Chuyên đề Một số giải pháp thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu mặt hàng kính xây dựng và gốm sứ thuỷ tinh

Sản xuất là cơ sở tồn tại của xã hội, nó là nhân tố tạo ra của cải vật chất cho xã hội loài người, không có sản xuất con người sẽ không thể tồn tại và phát triển được. Chỉ có quá trình sản xuất không ngừng thì mới mở rộng được quy mô của nền kinh tế, tái sản xuất mở rộng và ngày càng tạo ra nhiều của cải vật chất cho con người góp phần nâng cao đời sống của người dân. Xuất khẩu hàng hoá có vai trò quan trọng đối với một nền kinh tế mở. Thông qua xuất nhập khẩu hàng hoá giúp nền kinh tế đất nước phát triển mạnh mẽ, góp phần đưa nền kinh tế của đất nước hội nhập vào nền kinh tế thế giới, phù hợp với xu thế hội nhập kinh tế chung hiện nay. Đối với mặt hàng kính xây dựng, trong những năm vừa qua đã gặp nhiều khó khăn do điều kiện chủ quan cũng như khách quan mà tình hình sản xuất trong nước gặp nhiều bất lợi. Nguyên nhân thì có nhiều nhưng chủ yếu chúng ta chưa có các quy định rõ ràng về mặt hàng này nên đã tạo nhiều kẽ hở cho mặt hàng nước ngoài nhập lậu một cách tràn lan vào nước ta gây khó khăn cho sản xuất trong nước. Trong thời gian tới, để có thể vực dậy ngành sản xuất kính xây dựng nước nhà thì một trong những giải pháp quan trọng phải đưa ra là cần có một hệ thống các văn bản pháp luật kiểm soát nhập khẩu kính xây dựng, đồng thời cũng cần phối hợp với các cơ quan hải quan để có thể phát hiện và xử lý những trường hợp nhập lậu kính xây dựng vào nước ta.Trong thời gian tới Nhà nước cũng cần có chính sách hỗ trợ về nhiều mặt đặc biệt là đầu tư tài chính cho việc xây dựng mới các nhà xưởng hiện đại để có thể cạnh tranh được với hàng ngoại nhập. Có như vậy thì mặt hàng kính xây dựng của nước ta mới có khả năng đứng vững trước xu thế hội nhập WTO của nước ta trong một thời gian không xa nữa.

doc65 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1488 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu mặt hàng kính xây dựng và gốm sứ thuỷ tinh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
được nó phát triển như thế nào. Vốn lưu động của công ty như tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, nguyên nhiên vật liệu…giúp công ty hoạt động được một cách thường xuyên và liên tục hơn. Trong nguồn vốn lại bao gồm vốn tự có và vốn vay. Công ty nào có số vốn tự có lớn hơn số vốn vay thì năng lực cạnh tranh của công ty đó càng mạnh. Công ty kinh doanh và xuất nhập khẩu là một thành viên của Tổng công ty Viglacera, nguồn vốn tự có của công ty lên tới hàng trăm nghìn tỷ đồng và ngày càng phát triển, tỷ lệ vốn tự có của công ty ngày càng lớn. Hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty ngày càng mở rộng cả về thị trường trong nước và thế giới. Vì thế, nguồn vốn cần thiết cho hoạt động kinh doanh ngày càng nhiều. Công ty có mối quan hệ rộng rãi và mật thiết với nhiều ngân hàng thương mại như Ngân hàng Công thương Việt Nam, ngân hàng Đông á, ngân hàng Đầu tư và phát triển…mỗi tháng phải trả lãi hàng trăm triệu đồng. Qua đó ta có thể thấy, khả năng tài chính cũng như năng lực của công ty là rất lớn và công ty có khả năng tiến xa hơn trong thời gian tới. 1.4. Công tác tổ chức lao động. Công ty kinh doanh và xuất nhập khẩu sẽ kiện toàn bộ máy cơ cấu tổ chức của công ty để đáp ứng kịp thời những yêu cầu nhiệm vụ ngày càng lớn. Thành lập bộ phận chuyên nghiệp thực hiện công việc xuất khẩu. Công ty sẽ triển khai công tác đào tạo, nâng cao trình độ của nhân viên và bổ sung nhân sự đưa nhà máy sản xuất Gương và sản xuất sản phẩm sau kính Viglacera vào giai đoạn sản xuất thử. Đồng thời, tăng cường củng cố nhân sự phòng xuất nhập khẩu, phòng tài chính kế toán, phòng kinh doanh để đảm bảo đủ nhân lực thực hiện các nhiệm vụ kinh doanh xuất nhập khẩu. Hiện tại, công ty bao gồm 55 cán bộ công nhân viên, trong đó số người có trình độ đại học và trên đại học là 36 người chiếm 65.5%, số người có trình độ cao đẳng và trung cấp là 13 người chiếm 23.5%, số lao động phổ thông là 6 người chiếm 11%. Phần đông các cán bộ của công ty là những người trẻ tuổi vì thế sẽ rất năng động, sáng tạo, điều đó làm cho hoạt động kinh doanh của công ty trở nên nhanh chóng hơn. 2. Những kết quả đã đạt được. 2.1. Về mặt hàng kính xây dựng. Trong năm 2003 công ty kinh doanh và xuất nhập khẩu (KD & XNK) đã đạt được những kết quả khả quan, cả về mặt hàng kính và các sản phẩm phụ của kính. Kết quả của việc tiêu thụ sản phẩm kính xây dựng được thể hiện qua bảng 1 với giá trị 70.9 tỷ đồng trong đó sản phẩm kính 3mm có giá trị 28.5 tỷ, kính 4mm có giá trị là 25.6 tỷ, kính 5mm có giá trị là 16.8 tỷ. Kết quả tiêu thụ sản phẩm phụ của kính được thể hiện qua bảng 2. Bảng 1: Doanh thu tiêu thụ hàng đại lý năm 2003. Tên hàng Đ. vị tính Số lượng Giá bán Dthu(đồng) Tỷ lệ hoa hồng Dthu hoa hồng Kính Bình Dương M2 2150000 70900000000 2127000000 Kính 3mm M2 950000 30000 28500000000 3% 855000000 Kính 4mm M2 800000 32000 25600000000 3% 768000000 Kính 5mm M2 400000 42000 16800000000 3% 504000000 Nguồn: Phòng kế toán Bảng 2: Kết quả kinh doanh năm 2003 tại miền Bắc STT Tên hàng Tên đơn vị ( tấn) Sản lượng Thuế NK+VAT(%) Tổng lợi nhuận( đồng) 1 Sô đa VIFG Công ty kínhVIFG 20000 7.67 299935000 2 Sô đa Đáp Cầu Cty kính Đáp Cầu 5000 7.64 107460000 3 Amiang Đáp Cầu Cty kính Đáp Cầu 2000 7.64 381192000 4 Sô đa VFG Cty kínhVFG 12000 12.66 195660000 Nguồn: Phòng kế toán Tính riêng các mặt hàng đã bán tại thị trường miền Bắc đã mang lại cho công ty tổng lợi nhuận trên 1 tỷ đồng sau khi đã nộp thuế và trả lãi ngân hàng. Theo như dự kiến thì mức tiêu thụ của công ty trong thời gian tới sẽ giảm trong thời gian tới, do sản phẩm kính trong lộ trình của Việt Nam tham gia hiệp định AFTA vào năm 2005 và chịu ảnh hưởng rất lớn khi hai công ty kính lớn là VFG và VIFG điều chỉnh giá sản phẩm. Như vậy thị trường kính sẽ có nhiều biến động lớn. Kế hoạch đặt ra đối với công ty KD & XNK trong năm 2004: Lượng tiêu thụ kính trên 1.5 triệu m2,gương Viglacera các loại trên thị trường phía Bắc. Đồng thời tiếp cận với các nhà máy gia công kính trong khu vực như: công ty cửa sổ Châu Âu, công ty cửa Việt Séc, nhà máy sản xuất kính an toàn,…để cung cấp trực tiếp phôi kính cho các đơn vị này. Nhận làm đại lý cho các sản phẩm bán kèm, với sản phẩm kính như: keo Silicon, găng cao su… Môi giới các sản phẩm của tổng công ty vào các công trình, nhằm đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ sản phẩm của tổng công ty. Nghiên cứu lập phương án thuê đất tại khu công nghiệp Tiên Sơn- Bắc Ninh xây dựng kho trung chuyển, chứa Sô đa cung cấp cho các nhà máy kính tại Bắc