Chuyên đề Một số giải pháp phát triển nghiệp vụ môi giới tại công ty TNHH chứng khoán Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam

Để huy động vốn cho tăng trưởng kinh tế dài hạn, trong đó một nhiệm vụ quan trọng là thu hút vốn nhàn rỗi trong cộng đồng dân cư, hoạt động môi giới chứng khoán có ý nghĩa rất to lớn. Môi giới chứng khoán không chỉ đơn thuần là làm cho người mua và người bán một loại chứng khoán nào đó gặp nhau, mà NMG còn phải giúp cho các bên tham gia thoả mãn nhu cầu ở mức cao nhất, giao dịch được tiến hành một cách trọn vẹn nhất có thể. Đồng thời trong quá trình thực hiện nghiệp vụ, NMG còn từng bước góp phần hình thành nên một nền văn hoá đầu tư- một yếu tố nền tảng tích cực đối với sự nghiệp tăng trưởng kinh tế. Như vậy, rõ ràng môi giới chứng khoán là nghiệp vụ rất quan trọng của CTCK, hoạt động nghiệp vụ này cần phải được củng cố, nâng cao chất lượng và phải được coi là hoạt động trọng tâm. Do vậy, em đã nghiên cứu đề tài: Giải pháp phát triển nghiệp vụ môi giới chứng khoán tại CTCK NHNo&PTNT VN với mục tiêu đặt ra là: - Hệ thống hoá các vấn đề lý luận về CTCK và hoạt động môi giới chứng khoán.

doc79 trang | Chia sẻ: linhlinh11 | Lượt xem: 688 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp phát triển nghiệp vụ môi giới tại công ty TNHH chứng khoán Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ai sót trong quá trình nhập lệnh. - Quản lý tài khoản của khách hàng: bao gồm quản lý cả hai nội dung về nhân thân và hiện trạng của người đầu tư trong quá trình giao dịch.Trong đó, hiện trạng giao dịch lại bao gồm hiện trạng về tiền và hiện trạng về chứng khoán. Qúa trình này liên quan đến nhiều khâu và nhiều bộ phận hoạt động trên thị trường, trải dài từ khi mở tài khoản giao dịch đến khi hoàn thành cả chu trình thanh toán giao dịch. CTCK hiện nay vẫn gặp phải nhiều khó khăn trong quản lý. Đã có những vi phạm của nhà đầu tư mà CTCK không kiểm soát được như: bán khống, đặt lệnh nhưng chưa có đủ tiền ký quỹ trong tài khoản để mua, mở tài khoản tại nhiều công ty khác nhau... Nguyên nhân chủ yếu của vấn đề là việc quản lý khách hàng hầu như là bằng công tác thủ công trong khi yêu ầu cho việc xử lý vấn đề trong giao dịch cần tốc độ nhanh và chính xác. Các nguồn dữ liệu liên quan đến việc quản lý lại được quản lý một cách phân tán, không tập trung. CTCK cần phải cải tiến công tác này nhằm mang lại hiệu quả công tác quản lý, tránh rủi ro cho công ty đồng thời mang lại sự công bằng cho khách hàng trên thị trường. 2.2.3.2 Kết quả hoạt động của nghiệp vụ môi giới chứng khoán Nghiệp vụ môi giới: đây là nghiệp vụ chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng thu của các CTCK, do môi giới chứng khoán (MGCK) là hoạt động chủ đạo và là hoạt động mang lại nguồn thu nhập chủ yếu trong thu nhập về kinh doanh chứng khoán. Cũng như các CTCK ở Việt Nam hiện nay, công ty TNHH Chứng khoán NHNo&PTNT VN đã nghiên cứu và ban hành quy trình nghiệp vụ môi giới riêng cho mình ngay từ buổi đầu đi vào hoạt động. Bảng 1: Kết quả của nghiệp vụ môi giới chứng khoán tại công ty Quý IV/2001 IV/2002 IV/2003 Số tài khoản của khách hàng 85 339 360 Gía trị giao dịch (tỷ đồng) 1,6 13,93 12,11 Phí môi giới (triệu đồng) 8,3 87,66 263,27 Thị phần 4% 12,09% (Nguồn: báo cáo hoạt động kinh doanh của công ty TNHH Chứng khoán NHNO&PTNT VN các năm) Ä Về số lượng tài khoản giao dịch chứng khoán mở tại công ty: Tính đến tháng 4/2004, số tài khoản khách hàng mở tại công ty là 437 tài khoản, tăng khoảng 3 lần so với số tài khoản tại quý I/2002 (144 tài khoản), và so với cuối năm 2003 số tài khoản đã tăng 67 tài khoản. Tuy nhiên, với số tài khoản giao dịch này, công ty chỉ chiếm 9,59% trong tổng số 16.825 tài khoản giao dịch chứng khoán của tất cả các công ty hiện nay, trong khi đó CTCK Bảo Việt với hơn 37.000 tài khoản chiếm tỷ lệ cao nhất là 21%. Biểu 1: Số lượng tài khoản mở tại công ty Trước hết căn cứ vào số tài khoản khách hàng hàng mở tăng liên tục có thể thấy công ty đã đuổi kịp tốc độ thu hút khách hàng trong nghiệp vụ môi giới so với các công ty thành lập sớm hơn. So với cùng kỳ năm ngoái, số tài khoản của khách hàng công ty tăng nhưng không cao là do tình hình chung của cả thị trường (tính đến cuối năm 2003 tổng số tài khoản của cả thị trường là hơn 16.000 tài khoản). Số liệu trên cho thấy, bước đầu công ty đã có được lòng tin của các nhà đầu tư. Ä Về tổng giá trị giao dịch chứng khoán Trị giá giao dịch tại ARSC quý I/2002 chỉ mới đạt 10,3 tỷ đồng, các quý tiếp theo của năm 2002 đạt 23,7 tỷ đồng (quý II) và 18,8 tỷ đồng (quý III). Nguyên do là công ty mới đi vào hoạt động và thời gian này TTCK đang trong giai đoạn trầm lắng, do vậy các giao dịch chứng khoán của các CTCK giảm cả về số lượng và khối lượng. Nhưng từ quý II/2003 đến nay, giá trị giao dịch chứng khoán đã tăng lên đáng kể, trị giá giao dịch tại ARSC vào quý IV/2003 là 51,7 tỷ đồng, tăng hơn 5 lần so với quý I/2002. Như vậy, công ty chiếm được 6,2% thị phần so với tổng số các CTCK đang thực hiện nghiệp vụ này. Vào quý IV/2002, thị phần giá trị giao dịch của công ty chỉ đạt 2,9%, sau gần một năm Công ty đã chiếm thêm 3,2% thị phần. Sở dĩ giá trị giao dịch tăng nhanh như vậy là do tình hình giao dịch trái phiếu tăng vọt và chiếm thị phần chủ đạo trong năm 2003, có một khối lượng lớn các giao dịch trái phiếu chính phủ được thực hiện dồn dập vào những phiên cuối năm 2003. Trong năm 2003, các CTCK đã thực hiện mua và bán chứng khoán cho người đầu tư với tổng giá trị giao dịch đạt 2985 tỷ đồng, tăng 187,61% so với năm 2002 là 1001,5 tỷ đồng. Biểu 2: Thị phần của ARSC so với toàn bộ thị trường Quý IV/2002 Quý IV/2003 Ä Về phí môi giới: Đối với các CTCK được thành lập sớm nhất thì trong mấy tháng đầu hoạt động, dù có thị phần lớn thì các công ty này cũng chỉ thu được 30-70 triệu đồng tiền phí giao dịch hàng tháng, một số công ty không thu nổi 10 triệu đồng phí môi giới. Vì thế, CTCK NHNo&PTNT VN trong tháng đầu hoạt động cũng chỉ thu được 8,3 triệu đồng. Từ giai đoạn 4/2002 do có thêm nhiều CTCK ra đời nên sự cạnh tranh giữa các CTCK càng mạnh mẽ thêm nên buộc các CTCK phải đồng loạt giảm phí môi giới để thu hút khách hàng. CTCK NHNo&PTNT VN cũng không ngoại lệ. Tuy nhiên do khối lượng giao dịch của công ty tăng đều và giá trị giao dịch cũng tăng nên tổng phí môi giới của cả công ty vẫn tăng liên tục. Bảng 2: Mức phí môi giới của công ty hiện nay Tổng giá trị giao dịch trong ngày (triệu đồng) Mức phí giao dịch (%) < 200 0,45 200 - 400 0,4 400 - 500 0,35 >500 0,3 (Nguồn: Quy định của CTCK NHNo&PTNT VN). Với mức phí như trên, CTCK thu được tổng phí môi giới đáng kể mặc dù vẫn đang trong chính sách thu hút khách hàng là chính chứ chưa tính nhiều đến doanh thu. Cho đến nay, tổng phí môi giới của công ty chứng khoán NHNo&PTNT VN tăng gấp 12 lần so với thời gian đầu đi vào hoạt động, chiếm phần lớn trong tổng số doanh thu của các nghiệp vụ mà công ty đã thực hiện. Biểu 3: Tổng phí môi giới của công ty. 2.2.4 Đánh giá kết quả hoạt động môi giới của CTCK NHNo&PTNT VN. 2.2.4.1 Những kết quả đã đạt được - Về nghiệp vụ thực hiện: Qua sự phân tích về việc thực hiện nghiệp vụ môi giới của công ty ở trên ta thấy mặc dù CTCK NHNo&PTNT VN được coi là sinh sau đẻ muộn nhưng đã cố gắng để triển khai tất cả các nghiệp vụ nói chung và nghiệp vụ môi giới chứng khoán nói riêng và cũng đã đạt được những kết quả nhất định. Trong năm nghiệp vụ chính mà công ty được phép thực hiện, nghiệp vụ môi giới chứng khoán được công ty tiến hành nhiều nhất và trở thành hoạt động chủ chốt của công ty. Bởi đây là hoạt động ít rủi ro, yêu cầu vốn pháp định thấp và vừa được coi là hiệu quả nhất vừa phù hợp với chiến lược thu hút khách hàng trong giai đoạn đầu đi vào hoạt động của công ty. Cho đến nay, nghiệp vụ môi giới chứng khoán của công ty đã có nhiều tiến triển so với ngày đầu mới hoạt động, điều đó được biểu thị qua sự tăng lên đáng kể của tổng số tài khoản giao dịch được mở, giá trị giao dịch, khối lượng giao dịch cũng như phí môi giới mà công ty thu được ngày một tăng. Nhìn chung, với tình hình TTCK đang ảm đạm như hiện nay, công ty đã có hướng phát triển nghiệp vụ môi giới chứng khoán một cách hài hoà bằng việc luôn chú trọng phát triển những nghiệp vụ có thể hỗ trợ và tạo điều kiện cho những nghiệp vụ khác phát triển, đồng thời tích cực xây dựng một lượng khách hàng tiềm năng để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của công ty khi mở rộng phạm vi hoạt động sau này. - Về hiệu quả kinh doanh ð Doanh thu: Qua hơn ba năm hoạt động, doanh thu của riêng nghiệp vụ môi giới năm 2003 tuy có giảm so với năm 2002 nhưng là do tình trạng chung của thị trường, kể cả lợi nhuận của công ty thì có thể nói tình hình hoạt động kinh doanh của công ty hứa hẹn doanh thu sẽ còn tăng nhanh và nhiều trong những năm tới đây. Nhìn chung, đây là một dấu hiệu rất khả quan đối với hoạt động môi giới và hoạt động của cả công ty. Bảng 3: Cơ cấu doanh thu từ hoạt động kinh doanh qua các năm của công ty. Đơn vị: triệu đồng Năm Chỉ tiêu 2001 2002 2003 Môi giới 8,3 343,41 263,27 Tự doanh 1807,41 4820,91 755,90 Quản lý danh mục đầu tư 0 0 0 BLPH, Đại lý phát hành 0 888,925 1.692 Tư vấn đầu tư 0 0 0 Lưu ký chứng khoán 0 0 0 Tổng doanh thu 4473 12.207,9 4112,279 (Nguồn: báo cáo hoạt động kinh doanh của CTCK NHNO&PTNT VN các năm) Biểu 4: doanh thu từ hoạt động kinh doanh qua các năm 2.2.4.2 Đánh giá khả năng phát triển của nghiệp vụ môi giới chứng khoán a) Những hạn chế trong hoạt động môi giới của công ty: Sau hơn bốn năm đi vào hoạt động, những kết quả kinh doanh của công ty là rất đáng khích lệ, tuy nhiên, không thể tránh khỏi những hạn chế mà hầu hết các CTCK trong thời gian đầu hoạt động đều gặp phải. Đối với các nghiệp vụ kinh doanh thì nghiệp vụ môi giới được coi là nghiệp vụ chủ yếu của công ty, song vẫn chưa thể khẳng định là đạt hiệu quả trong thời gian qua. Nhìn chung, nội dung thực hiện môi giới của công ty chủ yếu vẫn là trung gian thực hiện lệnh mua bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng. Nếu như ở nước ngoài có sự gắn bó mật thiết giữa môi giới và tư vấn thì ở nước ta tình trạng chung là, hàm lượng tư vấn trong nghiệp vụ môi giới còn hết sức hạn chế. Cũng như hầu hết các CTCK khác, công ty chỉ mới dừng lại ở mức độ cung cấp thông tin về tổ chức phát hành có chứng khoán được niêm yết, thông báo kết quả mua bán chứng khoán và thông tin về giá chứng khoán mà khách hàng quan tâm. Các dịch vụ của nhà môi giới toàn phần không được triển khai thực hiện. Thêm vào đó, các dịch vụ đi kèm như cầm cố chứng khoán và ứng trước tiền bán chứng khoán chưa thực sự phát triển để đáp ứng đủ nhu cầu, vì vậy một mặt chưa tạo điều kiện cho khách hàng có nhiều cơ hội trong đầu tư chứng khoán, mặt khác cũng là một hạn chế trong việc phát triển nghiệp vụ môi giới của công ty. Tóm lại, nghiệp vụ môi giới chứng khoán của công ty hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế, hết sức đơn giản, chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường. b) Những nguyên nhân chủ yếu mang tính khách quan: â Môi trường pháp lý chưa hoàn thiện: Cho đến nay, các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh về TTCK & chứng khoán có thể kể tới vài chục văn bản, nằm rải rác ở nhiều lĩnh vực, do nhiều cấp có thẩm quyền ban hành, dưới nhiều hình thức khác nhau như luật, pháp lệnh, nghị định, quyết định, thông tư. Tuy nhiên các văn bản, quy phạm pháp luật chủ yếu, trực tiếp điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá trình hình thành, kinh doanh, quản lý Nhà nước về chứng khoán đều là những văn bản có giá trị dưới luật, về cơ bản như sau: Nghị định 144/2003/NĐ-CP ban hành ngày 28/11/2003 của chính phủ thay cho nghị định số 48/1998/NĐ- CP ban hành ngày11/7/1998 về chứng khoán và TTCK. Quy chế về tổ chức hoạt động của các CTCK (ban hành kèm theo quyết định số 04/1998/QDD-UBCK ngày 13/10/1998 của chủ tịch UBCKNN. Luật công ty (từ ngày 1/1/2000 áp dụng luật Doanh nghiệp), luật Doanh nghiệp Nhà nước, luật Ngân hàng nhà nước, luật các tổ chức tín dụng. Các luật như luật dân sự, luật thương mại, luật phá sản, luật đầu tư nước ngoài, luật hợp đồng. Nhìn tổng thể, tuy chưa có một đạo luật chung về phát hành và kinh doanh chứng khoán như ở một số nước trên thế giới, nhưng trên thực tế, khung pháp lý về chứng khoán với ba bộ phận cấu thành tối thiểu cần có: những quy định về tiêu chuẩn hàng hoá và điều kiện phát hành, điều kiện và thể thức kinh doanh, quản lý Nhà nước và giám sát về chứng khoán & TTCK đã hình thành. Tuy nhiên về mặt nội dung, các quy định còn bộc lộ một số hạn chế nhất định, đó là sự thiếu đồng bộ và nhất quán trong việc điều chỉnh các vấn đề liên quan đến hoạt động chứng khoán nói chung và hoạt động môi giới nói riêng. Đối với việc thành lập và hoạt động của TTCK, việc áp dụng luật doanh nghiệp tạo ra một khung pháp lý thông thoáng hơn cho hoạt động của các doanh nghiệp nói chung và các ctck nói riêng, trong đó việc được phép thành lập CTCK dưới dạng công ty TNHH một chủ sở hữu đã tạo điều kiện thuận