Chuyên đề Một số kiến nghị và giải pháp xây dựng, phát triển tập đoàn kinh tế ở Việt Nam

Đối với chính sách này cần phải xem xét những vấn đề sau:  Về phân phối lợi nhuận, trong thời gian thí điểm, cho phép công ty mẹ tự quyết định sử dụng phần lợi nhuận phân chia theo nguồn vốn công ty tự huy động nhằm tăng tốc độ và khả năng tích tụ và tập trung vốn. Phần lợi nhuận chia theo vốn nhà nước cũng được để lại công ty để tăng vốn nhà nước tại công ty.  Về thuế thu nhập doanh nghiệp: tuỳ tính chất và đặc thù của tập đoàn cho phép tập đoàn thí điểm nộp theo một trong hai phương thức sau: • Theo loại hình doanh nghiệp: Công ty mẹ và các công ty con có 100% vốn sở hữu của công ty mẹ nộp chung thuế với mức thuế được tính theo tổng doanh thu/ lợi nhuận của toàn bộ các công ty này. • Theo loại hình hoạt động: Đối với các hoạt động kinh doanh riêng rẽ, từng doanh nghiệp thành viên (công ty mẹ và các công ty con) sẽ nộp theo quy định hiện hành. Đối với các hoạt động mang tính chất chung, dây truyền khép kín trong tập đoàn, liên quan đến toàn bộ các doanh nghiệp thành viên thì được tính riêng để công ty mẹ thay mặt tập đoàn nộp thuế tổng hợp. Riêng công ty mẹ không phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp đối với phần lợi nhuận thu được từ phần góp vốn vào các công ty con và công ty khác, nếu các công ty này đã nộp thuế thu nhập doanh nghiệp trước khi chia lãi cho các bên góp vốn.  Về tín dụng, cho phép công ty mẹ được bảo lãnh tín dụng cho các công ty con bằng toàn bộ số vốn của tập đoàn được ghi trong quyết định thành lập. Thông qua tập đoàn, các doanh nghiệp thành viên được huy động vốn để kinh doanh dưới hình thức: phát hành trái phiếu, tín phiếu, kỳ phiếu; vay vốn của các tổ chức ngân hàng, tín dụng, các tổ chức tài chính khác, của cá nhân, tổ chức ngoài tổng công ty; huy động vốn của người lao động trong tổng công ty và các hình thức huy động vốn khác theo quy định của pháp luật.

doc63 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1616 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số kiến nghị và giải pháp xây dựng, phát triển tập đoàn kinh tế ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gắn kết các đơn vị thành viên trong việc thực hiện chiến lược phát triển toàn TCT. Thiếu cán bộ có năng lực quản lý và khả năng kinh doanh là hiện tượng phổ biến ở nhiều TCT. Mặt khác, việc đào tạo hướng dẫn nghiệp vụ quản lý TCT theo hướng đổi mới còn chậm được triển khai nên cung cách quản lý còn mang nặng tính chất hành chính trung gian của mô hình liên hiệp xí nghiệp của thời kỳ quản lý kinh tế tập trung. Về mối liên kết ngang giữa các DN thành viên trong TCT cũng không khác gì các DN ngoài TCT đều phải thi hành luật DNNN. Trong một chừng mực nào đó mối quan hệ giữa các DN thành viên trong TCT còn bị gò bó hơn do điều lệ của TCT quy định. Những khiếm khuyết nội tại của mô hình này bộc lộ ngày càng rõ thể hiện: Dù là TCT 90, 91 hay là TCT được thành lập sau đó thì sự minh bạch về sở hữu vẫn không được tôn trọng. Vốn của TCT hay của các công ty thành viên vẫn là vốn cả Nhà nước- thuộc sở hữu toàn dân. Tổng giám đốc TCT, giám đốc các công ty thành viên là chủ tài khoản của số tiền lớn nhưng không phải do chính họ bỏ ra. Đây là nguyên nhân cơ bản nhất dẫn đến tình trạng tham ô, tham nhũng trong các DNNN nói chung và trong các TCT nói riêng xảy ra ngày càng nhiều, càng nghiêm trọng ví dụ trong các TCT lớn như TCT dầu khí Việt nam, Tổng công ty hàng hải Việt nam… Việc gộp các công ty độc lập hoạt động trong cùng nghành nghề, lĩnh vực sản xuất và thị trường nhằm vừa thực hiện chức năng sản xuất kinh doanh, vừa giữ vai trò định hướng, điều tiết thị trường (nhất là đối với TCT 91). Do thực hiện lẫn lộn các chức năng, lại có vị trí độc quyền nhà nước ở nhiều lĩnh vực thiết yếu và hưởng quá nhiều những ưu đãi của nhà nước, nên nhiều TCTNN kinh doanh kém hiệu qủa, trở thành gánh nặng của ngân sách, gây tổn hại và tăng chi phí cho nền kinh tế. Các TCTNN nắm giữ hầu hết tài nguyên quốc gia, nhưng lại tạo ra giá trị gia tăng thấp hơn các khu vực khác, thậm chí là kinh doanh thua lỗ, gây thất thoát, lãng phí nguồn lực xã hội, trong khi Nhà nước vẫn phải tiếp tục cấp rót vốn để duy trì sự tồn tại của nó nhằm thực hiện chức năng điều tiết, định hướng thị trường. Quan hệ giữa TCT với các thành viên nặng về hành chính hơn là về tài chính và chia sẻ lợi ích, dẫn đến hiệu quả hoạt động thấp. Do các TCTNN được thành lập nhằm khắc phục tình trạng manh mún, dàn trải của các DNNN sản xuất kinh doanh cùng nghành và lĩnh vực, tạo tiếng nói chung chi phối thị trường và củng cố vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Tuy nhiên do được thành lập bằng quyết định hành chính nên TCT trở thành một cấp quản lý hành chính trung gian giữa Chính phủ hay Bộ chủ quản với các DNNN thuộc phạm vi của mình quản lý; các DN thành viên cử ra bộ máy lãnh đạo quản lý chung. Do đó, vai trò của các TCT đối với các DN thành viên rất mờ nhạt, không phải bằng quyền lực của người chi phối. Bởi vì, vốn của các TCT chính là vốn của Nhà nước trên sổ kế toán của các công ty thành viên cộng lại. Mỗi công ty thành viên là một pháp nhân độc lập. Vì vậy vai trò điều phối vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu của TCT chỉ tồn tại trên văn bản. Việc hỗ trợ về công nghệ, tạo thị trường tiêu thụ sản phẩm cho các công ty thành viên của TCT cũng không đạt được hiệu quả như mong muốn. Việc có quá nhiều văn bản pháp quy dưới luật nhằm hướng dẫn hoạt động của các TCT và để kiểm soát