Ninh, Quảng Ninh. Trong công tác xuất nhập khẩu: công ty dự kiến nhập khẩu kinh doanh trên 400000 tấn Sô đa cung cấp cho các công ty kính VFG, VIFG, công ty kính Đáp Cầu và các đơn vị sản xuất kính, sản xuất gạch ngói với giá trị hàng hoá lên tới 9778000 USD. Cũng trong năm 2004 kim ngạch xuất khẩu của công ty đã tăng 109% so với năm 2003, đạt 3.636 triệu USD. Nhờ những thành tích tốt trong công tác xuất khẩu, công ty đã được Bộ Thương Mại cấp bằng khen và thưởng 146 triệu đồng. Bảng3: Kết quả kinh doanh hàng nhập khẩu năm 2004 STT Tên hàng Tên đơn vị Sản lượng(tấn) Thuế VAT đầu ra Lợi nhuận(USD) 1 Sô đa VIFG Công ty kínhVIFG 19000 142500 24744 2 Sô đa Đáp Cầu Cty kính Đáp Cầu 5000 37500 14342 3 Amiang Đáp Cầu Cty kính Đáp Cầu 2000 55200 4037 4 Sô đa VFG Cty kínhVFG 15000 112500 29435 Nguồn: Phòng Kế toán Nhưng thực trạng hoạt động của công ty cho thấy sản phẩm kính chỉ tiêu thụ được 16.9 tỷ đồng. Trong khi đó, kế hoạch tiêu thụ kính đại lý (nội địa) của công ty kính nổi là: 800000 m2 gồm có kính 3mm, kính 4mm và 5mm, đạt doanh thu 34.38 tỷ đồng. Bảng 4: Kết quả tiêu thụ hàng đại lý năm 2005 Stt Tên hàng Đơn vị tính Số lượng Giá bán Doanh thu( 1000đ) Tỷ lệ hoa hồng Dthu hoa hồng(đ) kính nổi viglacera M2 800000 34379800 1031394000 1 kính 3mm M2 180000 30000 5400000 3% 162000000 2 kính 4mm M2 320000 45890 14684800 3% 440544000 3 kính 5mm M2 300000 47650 14295000 3% 428850000 Nguồn: Phòng Kế toán Năm 2005, công ty đã tiêu thụ được 1.5 triệu m2 kính xây dựng và gương các loại tại thị trường miền Bắc và 1 tỷ đồng hoa hồng đại lý. Các sản phẩm kính nổi thường được xuất sang thị trường quen thuộc là Campuchia,Thái Lan,… trong năm nay cũng xuất khẩu được khối lượng lớn, đây là tín hiệu tốt trong sản xuất và xuất khẩu, duy trì được mối quan hệ với khách hàng quen thuộc. Theo dự báo của Bộ kế hoạch và đầu tư và các bộ, kể từ năm 2004 trở đI thị trường Việt Nam sẽ thiếu kính xây dựng do nhu cầu xây dựng ngày càng tăng cao. Dự tính đến năm 2005 nhu cầu sử dụng kính khoảng 90 triệu m2 và còn tiếp tục tăng lên 110 triệu m2 vào năm 2006 và đến 2010 sẽ vào khoảng 156 triệu m2. Cũng trong năm 2005, công ty đã bàn bạc để thoả thuận với một số nhà máy sản xuất kính tư nhân đưa ra hình thức kinh doanh đổi hàng Soda và nhận phục vụ cho xuất khẩu, việc này làm tăng nguồn thu vừa là nóng thị trường trong nước đang cạnh tranh khốc liệt. 2.2. Về mặt hàng gốm sứ thuỷ tinh. Các mặt hàng về kính xây dựng đã đạt được nhiều kết quả tốt. Các mặt hàng về gốm sứ đã tận dụng được lợi thế so sánh trong nước để sản xuất và xuấtkhẩu hàng hoá: nguồn nhân lực dồi dào với khoảng 80 triệu dân, trong đó số người trong độ tuổi lao động chiếm 50% dân số, đa số đó lại là người lao động lại sống ở nông thôn (80%). Họ là những người lao động rất cần thiết cho quá trình sản xuất gốm sứ. Với nguồn lao động dồi dào, lao động không cần trình độ vì thế giá lao động thấp, do đó chi phí sản xuất ra một sản phẩm giảm đi, tạo lợi thế cạnh tranh cho công ty. Mặt khác, nguồn nguyên liệu lại có sẵn, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển. Nhờ đó, ngành gốm sứ thuỷ tinh đã nhanh chóng phát triển và mở rộng sản xuất. Với dây truyền công nghệ hiện đại, kết hợp với nguyên nhiên vật liệu sẵn có các sản phẩm gốm sứ được sản xuất ra nhiều đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước, ngoài ra còn xuất khẩu với một lượng lớn ra thị trường thế giới đặc biệt là thị trường châu á và châu Âu. Năm 2002 sản phẩm gạch Granite và Ceramic đã sản xuất nhiều, ở thị trường trong nước cung đã vượt quá cầu. Sản phẩm sản xuất nhiều không tiêu thụ hết. Các công ty xác định sẽ phải tìm cách đẩy mạnh xuất khẩu ra nước ngoài với mục đích, vừa mở rộng thị trường ra thế giới vừa tăng thêm lợi nhuận cho nhà sản xuất. Vì thế, doanh thu của nhà sản xuất ngày càng tăng lên: kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2000 đã đạt 54 triệu USD với lượng hàng xuất khẩu tăng 16% so với năm 1996. Tình hình sản xuất mặt hàng gốm sứ có nhiều khả quan. Đối với ngành sứ vệ sinh: năm 2001 công ty sản xuất sứ vệ sinh với tổng công suất thiết kế là 2.37 triệu sản phẩm/năm đã cung cấp cho thị trường 2 triệu sản phẩm tăng 23% so với năm 2000, cung cấp chủ yếu cho thị trường nội địa. Các mặt hàng sứ vệ sinh xuất khẩu chủ yếu sang thị trường Đại Loan, Irắc, Ucraina, Nga đã đạt được 5.5 triệu USD tăng 52% so với năm 2000. Đối với mặt hàng gạch ốp lát: Ceramic và Granite, ở Việt Nam có 32 nhà máy với công nghệ tiên tiến với công suất lắp đặt cuối năm 2001 là 85.1 triệu m2, đã sản xuất được 67.838 triệu m2 so với năm 2000, tốc độ tăng trưởng của gạch ốp lát rất lớn 35% nhưng chỉ mới khai thác 86% năm suất. Bảng 5: tình hình xuất nhập khẩu gốm sứ vệ sinh qua các năm. Đơn vị: sản phẩm Mặt hàng Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 NK sứ vệ sinh 1021472 1385657 NK gạch ốp lát 327740 1736015 1734725 xuất khẩu sứ vệ sinh 1118412 3160000 5654000 Xuất khẩu gạch ốp lát 293308 3186000 Nguồn: Phòng kế toán. Tính đến cuối năm 2002, tổng công suất của toàn ngành lên đến 110 triệu m2/năm. Trong tổng số 110 triệu m2 đã và đang xây dựng thì có 21 triệu m2 gạch Granite. Về phân vùng sản lượng tính cả các nhà máy đang xây dựng sẽ đưa vào khai thác: ở miền Nam chiếm 55%, miền Bắc chiếm 30%, miền Trung chiếm 15%. Phần lớn các doanh nghiệp đã cải tiến quản lý và quan tâm áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế ISO 9000. Đây là một trong những điều kiện thúc đẩy sản xuất tăng nhanh chất lượng, đảm bảo cho việc xuất khẩu . Một số doanh nghiệp đã nâng cao chất lượng, mở rộng mặt hàng có chất lượng cao ngang tầm các nước trong khu vực, nâng cao năng lực cạnh tranh… Trước sự hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là hội nhập AFTA và hội nhập WTO dự kiến vào năm 2006 Việt Nam đang khẩn trương đưa một số ngành vào lộ trình cắt giảm thuế theo quy định chung của quốc tế, trong đó mặt hàng kính xây dựng và gốm sứ thuỷ tinh đã đi vào lộ trình cắt giảm thuế như sau: Bảng 6: Lộ trình thuế nhập khẩu gốm sứ của Việt Nam Đơn vị: %. Mặt hàng Đối với tất cả các nước Đối với ASEAN Dự kiến với các nước khác (ngoài ASEAN) Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Năm 2003 Năm 2006-2010 Gạch Ceramic 40 20 15 10 5 40 20 Sứ vệ sinh 40-50 20 15 10 5 40 20 Nguồn: theo tin tức Viglacera.com.vn Mặc dù còn nhiều khó khăn như mặt bằng giá ở Việt Nam còn cao, uy tín của sản phẩm trên thị trường còn thấp, các doanh nghiệp phần lớn là doanh nghiệp vừa và nhỏ nhưng ngành gốm sứ Việt Nam đang triển khai kế hoạch của Chính Phủ. Các doanh nghiệp gốm sứ Việt Nam rất mong muốn hợp tác với các nước