lợi cho các NHTM thành lập CTCK trực thuộc. Nhưng đi kèm theo nó sẽ là những thay đổi liên quan đến tổ chức và hoạt động của CTCK hiện hành, cụ thể là các quy định về thủ tục cấp giấy phép hoạt động kinh doanh chứng khoán, giấy phép hành nghề kinh doanh chứng khoán, việc lập chi nhánh văn phòng đại diện, chia, tách, hợp nhất, sát nhập CTCK. Ngoài ra, còn có một số bất cập trong các luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh, thâu tóm, mua bán công ty, phá sản, giải thể thanh lý công ty như: luật dân sự không cho phép bán tài sản khi chưa thuộc sở hữu của người bán, như vậy trong tương lai khi có đủ điều kiện chúng ta cũng không hể cho phép CTCK, nhà đầu tư thực hiện việc bán khống... Nguyên nhân cơ bản của tình trạng trên là do chúng ta chưa có bộ luật riêng về chứng khoán và kinh doanh chứng khoán, các hoạt động liên quan đến chứng khoán và kinh doanh chứng khoán do nhiều luật khác nhau cùng điều chỉnh, do đó, những mâu thuẫn, sự chồng chéo là điều không tránh khỏi. â TTCK còn non trẻ, hoạt động còn nhiều hạn chế. Tuy TTCK đi vào hoạt động đã hơn ba năm nhưng thời gian này không phải là đủ dài để một lúc xây dựng được ngay một TTCK của một quốc gia nên cho đến nay TTCK Việt Nam vẫn còn mang tính sơ khai và còn những hạn chế, bất cập ở nhiều mặt. Song ở đây chỉ đề cập đến những hạn chế làm ảnh hưởng đến hoạt động của TTCK: TTCK Việt Nam không có sự phát triển của thị trường OTC làm tiền đề, hàng hoá trên thị trường hiện nay còn nghèo nàn, ảnh hưởng của các quyết định hành chính của UBCKNN tới hoạt động của thị trường. Trong lịch sử phát triển của TTCK thế giới, trừ Trung Quốc, TTCK tập trung được hình thành sau một thời gian hình thành và phát triển TTCK phi tập trung hay còn gọi là thị trường OTC- đó là nơi trao đổi chứng khoán của tất cả các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thị trường OTC cũng là nơi để các doanh nghiệp thăm dò, tìm hiểu và làm quen dần với hoạt động của TTCK. Đây là nơi để mọi tầng lớp dân cư tiếp cận với các loại chứng khoán, cũng là nơi tạo uy tín, danh tiếng cho các doanh nghiệp vững chắc, tự tin bước vào TTCK tập trung như một sự rèn luyện. Trong khi ở Việt Nam ngay từ đầu đã thành lập thị trường tập trung nên cả công chúng lẫn doanh nghiệp còn nhiều bỡ ngỡ, e dè, do đó hạn chế sự tham gia của họ vào thị trường. Hàng hoá luôn là một yếu tố quan trọng, quyết định đến hoạt động và sự tồn tại của thị trường. Đối với TTCK cũng vậy, TTCK Việt Nam đang trong giai đoạn đầu hoạt động nên hàng hoá rất khan hiếm gây nên sự mất cân đối giữa cung và cầu, làm cho những yếu tố của tị trường trở nên sai lệch. Cho đến nay, lượng hàng hoá trên thị trường tuy đã được cải thiện nhưng xét một cách toàn diện thì quy mô giao dịch của thị trường vẫn còn nhỏ bé, thị trường phát triển chậm chưa đáp ứng được vai trò là một kênh huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế. Ngoài ra tiến trình cổ phần hoá các DNNN nguồn cung cấp hàng hoá tiềm năng cho TTCK diễn ra quá chậm. Các công ty có đủ điều kiện niêm yết còn ít vì nhiếu công ty vì một lýdo nào đó chưa hoặc không muốn tham gia niêm yết. â Nhận thức của các doanh nghiệp và người đầu tư về môi giới chứng khoán của các CTCK còn nhiều hạn chế. Đối với nghiệp vụ môi giới chứng khoán tuy ra đời rất sớm song vẫn gặp nhiều khó khăn khi mà đa số nhà đầu tư chưa thực sự hiểu hết về nghề này. Tâm lý của nhà đầu tư còn bị ảnh hưởng bởi định kiến xã hội, coi nghề môi giới như là một dạng của "cò" vẫn thấy trên thị trường thông thường. Hơn nữa, tâm lý của nhà đầu tư hầu hết là chưa thực sự tin tưởng vào NMG và họ cũng chưa thực sự cần thiết phải nhờ đến NMG khi thực hiện các giao dịch trên TTCK. Cho dù đây không phải là ý kiến chung của các nhà đầu tư song nó cũng là một tồn tại làm ảnh hưởng đến quá trình thực hiện nghiệp vụ môi giới nói riêng và hoạt động của thị trường nói chung. c) Những nguyên nhân mang tính chủ quan: â Công ty chưa chủ động tìm đến với khách hàng. Thực tế hiện nay, chủ yếu các khách hàng tìm đến với công ty vì họ cần dịch vụ chứ công ty chưa thực sự tìm đến với khách hàng để mở rộng hoạt động. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay thì đây là điều khó có thể chấp nhận vì khách hàng là nguồn sống của mỗi công ty. Có thể giải thích do số lượng nhà đầu tư nhiều nhưng các CTCK chưa có sự cạnh tranh lớn lắm. Do vậy mà công ty có vẻ thụ động trong việc tìm kiếm khách hàng để tạo ra những cơ hội thực hiện hợp đồng dịch vụ cho họ. Ngoài ra các biện pháp nhằm thu hút khách hàng cung chưa đượccông ty thực sự chú trọng đúng mức, chỉ mới dừng lại ở mức hết sức đơn giản. Hiện tại có thể những điều kiện này chưa có ảnh hưởng lớn lắm đến hoạt độngcủa công ty, nhưng trong tương lai không xa khi TTCK phát tiển hơn, sự cạnh tranh giữa các CTCK trở nên gay gắt hơn thì công ty sẽ không thể bỏ qua yếu tố này nếu muốn phát triển. â Nguồn nhân lực của công ty còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tế đặt ra cho nghiệp vụ môi giới chứng khoán. Nhân tố con người là một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự thành bại của CTCK nói chung và nghiệp vụ môi giới chứng khoán nói riêng. Đối với CTCK NHNo&PTNT VN đây cũng là một vấn đề còn nhiều bất cập, đội ngũ cán bộ hiện nay tuy đa số đều được đào tạo khá bài bản qua các trường đại học và các khoá học của UBCKNN. Song để đáp ứng cho nhu cầu thực tế của nghiệp vụ thì lực lượng nhân sự hiện nay nhìn chung chưa đáp ứng được. Cần phải có một đội ngũ chuyên gia được đào tạo chuyên nghiệp và đồng đều, có tri thức và kinh nghiệm trong lĩnh vực phân tích thị trường, tư vấn đầu tư, dự đoán tình hình hoạt động của TTCK...một đội ngũ như thế cần phải được đào tạo chính quy, nắm vững kinh nghiệm thực tế lẫn lý thuyết và là sản phẩm của nền thị trường tài chính phát triển. Trong điều kiện TTCK nước ta hiện nay chưa thể đòi hỏi phải có ngay một đội ngũ nhân viên như vậy. Song nếu công ty muốn phát triển trong thời gian tới thì cần phải nỗ lực hơn nữa trong việc bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ của mình để từng bước xây dựng được một lớp chuyên gia lành nghề. Bên cạnh đó, việc kiêm nhiệm của đội ngũ lãnh đạo trong công ty cũng là một hạn chế và gây ảnh hưởng đến việc phát triển các hoạt động của công ty. â Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho giao dịch còn hạn chế. Công nghệ hiện đại là một trong những điều kiện giúp đảm bảo được các nguyên tắc hoạt động của nghiệp vụ môi giới chứng khoán. Để tạo ra một thị trường công bằng, công khai, hiệu quả, cần phải có hệ thống thu thập, phân tích, xử lý và công bố thông tin đầy đủ, hiện đại...