hoạt động của bộ máy điều hành, ở một số TCT có thêm tổ chức là Hội đồng quản trị. Thực tế cho thấy, những văn bản chỉ đạo đã có và ngay cả khi có Hội đồng quản trị, hiện tượng tham ô, tham nhũng, gian lận trong kinh doanh… vẫn cứ xảy ra. Hơn nữa một hệ thống quản lý hành chính, cồng kềnh đã tác động xấu đến hoạt động kinh doanh ở các công ty thành viên. Tóm lại trong việc hình thành và quản lý các TCT, chúng ta đã sử dụng các biện pháp hành chính, xa lạ với những quy luật khách quan của kinh tế thị trường. Vì vậy phù hợp với yêu cầu của quá trình HNKTQT ngày càng sâu sắc và toàn diện và nâng cao năng lực cạnh tranh của các DN Việt nam, tìm ra một phương án khắc phục những yếu kém của mô hình Tổng công ty Nhà nước là một tất yếu khách quan. Thực trạng hình thành và vận hành mô hình công ty mẹ - công ty con Hiện nay, việc chuyển đổi TCT, công ty nhà nước sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con đã trở thành một trong nhưng giải pháp quan trọng đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các TCT, công ty nhà nước và là tiền đề để hình thành một số TĐKT mạnh. Kề từ khi hoạt động theo Nghị định 153/ NĐ-CP, thì thấy được mô hình này có tính ưu việt hơn, có những chuyển biến tích cực và đã đạt được kết quả mà trong mô hình trước đây chưa làm được thể hiện trong: Mô hình công ty mẹ - công ty con đã làm thay đổi bản chất, phương thức tổ chức và phương thức quản lý điều hành từ kiểu hành chính cấp trên- cấp dưới với cơ chế vừa giao vốn cho TCT, vừa giao vốn cho các DN thành viên nên không gắn chặt trách nhiệm của TCT với hiệu quả hoạt động của từng doanh nghiệp thành viên, sang phương thức công ty mẹ đầu tư, chi phối về vốn, công nghệ, thương hiệu đối với các công ty con; công ty mẹ và công ty con là những pháp nhân độc lập, bình đẳng, mọi quan hệ đều thông qua hợp đồng kinh tế. Công ty mẹ tham gia quản lý với tư cách là cổ đông, thành viên góp vốn…nhận cổ tức lại từ công ty con theo tỷ lệ góp vốn ( không còn tình trạng lợi nhuận nằm ở các DN thành viên và TCT thu phí quản lý như trước đây), tạo điều kiện cho công ty mẹ có nguồn vốn thật, thu nhập thật để tích tụ và tập trung vốn để thực hiện các dự án đầu tư mới hoặc tăng cường vốn cho các đầu tư trọng điểm theo định hướng chiến lược của toàn bộ TCT. Qua đó khẳng định được vai trò chủ sở hữu vốn của công ty mẹ với các quyền và nghĩa vụ được xác lập một cách cụ thể gắn chặt với hiệu quả hoạt động của các công ty thành viên trong TCT. Tạo được mô hình có cơ cấu đa dạng về loại hình DN, đa dạng sở hữu nên có sức hút mạnh đối với các nhà đầu tư bên ngoài và sự tham gia của các DN khác. Cơ cấu sở hữu này đã tạo ra các cơ chế quản lý đa thành phần, thu hút mạnh vốn từ các nhà đầu tư bên ngoài vào sản xuất kinh doanh dưới hình thức đầu tư cổ phiếu, trái phiếu, góp phần đầy nhanh quá trình tích tụ, tập trung vốn, mở rộng quy mô DN và phạm vi kinh doanh, nâng cao được hiệu quả, sức cạnh tranh trên thị trường. Nhiều đơn vị có mức tăng trưởng tương đối khá sau khi chuyển đổi ví dụ về mức tăng trưởng của các công ty mẹ - công ty con ở thành phố Hồ Chí Minh và công ty Xây lăp Điện III, thấy được hầu hết các đơn vị chuyển đổi sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con đều có doanh thu, lợi nhuận, nộp ngân sách nhà nước tăng đáng kể sau chuyển đổi. Bảng 1: mức tăng trưởng của các công ty mẹ - công ty con ở thành phố Hồ Chí Minh Mức tăng doanh thu Mức tăng nôp NSNN Mức tăng lợi nhuận tỷ suất lợi nhuận trên vốn Chung 48% 9% 24% 10,83% Công ty vàng bạc đá quý Sài gòn SJC 210% 44% Công ty Liksin 44% Công ty phát triển khu công nghiệp Sài gòn 38% 156% Tổng công ty Địa ốc Sài gòn 33% Tổng công ty Cơ khí giao thông vận tải Sài gòn 35% 34% Tổng công ty bến thành 17,2% 10,1% 69,1% 12,9% Tổng công ty cấp nước Sài gòn 37% Tổng công ty du lịch Sài gòn (*) 23,4% 22% 36,3% Ghi chú (*) năm 2005 tăng so với năm 2004 Công ty Xây lắp điện III có hiệu quả sản xuất kinh doanh sau chuyển đổi đã có những biến chuyển vượt bậc (thể hiện ở bảng dưới đây) Bảng 2: Mức tăng trưởng của công ty Xây lắp điện III hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 KH Năm 2006 (*) Giá trị sản lượng (tỷ đồng) 703,219 861,8 949,8 1300 Doanh thu (tỷ đồng) 449,359 390,5 Lợi nhuận (tỷ đồng) 21,178 53 Nộp NSNN (tỷ đồng) 14 45 Thu nhập bình quân lao động (triệu đồng\người\tháng) 1,38 1,42 1,57 1,8 Vốn điều lệ (tỷ đồng) 104 150 Cổ tức dự kiến (tỷ đồng) 33,8 Tỷ lệ cổ tức 14,2 Ghi chú: (*) Bộ công nghiệp đã có Quyết định phê duyệt phương án và chuyển Công ty Xây lắp Điện III thành Tổng công ty cổ phần Xây dựng Điện Việt nam (VNECO). TCT Bia - Rượu - Nước giải khát Hà nội: Kết quả sản xuất kinh doanh của các công ty con, công ty liên kết và toàn tổng công ty có tốc độ tăng trưởng cao. Từ năm 2003 đến năm 2005, tốc độ tăng trưởng bình quân như sau: Gía trị sản xuất công nghiệp tăng 32,35%, tổng doanh thu tăng 27,60%, doanh thu sản xuất công nghiệp tăng 29,13%, bia các loại tăng 34.46%, rượu tăng 17,52%, cồn tăng 9,69%, lợi nhuận tăng 12,58%, nộp ngân sách tăng 29,23%. Năm 2005, giá trị sản xuất công nghiệp của toàn thể công ty đạt 1.507,544 tỷ đồng, tăng 24,15% so với năm 2004; doanh thu đạt 1.926,3 tỷ đồng, tăng 28,33%, nộp ngân sách đạt 847,3 tỷ đồng, tăng 19,94%; lợi nhuận đạt 286,6 tỷ đồng, tăng 29,26%. Hiện nay thị phần sản lượng tiêu thụ bia của toàn bộ TCT đứng thứ 2 tại Việt nam. Thương hiệu bia Hà Nội và rượu Hà Nội đang được phát triển trở thành thương hiệu mang tính quốc gia. Thị trường tiêu thụ của các công ty con, công ty