khu vực, có thể tham gia các trương trình của hiệp hội Gốm sứ xây dựng ASEAN (CICA) như Hội chợ quốc tế khu vực. Thông qua đó ngành gốm sứ thuỷ tinh có thể giao lưu với các nhà sản xuất trên thế giới và trong khu vực, để không ngừng nâng cao chất lượng và mẫu mã của sản phẩm. Để chúng ta có thể hội nhập tốt và giữ vững được thị trường trong nước và thị trường xuất khẩu thì chúng ta phải: Nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hoá mặt hàng và đưa sản phẩm Việt Nam ngang tầm với các sản phẩm các nước tiên tiến, tạo ra uy tín vững chắc trên thương trường. Đồng thời tích cực áp dụng công nghệ mới, kỹ thuật sản xuất hiện đại. Để thực hiện hội nhập theo lộ trình giảm thuế phải đảm bảo chi phí sản xuất, chi phí quản lý, chi phí lưu thông, chi phí đầu tư để giảm giá thành, từng bước đưa mặt bằng giá Việt Nam đến năm 2005 tương đương với mặt bằng giá các nước trong khu vực. Do đầu tư ồ ạt đến nay công suất của gạch ốp lát Ceramic, Granite đã vượt xa so với nhu cầu của thị trường nội địa nên tạm dừng đầu tư mới, tập trung đầu tư khai thác chế biến nguyên liệu caolin, feldspat, frit, men màu cho gốm sứ để ổn định sản xuất vì một số nguyên liệu này chúng ta vẫn phải nhập khẩu vì thế nếu sản xuất được thì sẽ tiết kiệm được nguồn lực và giảm giá thành của sản phẩm. Đầu tư nâng cao năng lực cơ khí để đủ sức chế tạo thiết bị, phụ tùng cho ngành. Hợp tác với các nước ASEAN để đẩu tư các cơ sở sản xuất, khai thác tiềm năng của các nước trong khu vực để cung cấp cho các nước trong khu vực giảm bớt nhập khẩu từ các nước phương Tây xa xôi, vận chuyển tốn kém giá cả cao, tạo cơ sở vững chắc để sản xuất ổn định, nâng cao sức cạnh trạnh của các nước trong khu vực. Bước vào hội nhập kinh tế quốc tế các tổng công ty, các công ty các tập đoàn chủ động xây dựng chiến lược mở rộng thị trường mở rộng hợp tác với các nước trong khu vực và trên thế giới và đẩy mạnh công tác xuất khẩu. Tăng cường vai trò của VIBCA làm trung tâm thúc đẩy hợp tác gắn bó các doanh nghiệp mọi thành phần kinh tế, tạo sức mạnh tổng hợp, nâng cao sức cạnh tranh trên thương trường quốc tế. Theo Bộ thương mại, do kinh tế phục hồi và tăng trưởng nhanh, các thị trường như Mỹ, Nhật Bản, EU tiếp tục tiêu thụ hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam : thị trường Mỹ đứng đầu với mức tăng trưởng năm 2004 là 4.5%; thị trường Nhật Bản tăng trưởng 3.4%; các thị trường khác tăng từ 2-3%. Đây là tín hiệu khả quan cho ngành gốm sứ của Việt Nam. Trong 6 tháng đầu năm 2004, mặt hàng gốm sứ đã xuất khẩu với kim ngạch trên 225 triệu USD tăng 6-7% so với cùng kỳ năm 2003 và đến hết năm 2004 thì giá trị kim ngạch xuất khẩu sẽ lên tới 400 triệu USD. Ngoài ra, công ty Gốm việt đã có hợp đồng với tập đoàn American Trade Group (Mỹ), công ty có nhiệm vụ tạo mẫu và sản xuất những sản phẩm gốm sứ, phía đối tác Mỹ độc quyền bao tiêu toàn bộ những sản phẩm này. Thị trường của chúng ta ngày càng mở rộng, sản phẩm ngày càng được biết đến, theo thông tin đánh giá thị trường thì thị trường Đông á đang có triển vọng cho hàng gốm sứ mỹ nghệ. Thể hiện, kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng gốm sứ của Việt Nam vào các thị trường Đông á trong tháng 8/2005 đạt 5.9 triệu USD, đưa kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng gốm sứ của Việt Nam 8 tháng đầu năm vào thị trường Đông á đạt 45.2 triệu USD, chiếm 28.7% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng gốm sứ mỹ nghệ vào thị trường Đông á 8 tháng đầu năm là 15 triệu USD, tăng 40% so với cùng kỳ năm 2004. Các mặt hàng gốm sứ xuất khẩu sang thị trường Đông á là: Vật liệu dùng để ốp lát không tráng men 15.04 triệu USD. Gốm sứ mỹ nghệ 9.52 triệu USD. Thiết bị vệ sinh có gắn thiết bị cố định bằng gốm sứ 6.08 triệu USD. Gốm sứ được dùng trong lĩnh vực khoa học và kỹ thuất 4.75 triệu USD. Vật liệu ốp lát có tráng men 3.24 triệu USD. Gạch ngói, xây dựng 1.85 triệu USD. 8 tháng đầu năm 2005, kim ngạch xuất khẩu gốm sứ mỹ nghệ đã tăng 18.6% so với cùng kỳ năm 2004. Do vậy mức tăng trưởng 40% về kim ngạch xuất khẩu của ngành này sang thị trường Đông á là một tín hiệu khả quan và hứa hẹn một hướng đi cho các sản phẩm gốm sứ mỹ nghệ của Việt Nam. Trong đó nổi bật lên là thị trường Đài Loan và Hàn Quốc, với mức tăng trưởng về kim ngạch trong 8 tháng đầu năm là rất cao. - Đối với thị trường Đài Loan: kim ngạch xuất khẩu hàng gốm sứ mỹ nghệ và gia dụng của Việt Nam vào thị trường này chỉ đạt trên 1.1 triệu USD trong 8 tháng đầu năm 2004, nhưng 8 tháng đầu năm 2005 kim ngạch xuất khẩu vào thị trường Đài Loan đạt 4.72 triệu USD tăng 324.2%. Đây là một con số không thể tưởng tượng nổi nhưng chúng ta không thể tập trung xuất khẩu vào thị trường này vì Đài Loan là một thị trường nhỏ do vậy chúng ta chỉ tập trung vào một số mặt hàng nào đó để tránh khỏi những rủi ro trong kinh doanh. Để khai thác thị trường này thì chúng ta phải đa dạng hoá các loại sản phẩm một mặt tạo sự lựa chọn cho khách hàng tạo sự thu hút khách hàng, mặt khác việc đa dạng hoá sẽ tránh được sự bão hoà của sản phẩm. - Thị trường Hàn Quốc: kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này trong 8 tháng đầu năm đạt 4.47 triệu USD, tăng 45.1% so với cùng kỳ năm 2004. Đây là thị trường rộng lớn nhưng chúng ta vẫn chưa khai thác được, mặt hàng của ta xuất khẩu sang thị trường Hàn Quốc còn nhỏ bé so với tiềm năng của thị trường. Trong năm vừa qua, tốc độ tăng trưởng của mặt hàng này tăng lên rất nhanh, nguyên nhân là do những sản phẩm xuất khẩu của Trung Quốc đã sang với nhiều mẫu mã, chủng loại đa dạng: chậu hoa gốm sứ, chậu gốm đan tre, …còn chúng ta vẫn chưa xuất khẩu được nhiều, chủ yếu là chậu gốm kiểu Hà Nội, chậu gốm nhỏ… với số lượng không đáng kể. Tuy nhiên, thị trường Hàn Quốc vẫn hứa hẹn nhiều điều tốt đẹp, chúng ta cần phải nắm bắt lấy. - Với thị trường Nhật Bản là một thị trường khó tính, đối với mỗi loại sản phẩm thủ công mỹ nghệ, người tiêu dùng Nhật Bản luôn quan tâm tới 3 yếu tố: nguyên liệu sản xuất, phương pháp tạo ra sản phẩm và yếu tố truyền thống thể hiện trong từng sản phẩm. Trong đó yếu tố truyền thống được người Nhật đặc biệt quan tâm vì nó tạo ra nét độc đáo riêng của mỗi quốc gia. Do vậy, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải tập trung sản xuất những sản phẩm đảm bảo chất lượng, đúng với sở thích của người Nhật và phải có giá trị sử dụng cao trong cuộc sống. Hàng hoá sản xuất ra nên phát triển theo hướng đa dạng hóa chủng loại, giảm về số lượng thành phẩm để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. III. Những khó khăn, hạn chế trong quá trình xuất khẩu Ngành kính xây dựng là một ngành còn non trẻ, vì thế khi ra đời đã gặp phải rất nhiều những khó khăn, khiến cho việc hạn chế tiêu thụ và xuất khẩu. Trong năm 2001, hai công ty lớn nhất của Việt Nam không thể tiêu thụ hết sản phẩm, số sản phẩm tồn kho lớn lên tới 650000m2, công ty kính Đáp Cầu cũng chỉ bán được 60% sản phẩm. Nguyên nhân do giá sản phẩm của Việt Nam cao, các sản phẩm khác của các nước như Trung Quốc rẻ hơn rất nhiều và một tình trạng nữa khiến cho hàng của Việt Nam không thể tiêu thụ được là do gian lận trong thương mại, hàng nhập lậu giá rẻ tràn nhiều vào Việt Nam. Tình trạng trên vẫn tiếp tục trong năm 2002, lượng hàng tồn kho của công ty liên doanh kính nổi Việt Nam (VFG) tồn đọng 8 triệu m kính tiêu chuẩn 2mm. Không những tồn đọng lớn giá trị lên tới 170 tỷ đồng, hai nhà máy sản xuất kính là VFG và Đáp Cầu đã mất đi 23% thị phần trong 6 tháng đầu năm 2002. Các doanh nghiệp trong nước đang trong tình trạng bế tắc trong khâu tiêu thụ. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do kính xây dựng thành phẩm của Trung Quốc được nhập vào Việt Nam với số lượng lớn, giá chỉ 44000-45000đ/m2 rẻ hơn 25000-30000đ/m2 so với sản phẩm kính cùng loại ở trong nước. Giá của sản phẩm trong nước quá cao trong khi chất lượng lại thấp, mẫu mã đơn điệu nên khó có thể cạnh tranh được với hàng nhập khẩu. Như vậy, sản phẩm kính xây dựng của chúng ta đã để thua ngay trên sân nhà, các sản phẩm nhập khẩu đã lấn lướt chiếm phần lớn thị phần. Hiện nay, sản phẩm trong nước chỉ chiếm 25-30% thị phần tiêu thụ. Ngày 16/10/2004hiệp hội kính xây dựng Việt Nam (VIAGLAS) ra đời với 35 thành viên là các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh kính Việt Nam với quyết tâm chống hàng lậu, hàng giả. Hiệp hội sẽ giúp cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kính xây dựng, trao đổi thông tin vế sản xuất, thị trường, đầu tư phát triển kính xây dựng trong và ngoàI nước. Hiệp hội cũng chủ động trong công tác tìm kiếm và phát triển thị trường kính xây dựng, hướng dẫn các doanh nghiệp xây dựng và bảo vệ thương hiệu cho các hội viên. Mặc dù vậy, việc tiêu thụ sản phẩm của các công ty vẫn chưa đạt được mục tiêu mà kế hoạch đã đặt ra. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên lý do 2 nguyên nhân khách quan và chủ quan. Nguyên nhân khách quan là: tại thị trường miền Bắc tập trung nhiều đơn vị sản xuất kính, ngoài ra kính Trung Quốc còn được nhập khẩu nhiều qua các cửa khẩu Quảng Ninh. Giá của sản phẩm kính của Việt Nam bị chi phối nhiều bởi giá của sản phẩm kính nổi và ảnh hưởng bởi giá rất thấp của kính Trung Quốc và của các nhà sản xuất tư nhân nên thị trường ở phía Bắc không ổn định. Các chính sách giá bán của công ty VIFG thường được áp dụng chậm, chưa theo được biến động của thị trường. Nguyên nhân chủ quan: Sự kết hợp trong báo cáo thông tin thị trường của phòng kinh doanh còn yếu. Các cán bộ tiêu thụ kính chưa thực sự năng động, sáng tạo trong hoạt động tiếp cận bạn hàng. Công tác khai thác mở rộng thị trường chưa được quan tâm đúng mức. Chất lượng sản phẩm kính chưa cao nên ảnh hưởng đến uy tín của công ty và ảnh hưởng đến công tác bán hàng. Nếu so với các nhà sản xuất trong khu vực và trên thế giới, các đơn vị sản xuất của Viglacera còn tương đối non trẻ về thâm niên cũng như kinh nghiệm sản xuất và kinh nghiệm marketing xuất khẩu. Vì thế, một mặt sản phẩm của ta còn nhiều hạn chế về chất lượng, hình thức, giá cả. Mặt khác công tác thực hiện xuất khẩu còn chưa hiệu quả và tính chuyên nghiệp, đội ngũ cán bộ mỏng. Về cơ cấu mặt hàng, chúng ta đã sản xuất khá nhiều mặt hàng xuất khẩu ra thế giới nhưng với sản lượng nhỏ chưa đáng kể, chưa phản ánh được tiềm năng sản xuất của Viglacera. Sự phối hợp giữa các thành viên trong tổng công ty chưa chặt chẽ. Chưa có một chiến lược cụ thể nào nhằm quảng cáo giới thiệu và nâng cao uy tín, thương hiệu Viglacera trên thế giới. Giá bán sản phẩm của Viglacera cao hơn so với các nước trong khu vực. Khó khăn về vận tải trong xuất khẩu: các mặt hàng xuất khẩu của ta thường có chi phí xuất khẩu lớn gấp 1.5 lần so với các nước như Trung Quốc, Thái Lan, Inđônêxia. Cùng xuất khẩu sang Long Beach (California, Mỹ) cước vận tải một container 20 feet từ Việt Nam là 1800 USD, trong khi từ Trung Quốc, Thái Lan, Inđônêxia chỉ có 1200 USD. Đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến giá thành sản phẩm của chúng ta cao hơn so với các nước trong khu vực. Các đơn vị sản xuất của ta hầu hết là phân tán, nhỏ lẻ, từ các bộ ngành, địa phương vì vậy rất khó khăn trong việc vận chuyển, nó đã đẩy chi phí sản xuất lên cao do đó giá thành sản phẩm của một đơn vị hàng hoá cao. Mặc dù, mặt hàng của chúng ta chủ yếu sử dụng nhiều nguyên liệu trong nước, nhưng chúng ta vẫn phải nhập khẩu một số nguyên liệu đầu vào để phục vụ cho quá trình sản xuất. Thuế đầu vào của các mặt hàng này cao vì vậy nên đẩy chi phí sản xuất lên cao. Hơn thế nữa, một trong những khó khăn đặt ra trước mắt chúng ta là nguyên liệu cho sản xuất đang dần cạn kiệt: diện tích đất sét, đất cao lanh, đất đỏ, bị thu hẹp do đó sẽ ảnh hưởng đến sản xuất mặt hàng gốm sứ thuỷ tinh. Trước đây, vào những năm 1994-1995 giá của 1 m3 đất nguyên liệu sản xuất gốm sứ khoảng 30000 đồng, nay vẫn loại đất đó 1 m3 lên xấp xỉ 100000 đồng. Nguồn nhiên liệu ngày một khan hiếm. Các lò gốm thủ công dùng trung bình 80 m3 gỗ/tháng. Như vậy, với 2500 lò thủ công mỗi năm sẽ dùng 2400000 m3 gỗ, một con số khổng lồ với diện tích rừng của nước ta. Sản phẩm còn thiếu tính cạnh tranh cả về mẫu mã và chất lượng. Đồng thời, việc thực hiện các hợp đồng bán hàng còn nhiều bất cập: xử lý thông tin còn chậm, một số trường hợp giao hàng không đúng hạn. Trong 5 năm vừa qua, mặt hàng kính xây dựng của nước ta xuất khẩu đạt thấp, chiếm chưa đầy 10% kim ngạch xuất khẩu của mặt hàng vật liệu xây dựng. Theo ông Phạm Thiện Căn Phó chủ tịch hiệp hội kính xây dựng Việt Nam, thị trường thế giới có sự cạnh tranh quyết liệt bởi giá sản phẩm rất rẻ của Trung Quốc. Hiện tại, các mặt hàng kính xây dựng của Việt Nam đã tạo dựng được chỗ đứng ở một số thị trường: Campuchia, Thái Lan, ấn Độ. Tuy nhiên, một số thị trường lớn như Bănglađet, Philippin trong thời gian qua đã tạm ngừng xuất khẩu kính do sản xuất trong nước đã đáp ứng đủ. Bên cạnh đó, chất lượng kính của Việt Nam mặc dù đã được nâng cao nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường, nhất là về độ dòn và khả năng chống chọi ẩm mốc, chi phí vận chuyển còn cao so với các nước. IV. xu hướng khi hội nhập wto. Việt Nam đang chuẩn bị gia nhập WTO, dự kiến sẽ gia nhập vào năm 2006. Đây là cơ hội cho nhiều công ty trong nước trong đó có công ty