Đối với nghiệp vụ môi giới chứng khoán có thể triển khai được một cách hiệu quả cần được sự trợ giúp của công nghệ hiện đại trong việc xử lý lệnh nhanh chóng, chính xác, giúp truyền thông tin trên diện rộng, kết nối được với nhiều chi nhánh, văn phòng thành mạng thống nhất, giúp công tác kiểm tra, kiểm soát, phát hiện các vấn đề liên quan đến lợi ích của khách hàng và công ty. Như vậy có thể nói, nếu công ty tập trung đầu tư nhiều hơn nữa cho các trang thiết bị và cơ sở vật chất kỹ thuật thì sẽ thu hút được nhiều khách hàng hơn nhờ nâng cao hiệu quả thực hiện nghiệp vụ. Chương 3 GIảI PHáP phát triển nghiệp vụ môi giới chứng khoán của CTCK NHNo&PTNT VN 3.1. Phương hướng hoạt động của CTCK NHNo&PTNT VN 3.1.1. Mục tiêu phát triển của TTCK Việt Nam trong thời gian tới Mục tiêu phát triển của TTCK Việt Nam trong những năm tới là: Tiếp tục củng cố, ổn định hoạt động thị trường, nâng cấp , hiện đại hoá thị trường, hoàn thiện việc quản lý, giám sát thị trường, nhằm bảo vệ người đầu tư có hiệu quả, tạo kênh huy động vốn dài hạn cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước... Trước mắt cần: ỉ Củng cố, nâng cấp, hiện đại hoá các hệ thống của TTGDCK: Nâng cấp hệ thống giao dịch tiến tới thực hiện khớp lệnh liên tục, hiện đại hoá hệ thống giám sát thị trường. Nâng cấp hệ thống công bố thông tin có thể truyền phát rộng rãi và truy cập dễ dàng cho mọi đối tượng tham gia thị trường, đặc biệt là các nhà đầu tư. Tự động hoá một bước hệ thống lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán. Phấn đấu cổ phiếu của các công ty niêm yết đều được lưu ký, thanh toán tập trung, thực hiện dịch vụ lưu ký cho các công ty chưa niêm yết. ỉ Đa dạng chủng loại hàng hoá: ngoài cổ phiếu phổ thông, sẽ đưa thêm cổ phiếu ưu đãi, quyền mua cổ phiếu vào giao dịch. Đối với trái phiếu chính phủ, trái phiếu Ngân hàng đầu tư, sẽ đưa thêm trái phiếu công trình, trái phiếu doanh nghiệp vào niêm yết. ỉ Nâng cao chất lượng chứng khoán niêm yết thông qua việc tăng cường hoạt động quản lý phát hành và niêm yết để lựa chọn những công ty đủ chất lượng đưa vào thị trường, hỗ trợ áp dụng các biện pháp quản trị doanh nghiệp hiện đại , chế độ kế toán, kiểm toán và thúc đẩy giám sát chặt chẽ việc công bố thông tin. ỉ Khuyến khích các công ty phát hành chứng khoán ra công chúng bằng cách ban hành những chính sách khuyến khích như: chính sáh ưu tiên về thuế, chính sách ưu đãi cho vay thương mại... ỉ Củng cố phát triển các CTCK: nâng cấp quy mô vốn và mở rộng hoạt động nghiệp vụ, mạng lưới dịch vụ chi nhánh và đại lý nhận lệnh của chính các CTCK. ỉ Xây dựng thị trường giao dịch chứng khoán cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đưa TTGDCK Hà Nội vào hoạt động với chức năng tổ chức, quản lý, vận hành thị trường giao dịch các cổ phiếu doanh nghiệp vừa và nhỏ có vốn điều lệ từ 5 tỷ đồng trở lên. ỉ Tiến tới thành lập Hiệp Hội Chứng Khoán Việt Nam hoạt động như là một tổ chức tự quản, tự giám sát, đảm bảo hoạt động ổn định của các CTCK, phát triển thị trường, thúc đẩy sự phát triển của các CTCK. 3.1.2 Định hướng hoạt động kinh doanh của công ty a) Giai đoạn 2001- 2010 Kế hoạch chiến lược của Công ty cho 9 năm phát triển (2001-2010) sẽ trở thành Công ty chứng khoán hàng đầu của Việt Nam, ngang bằng với khu vực, cụ thể là: ỉ Hoàn tất mạng lưới gốm 10 chi nhánh, 200 đại lý nhận lệnh, tổng số có 600 cán bộ. ỉ Hoàn thiện hệ thống công nghệ hiện đại , kinh doanh qua mạng. ỉ Đội ngũ chuyên gia phân tích chia theo lĩnh vực, được hỗ trợ bởi hệ thống xử lý thông tin công xuất lớn. ỉ Doanh thu 50 triệu USD, lợi nhuận 10 triệu USD vào năm 2010. Nhưng trước mặt Công ty đang trong thời kỳ chuyển giai đoạn. Kết thúc giai đoạn 1 (xây dựng Công ty) chuyển sang giai đoạn 2 với nội chính là kiện toàn Công ty về các mặt: ỹ Kiện toàn cán bộ về quân số, chương trình đào tạo và quy hoạch dài hạn. ỹ Kiện toàn mạng lưới trong đó hàng đầu là xây dựng 3 chi nhánh Hà nội - Tp Hồ Chí Minh - Đà nẵng để bảo đảm xử lý nghiệp vụ theo 3 khu vực Miền Bắc, Miền Trung , Miền Nam và hoàn tất xây dựng hệ thống đại lý nhận lệnh lâý mạng lưới chi nhánh NHNo & PTNT VN làm cơ sở . ỹ Kiện toàn công nghệ với nội dung cơ bản là hệ thống thông tin công suất lớn, hiện đại và nối mạng toàn quốc . Kiện toàn nghiệp vụ với nội dung chính là xây dựng hệ thống các quy trình nghiệp vụ đồng bộ, được vi tính hoá và triển khai toàn bộ 5 nghiệp vụ cơ bản của kinh doanh chứng khoán. b) Các chỉ tiêu chủ yếu cho năm 2004 Sau khi nhìn nhận những thành quả đạt được của năm 2003 công ty cũng thẳng thắn nhìn nhận những nhiệm vụ chưa hoàn thành ,trên cơ sở đó công ty đặt ra những mục tiêu cần đạt tới của năm 2004, cụ thể là: ố Tiếp tục hoàn thiện các nhiệm vụ của năm 2003: ð Triển khai nốt các nghiệp vụ chính: tư vấn niêm yết, tư vấn cổ phần hoá, quản lý danh mục đầu tư. ð Hoàn chỉnh về căn bản hệ thống văn bản điều hành. ð Xây dựng và củng cố cơ sở khách hàng. ð Xây dựng chế độ khoán tài chính và các công cụ điều hành đối với chi nhánh, phòng giao dịch. ð Tăng cường số tài khoản giao dịch hơn nữa. ð Tăng số cán bộ cho công ty lên 60 người. ð Nhanh chóng tiến hành mở chi nhánh tại Đà Nẵng. ố Mục tiêu đặt ra cho năm 2004: ð Lợi nhuận (sau thuế): 7 tỷ đồng. ð Thị phần: 12%. ð Số tài khoản giao dịch: 1.200. ð Chi nhánh tp.HCM bình toán. ð Mở thí điểm 10 đại lý nhận lệnh. 3.2 Một số phương hướng phát triển nghiệp vụ môi giới chứng khoán của CTCK NHNo&PTNT VN 3.2.1 Xây dựng chiến lược riêng cho nghiệp vụ môi giới chứng khoán Để hoạt động môi giới chứng khoán có hiệu quả và phát triển đúng định hướng, CTCK cần phải xây dựng cho mình một chiến lược kinh doanh phù hợp vói mục tiêu phát triển thật vững chắc. Trong đó công ty cần phải đặt ra chiến lược về khách hàng, về đào tạo NMG chuyên môn cao, về sản phẩm dịch vụ công ty có thể định hướng hoạt động của mình theo mô hình công ty môi giới giảm giá hoặc công ty cung cấp dịch vụ đầy đủ... Trong giai đoạn đầu của TTCK VN, về cơ bản các CTCK đều mới chỉ đơn thuần làm nhiệm vụ nhận lệnh và xử lý lệnh cho khách hàng. Để thu hút được lực lượng đông đảo nhà đầu tư công chúng mà mặt bằng tri thức chuyên môn về TTCK còn rất thấp, CTCK cần có chiến lược hướng tới cung cấp cá dịch vụ đầy đủ cho khách hàng với chi phí thấp. Dịch vụ đầy đủ có thể là hướng dẫn, giải thích cho khách hàng, thảo luận phương án đầu tư với khách hàng, đưa ra những lời tư vấn có sử dụng các kết