liên kết của TCT được củng cố và phát triển, bia Thanh Hoá, bia Hải Dương và bia Hải Phòng có năng lực cạnh tranh mạnh tại địa bàn tỉnh và khu vực lân cận Việc không tổ chức bộ máy quản lý riêng của cả tổ hợp công ty mẹ - con mà sử dụng ngay bộ máy quản lý của công ty mẹ (Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc và các bộ phận chức năng) làm bộ máy quản lý chung nên có điều kiện tập trung điêu hoà, phối hợp toàn bộ TCT phát triển theo lĩnh vực chung ở các lĩnh vực đào tạo, tiếp thị, công nghệ, phát triển thương hiệu, phân công, phối hợp để sản xuất cùng nhau nghiên cứu liên kết để phát triển sản phẩm mới, thị trường đầu vào, đầu ra. Công ty mẹ được quyền chủ động đầu tư, góp vốn, mua cổ phần hoặc bán phần vốn góp, cổ phần để đầu tư vào DN khác nên đã tạo điều kiện mở rộng hợp tác cùng các đối tác khác để tăng cường sức cạnh tranh, lại tránh được rủi ro, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và nâng cao được kinh nghiệm quản trị cho cán bộ trong bộ máy quản lý công ty mẹ. Nhờ vậy thực hiện được xúc tiến đầu tư nhanh, đáp ứng kịp thời nhu cầu thị trường. Mô hình này đã tạo điều kiện giảm chi phí trung gian và nâng cao hiệu quả hoạt động tổ hợp. Do thay đổi bản chất quan hệ và phương thức điều hành giữa TCT và các thành viên, công ty mẹ có điều kiện tập trung sự quan tâm vào việc tối đa hoá hiệu quả đầu tư, định hướng chiến lược hoạt động cho cả tổ hợp, nghiên cứu đổi mới công nghệ, cơ cầu sản phẩm phát triển thị trường. Các công ty con, công ty liên kết chỉ cần chuyên tâm vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh cụ thể theo sự phân công chuyên môn hoá, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả đồng thời giảm bớt được chi phí. Bộ máy tổ chức, quản lý của TCT- công ty mẹ và các công ty con cũng được rút gọn tối đa, cho phép phát huy được lợi thế so sánh về vốn, công nghệ, thương hiệu và sức cạnh tranh trên thị trường của cả tổ hợp. Tóm lại: Từ khi các công ty chính thức hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con, hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng thông thoáng, kịp thời hơn, tạo được tính tự chủ, năng động sáng tạo của công ty con. Đối với các công ty phụ thuộc thì tính tự chủ được nâng cao hơn, hoạt động năng nổ hơn, nhất là những vấn đề đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh được xem xét giải quyết kịp thời, hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty mẹ - công ty mẹ được tăng lên đáng kể. Đời sống người lao động không ngừng được cải thiện, năng xuất lao động tăng, đảm bảo được nghĩa vụ ngân sách với nhà nước, tỷ suất lợi nhuận cao hơn so với trước khi chuyển đổi. Hay nói cách khác việc chuyển đổi sang hoạt đông theo mô hình công ty mẹ - công ty con tạo một bước chuyển vê tư tưởng, nhận thức cũng như thực tiễn, đã tạo ra bước đổi mới quan trọng trong quản lý, điều hành, tổ chức sản xuất kinh doanh; tăng năng lực, mở rộng quy mô, nghành nghề kinh doanh so với mô hình TCT trước đây. Qua đó cho ta khẳng định rằng mô hình công ty mẹ - công ty con đã khắc phục được hạn chế cơ bản của các TCTNN trước đây; đã tạo điều kiện để giải phóng năng lực sản xuất, huy động vốn để đổi mới công nghệ, mở rộng quy mô kinh doanh. Đây là điều kiện quan trọng để đưa các TCTNN thích ứng hơn với cơ chế thị trường, là bước chuẩn bị để hình thành các TĐKT có đủ sức cạnh tranh và HNKTQT có hiệu quả. Và từ khi thí điểm mô hình TĐKT năm 2005 đến nay nước ta đã có tám TĐKT được Chính phủ quyết định thành lập từ các TCTNN (đây đều là những TCTNN có quy mô lớn, đều là những TCT hoạt động trong những nghành mũi nhon của cả nước như trong các lĩnh vực: Viễn thông, Điện, Than…). Các TĐKT đều là những TĐKT có quy mô lớn, kinh doanh đa nghành, đa lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực kinh doanh chính (bao trùm cả một nghành kinh tế then chốt); với cơ cấu theo mô hình công ty mẹ - công ty con và tập hợp thành viên là các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, công ty liên doanh, mặc dù đây là mô hình còn đang trong giai đoạn thí điểm và có nhiều ý kiến khác nhau, song TĐKT là con đường tất yếu để đưa các DNNN Việt nam cạnh tranh được với các TĐKT lớn trên thế giới, các công ty đa quốc gia. Những thách thức và trở ngại đối với việc chuyển đổi các tổng công ty nhà nước sang mô hình tập đoàn kinh tế Quy mô và trình độ tích tụ vốn Theo quá trình lịch sử, các tập đoàn kinh tế ở trên thế giới cho thấy, TĐKT chỉ hình thành và có điều kiện để phát triển khi đã đạt tới một trình độ nhất định về khả năng tích tụ và tập trung vốn, tài sản cho dù là sản xuất hàng hoá hoặc sản xuất dịch vụ, trong đó có nghành dịch vụ, điều lưu ý là trình độ tích tụ và tập trung vốn, tài sản phải vừa được xem xét trên góc độ toàn nghành vừa trên góc độ từng DN riêng rẽ. Để hình thành TĐKT thì vấn đề bảo đảm vấn đề này là hết sức quan trọng, bởi vì khi tích tụ và tập trung vốn, tài sản lớn sẽ là điều kiện để giảm giá thành, nâng cao khả năng cạnh tranh của DN trên thị trường cho dù là trong nước hay nước ngoài. Trong khi đó quá trình tập trung hoá về sản xuất kinh doanh và tích tụ về vốn của các TCT 91 của ta còn chậm và yếu hơn nhiều so với các nước trong khu vực, chưa tương xứng với yêu cầu hình thành TĐKT. Ví dụ giữa Trung Quốc và Việt nam. Đối với Trung Quốc có 503 tập đoàn nhà nước có công ty mẹ là xí nghiệp quốc hữu, đã có 3 tập đoàn trong danh sách 500 tập đoàn lớn nhất thế gíới về vốn và doanh thu. Tài sản trung bình của một tập đoàn lên tới 12,4 tỷ nhân dân tệ tương ứng