kinh doanh và xuất nhập khẩu. Vì khi tham gia vào WTO chúng ta sẽ được hưởng nhiều sự ưu đãi lớn đặc biệt là về thuế quan giảm và việc bình đẳng tự do trong kinh doanh. Vì tổ chức WTO hoạt động dựa trên nguyên tắc: - Không phân biệt đối xử: mỗi thành viên sẽ giành cho sản phẩm của một thành viên khác một sự đối xử không kém ưu đãi hơn đối xử mà thành viên đó giành cho sản phẩm của một nước thứ ba. Mỗi thành viên sẽ không giành cho sản phẩm của công dân nước mình đối xử ưu đãi hơn so với sản phẩm của nước ngoài. - Thương mại thì tự do hơn thông qua đàm phán: các rào cản thương mại dần dần được loại bỏ cho phép các nhà sản xuất hoạch định chiến lược kinh doanh dài hạn có thời gian điều chỉnh, nâng cao sức cạnh tranh hoặc chuyển đổi cơ cấu. Mức độ cắt giảm các hàng rào bảo hộ được thoả thuận thông qua các cuộc đàm phán song phương và đa phương. - Tạo môi trường cạnh tranh ngày càng bình đẳng: hạn chế tác động tiêu cực của các biện pháp cạnh tranh không bình đẳng như phá giá, trợ cấp hay giành các đặc quyền cho một số doanh nghiệp nhất định. - Dành cho các thành viên đang phát triển một sự ưu đãi: các ưu đãi này được thể hiện thông qua việc cho phép các thành viên đang phát triển có một số quyền và không phải thực hiện một số nghĩa vụ hay có thời gian quá độ dài hơn để điều chỉnh chính sách. Chúng ta có khả năng mở rộng sản xuất để xuất khẩu. Với thị trường lớn như vậy chúng ta sẽ xuất khẩu được nhiều hơn. Nhưng chúng ta cũng gặp phải nhiều trở ngại, việc giảm thuế sẽ dẫn đến tình trạng hàng nhập khẩu vào Việt Nam sẽ tăng, chúng ta sẽ mất đi một số thị trường trong nước. Mặt khác nó sẽ làm tăng khả năng cạnh tranh. Công ty của ta còn non trẻ do đó sẽ gây khó khăn lớn cho mặt hàng kính xây dựng. Hiện nay, mặt hàng kính xây dựng và gốm sứ đang trong lộ trình cắt giảm thuế, và gặp phải nhiều khó khăn trong việc sản xuất và xuất khẩu. Vì vậy trong thời gian tới chúng ta càng cần phải tăng cường khả năng cạnh tranh bằng cách: nâng cao chất lượng sản phẩm, xúc tiến công tác nghiên cứu thị trường để tìm giải pháp cho thị trường, lựa chọn mặt hàng sản xuất, chủng loại hàng hoá mà thị trường đang cần. Đi đôi với nó là đa dạng hoá các mặt hàng sản xuất nhằm tăng sự lựa chon cho khách hàng và thu hút sự chú ý của khách hàng. Đồng thời kết hợp với việc quảng cáo sản phẩm trên các phương tiện thông tin đại chúng như vô tuyến, đài, internet…tham gia các chương trình hội chợ triển lãm trong nước và quốc tế. Có như vậy, công ty có thể đứng vững trên thị trường và phát triển. Chương III Một số giảI pháp đẩy nhanh hoạt động xuất khẩu của công ty I. Về phía nhà nước 1. Chính sách pháp luật kinh tế về xuất khẩu 1.1. Quan điểm của Đảng v à mục tiêu phát triển kinh tế đối ngoại: Quan điểm chủ đạo về phát triển kinh tế đối ngoại đã được khẳng định thông qua Đại hội Đảng lần thứ IX: “ Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hoá và đa dạng hoá hoạt động kinh tế đối ngoại với tinh thần Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”. Quan điểm này được cụ thể hoá bằng những nội dung sau: - Đảm bảo nguyên tắc độc lập, chủ quyền, bình đẳng cùng có lợi trong quan hệ kinh tế đối ngoại. Nguyên tắc của sự hội nhập là phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, giữa phát triển kinh tế và đảm bảo an ninh chính trị với độc lập chủ quyền của quốc gia. - khai thác có hiệu quả những lợi thế trong phân công lao động quốc tế, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại trong điều kiện mới. Lợi thế của mỗi nước trong phân công lao động quốc tế chính là việc các nước khai thác những thế mạnh của quốc gia mình nhằm sản xuất ra các loại hàng hoá, dịch vụ đáp ứng nhu cầu của các quốc gia khác. Lợi thế mà mỗi nước có được lại phụ thuộc vào các quốc gia đó có xác định đúng những lợi thế của mình hay không, và có biết vận dụng sức mạnh thời đại về khoa học kỹ thuật, khoa học quản lý… Việt Nam là nước có nguồn lao động dội dào, về tài nguyên thiên nhiên phong phú, vị trí địa lý thuận lợi nhưng việc khai thác lợi thế này còn rất hạn chế. Bởi chúng ta chưa biết kết hợp giữa yếu tố nội lực và yếu tố ngoại lực. Vì thế, khai thác có hiệu quả là một nội dung quan trọng của kinh tế đối ngoại. - Đa phương hóa các quan hệ kinh tế đối ngoại phù hợp với kinh tế thị trường, trên nguyên tắc bình đẳng các bên cùng có lợi. Các hoạt động kinh tế đối ngoại mang tính chất quốc gia rõ rệt vì các chủ thể tham gia quan hệ là các quốc gia riêng lẻ và có lợi ích độc lập với nhau. Các quan hệ kinh tế đối ngoại không chỉ mang tính chất kinh tế thương mai, mà còn chịu sự chi phối không nhỏ của các yếu tố chính trị và ngoại giao, cho nên đa phương hoá thị trường là điều cần thiết. Cần đi sâu nghiên cứu để lựa chọn đúng đối tượng và thị trường, nhằm đạt được mục tiêu đề ra theo đúng chiến lược phát triển xã hội của đất nước. Lấy hiệu quả kinh tế xã hội làm tiêu chuẩn hàng đầu, đồng thời phải nắm vững phương châm độc lập, tự chủ, các bên cùng có lợi. Xây dựng tín nhiệm quốc tế thực hiện nghiêm chỉnh các cam kết quốc tế là điều kiện không thể thiếu được trong quan hệ làm ăn với nước ngoài. Tuy nhiên, cần tranh thủ khai thác và mở rộng quan hệ làm ăn với các nước Tây Âu và thị trường Bắc Mỹ là những nơi có tiềm lực mạnh về khoa học công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến. - Đa dạng hoá các hoạt động kinh tế đối ngoại, phù hợp với điều kiện cụ thể của nền kinh tế trong nước và quốc tế. Sử dụng tất cả các hình thức kinh tế đang phát huy tác dụng, đồng thời sử dụng một cách hợp lý các hình thức mới, đan xen nhau nhằm khai thác một cách có hiệu quả các thế mạnh của đất nước, đó là quy luật dựa trên cơ sở nắm bắt các quy luật phát triển đa dạng các hoạt động kinh tế đối ngoại trên tất cả các mặt: xuất nhập khẩu hữu hình và vô hình, đầu tư nước ngoài và các hoạt động dịch vụ thu ngoại tệ. - Nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại trên cơ sở phát huy tác dụng kinh tế đối với nền kinh tế quốc dân và đời sống xã hội. Hiệu quả kinh tế xã hội là mục tiêu hàng đầu của hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung và đầu tư nước ngoài nói riêng và phải xem xét một cách toàn diện, không những ở góc độ kinh doanh và kinh tế mà cả góc độ chính trị xã hội, trên phạm vi cả nước và toàn xã hội. Tiêu chuẩn để đánh giá hiệu quả của hoạt động kinh tế đối ngoại là những tác động của nó đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Vì vậy hoạt động kinh tế đối ngoại phải nhằm thúc đẩy sản xuất trong nước, giữ vững độc lập chủ quyền quốc gia và nền tảng để nâng cao mức sống của nhân dân, thực hiện công bằng xã hội, thực hiện tốt các mục