quả nghiên cứu phân tích của công ty, thực hiện lệnh của khách hàng, sau đó là việc tiếp tục quan tâm tới tài khoản của họ. Việc xây dựng chiến lược cho hoạt động môi giới sẽ giúp cho công ty có khả năng nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển không ngừng, và nó bao gồm: * Chiến lược khách hàng : xác định đối tượng khách hàng tiềm năng, tăng cường quan hệ và tư vấn cho những khách hàng này. Cần phải lưu ý rằng, chính sách khách hàng có thực hiện được hay không phụ thuộc vào kết quả của việc kết hợp và sử dụng nhiều chính sách cụ thể khác nhau, mỗi chính sách đóng một vai trò khác nhau nhưng lại có mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau. Tóm lại, chính sấch khách hàng bao gồm: ỹ Chính sách giá cả hấp dẫn. Trong giai đoạn hiện nay, cung - cầu chứng khoán chưa ổn định, số lượng nhà đầu tư trên thị trường chưa phải là nhiều thì công ty nào thu hút được nhiều khách hàng sẽ có thuận lợi hơn rất nhiều. Để thực hiện được điều này thì phải có chính sách giá cả ưu đãi cho khách hàng - vì hiện nay đa số các nhà đầu tư cho rằng mức phí dịch vụ ở các CTCK là cao hoặc quá cao. Do đó, công ty cần cân nhắc để đưa ra mức phí linh hoạt, phù hợp trên cân đối giữa chi phí, lợi nhuận, thị phần và các mục tiêu khác mà công ty theo đuổi cũng như phù hợp với từng đối với từng đối tượng khách hàng, từng loại hình dịch vụ, từng thời điểm cụ thể đẻ vừa duy trì được mối quan hệ lâu dài với khách hàng quen thuộc, vừa thu hút thêm được khách hàng mới. Đối với khách hàng mới lần đầu tới công ty, thường hiểu biết của họ về công ty còn hạn chế, khi đó Công ty phải chủ động tạo mối quan hệ thân mật, hữu nghị bằng cách cung cấp cho họ những tài liệu cơ bản về Công ty, hướng dẫn họ trong việc theo dõi bảng điện tử, thủ tục mở tài khoản...Khách hàng mới sẽ là cầu nối để cong ty tiếp cận với khách hàng tiềm năng, tạo được niềm tin với khách hàng mới cũng như tạo được hình ảnh tốt đẹp với các nhà đầu tư nói chung và như vậy sẽ nâng cao uy tín cho công ty trên thị trường. ỹ Tiến hành phân đoạn thị trường. Phân đoạn thị trường ở đây được hiểu là một nhóm các nhà đầu tư có phản ứng như nhau đối với cung một tập hợp kích thích của các nhân tố khác và phân đoạn thị trường là quá trình phân chia khách hàng thành những nhóm trên cơ sở những điểm khác biệt về nhu cầu, về tính cách hay về hành vi... Kết thúc việc phân đoạn thị trường, Công ty có thể lựa chọn một thị trường mục tiêu cho riêng mình, trên cơ sở đó công ty sẽ đưa ra các chiến lược cụ thể hơn: loại hình dịch vụ nào sẽ cung cấp cho khách hàng , quy mô và khả năng tăng trưởng của thị trường, khả năng thu lợi nhuận, mức độ phù hợp giữa nhu cầu khách hàng và khả năng đáp ứng nhu cầu đó của Công ty... ỹ Tổ chức hội nghị khách hàng một cách định kỳ. Hội nghị khách hàng là nơi gặp gỡ, học tập, trao đổi kinh nghiệm giữa các nhà đầu tư với nhau, và với Công ty. Đây là cơ hội để tìm hiểu, biết thêm những thông tin có lợi cho mình với cả hai chủ thể, về phía khách hàng , họ sẽ biết thêm nhiều thông tin về CTCK, từ đó đấnh giá được lựa chọn của mình đối với công ty. Còn đối với Công ty đây là dịp để tìm hiểu thêm về nhu cầu của nhà đầu tư cũng như thu nhận ý kiến phản ánh của họ về chất lượng các dịch vụ và việc thực hiện các nghiệp vụ của công ty. Trên cơ sở đó, Công ty có thể xây dựng một chiến lược hoạt động tối ưu cho nghiệp vụ môi giới của Công ty nói riêng và cho tất cả các nghiệp vụ mà Công ty đang thực hiện. * Chiến lược sản phẩm: tìm hiểu và lựa chọn những loại chứng khoán phù hợp với khách hàng đồng thời tìm hiểu nhu cầu của khách hàng để đưa ra những dịch vụ phù hợp, thu hút khách hàng tham gia đầu tư chứng khoán. * Chiến lược kinh doanh: mở rộng phạm vi hoạt động của công ty qua việc mở chi nhánh, phòng giao dịch, đại lý nhận lệnh. 3.2.2 Mở rộng phạm vi hoạt động của công ty theo hướng chuyên môn hoá trong nghiệp vụ môi giới Hầu hết các CTCK đều được cấp phép tham gia tất cả các loại hình kinh donh chứng khoán theo quy định hiện hành, nhưng cho tới nay, hầu hết các CTCK đều đã thực hiện rất tốt nghiệp vụ môi giới chứng khoán song dokhông tuyển dụng thêm nhân sự nên cácnhân viên thường phải kiêm nhiệm nhiều nghiệp vụ khác. Do vậy, khả năng hoạt động chuyên môn không cao. Việc mở rộng hoạt động theo hướng chuyên môn hoá trong nghiệp vụ môi giới sẽ từng bước tiến tới hình thành nên đội ngũ nhân viên có chuyên môn sâu- bộ phận chuyên hoạt động môi giới và cung cấp dịch vụ cho khách hàng - có hình thức hoạt động riêng và đặc trưng riêng của mình. Trong tương lai, khi CTCK sẽ phát triển tất cả các nghiệp vụ mà mình được phép, nếu không có cự chuyên môn hoá trong từng nghiệp vụ thì việc mở rộng không làm cho công ty phát triển mà trái lại sẽ càng gây khó khăn hơn cho công ty. Bởi lẽ khi đó một nhân viên sẽ kiêm nghiệm thực hiện nhiều nghiệp vụ hơn nhưng lại không có chuyên môn cao thì sẽ tất yếu dẫn đến việc hoạt động không hiệu quả. Chuyên môn hoá sẽ làm cho năng lực hoạt động nghiệp vụ được nâng cao, kết hợp với việc mở rộng phạm vi hoạt động là một trong những giải pháp quan trong góp phần thúc đẩy CTCK phát triển hơn nữa. 3.2.3 Chủ động tìm kiếm khách hàng Trong giai đoạn đầu mới đi vào hoạt động, cơ sở khách hàng của công ty còn mỏng, những người này chủ yếu tự tìm đến công ty xin mở tài khoản giao dịch. Có người có thể có sự hiểu biết nhất định về TTCK song cũng có người chỉ là để làm quen với một loại hình kinh doanh mới mẻ. Tuy nhiên về lâu dài, công ty không thể ngồi chờ cơ may khách hàng tìm đến với mình khi mà họ có quyền lựa chọn công ty tốt nhất để gửi gắm tài sản của mình. Đại diện bán hàng phải chủ động tiếp cận với khách hàng có nhu cầu bằng chính sự hiểu biết của mình và bằng sự trung thực, tận tuỵ của một NMG tài chính. Hiện nay, ở Việt Nam, do TTCK còn mang tính sơ khai nên chức danh "nhân viên môi giới chứng khoán" tại công ty được hiểu chung cho những nhười làm ở phòng môi giới với nhiệm vụ như ghi phiếu lệnh, nhận lệnh, nhập lệnh vào hệ thống. Và cũng chính những người này là những người thực hiện tìm kiếm xây dựng cơ sở khách hàng. Nhưng ở các nước phát triển thì họ có chức năng hoàn toàn khác hẳn với đội ngũ nhân viên xử lý lệnh. Do đó công ty cần phải chú trọng việc tuyển chọn và đào tạo những người môi giới thực thụ với nhiệm vụ quan trọng là tìm kiếm khách hàng đến với công ty càng nhiều càng tốt. 3.2.4 Từng bước nâng cấp cơ sở vật chất kỹ thuật Cơ sở vật chất kỹ thuật góp phần nâng cao năng lực phục vụ, giảm chi phí và tăng cường hình ảnh, uy tín cho