khoảng 24.800 tỷ đồng. Còn đối với Việt nam khi công 3 tổng công ty là Điện lực, Dầu khí, Bưu chính viễn thông lại thì chỉ có thể vượt mức trung bình của Trung Quốc ( mà ta đã biết đây là ba tổng công ty lớn nhất của Việt nam). Cơ chế quản lý vốn tài chính hiện chưa khuyến khích việc tăng cường tích tụ tái đầu tư vốn của các TCT. Hầu hết các TCT 91 chưa có được sự tích tụ và tập trung thống nhất, trừ một số rất ít TCT hạch toán toàn nghành. Cơ chế bao cấp đối với TCT vẫn còn tồn tại. Nguồn vốn phụ thuộc chủ yếu vào ngân sách nhà nước, điều này chứng tỏ khả năng huy động nguồn vốn của các TCT là không hiệu quả thậm chí được coi là yếu; mà mức độ tập trung hoá không đồng đều theo nghành và ngay trong một ngành, phụ thuộc vào tác động đầu tư của Nhà nước. Chuyên môn hoá và hợp tác, liên kết kinh doanh Việc liên kết TCT chưa phù hợp với liên kết của TĐKT. Đó là nguyên nhân hạn chế TCT phát triển thành tập đoàn. Hiện nay trên thế giới thường tồn tại theo hai dạng liên kết TCT: Dạng thứ nhất: Dạng TCT có quan hệ liên kết lỏng lẻo, tức là các công ty mẹ chỉ đầu tư, mua cổ phiếu của các công ty khác và quyết định định hướng phát triển mang tính chiến lược và đây là dạng phổ biến ở Nhật Bản, Châu Âu…. Dạng thứ hai: TCT có liên kết chặt chẽ hơn, bao gồm quá trình chỉ đạo xuyên suốt đối với mọi lĩnh vực, từ sản xuất cho tới phát triển thị trường…Dạng này phổ biến ở Trung Quốc và hiện nay chúng ta đang đi theo hướng này,là dạng chủ yếu trên cơ sở quyết định hành chính. Đây là kết quả của quá trình sắp xếp, tổ chức lại, xoá bỏ sự phân tán của các DN, chỉ gom các DN có cùng nghành nghề lại với nhau mà chưa phải là quan hệ kinh tế chặt chẽ, cùng có trách nhiệm và cùng phân chia quyền lợi như quan hệ liên kết trong tập đoàn. Tuy nhiên các TCT tổ chức theo cách tập hợp các DN thành viên hoạt động trong cùng nghành nghề, lĩnh vực sản phẩm, cùng với thị trường tiêu thụ và cùng với đối tượng khách hàng, trong một sô trường hợp cũng không tránh khỏi có sự xung đột về lợi ích Để hạn chế tình trạng này các TCT thường sử dụng các biện pháp hành chính. Ví dụ tổng công ty Xi măng Việt nam đã thực hiện một số biện pháp hành chính như phân vùng tiêu thụ cho các công ty xi măng thành viên…điều này một mặt làm giảm thiểu cạnh tranh nội bộ, đảm bảo sự phát triển đồng đều giữa các đơn vị thành viên, đảm bảo mục tiêu chung của TCT, nhưng mặt khác lại hạn chế sự phát triển của các công ty thành viên có tiềm lực mạnh. 3. Quan hệ với nhà nước Việc thực hiện quyên chủ sở hữu đối với các TCT theo hướng tập đoàn là chưa rõ, gây nên nhiều khó khăn cho hoạt động của TCT. Các TCT được hình thành do quyết định của Thủ tướng Chính phủ, do đó việc bổ nhiệm, miễn nhiệm Hội đồng quản trị và tổng giám đốc là do thủ tướng quyết định, nhưng các nội dung quyền chủ sở hữu nhà nước còn lại khác lại do một số các cơ quan khác thực hiện, mặt khác việc thực hiện mô hình này có sự không phù hợp theo thông lệ quốc tế. Ví dụ: Hội đồng quản trị vẫn không có toàn quyền quyết định việc bổ nhiệm, miễn nhiệm tổng giám đốc như ở các nước trên thế giới đã làm.Tình trạng chưa tách bạch rõ một số quyền và trách nhiệm giữa người quản lý tức Hội đồng quản trị và người điều hành DN tức Tổng giám đốc hoặc Giám đốc; chưa gắn kết lợi ích và trách nhiệm của Hội đồng quản trị với hiệu quả hoạt động của TCT còn phổ biến. 4. Cơ chế chính sách phát triển tổng công ty theo hướng tập đoàn Do nhiều nguyên nhân, các văn bản hướng dẫn thí điểm thành lập một số TCT theo mô hình tập đoàn kinh doanh chưa được xây dựng ban hành, chỉ có Quyết định 91 của Thủ tướng Chính phủ ban hành năm 1994 nhưng trong trong văn bản này chưa đề cập đúng bản chất và đặc thù của mô hình, tổ chức quản lý và hoạt động của TĐKT, dẫn đến hoạt động của các TCT chưa thể phát triển theo mô hình TĐKT. Ngay cả việc ban hành Luật DN năm 2003 và Nghị định 153/2004/NĐ-CP về TCTNN và chuyển đổi TCTNN, công ty nhà nước độc lập sang mô hình mẹ con vừa qua cũng mới chỉ được nhìn nhận như là tiền đề pháp lý ban đầu cho việc đổi mới mô hình TCT, có nghĩa là chưa có khung cơ chế thực sự cho việc hình thành và phát triển TĐKT. Trình độ tích tụ và tập trung vốn trong các TCT theo hướng tập đoàn còn thấp một phần do những bất cập trong chính sách đầu tư và tài chính. Chính sách tài chính đối với TCT vẫn chưa tạo điều kiện thực sự để các TCT tự tích tụ vốn, chủ động tái đầu tư phát triển. Chính sách huy động vốn qua kênh cổ phần hoá, qua thị trường chứng khoán tuy đã được nhà nước quan tâm, nhưng chưa được các TCT coi trọng; với cơ chế tài chính hiện hành, khả năng chi phối về đầu tư và vốn đối với các đơn vị thành viên của các TCT 91 là rất khó vì các TCT này không phải là người đầu tư vốn cho các DN thành viên. Chỉ có một số TCT ràng buộc về công nghệ, phân phối, đầu vào, đầu ra của thị trường là có sức mạnh thật sự đối với toàn bộ hoạt động của TCT như TCT Bưu chính Viễn thông… Với các chính sách khác như chính sách khoa học…chưa tạo động lực đủ mạnh để hình thành và phát triển TĐKT. Một số nét chính về các TĐKT ở Việt nam 1. Tập đoàn Bưu chính viễn thông Việt Nam Ngày 26/3/2006 Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt nam chính thức ra mắt. Với mô hình tập đoàn kinh tế mạnh, đây là một cuộc chuyển đổi mang tính cách mạng nhằm tập trung nâng cao khả năng cạnh tranh của nghành BCVT- CNTT Việt nam trước yêu cầu của hội nhập. Việc hình thành tập đoàn nhằm xây dựng một DN hàng đầu trong lĩnh vực BCVT- CNTT có trình độ công nghệ, quản lý hiện đại, chuyên môn hoá cao, kinh doanh