tiêu chiến lược mà Đảng và nhà nước đã đề ra. Không thể đặt lợi ích riêng của từng địa phương lên trên lợi ích quốc gia, dân tộc mà phải đặt nó trong việc đạt được lợi ích chung nhất của đất nước. Hiệu quả kinh tế là thước đo chung về năng lực quản lý nhà nước về kinh tế cũng như trình độ sản xuất kinh doanh, điều hành của các đơn vị cơ sở. Vì thế, phải xây dựng và tuân thủ những chính sách và biện pháp quản lý đã đạt được hiệu quả trong từng khâu, từng cơ sở nhằm đạt được thành tích chung của nền kinh tế. - Xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị. Hoạt động kinh tế đối ngoại là quan hệ kinh tế của một nước với nước khác. Nó không đơn thuần là quan hệ kinh tế thông thường mà nhiều khi quan hệ kinh tế này chỉ được xác lập trên cơ sở của hoạt động chính trị- ngoại giao với tư cách là người mở đường, khai thông các quan hệ kinh tế và ngược lại các quan hệ kinh tế phát triển lại góp phần củng cố cho mối quan hệ chính trị được bền chặt và thuận lợi. Việc xử lý tốt mối quan hệ giữa chính trị và kinh tế là vấn đề có ý nghĩa quyết định của hoạt động kinh tế đối ngoại và là vấn đề cốt lõi trong chính sách đối ngoại của tất cả các nước. Cơ sở để giải quyết vấn đề là lợi ích dân tộc, xem xét trên quan điểm tổng thể bao gồm lợi ích kinh tế và lợi ích chính trị, lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài của một quốc gia. Vì thế có thể hy sinh lợi ích trước mắt để đạt mục đích lâu dài và ổn định. Để giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa chính trị và kinh tế cần phải đa phương hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại, đa dạng hoá các hoạt động kinh tế đối ngoại trên cơ sở giữ vững độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và cùng có lợi. Công tác an ninh quốc phòng phải tạo điều kiện cho sự mở rộng kinh tế đối ngoại. Ngược lại, hoạt động kinh tế đối ngoại phải đảm bảo độc lập chủ quyền và an ninh quốc gia. Mặt khác, hoạt động kinh tế đối ngoại chỉ được mở rộng và phát triển trên cơ sở quan tâm đầy đủ đến lợi ích chính đáng, hợp tác của các bên đối tác trên cơ sở đó xác định được điểm trung hoà về lợi ích trên nguyên tắc bình đẳng và cùng có lợi. 1.2. Các chính sách, giải pháp về xuất khẩu hàng hoá. - Nhà nước cần hoàn thiện các chính sách và biện pháp nhằm thúc đẩy việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hướng mạnh hơn nữa vào xuất khẩu và ưu tiên khuyến khích xuất khẩu đối với công ty trong nước cũng như doanh nghiệp có vốn nước ngoàI đầu tư trực tiếp vào Việt Nam. - Chính sách kinh tế hướng về xuất khẩu tự nó đảm bảo các yêu cầu về hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, từng bước mở rộng thị trường đI liền với việc giảm dần các hàng rào thuế quan, bởi quan hệ kinh tế thị trường là dựa trên sự bình đẳng và cùng có lợi. Do vậy, muốn đẩy mạnh xuất khẩu thì phải mở rộng thị trường trong nước cho hàng hoá của các nước khác thâm nhập vào. - Chính sách kinh tế hướng mạnh vào xuất khẩu phải thể hiện những yếu tố thông thoáng về môI trường đầu tư, do vậy cần có chính sách thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoàI vào phát triển kinh tế và đặc biệt là hàng hoá xuất khẩu tại Việt Nam. - Giảm tối đa sự phân biệt đối xử giữa chủ đầu tư trong nước và nước ngoàI, tạo một sân chơI bình đẳng cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. - Nhà nước cần có một chính sách thuế minh bạch, mềm dẻo và đồng thời quy định tỷ giá đồng nội tệ linh hoạt để đảm bảo khuyến khích phát triển xuất khẩu của các công ty. Tỷ giá đồng nội tệ có tác dụng thúc đẩy hoặc hạn chế xuất khẩu. Vì vậy, một tỷ giá tiền tệ hợp lý là việc cần thiết để phát triển xuất khẩu hàng hóa và góp phần xây dựng đất nước. 2. Cải tiến, hoàn thiện thủ tục hành chính Để thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh, đòi hỏi nhiều yếu tố trong đó việc cảI tiến, hoàn thiện thủ tục hành chính là một trong những yếu tố quan trọng. Hoạt động sản xuất có thể diễn ra nhanh hay chậm là do thủ tục hành chính quy định một phần. Nhiều doanh nghiệp đã phản ánh, thủ tục hành chính của nước ta còn khá rườm rà, vẫn tồn tại những khoản không cần thiết, đã làm giảm đến tiến độ của quá trình sản xuất và tiêu thụ hàng hóa của các doanh nghiệp. NgoàI ra, chính sách, pháp luật kinh tế còn nhiều lỗ hổng, dẫn đến tình trạng gian lận trong thương mại. Theo quyết định 283 (12/8/199) của tổng cục hải quan có nêu “Nếu hàng hoá nhập khẩu của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để trực tiếp đưa vào sản xuất sẽ được xác định theo giá hợp đồng thay vì giá tối thiểu do nhà nước quy định”. Sự ưu đãi này đang được một số doanh nghiệp nhập khẩu sử dụng để đI ngược lại chính sách hỗ trợ của nhà nước đối với doanh nghiệp sản xuất kính trong nước. Nhiều đơn vị đã tận dụng tư cách của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài xin nhập khẩu kính giá rẻ của Trung Quốc dưới danh nghĩa “ nguyên liệu cho gia công”, nhưng lại đem bán trực tiếp ra thị trường để thu lợi nhuận cao. Bằng sự gian lận này, các doanh nghiệp trốn được thuế tạo lợi thế cạnh tranh và các doanh nghiệp trong nước không thể cạnh tranh nổi. Trong thông tư 82 của Bộ TàI Chính năm 1997: “ Để hàng hóa nhập khẩu được coi là nguyên vật liệu trực tiếp để đưa vào sản xuất, doanh nghiệp phảI có dây truyền sản xuất sản phẩm, thực sự đầu tư và có đủ năng lực sản xuất để sản xuất sản phẩm có dùng nguyên liệu, vật tư nhập khẩu, phảI có ý kiến xác nhận của cơ quan chủ quản”. Nhưng mới đây trong một văn bản thay thế thông tư 82 của Bộ TàI Chính, phần định nghĩa về hàng nhập khẩu dùng làm nguyên liệu cho sản xuất được rút gọn thành “ các vật tư, nguyên liệu đảm bảo phù hợp với danh mục nhập khẩu đã đăng ký với hảI quan”. Như vậy, với văn bản mới các nhà kinh doanh kính xây dựng không phảI chứng minh năng lực sản xuất của mình mà chỉ cần làm nguyên liệu cho sản xuất là đủ. Kết quả là các doanh nghiệp nhập khẩu kính ồ ạt với danh nghĩa nguyên liệu cho sản xuất được tính thuế theo hợp đồng ngoại thương. Vì vậy, đòi hỏi các nhà hoạch định chính sách cần phảI cân nhắc kỹ khi đưa ra những quyết định. Đồng thời phảI có những văn bản hoàn thiện những văn bản trước đã đưa ra, từ đó có thể đẩy nhanh hoạt động sản xuất trong nước và đẩy nhanh xuất khẩu. II. Về phía công ty 1. Tìm kiếm thị trường Ngành kính xây dựng đang gặp phảI rất nhiều khó khăn, đặc biệt là trong việc tìm kiếm thị trường tiêu thụ. Thị trường trong nước đã bị hàng nhập khẩu chiếm lĩnh khoảng 60- 70% thị trường. Đối với thị trường xuất khẩu thì công ty mới chỉ biết đến mốt số nước là bạn hàng quen thuộc. Vì vậy, chúng ta cần đẩy mạnh hơn trong việc