nghiệp vụ môi giới. Trong điều kiện khách hàng không nhiều, việc đầu tư quá nhiều vào cơ sở vật chất kỹ thuật trong thời gian đầu thì có thể hiệu quả thu được sẽ thấp do số tiền đầu tư lớn và kết quả thu được không đáng là bao. Do vậy việc nâng cấp cơ sở vật chất kỹ thuật phải được tiến hành từng bước, phù hợp với sự phát triển của thị trường. Trước hết, công ty tiến hành hoàn thiện trụ sở chính với các cơ sở vật chất kỹ thuật kèm theo như hệ thống thông tin nội bộ, tin học hoá công tác văn phòng và kế toán. Tiếp đến công có thể phát triển các phần mềm tin học phục vụ cho hoạt động quản lý tài khoản, thanh toán với khách hàng, tiến tới quản lý toàn bộ hoạt động môi giới qua mạng máy tính. Việc này cần có sự phối hợp giữa trung tâm giao dịch với CTCK và giữa các CTCK với nhau để thống nhất chung một chương trình, tránh gây ra lãng phí không cần thiết. Cơ sở vật chất kỹ thuật của công ty có thể giúp cho hoạt động môi giới hiệu quả hơn, chính xác hơn. Trong môi trường cạnh tranh ngày một gia tăng như hiện nay thì công ty cần đầu tư một cách hợp lý hơn vào cơ sở vật chất kỹ thuật để nâng cao chất lượng môi giới chứng khoán. Cần phải tiến tới tự động hoá trong tất cả các khâu như truyền lệnh từ công ty, ghép lệnh tự động, công bố thông tin... 3.2.5 Xây dựng hệ thống quy trình nghiệp vụ đồng bộ và được vi tính hoá Chứng khoán là một lĩnh vực hết sức mới mẻ đối với Việt Nam, do đó khi các CTCK đi vào hoạt động, việc xây dựng một quy trình hoạt động cho chính xác, chặt chẽ và lôgic ngay từ buổi đầu là một điều rất khó khăn. Với mục tiêu kinh doanh thống nhất có bài bản, Công ty đã soạn thảo và ban hành các quy trình nghiệp vụ mới, đồng thời sửa đổi bổ sung các quy trình đã ban hành cho phù hợp với tình hình thực tế. Quy trình này bao trùm lên tất cả các khâu và các nghiệp vụ, do vậy hoạt động của công ty được tiến hành suôn sẻ, song bên cạnh đó cũng buộc các nhân viên phải tuân thủ những quy định đã đặt ra. Tuy nhiên, những quy định này vừa phải đáp ứng được những yêu cầu hết sức đa dạng của khách hàng,vừa đảm bảo nhanh chóng nhưng cũng phải đủ và đúng các bước theo quy định chung. Muốn vậy giải pháp tốt nhất là cần thực hiện vi tính hoá, các quy trình nghiệp vụ sẽ được xây dựng thành những phần mềm để các nhân viên có thể sử dụng nhanh chóng và dễ dàng thay vì phải thực hiện lặp đi lặp lại một cách thủ công. Vi tính hoá sẽ giúp công ty tiết kiệm được rất nhiều về nhân lực và thời gian. Trong thời điểm hiện nay là giai đoạn kiện toàn công ty sau khi kết thúc giai đoạn xây dựng nên giải pháp này càng đặc biệt quan trọng, điều đó không có nghĩa là trong tương lai các quy trình của nghiệp vụ này không cần kiện toàn nữa. Khi nghiệp vụ nhiều lên, khách hàng cũng đông hơn, sẽ có nhiều vấn đề phát sinh vì thế quy trình nghiệp vụ nào không đáp ứng được những yêu cầu khắt khe sẽ bị thay thế bởi những quy trình khác tiên lợi hơn. Vì thế đây không phải là giải pháp trước mắt mà còn là giải pháp lâu dài sẽ luôn gắn bó với hoạt động nghiệp vụ của cả công ty trong tương lai. 3.2.6 Có chính sách đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực phù hợp Ngành chứng khoán nói chung và kinh doanh chứng khoán nói riêng rất cần các kiến thức chuyên môn và kinh nghiệm thực tế. Đặc biệt nghiệp vụ môi giới chứng khoán là nghiệp vụ có trình độ cao nên đòi hỏi một đội nhũ nhân viên có kỹ năng và đạo đức nghề nghiệp. Do đó đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực là một trong những chính sách hàng đầu mang tính chiến lược trong bất cứ một thời kỳ phát triển nào của CTCK. Tại một số quốc gia, như Trung Quốc, Hồng Kông... các CTCK phối hợp với các trường, cơ sở đào tạo nghề để nâng cao kiến thức, trình độ nghiệp vụ rất hiệu quả. Họ có chương trình thi tuyển nhân viên môi giới giỏi, tiến hành xuất bản những tài liệu phổ cập nghiệp vụ cho các nhân viên môi giới...Họ cũng cử một số cán bộ có năng lực, có triển vọng phát triển trong tương lai đi đào tạo tại nước ngoài. Với những kiến thức mới mẻ và cập nhật, kết hợp với thực tế trong nước, các chuyên gia sẽ đóng góp vào cho hiệu quả của bản thân đồng thời qua đó thúc đẩy hơn nữa sự nghiệp đào tạo thế hệ mới cho ngành nghề đầy cam go và đòi hỏi nhiều trí lực này. Đây là kinh nghiệm quý báu cho các CTCK Việt Nam học tập và đúc rút kinh nghiệm. Trong điều kiện mới thành lập, công ty gặp nhiều khó khăn trong công tác đào tạo nhân lực xuất phát từ sự nhỏ bé về khả năng tài chính và sự non trẻ của TTCK Việt Nam chưa tạo thuận lợi để các chuyên viên trau dồi các kiến thức tiên tiến về chứng khoán và TTCK. Trước thực tế này, công ty cần phải tự tìm cách khai thác mọi nguồn lực, kết hợp tận dụng mô hình đào tạo và các nguồn tài trợ khác nhau để phục vụ cho công tác xây dựng và phát triển đội ngũ nhân viên của công ty. CTCK cần có những chương trình phù hợp để đào tạo các NMG có trình độ chuyên môn cao, có đạo đức nghề nghiệp, tạo được sự đồng cảm và lòng tin từ phía nhà đầu tư. Có như vậy mới hi vọng phát triển nghiệp vụ môi giới trong tương lai. 3.2.7 Phổ cập kiến thức, nâng cao nhận thức của công chúng Hoạt đông môi giới muốn đạt hiệu quả cần có sự phối hợp hoạt động với các ngành hữu quan khác trong việc tuyên truyền, phổ cập kiến thức cho công chúng về lĩnh vực chứng khoán và TTCK, trong đó cần nêu rõ những dịch vụ mà người đầu tư được hưởng từ người môi giới và CTCK. Kinh nghiệm từ một số nước trên thế giới cho thấy, CTCK trong thời kỳ đầu khuếch trương quảng cáo, công ty đã hết sức tích cực quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng đồng thời tài trợ cho các chương trình văn hoá xã hội để nâng cao hình ảnh công ty, điều này đã thu hút sự chú ý của công chúng. Thêm vào đó, công ty thực hiện tư vấn nghiệp vụ cho tổ chức, cá nhân có liên quan trong lĩnh vực chứng khoán. Trong việc tuyên truyền, công ty đặc biệt chú trọng phát tờ rơi với nội dung giải thích về nghiệp vụ môi giới chứng khoán, ngôn từ dùng hết sức dễ hiểu đối với mọi người. Từ đó giúp công chúng hiểu hơn về lĩnh vực chứng khoán cũng như có niềm tin vào các CTCK. Do đi sau nên các CTCK Việt Nam có thể tiếp thu những kinh nghiệm và phát huy những ưu điểm của các nước phát triển hơn để nâng cao kiến thức về chứng khoán cho công chúng một cách hiệu quả nhất. 3.2.8 Nâng cao chất lượng công tác kiẻm tra, kiểm toán nội bộ Công tác kiểm tra, kiểm toán nội bộ là khâu then chốt trong kiểm soát việc tuân thủ các quy trình nghiệp vụ, xác định hiệu quả các hoạt động của Công ty, rà soát và hoàn thiện công tác kế toán. Công