đa nghành cả trong nước và quốc tế, trong đó Viễn thông, Công nghệ thông tin và Bưu chính là những nghành kinh doanh chính. Tập đoàn sẽ gắn kết chặt chẽ giữa sản xuất kinh doanh với khoa học công nghệ, nghiên cứu phát triển, đào tạo, có sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế và làm nòng cốt để Bưu chính, Viễn thông Việt nam phát triển nhanh, cạnh tranh và HNKTQT hiệu quả. Mục tiêu của quá trình chuyển đổi từ TCT Bưu chính Viễn thông Việt nam sang Tập đoàn BCVT Việt nam theo mô hình công ty mẹ - công ty con nhằm tăng cường tích tụ về vốn, tập trung khả năng cạnh tranh và tối đa hoá lợi nhuận của tổng công ty BCVT Việt nam, trong đó điểm mấu chốt là tập trung sắp xếp đổi mới quản lý, xác lập lại cơ cấu sản xuất kinh doanh, lành mạnh hoá các quan hệ tài chính, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các thành viên cạnh tranh trong bối cảnh kinh doanh HNKTQT hiện nay. Việc chuyển đổi này còn nhằm khắc phục những bất cập và tồn tại của mô hình tổ chức hiện nay, đồng thời đẩy mạnh đầu tư, tạo dựng nòng cốt cho phát triển, hình thành cơ cấu phân cấp mạnh cho các công ty con nhằm tạo sự chủ động sáng tạo để phát huy nội lực của đơn vị thành viên. Quá trình chuyển đổi VNPT sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con và đầu tư phát triển thực chất là sắp xếp và cơ cấu lại hoạt động sản xuất cả trong VNPT và các đơn vị thành viên. Sự chuyển đổi này cũng nhằm xác lập các liên kết kinh tế tron VNPT, đổi mới các quan hệ hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm phân định rõ về vốn, tài sản, quyền lợi, nghĩa vụ giữa các đơn vị, giữa các lĩnh vực cần có sự giám sát của Nhà nước, không nhất thiết phải giữ 100% vốn ở DN thành viên hoặc đem vốn đi liên doanh, liên kết, góp vốn cổ phần, mở rộng kinh doanh các nghành kinh tế khác. Trong mô hình tập đoàn, công ty mẹ đóng vai trò tối đa hoá lợi nhuận của cả tập đoàn: trực tiếp kinh doanh một số lĩnh vực như mạng đường trục; quản lý đầu tư kinh doanh vốn; hoạch định chiến lược mở rộng kinh doanh, hỗ trợ các công ty con hoạt động; nghiên cứu phát triển. Bên cạnh đó còn có nhiệm vụ thực hiện nghĩa vụ công ích; thực hiện quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu đối với phần vốn nhà nước đầu tư vào các công ty con theo quy định của pháp luật. Mối quan hệ giữa tập đoàn với các DN thành viên là dựa trên quan hệ sở hữu vốn và quan hệ đầu tư, không còn mối quan hệ hành chính như trước kia nên nó phù hợp với cơ chế thị trường và có khả năng hội nhập. Tập đoàn vừa đóng vai trò là người trực tiếp kinh doanh một số dịch vụ BCVT then chốt, nhưng đồng thời lại đóng vai trò một nhà đầu tư tài chính. Liên kết của tập đoàn vừa liên kết cứng theo mô hình công ty mẹ - công ty con, nhưng lại vừa liên kết mềm giữa TCT Viễn thông và TCT Bưu chính. Đây là sự vận dụng linh hoạt 2 loại mô hình tập đoàn khá phổ biến trên thế giới để xây dựng tập đoàn BCVT Việt nam. Những khó khăn vẫn còn ở phía trước Việc xây dựng tập đoàn BCVT Việt nam có nhiều thuận lợi vì VNPT đang có tiềm lực vật chất và tinh thần, nhưng khó khăn cũng không ít. Khó khăn: Đây là mô hình mới, chưa có tiền lệ nên trong quá trình tổ chức thành lập cần phải có thới gian nghiên cứu để đi vào hoạt động. Trong khi đó các hành lang pháp lý của nhà nước như Luật DN, Pháp lệnh Bưu chính Viễn thông, các quy chế tài chính…hiện chưa có quy định đối với TĐKT. Thêm vào đó là sự kéo dài quá lâu cơ chế hạch toán tập trung tạo thói quen khó sửa từ VNPT (cũ) cho đến các đơn vị thành viên. Hiện VNPT có hơn 100 đơn vị thành viên nên việc xây dựng mô hình tập đoàn sẽ không đơn thuần chỉ diễn ra ở TCT mà còn là sự chuyển đổi, gắn liền với tất cả các đơn vị thành viên từ tái cơ cấu lại mô hình tổ chức, chuyển đổi quản lý, sản xuât kinh doanh cho đến chuyển đổi nhận thức trong đội ngũ cán bộ công nhân viên. Việc hình thành tập đoàn BCVT Việt nam và việc hoạt động theo mô hinh công ty mẹ - công ty con là bước ngoặt quan trọng của quá trình cải cách, đỏi hỏi phải có sự quyết tâm rất lớn của mỗi cán bộ công nhân viên và tập thể lãnh đạo Tập đoàn than – khoáng sản Việt nam Tập đoàn Than – khoáng sản Việt nam được hình thành từ mô hình TCT 91 thấy được những đặc điểm khác nhau mà TCT Than trước đây không có như: Nếu như Tổng công ty 91 trước đây là đơn vị đơn sở hữu khi chuyển sang tập đoàn thì đang dần chuyển sang đơn vị kinh tế đa sở hữu, hoạt động theo mô hinh công ty mẹ - công ty con, ngoài những đơn vị 100% vốn nhà nước sẽ có các công ty Trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần… Về quy mô, vốn của tập đoàn sẽ lớn hơn trước rất nhiều, kinh doanh đa nghành như bên cạnh lĩnh vực than thì tập đoàn còn có trong các lĩnh vực như điện, vật liệu nổ công nghiệp, cơ khí năng lượng và mỏ, đóng tàu va ô tô… Khác biệt lớn nhất là mối quan hệ giữa tập đoàn với các đơn vị thành viên thay đổi từ cảnh ra lệnh bằng việc tập đoàn chi phối công ty con qua việc đầu tư vốn, đề cao tối đa tính chủ động, sáng tạo của các đơn vị thành viên. Việc chuyển thành tập đoàn mang lại: Tạo ra sức mạnh của tập đoàn được nâng lên gấp đôi. Việc chuyển từ đơn sở hữu lên đa sở hữu làm cho vốn của tập đoàn không ngừng tăng lên. Một số tập đoàn kinh tế lớn trên thế giới Tập đoàn thiết kế kiến trúc Thượng Hải Trung Quốc Tập đoàn này được hình thành từ hai viện nghiên cứu thiết kế kiến trúc lớn trong nước và có thực lực mạnh là Viện nghiên cứu thiết kế kiến trúc Hoa Đông và Viện nghiên cứu thiết kế kiến trúc Thượng Hải. Hai viện này được coi như là công ty mẹ vừa có