ssc.gov.vn 10.Trang web của TTGDCKHN: www.hastc.org.vn 11.Trang web của SGDCKTPHCM: www.hsx.vn MỤC LỤC Trang Danh mục các chữ cái viết tắt…………………………………………………… Danh mục các bảng, biểu, sơ đồ, hình vẽ……………………………………….. DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT BVS Công ty chứng khoán Bảo Việt CTCK Công ty chứng khoán KLS Công ty chứng khoán Kim Long SGDCK TP HCM Sở Giao dịch Thành Phố Hồ Chí Minh SSI Công ty chứng khoán Sài Gòn TTCK Thị trường chứng khoán UBCKNN Ủy ban chứng khoán Nhà nước TTGDCKHN Trung tâm giao dịch Hà Nội DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ Trang Bảng 1.1: Số lượng các chi nhánh và đại lý nhận lệnh của CTCK An Bình 21 Biểu đồ 2.1: Cơ cấu tổ chức của KLS 28 Bảng 2.1: Vốn đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh phân cho các nội dung 40 Bảng 2.2: Cơ cấu vốn đầu tư phân bổ theo các nội dung 41 Biểu đồ 2.2 : Vốn đầu tư vào nguồn nhân lực của KLS giai đoạn 2006-2008 43 Biểu đồ 2.3: Vốn đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh vào cơ sở hạ tầng của KLS giai đoạn 2006-2008 45 Bảng 2.3: Tỷ lệ đầu tư vào cơ sở hạ tầng của KLS so với tồng vốn đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh giai đoạn 2006-2008 46 Biểu đồ 2.4: Vốn đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh vào máy móc, thiết bị, công nghệ của KLS giai đoạn 2006-2008 48 Bảng 2.4: Tỷ lệ VĐT vào máy móc, thiết bị, công nghệ so với tổng vốn đầu tư của KLS giai đoạn 2006-2008 49 Biểu đồ 2.5: Vốn đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh khác của KLS giai đoạn 2006-2008 51 Bảng 2.5: Thị phần môi giới của KLS giai đoạn 2006-2008 52 Bảng 2.6: Lợi nhuận của KLS giai đoạn 2006-2008 54 Bảng 2.7: Danh sách các công ty chứng khoán lỗ lớn nhất năm 2008 56 Bảng 2.8 : Thị phần môi giới tính trên đơn vị vốn đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của KLS giai đoạn 2006-2008 57 Bảng 2.9: Mức tăng lợi nhuận tính trên vốn đầu tư thực hiện 58 Bảng 2.10: Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên tổng tài sản của KLS giai đoạn 2006-2008 59 Bảng 2.11: So sánh tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên tổng tài sản của KLS với SSI và BVS giai đoạn 2006-2008 60

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21744.doc
Tài liệu liên quan