tác kiểm tra, kiểm toán nội bộ có vai trò không thể thiếu đối với các doanh nghiệp nói chung và với CTCK nói riêng. Kiểm toán nội bộ tạo niềm tin cho những người quan tâm như: khách hàng, các cơ quan quản lý và giám sát TTCK, công tác này cũng góp phần củng cố nề nếp hoạt động tài chính kế toán của công ty. Hơn nữa, hoạt động này có khả năng nâng cao hiệu quả và năng lực quản lý cho công ty hơn. Để thực hiện tốt công tác này, bộ phận kiểm tra, kiểm toán nội bộ của công ty phải xây dựng được quy trình có tính khoa học và chính xác. Muốn vậy, bộ phận này cần phải: ỹ Nắm vững các hoạt động kinh doanh của công ty nói chung và của hoạt động môi giới nói riêng, cùng môi trường luật pháp. ỹ Tham khảo quy trình kiểm tra, kiểm toán của các CTCK khác. ỹ Soạn thảo chương trình kiểm tra, kiểm toán nội bộ vào những thời điểm thích hợp để vừa có hiệu quả cao vừa tránh gây ảnh hưởng tới hoạt động bình thường của Công ty. Thực hiện tốt công tác này sẽ ngăn ngừa và hạn chế được những sai sót trong hoạt động nghiệp vụ môi giới vốn có nhiều sai phạm có thể xảy ra, xác định được tình hình thực hiện nghiệp vụ... Từ đó, có thể xác định điểm mạnh, yếu để có những biện pháp khắc phục kịp thời, cũng như là có cơ sở để hoạch định được những chiến lược cho việc thực hiện nghiệp vụ trong thời gian tới cho có hiệu quả nhất. 3.2.9 Nâng cao và hoàn thiện hệ thống truy cập và cung cấp thông tin Hiện nay hệ thống cung cấp thông tin của Công ty mới chỉ dừng lại ở 3 kênh: Các bảng biểu, các bản tin và hệ thống báo chí. Về phương tiện công bố thông tin trên thị trờng từ các tổ chức niêm yết đến UBCKNN, TTGDCK và các tổ chức khác chủ yếu là bằng văn bản thông qua đường bưu điện, gửi trực tiếp hay là fax. Tuy nhiên, lại có những hạn chế do có những đơn vị ở xa thì thông tin thường bị chậm trễ. Phương tiện công bố thông tin cơ bản nhất hiện nay của CTCK là bảng điện tử nhưng chưa có sự đồng nhất giuqã các CTCK vì nó được trang bị theo khả năng tài chính của riêng mỗi công ty. Mà trong hoạt động kinh doanh chứng khoán các nghiệp vụ diễn ra rất nhanh, thời gian là tiền bạc, do vậy hệ thống thông tin của công ty phải đủ mạnh để xử lý chính xác và kịp thời, có thể truy cập và cung cấp thông tin một cách tiện lợi nhất. Để thực hiện điều này CTCK cần có những giải pháp khả thi về công nghệ, hình thức cung cấp thông tin: ỹ Về công nghệ, điều này phụ thuộc nhiều vào hệ thống tin học do CTCK phải đáp ứng được mọi nhu cầu về tư vấn và thông tin cho khách hàng để mưu hưởng hoa hồng. Hơn nữa, CTCK phải phục vụ khách hàng trên toàn quốc nên yêu cầu hệ thống tin học của công ty phải được nối mạng với NHNo&PTNT VN, với TTGDCK và với các chi nhánh, phòng giao dịch của công ty cũng như với các CTCK khác. Do vậy, đòi hỏi công ty phải xây dựng hệ thống tin học với các yêu cầu kỹ thuật như: công suất lớn, nối mạng trực tuyến, thiết kế theo hệ thống mở, đảm bảo an toàn, bí mật, thích ứng và dễ đổi mới song phải tiết kiệm kinh phí. ỹ Về hình thức, Công ty nên xây dựng hệ thống cung cấp thông tin qua mạng Internet, cần xây dựng một trang chủ trên mạng để cung cấp tất cả các thông tin liên quan đến các đối tượng tham gia TTCK. Điều này sẽ giúp cho các nhà đầu tư không có nhiều thời gian đến CTCK và các nhà đầu tư ở xa. Hơn nữa, trong tương lai Công ty có thể lập hệ thống cung cấp thông tin tự động bằng điện thoại khi khách hàng có yêu cầu. Với hệ thống này, khách hàng có thể tiếp cận, cập nhật thông tin 24/24 giờ. Bên cạnh đó, một vấn đề quan trọng cần lưư ý đó là việc kiểm soát thông tin và bí mật của Công ty trước các đối thủ cạnh tranh. Vì thông tin có ảnh hưởng rất lớn tới kết quả hoạt động kinh doanh của CTCK, nên bản thân Công ty phải xây dựng danh mục thông tin có thể công bố hoặc không, quy định các nguyên tắc trong việc công bố thông tin để các nhân viên đều có ý thức bảo mật và đảm bảo vuệc cung cấp thông tin phải được thực hiện đúng người, đúng việc. Thực chất, đây là việc xây dựng quy trình công việc trong quản lý luồng thông tin ra vào hoặc những thông tin không được phổ biến rộng rãi ra công chúng của công ty, và chỉ những người cần cho công việc của họ mới nhận được những thông tin này. Một hệ thống thông tin hiện đại, thuận tiện cho khách hàng và an toàn cho bản thân CTCK là một yêu cầu không thể thiếu và luôn song hành với việc hoàn thiện, phát triển hoạt động môi giới cũng như cho hoạt động kinh doanh của cả CTCK. 3.3 Kiến nghị 3.3.1 Kiến nghị với NHNo & PTNT VN và CTCK NHNo & PTNT VN. a) Tăng định biên cho Công ty . Do hoạt động kinh doanh của Công ty ngày càng phát triển và trong tương lai tất cả các nghiệp vụ sẽ đựơc triển khai nên với số lượng nhân viên như hiện nay không thể đáp ứng được yêu cầu phát triển đó. Hơn nữa việc chuyên môn hoá từng nghiệp vụ cũng đòi hỏi phòng kinh doanh Công ty cần được mở rộng theo hướng phân thành các phòng khác nhau với những nghiệp vụ kinh doanh chuyên trách khác nhau. Hiện tại nhân viên của Công ty đều là các nhân viên chuyển sang từ NHNo &PTNT VN, cần cho phép Công ty tuyển chọn thêm một số cám bộ có nămg lực, trình độ phù hợp để tăng định biên nhằm phát triển nguồn nhân lực của Công ty trong nghiệp vụ môi giới. b) Tăng vốn điều lệ cho Công ty Trong tương lai, Công ty sẽ tiến hành tiếp tục triển khai các nghiệp vụ như bảo lãnh phát hành, tư vấn niêm yết và tự doanh, trong đó nghiệp vụ bảo lãnh phát hành theo luật định phải có vốn điều lệ lớn để bao tiêu khi bảo lãnh theo hình thức cam kết chắc chắn, khi tiến hành nghiệp vụ này, nếu không đủ vốn, các CTCK phải liên kết để cùng thực hiện hợp đồng bảo lãnh (tương tự như cho vay hợp vốn), trong đó Công ty nào có vốn điều lệ lớn hơn sẽ đóng vai trò "Cầm chịch" . Do vậy, vốn điều lệ càng lớn càng có lợi và sức cạnh tranh càng cao. Và theo lộ trình của Công ty thì đến năm 2005 Công ty sẽ bước vào giai đoạn phát triển nên nhu cầu tăn vốn điều lệ lại càng cấp thiết hơn. Vì vậy xin kiến nghị với Hội đồng quản trị Công ty cho phép triển khai tăng vốn điều lệ theo các bước: - Năm 2004: Tăng vốn điều lệ lên 250 tỷ đồng . - Năm 2005 Tăng vốn điều lệ lên 300 tỷ đồng . c) Cơ chế chính sách đối với Công ty Hiện tại Công ty trong mối quan hệ với NHNo&PTNT VN vẫn được cư xử với thân phận pháp lý như với một chi nhánh cấp 1, chưa đáp ứng hết tinh thần của điều lệ được ban hành cho công ty là một công ty TNHH 1 thành viên. Đề nghị NHNo&PTNT VN cho các ban chuyên môn phối hợp với công ty xây dựng các cơ chế chính sách về vốn, kế hoạch, tài chính, nhân sự, thi đua, hạch toán, báo cáo kế toán...cho