chức năng sản xuất kinh doanh bằng các sản phẩm thiết kế, đồng thời có chức năng đầu tư vốn để hình thành các công ty con. Công ty mẹ sở hữu 100% vốn, được nhà nước cho phép kinh doanh tài sản thông qua việc đầu tư vốn vào công ty con, từ đó hoạt động theo hình thức công ty mẹ - công ty con. Thông qua hình thức đầu tư 100% vốn, góp vốn cổ phần chi phối hoặc không chi phối, hai viện nghiên cứu này đã hình thành một tập đoàn DN khoa học kỹ thuật mang tính tổng hợp, xuyên nghành, xuyên lĩnh vực, kết hợp nhiều tầng liên kết. Tập đoàn này là tổ chức hoạt động đa nghành, trong đó hoạt động nghiên cứu thiết kế kiến trúc là hoạt động chính. Ngoài thiết kế kiến trúc, tập đoàn còn mở rộng hoạt động sang các lĩnh vực kinh doanh khác như nhận thầu xây lắp, quản lý dự án, giám sát công trình, trang trí nội thất, khai thác sản xuất vật liệu xây dựng, tư vấn khoa học, bất động sản…Tập đoàn chủ yếu hoạt động trong nước và cũng đã vươn ra thị trường nước ngoài dưới hình thức liên doanh. Tập đoàn Viễn thông Nhật Bản (NTT) Đây là một tập đoàn nhà nước thực hiện việc kinh doanh tất cả các dịch vụ điện thoại trong toàn quốc, tập đoàn này bao gồm một công ty mẹ, công ty con, công ty cháu. Đặc điểm của mô hình này: Không hình thành pháp nhân tập đoàn NTT. Không có bộ máy quản lý điều hành riêng. Công ty mẹ sử dụng bộ máy điều hành của mình để thực hiện chức năng của công ty mẹ đối với các công ty con và với toàn tập đoàn. Công ty mẹ do Bộ tài Chính nắm 46% vốn, công ty mẹ nắm giữ từ 60% - 100% vốn của công ty con; công ty con. Công ty con: có từ 60% - 100% vốn góp của công ty mẹ. Hiện nay có 30 công ty con. Công ty cháu: là công ty do công ty con nắm giữ trên 50% vốn. Về nguyên tắc công ty con không được đầu tư ngược trở lại công ty, công ty cháu không được đầu tư trở lại công ty mẹ, công ty con. Công ty liên kết là những công ty mà các thành viên của NTT nắm giữ 20% - 50% vốn. Các quan hệ giữa các công ty đều thông qua các hợp đồng kinh tế (hợp đồng về kinh doanh, về đóng góp vào nghiên cứu phát triển) . 3. Tập đoàn General Motor Tập đoàn này ban đầu có nhiệm vụ là sản xuất ô tô, trải qua quá trình hoạt động đến nay tập đoàn này đã trở thành một Conglomerate đa quốc gia, đa nghành nghề, có một hệ thống chi nhánh rộng khắp trên thế giới nhưng sản xuất ô tô vẫn là hoạt động chính. Sự phát triển nhanh chóng đó là do: Quản lý phi tập trung là phương thức có hiệu quả đối với tập đoàn. Việc nhanh chóng chuyển giao quyền độc lập tự chủ cho các công ty thành viên là một trong những nhân tố cơ bản góp phần đưa tập đoàn lên vị trí hàng đầu trong suốt 50 năm. Trong khi bảo đảm quyền độc lập của các thành viên, General Motor vẫn thực hiện quản lý tập trung thống nhất vê chiến lược phát triển và tài chính, đầu tư. Tích tụ và tập trung sản xuất, vốn vẫn là con đường cơ bản trong việc hình thành và phát triển của Tập đoàn General Motor. Việc áp dụng khá thành công trong việc áp dụng phương thức quản lý tiên tiến phù hợp với đỏi hỏi thực tiễn như cùng với việc giữ vững nghành chuyên môn hoá truyền thống, tập đoàn đã từng bước tiến hành các hoạt động đa dạng hoá hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Cùng với đó là sự chuyển hướng kịp thời trong phương thức đầu tư cho phù hợp với sự biến động của thị trường trong từng giai đoạn. General Motor được hoạt động trong môi trường kinh doanh thuận lợi do chính phủ tạo ra. 4. Tập đoàn xi măng SIAM Thái Lan Tập đoàn Xi măng Siam là một tập đoàn dạng Conglomerate lớn nhất và lâu đời nhất ở Thái Lan. Tiền thân của nó là Công ty Xi măng Siam. Từ một công ty với nhiệm vụ ban đầu là sản xuất và cung ứng xi măng, đến nay tập đoàn đã mở rộng hoạt động ra rất nhiều nghành sản xuất và thương mại khác nhau như trong lĩnh vực hoá dầu, sản xuất giây, vật liệu xây dựng và phân phối. Sự phát triển của tập đoàn thực hiện chủ yếu bằng hai cách: Cách thứ nhất: các bộ phận của công ty tự lớn do sự phát triển của sản xuất, tự lớn lên và khi có đủ khả năng sản xuất đã tách thành những công ty độc lập nhưng vẫn là thành viên của tập đoàn để đáp ứng nhu cầu trong nước ngày càng tăng. Cách thứ hai: hàng loạt các công ty thành viên của tập đoàn được thành lập theo kiểu công ty liên doanh với nước ngoài. Sự phát triển của tập đoàn dựa vào liên doanh với công ty với nước ngoài. Việc phát triển các công ty liên doanh cho phép khai thác được các nguồn vốn đầu tư và công nghệ nước ngoài để phát triển sản xuất kinh doanh phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Hầu hết các công ty liên doanh của Tập đoàn đều có sản phầm xuất khẩu ra thị trương nước ngoài. V. Quan điểm và định hướng của Chính phủ cho việc hình thành tập đoàn kinh tế Cần nhận định rằng việc hình thành tập đoàn kinh tế trong giai đoạn hiện nay là rất cần thiết khi mà chúng ta ngày càng hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới và tất yếu cạnh tranh sẽ ngày càng gay gắt…do đó việc Chính phủ quyết định thí điểm thành lập TĐKT điều tất yếu trong bối cảnh hiện nay. Quan điểm và định hướng của Chính phủ thể hiện: với việc Chính phủ phê duyệt các đề án sắp xếp, đổi mới DNNN của các bộ, nghành, địa phương; Chính phủ đang ngày càng đẩy mạnh sắp xếp, cổ phần hoá các TCT và công ty nhà nước quy mô lớn với nhiều đơn vị thành viên là tiền đề tốt để hình thành các nhóm công ty theo mô hình công ty mẹ - công ty con và tập đoàn kinh tế; Nghị quyết Trung ương 3 ( lân thứ IX) xác định rõ: “ Hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở các tổng công ty nhà nước, có sự tham gia của các