marketing, giới thiệu sản phẩm. Các biện pháp để đẩy mạnh việc mở rộng thị trường: 1.1. Đối với chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh. - Củng cố công tác Marketing, thường xuyên nghiên cứu thị trường, lập báo cáo thông tin thị trường đối với tất cả các sản phẩm công ty đang kinh doanh và các thông tin về đối thủ cạnh tranh về các mặt: công nghệ, mẫu mã, thị phần, doanh số tiêu thụ, chiến lược bán hàng,… từ đó có phương án kinh doanh với từng thị trường. - Đối với các đại lý phân phối, cán bộ tiếp thị thường xuyên tiếp cận tìm hiểu nhu cầu của thị trường, cung cấp đầy đủ mẫu mã sản phẩm và các tài liệu hỗ trợ các đại lý trong việc mở rộng thị trường. Luôn lắng nghe ý kiến phản ánh đóng góp của người bán hàng, của khách hàng sử dụng các sản phẩm của công ty. - Tiếp tục củng cố và hoàn thiện hệ thống bán hàng. - Tiếp tục mở rộng thị trường đặc biệt là khu vực miền Đông và miền Tây vì đây là một trong những vùng thị trường trọng điểm nằm trong tam giác phát triển của Đồng bằng sông Cửu Long trong những năm tiếp theo, do đó chi nhánh cần tập trung nguồn lực giữ vững thị phần, tạo đà phát triển. Công tác tiếp thị, chăm sóc khách hàng, đại lý phải hoạt động có hiệu quả tại các vùng mới, tìm kiếm thêm một số đại lý mới, tại khu vực này để giảm bớt sự phụ thuộc quá nhiều vào một đại lý. - Chủ động xây dựng, đề xuất các chương trình khuyến mại nhằm thu hút sự chú ý của khách hàng, đưa ra các mức thưởng, chiết khấu cho các đại lý nhăm thúc đẩy đông viên các đại lý tiêu thụ sản phẩm của công ty. 1.2. Đối với bộ phận kinh doanh phía Bắc. - Theo sát kế hoạch sản xuất kính dán, gương của công ty kính Đáp Cầu để cung cấp kịp thời đầy đủ cho công ty. - Xây dựng phương án sản xuất kinh doanh sản phẩm chất lượng cao và các sản phẩm sau kính. - Xúc tiến, tiếp cận các dự án xây dựng khu trung cư lớn hiện đang và sẽ thực hiện tại Hà Nội, Hải Phòng của các tổng công ty VINACONEX, tổng công ty xây dựng Hà Nội, tổng công ty phát triển nhà và đô thị, tổng công ty xây dựng sông Hồng, công ty CONTREXIM. - Xem xét khả năng liên doanh liên kết với các đơn vị sản xuất kinh doanh gỗ, nhôm kính để cung cấp kính, gương vào các dự án này. - Tiếp thị cung cấp sản phẩm kính trắng cho nhà máy sản xuất kính an toàn của công ty Vinaconex 3- tổng công ty VINACONEX. 1.3. Đối với thị trường quốc tế. Nhằm nâng cao hơn nữa tính hiệu quả trong công tác xuất khẩu, nâng cao doanh thu và mở rộng thị trường tiêu thụ các sản phẩm Viglacera, trong thời gian tới công ty kinh doanh và xuất nhập khẩu sẽ tập chung hơn nữa vào một số công tác như: - Củng cố và duy trì quan hệ với khách hàng hiện có, thực hiện tốt những hợp đồng đã ký kết cũng như cung cấp đầy đủ thông tin mà khách hàng yêu cầu. - Năng động, sáng tạo, chủ động tìm kiếm thị trường. Tập trung khai thác thị trường Hoa Kỳ, đây là một thị trường lớn và đa dạng nên các sản phẩm của Viglacera sẽ có điều kiện thuận lợi để tiêu thụ tại đây. Tuy nhiên, hàng Việt Nam nói chung và Viglacera nói riêng vẫn còn khá xa lạ đối với phần lớn các nhà nhập khẩu Mỹ.Vì vậy vấn đề then chốt quyết định thành công chính là phải đảm bảo sản phẩm có chất lượng cao, và duy trì độ tin cậy và đồng nhất chất lượng. Chúng ta cần phải chứng tỏ rằng hàng hoá mang nhãn hiệu Viglacera đồng nghĩa với dịch vụ sản phẩm tốt hơn và lợi nhuận cao hơn. - Mở rộng khả năng tiếp cận và tìm kiếm bạn hàng thông qua các tổ chức, các cơ quan xúc tiến thương mại trong và ngoài nước, đặc biệt là thông qua mạng Internet, đây là một trong những biện pháp tiếp cận thị trường quốc tế rất hiệu quả và phổ biến trong thời gian gần đây. - Thường xuyên tham gia vào các hội chợ triển lãm quốc tế về vật liệu xây dựng để thu thập thông tin và quảng cáo sản phẩm Viglacera, tìm kiếm đối tác nhập khẩu và các cơ hội tiêu thụ sản phẩm ra thị trường nước ngoài. - Song song với việc phát triển thị trường, công ty cũng có phương hướng xây dựng và mở ra một số văn phòng đại diện hoặc đại lý tiêu thụ tại một số thị trường nước ngoài. - Tiếp nhận công nghệ tiên tiến của thế giới trong việc sản xuất các mặt hàng kính nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm để tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước. 2. Đẩy mạnh đa dạng hoá sản phẩm. Hiện nay, chúng ta đang gặp phải những khó khăn trong công việc xuất khẩu hàng hoá do sức cạnh tranh của hàng hoá của chúng ta thấp. Vì vậy, chúng ta phải tạo ra sự khác biệt về sản phẩm, đồng thời tạo ra những sản phẩm mới để đáp ứng nhu cầu của khách hàng và một mặt đổi mới công nghệ để giảm giá thành sản phẩm . Giảm giá thành sản phẩm trước hết ta phải giảm các chi phí đầu vào và chi phí vận chuyển. Hiện nay, chi phí vận chuyển của chúng ta còn khá cao so với cước vận chuyển của các nước trong khu vực gấp 1.5 lần. Mặt khác, nguồn nguyên nhiên liệu của chúng ta đang trong tình trạng khan hiếm vì vậy chúng ta phải tiết kiệm, nâng cao hiệu quả hoạt động. Có như vậy giá thành sản phẩm của chúng ta mới giảm và sản phẩm mới có thể cạnh tranh được trên thị trường. Khác biệt hoá và đa dạng hoá sản phẩm là một chiến lược tạo ra lợi thế cạnh tranh và sẽ mang lại kết quả cho công ty. Công ty cần chú ý vào những ngành quy mô vừa và nhỏ làm phong phú mặt hàng kinh doanh. Đối với những mặt hàng này sẽ tạo điều kiện cho công ty chuyển đổi linh hoạt cơ cấu mặt hàng kinh doanh, tạo lợi thế cạnh tranh về sản phẩm. Nhưng đối với công ty đang hoạt động kinh doanh, việc cải tiến cơ cấu mặt hàng phải theo hướng khác. Công ty phải không ngừng bổ sung những chủng loại hàng mới, chuyển đổi cơ cấu mặt hàng xuất khẩu theo yêu cầu của thị trường. Bên cạnh những mặt hàng truyền thống, doanh nghiệp cần phát huy mặt hàng chủ lực, công ty cũng chú trọng tới mặt hàng mới. Việc chuyên môn hoá vào mặt hàng có lợi thế, những mặt hàng mới sẽ giúp cho cơ cấu hàng xuất khẩu phong phú hơn, có lợi thế hơn. Đa dạng hoá sản phẩm không chỉ là mở rộng danh muc các mặt hàng mà điều cốt yếu vẫn là nâng cao chất lượng của sản phẩm. Hàng hoá xuất khẩu trước hết là phải chú ý đến chất lượng hàng hoá, sau đó mới là kiểu dáng và mẫu mã của hàng hoá. Trong tình hình hiện nay, các doanh nghiệp cạnh tranh rất quyết liệt do đó sản phẩm mà chỉ có chất lượng thôi thì không đủ. Sản phẩm hiện nay là chất lượng phải tốt, kiểu dáng, bao bì, mẫu mã đẹp,…Do vậy, các sản phẩm phải không ngừng được hoàn thiện và cải tiến. Đi cùng với hoàn thiện sản phẩm thì việc đáp ứng nhu cầu khách hàng bằng các hoạt động dịch vụ sẽ mang lại hiệu quả tốt hơn vì khi các sản phẩm có chất lượng như nhau, giá cả như nhau thì dịch vụ tốt hơn sẽ thu hút khách hàng hơn. Đối với tâm lý một số khách