đúng với tinh thần của điều lệ và luật định đối với công ty TNHH 1 thành viên. Công ty đã làm việc với các ban quản lý doanh nghiệp nội ngành, tổ chức cácn bộ, kế hoạch, tổng hợp, thi đua...các ban này đều bày tỏ sự đồng tình ủng hộ. 3.3.2 Kiến nghị với Cính phủ và UBCKNN a) Tăng chủng loại và khối lượng hàng hoá có chất lượng cho thị trường Việc đẩy mạnh cung cấp hàng hoá cho TTCK vẫn là nhiệm vụ trọng tâm và cấp bách trong thời gian tới. Ngoài các giải pháp UBCKNN kiến nghị trước đây được các Bộ, ngành liên quan thực hiện như: nghiên cứu cho phép NHTM cổ phần tham gia niêm yết cổ phiếu, thực hiện thí điểm cổ phần hoá và niêm yết cổ phiếu đối với một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài...UBCKNN cần kiến nghị thêm với cấp trên một số giải pháp sau: - Quyết định chọn (chỉ định) một số doanh nghiệp đã cổ phần hoá đủ tiêu chuẩn đưa vào niêm yết, đồng thời chọn một số doanh nghiệp sắp cổ phần hoá (nhưng hội đủ tiêu chuẩn niêm yết sau khi cổ phần hoá), phát hành cổ phiếu ra công chúng để niêm yết. Việc này sẽ giải quyết được một số vấn đề cơ bản như cổ phiếu của doanh nghiệp cổ phần hoá có thể được định giá cao hơn, tránh thất thoát tài sản nhà nước, quá trình cổ phần hoá được tiến hành công khai, minh bạch hơn, do cổ phiếu của doanh nghiệp cổ phần hoá được định giá trên cơ sở thị trường, từ đó sẽ hạn chế được những hiện tượng tiêu cực không đáng có trên thị trường. - Tăng cường công tác đào tạo và phổ biến kiến thức, bởi chỉ khi nào có kiến thức thực sự về CK&TTCK thì các doanh nghiệp mới có đủ sự tự tin và quyết tâm cần thiết để tham gia thị trường. Và cũng chỉ khi nào có đủ kiến thức về thị trường thì việc tham gia mới có thể thực sự mang lại lợi ích kinh tế cho từng doanh nghiệp và cho cả nền kinh tế. - Nhà nước cần có những thay đổi về cơ chế lãi suất trái phiếu chính phủ hiện hành, đồng thời có chính sách xác lập và hỗ trợ các tổ chức tạo lập thị trường cho trái phiếu chính phủ. Điều này sẽ giúp tăng tính hấp dẫn cho trái phiếu chính phủ và tạo điều kiện huy động được nhiều vốn hơn nữa cho đầu tư và phát triển. Đối với trái phiếu doanh nghiệp, nhà nước cần tăng cường hơn nữa tính tự chủ kinh doanh của các donh nghiệp nhà nước bằng việc giảm và tiến dần đến loại bỏ hoàn toàn việc ưu đãi đối với các doanh nghiệp không thuộc diện các doanh nghiệp công ích đến mức thấp nhất. Điều này ngoài việc tăng tính cạnh tranh và hiệu quả trong hoạt động của nền kinh tế mà còn giúp bổ sung một lượng hàng hoá là trái phiếu cho TTCK. b) Bộ tài chính cần bổ sung chính sách ưu đãi về thuế cho các CTCK Theo quy định 39/2000/QĐ-TTg ngày 27/3/2000 của thủ tướng chính phủ quy định tạm thời ưu đãi về thuế đối với hoạt động kinh doanh chứng khoán và Thông tư hướng dẫn số 74/2000/Tín dụng-BTC ngày 19/7/2000 thì các CTCK được hưởng ưu đãi về thuế phù hợp với thuế thu nhập doanh nghiệp. Tuy nhiên, trên thực tế theo quy định tại thông tư số 99/tín dụng-BTC ngày 14/7/1998 của bộ tài chính hướng dẫn thi hành nghị định số 30/1998/NĐ-CP của chính phủ về thi hành luật thuế thu nhập doanh nghiệp, đối tượng CTCK không thuộc diện được hưởng ưu đãi về thuế. Ngoài ra, tại danh mục A ban hành kèm theo nghị định 51/1999/NĐ-CP ngày 8/7/1999 của chính phủ hướng dẫn thi hành luật khuyến khích đầu tư trong nứoc cũng không quy định nghành chứng khoán thuộc diện ưu đãi thuế. Do vậy xin kiến nghị với chính phủ và bộ tài chính là: ngoài các nghiệp vụ được miễn thuế như môi giới, tự doanh, bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư, quản lý danh mục đầu tư cần bổ sung thêm nghiệp vụ lưu ký chứng khoán và áp dụng danh mục thuế suất VAT 0% cho tất cả các nghiệp vụ này. Ngoài ra, cũng nên để thời gian thực hiện chính sách ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp cho CTCK áp dụng trong thời gian 5 năm kể từ khi bắt đầu hoạt động. Kết luận Để huy động vốn cho tăng trưởng kinh tế dài hạn, trong đó một nhiệm vụ quan trọng là thu hút vốn nhàn rỗi trong cộng đồng dân cư, hoạt động môi giới chứng khoán có ý nghĩa rất to lớn. Môi giới chứng khoán không chỉ đơn thuần là làm cho người mua và người bán một loại chứng khoán nào đó gặp nhau, mà NMG còn phải giúp cho các bên tham gia thoả mãn nhu cầu ở mức cao nhất, giao dịch được tiến hành một cách trọn vẹn nhất có thể. Đồng thời trong quá trình thực hiện nghiệp vụ, NMG còn từng bước góp phần hình thành nên một nền văn hoá đầu tư- một yếu tố nền tảng tích cực đối với sự nghiệp tăng trưởng kinh tế. Như vậy, rõ ràng môi giới chứng khoán là nghiệp vụ rất quan trọng của CTCK, hoạt động nghiệp vụ này cần phải được củng cố, nâng cao chất lượng và phải được coi là hoạt động trọng tâm. Do vậy, em đã nghiên cứu đề tài: Giải pháp phát triển nghiệp vụ môi giới chứng khoán tại CTCK NHNo&PTNT VN với mục tiêu đặt ra là: - Hệ thống hoá các vấn đề lý luận về CTCK và hoạt động môi giới chứng khoán. - Phân tích thực trạng hoạt động môi giới chứng khoán của công ty tiến hành trong những năm đầu mới đi vào hoạt động, từ đó đánh giá những thuận lợi và khó khăn hạn chế sự phát triển của nghiệp vụ này trên thị trường. - Đề xuất một vài phương hướng phát triển nghiệp vụ môi giới chứng khoán của CTCK NHNo&PTNT VN hiện nay. Hoạt động môi giới chứng khoán là hoạt động chuyên nghiệp mang tính nhà nghề cao, và đây là vấn đề khá mới mẻ đối với Việt Nam trên cả phương diện lý luận và thực tiễn. Do đó chắc chắn bài viết của em còn có nhiều thiếu sót, em mong được sự giúp đỡ, đóng góp của các thày, cô giáo và bạn bè để có thể hoàn thiện hơn nữa đề tài này. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Báo cáo tổng kết kinh doanh của CTCK NHNo&PTNT VN các năm 2001,2002, 2003. 2. Nghị định 48/1998/NĐ-CP ngày 11/7/1998 và nghị định 144/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 của chính phủ về chứng khoán và TTCK. 3. Quy chế hoạt động và tổ chức CTCK (ban hành kèm theo quyết định số 04/1998/QĐ-UBCK3 ngày 13/10/1998 của chủ tịch UBCKNN). 4. PGS.TS Nguyễn văn Nam, PGS.TS Vương trọng Nghĩa (chủ biên), giáo trình thị trường chứng khoán, NXB Tài chính. 5. TS.Trần thị thu Hà, Nghề môi giới chứng khoán, NXB chính trị quốc gia. 6. Quyết định số 79/2000/QĐ-UBCKNN về sửa đổi, bổ sung một số điều về tổ chức và hoạt động của CTCK ban hành kèm theo quyết định số 04/1998/QĐ-UBCKNN3. 7. Chùm bài viết về "nghề môi giới chứng khoán" của tác giả Hoài Anh, Tạp chí chứng khoán Việt Nam, các số 6/200, 11/2000, 2/2001, 6/2001. Table of Contents

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNH398.doc
Tài liệu liên quan