thành phần kinh tế, kinh doanh đa nghành, trong đó có nghành kinh doanh chính, chuyên môn hoá cao và giữ vai trò chi phối lớn trong nền kinh tế quốc dân, có quy mô rất lớn về vốn, hoạt động cả trong và ngoài nước, có trình độ công nghệ cao và quản lý hiện đại, có sự gắn kết trực tiếp, chặt chẽ giữa khoa học công nghệ, đào tạo, nghiên cứu triển khai với sản xuất kinh doanh”; với việc ban hành các Nghị định 153/2004/NĐ-CP về “tổ chức, quản lý TCTNN và chuyển đổi TCTNN, DNNN độc lập theo mô hình công ty mẹ - công ty con” nhằm cụ thể hoá Nghị quyết trung ương Ba (khóa IX) do đó trong năm 2005, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định cho phép 47 TCT và công ty nhà nước quy mô lớn thực hiện chuyển đổi sang mô hình hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con; Nghị định 141/2007/NĐ-CP ban hành 5/9/2007 về “quy định chế độ tiền lương đối với công ty mẹ do nhà nước làm chủ sở hữu và các công ty con trong tập đoàn kinh tế” … Từ đó ta thấy được sự quan tâm của Chính phủ trong việc hình thành các TĐKT. Và kết quả là có tám tập đoàn kinh tế được thành lập, đây đều là những tập đoàn kinh tế lớn với những nghành kinh tế mũi nhọn như tập đoàn Than – Khoáng sản Việt nam, Tập đoàn Bưu Chính Viễn thông, Tập đoàn Điện lực Việt nam (EVN), Tập đoàn Dầu khí Việt nam (Petro Vietnam), Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt nam (Vinashin)… VI. Một số văn bản pháp lý vể tập đoàn kinh tế Nghị quyết Trung ương 3 (lần thứ IX) xác định rõ: “ Hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở các tổng công ty nhà nước, có sự tham gia của các thành phần kinh tế, kinh doanh đa nghành, trong đó có nghành kinh doanh chính, chuyên môn hoá cao và giữ vai trò chi phối lớn trong nền kinh tế quốc dân, có quy mô rất lớn về vốn, hoạt động cả trong và ngoài nước, có trình độ công nghệ cao và quản lý hiện đại, có sự gắn kết trực tiếp, chặt chẽ giữa khoa học công nghệ, đào tạo, nghiên cứu triển khai với sản xuất kinh doanh”. Quyết định sô 345/2005/ QĐ- TTg về việc thành lập tập đoàn than- khoáng sản Quyết định số 09/2008/QĐ-BTC về ban hành quy chế quản lý và sử dụng quỹ hỗ trợ sắp xếp doanh nghiệp tại các tập đoàn, Tổng công ty nhà nước, công ty mẹ Nghị định số 141/2007/ NĐ- CP về quy định chế độ tiền lương đối với công ty mẹ do Nhà nước làm chủ sở hữu và các công ty con trong tập đoàn kinh tế. Chương III Một số kiến nghị và giải pháp xây dựng, phát triển tập đoàn kinh tế ở Việt nam Các tập đoàn kinh tế nước ta hiện nay được hình thành từ các TCTNN có quy mô lớn, đều là những TCT có các nghành kinh tế mũi nhọn trong nền kinh tế, đóng góp phần lớn thu NSNN, là đầu tàu của nền kinh tế quốc dân. Để xây dựng và phát triển các TĐKT thì chủ yếu thực hiện các giải pháp về chính sách, cơ chế và quy định mang tính pháp lý mang tính hỗ trợ, tạo môi trường để các DN tự nguyện phát triển thành TĐKT theo hướng tạo ra sự rõ ràng về trách nhiệm pháp lý, tăng quyền tự chủ của DN, giảm thiểu sự can thiệp của nhà nước, đảm bảo thực hiện các cam kết về cải cách kinh tế mang tính thị trường, về đổi mới doanh nghiệp nhà nước, đổi mới mô hình quản trị doanh nghiệp, vấn đề sở hữu, chống độc quyền của doanh nghiệp…những giải pháp đó được cụ thể hoá sau: Giải pháp hoàn thiện môi trường pháp lý Gồm hệ thống pháp lý và các văn bản pháp quy, trong đó đặc biệt quan trọng là các luật về kinh doanh, chống độc quyền và các quy chế khung về tổ chức và hoạt động của các loại hình tổ chức kinh doanh. Chúng ta cần phải có hệ thống pháp luật tạo điều kiện cho cho các đơn vị kinh doanh tự do liên kết kinh tế để hình thành lợi nhuận bình quân, và có chính sách phân phối lợi nhuận theo vốn đầu tư. Hệ thống pháp luật có liên quan đến TĐKT phải có tác dụng tạo điều kiện cần thiết, khuyến khích TĐKT phát triển, đồng thời ngăn ngừa, hạn chế và xử lý các mặt tiêu cực phát sinh trong hoạt động của TĐKT. Do đó hoàn thiện môi trường pháp lý được coi là giải pháp cơ bản để cho TĐKT hoạt động có hiệu quả, nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và xa hơn là thị trường thế giới bởi vì một môi trường hợp lý sẽ tạo điều kiện phát triển, giúp cho các tập đoàn thuận lợi trong việc thực hiện những chiến lược, kế hoạch phát triển… do đó cần phải làm các yêu cầu sau: Trước mắt cần có chính sách riêng đối với các TCT được lựa chọn phát thành TĐKT như chính sách về quan hệ sở hữu, quản lý và phân phối giữa nhà nước và tập đoàn. Chính sách thuế, cơ chế bảo lãnh tín dụng tập đoàn cùng với các chính sách có tính chất hỗ trợ khác (không phải là trợ cấp, bao cấp) cho sự phát triển TĐKT. Bởi lẽ nguồn nội lực ban đầu của các DN dự định phát triển lên TĐKT còn khiêm tốn so với các TĐKT ở các nước phát triển, nên cần thiết phải có sự hộ trợ nhất định ban đầu. Nhà nước cũng cần bổ sung các quy định đối với việc hình thành và phát triển TĐKT thuộc mọi thành phần kinh tế, như: hệ thống pháp luật, chính sách. Về địa vị pháp lý và vấn đề sở hữu trong tập đoàn. Giải quết các mối quan hệ công ty mẹ với công ty con và công ty liên kết, giữa các thành viên với nhau. Vấn đề đầu tư, liên doanh, liên kết ra ngoài doanh nghiệp. Vấn đề phát triển thị trường chứng khoán và đầu tư tài chính liên quan đến huy động, phân phối, sử dụng và luân chuyển các nguồn lực của tập đoàn Vấn đề cạnh tranh, chống độc quyền và kiểm soát TĐKT…nhằm tạo cơ sở pháp lý thuận lơi cho sự phát triển TĐKT thuộc mọi thành phần kinh tế Giải pháp chính sách trong phát triển TĐKT Chính sách thúc đẩy và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư ra