hàng thì việc chăm sóc và phục vụ khách hàng tốt sẽ lôi kéo và giữ chân khách hàng tốt cho dù giá sản phẩm có cao hơn một chút. 3. Kết hợp chặt chẽ với các đơn vị thành viên trong tổng công ty Viglacera Trong quá trình kinh doanh, công ty kinh doanh và xuất nhập khẩu phảI kết hợp chặt chẽ với các công ty trong tổng công ty Viglacera tạo nên một thể thống nhất để đáp ứng nhanh nhất nhu cầu của khách hàng. Cần khắc phục những khó khăn hiện tại, các đơn vị thành viên trong tổng công ty phải đáp ứng những yêu cầu mà công ty kinh doanh và xuất nhập khâu đưa ra như luôn có đủ những hàng hoá cho xuất khẩu, phảI cung cấp những thông tin về sản xuất cho công ty kinh doanh. Đồng thời, công ty kinh doanh xuất nhập khẩu cũng phải cung cấp thông tin về thị trường cho các công ty sản xuất biết. Có như vậy mới đảm bảo kết quả sản xuất và xuất khẩu, nâng cao uy tín cho tổng công ty và đảm bảo điều kiện tốt nhất cho khách hàng. Khi khách hàng muốn có sản phẩm thì phảI đáp ứng một cách nhanh nhất, như vậy mới tạo sự yên tâm cho khách hàng và tạo lòng tin của khách hàng đối với công ty. Hơn thế nữa, công ty kinh doanh và xuất nhập khẩu cần phảI cung cấp đầy đủ những thông tin về thị trường để các đơn vị thành viên trong tổng công ty có những giải pháp thích hợp. Đồng thời các đơn vị thành viên trong tổng công ty phải không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm đáp ứng nhu cầu của thị trường. 4. Đào tạo đội ngũ nhân viên có trình độ chuyên môn giỏi Công tác đào tạo con người là một nhiệm vụ quan trọng trong bất kể một ngành kinh doanh nào. Trong công tác kinh doanh và xuất nhập khẩu yêu cầu nhân viên phải có trình độ chuyên môn giỏi, nắm bắt những thông tin về thị trường, có kinh nghiệm trong công tác kinh doanh và giao dịch với nước ngoài, cách thuyết phục, nắm bắt tâm lý khách hàng...Trong những hạn chế của công ty, đội ngũ nhân viên còn có những hạn chế như: cung cấp thông tin về giá cả thị trường, trong bán hàng, xử lý thông tin. Vì vậy, công ty cần phải đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn của các nhân viên, khuyến khích nhân viên nhiệt tình hơn, năng động hơn trong tiếp cận thị trường và trong công tác bán hàng để nâng cao uy tín của công ty trên thị trường thế giới. Nhận biết được tầm quan trọng đó, công ty luôn coi trọng yếu tố con người và được ban lãnh đạo đặc biệt quan tâm và việc đào tạo nhân viên có trình độ chuyên môn giỏi luôn được đặt lên hàng đầu. III. Định hướng, phát triển của công ty trong thời gian tới. Trước những khó khăn đang gặp phả, công ty đã chỉ ra hướng phát triển trong những năm tới. Năm 2006 theo dự đoán việc tiêu thụ sản phẩm kính gặp nhiều khó khăn, giá bán sản phẩm kính của các đơn vị trong nước vẫn có xu hướng giảm. Công ty dự kiến sẽ sản xuất . Bảng 7: Kế hoạch sản xuất kinh doanh của công ty kính nổi Viglacera Tên sản phẩm Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 SLượng(m2) Dthu(tr.đ) SLượng(m2) Dthu(tr.đ) SLượng(m2) Dthu(tr.đ) Kính nổi Viglacera 400000 24730 440000 34564 460000 37000 Nguồn: Phòng kế hoạch. Công ty cũng đặt ra những kế hoạch cho việc xuất khẩu trong thời gian tới như sau: Bảng 8: Kế hoạch sản xuất kinh doanh của công ty trong giai đoạn 2006- 2008. Sản phẩm Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 SL(m2) DT(tr.đ) SL(m2) DT(tr.đ) SL(m2) DT(tr.đ) Gương tráng bạc 43300 3446 44600 3547 45030 3582 kính trắng VFG 764950 20886 779800 21291 772157 20872 kính màu VFG 179046 5794 184312 5964 186120 6023 kính trắng VIFG 863783 25855 855315 25602 863700 25853 kính màu VIFG 520500 18817 515400 18632 520453 18815 Tổng 2371579 74798 2379427 75036 2387460 75145 Nguồn: Phòng kế hoạch. Để có thể thực hiện được mục tiêu trên, bộ phận kinh doanh có một số kiến nghị và đề xuất một số biện pháp sau Đề nghị công ty tiếp tục khoán kinh doanh sản phẩm cho bộ phận kinh doanh kính, gương VIFG. Cụ thể, bộ phận nhận khoán sẽ là một đại lý của công ty. Bộ phận nhận khoán có trách nhiệm tổ chức mạng lưới bán hàng, mua sắm trang thiết bị, tuyển dụng thuê lao động, trả lương cho cán bộ công nhân viên. Tiếp cận với các đơn vị sản xuất, gia công kính dán, kính mài, để hướng khách hàng sử dụng sản phẩm kính VIFG. Để nâng cao tính chủ động trong việc cung cấp, đáp ứng nhanh sản phẩm cho khách hàng tại khu vực Hà Nội, bộ phận kinh doanh sẽ mua thêm hoặc thuê một xe ô tô để chở hàng. Kết luận Sản xuất là cơ sở tồn tại của xã hội, nó là nhân tố tạo ra của cải vật chất cho xã hội loài người, không có sản xuất con người sẽ không thể tồn tại và phát triển được. Chỉ có quá trình sản xuất không ngừng thì mới mở rộng được quy mô của nền kinh tế, tái sản xuất mở rộng và ngày càng tạo ra nhiều của cải vật chất cho con người góp phần nâng cao đời sống của người dân. Xuất khẩu hàng hoá có vai trò quan trọng đối với một nền kinh tế mở. Thông qua xuất nhập khẩu hàng hoá giúp nền kinh tế đất nước phát triển mạnh mẽ, góp phần đưa nền kinh tế của đất nước hội nhập vào nền kinh tế thế giới, phù hợp với xu thế hội nhập kinh tế chung hiện nay. Đối với mặt hàng kính xây dựng, trong những năm vừa qua đã gặp nhiều khó khăn do điều kiện chủ quan cũng như khách quan mà tình hình sản xuất trong nước gặp nhiều bất lợi. Nguyên nhân thì có nhiều nhưng chủ yếu chúng ta chưa có các quy định rõ ràng về mặt hàng này nên đã tạo nhiều kẽ hở cho mặt hàng nước ngoài nhập lậu một cách tràn lan vào nước ta gây khó khăn cho sản xuất trong nước. Trong thời gian tới, để có thể vực dậy ngành sản xuất kính xây dựng nước nhà thì một trong những giải pháp quan trọng phải đưa ra là cần có một hệ thống các văn bản pháp luật kiểm soát nhập khẩu kính xây dựng, đồng thời cũng cần phối hợp với các cơ quan hải quan để có thể phát hiện và xử lý những trường hợp nhập lậu kính xây dựng vào nước ta.Trong thời gian tới Nhà nước cũng cần có chính sách hỗ trợ về nhiều mặt đặc biệt là đầu tư tài chính cho việc xây dựng mới các nhà xưởng hiện đại để có thể cạnh tranh được với hàng ngoại nhập. Có như vậy thì mặt hàng kính xây dựng của nước ta mới có khả năng đứng vững trước xu thế hội nhập WTO của nước ta trong một thời gian không xa nữa. Danh mục tàI liệu tham khảo 1. Giáo trình kinh tế phát triển- NXB Lao động- XH 2. Giáo trình kinh tế quốc tế- NXB Khoa học và kỹ thuật- HN 2004- 2005 3. Báo cáo của công ty Viglacera 4. Báo cáo của Tổng công ty Viglacera 5. Giáo trình marketing- Nhà xuất bản Tài chính Hà Nội năm 2000 6. Tạp chí kinh tế phát triển các số 7. Tạp chí thương mại 8. Trang web sử dụng: - www.vnexpress.net - - 9. Văn kiện đại hội Đảng IX Mục lục Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32577.doc
Tài liệu liên quan