ngoài doanh nghiệp và liên kết kinh doanh Chính sách này hướng vào việc: Đẩy nhanh cổ phần hoá và đa dạng hoá sở hữu doanh nghiệp nhà nước Phát triển thị trường chứng khoán, thúc đẩy liên kết kinh doanh giữa các doanh nghiệp lớn với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp nhà nước với doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp nước ngoài. Hoàn thiện tổ chức và thể chế cũng tạo điều kiện cho việc thực hiện các chính sách trên và cho hoạt động của tập đoàn. Đó là thực hiện cơ chế một đầu mối thực hiện chức năng chủ sở hữu Nhà nước đối với phần vốn nhà nước tại công ty mẹ tập đoàn. Bên cạnh đó là việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về công ty tài chính, trong đó có hướng dẫn cụ thể về công ty tài chính của tập đoàn kinh tế. Đối với TĐKT hình thành trên cơ sở TCTNN, rất cần có hướng dẫn về vấn đề liên quan đến báo cáo tài chính hợp nhất của tập đoàn. Báo cáo tài chính hợp nhất là báo cáo tổng hợp cả công ty mẹ và các công ty con, sau khi loại trừ những giao dịch trong nội bộ tập đoàn nhằm phản ánh chính xác giá trị sản phẩm và lợi nhuận thực. Trong đó quy định các giao dịch tài chính giữa các DN thành viên tập đoàn phải được báo cáo đầy đủ và công khai. Báo cáo này do công ty mẹ thực hiện và công ty mẹ được quyền tổng hợp báo cáo quyết toán tài chính của các công ty con do công ty mẹ nắm giữ toàn bộ vốn và công ty con có cổ phần, vốn góp chi phối. Báo cáo tài chính hợp nhất của tập đoàn phải để cập đến vốn, nợ, chi phí, doanh thu, lợi nhuận, thuế thu nhập của cả tập đoàn sau khi đã loại bỏ các giao dịch giữa công ty mẹ và công ty con với nhau. Chính sách đối với các tổng công ty được lựa chọn phát triển thành tập đoàn Đối với chính sách này cần phải xem xét những vấn đề sau: Về phân phối lợi nhuận, trong thời gian thí điểm, cho phép công ty mẹ tự quyết định sử dụng phần lợi nhuận phân chia theo nguồn vốn công ty tự huy động nhằm tăng tốc độ và khả năng tích tụ và tập trung vốn. Phần lợi nhuận chia theo vốn nhà nước cũng được để lại công ty để tăng vốn nhà nước tại công ty. Về thuế thu nhập doanh nghiệp: tuỳ tính chất và đặc thù của tập đoàn cho phép tập đoàn thí điểm nộp theo một trong hai phương thức sau: Theo loại hình doanh nghiệp: Công ty mẹ và các công ty con có 100% vốn sở hữu của công ty mẹ nộp chung thuế với mức thuế được tính theo tổng doanh thu/ lợi nhuận của toàn bộ các công ty này. Theo loại hình hoạt động: Đối với các hoạt động kinh doanh riêng rẽ, từng doanh nghiệp thành viên (công ty mẹ và các công ty con) sẽ nộp theo quy định hiện hành. Đối với các hoạt động mang tính chất chung, dây truyền khép kín trong tập đoàn, liên quan đến toàn bộ các doanh nghiệp thành viên thì được tính riêng để công ty mẹ thay mặt tập đoàn nộp thuế tổng hợp. Riêng công ty mẹ không phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp đối với phần lợi nhuận thu được từ phần góp vốn vào các công ty con và công ty khác, nếu các công ty này đã nộp thuế thu nhập doanh nghiệp trước khi chia lãi cho các bên góp vốn. Về tín dụng, cho phép công ty mẹ được bảo lãnh tín dụng cho các công ty con bằng toàn bộ số vốn của tập đoàn được ghi trong quyết định thành lập. Thông qua tập đoàn, các doanh nghiệp thành viên được huy động vốn để kinh doanh dưới hình thức: phát hành trái phiếu, tín phiếu, kỳ phiếu; vay vốn của các tổ chức ngân hàng, tín dụng, các tổ chức tài chính khác, của cá nhân, tổ chức ngoài tổng công ty; huy động vốn của người lao động trong tổng công ty và các hình thức huy động vốn khác theo quy định của pháp luật. Chính sách đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của tập đoàn Cho phép công ty mẹ (là đại diện của tập đoàn) được sử dụng năng lực của toàn bộ các DN thành viên trong tập đoàn để tham gia các hoạt động đấu thầu, kể cả đầu thầu quốc tế. Trong trường hợp trúng thầu, công ty mẹ được phân chia gói thầu cho các công ty con thực hiện. Tuy nhiên công ty mẹ là người chịu trách nhiệm cuối cùng. Chính sách đối với thương hiệu của tập đoàn Tập đoàn có thương hiệu chung. Các DN thành viên tập đoàn được sử dụng thương hiệu chung này bên cạnh thương hiệu mình. Các công ty con sử dụng thương hiệu công ty mẹ trong hoạt động giao dịch kinh doanh nhưng phải được phép của công ty nẹ Chính sách khuyến khích hợp tác, liên kết giữa các thành phần kinh tế tạo tiền đề cho hình thành tập đoàn kinh tế. Thúc đẩy sự đồng bộ hệ thống các loại thị trường vốn, lao động, bất động sản, hàng hoá, công nghệ… Ổn định môi trường kinh tế vĩ mô Gia tăng tiết kiệm tiêu dùng để kích thích đầu tư Duy trì cân đối thương mại bằng tỷ gia hối đoái hợp lý Các biện pháp chống gian lận thương mại, buôn lậu bảo vệ thương hiệu, bản quyền… Bảo đảm cho đầu tư dài hạn, quyền sở hữu… Một số kiến nghị để xây dựng và phát triển TĐKT Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyên phổ biến chủ trương, chính sách để các cơ quan nhà nước, các TCT, DNNN, đội ngũ cán bộ quản lý, người lao động trong doanh nghiệp và các đối tượng khác trong xã hội có nhận thức đúng đắn và thống nhất về mục đích, yêu cầu của chuyển đổi TCTNN sang mô hình mới, thích hợp với tiến trình đẩy mạnh sắp xếp, đổi mới , phát triển và nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của DNNN. Xây dựng TĐKT phù hợp với từng nghành, vùng, lĩnh vực kinh tế Chúng ta phải khẩn trương xây dựng một TĐKT phù hợp với điều kiện cụ thể từng nghành, vùng và lĩnh vực kinh tế, cũng như khả năng thực tế của mỗi TCT được chuyển đổi, bởi vì việc xác định phù hợp với từng nghành, từng vùng đó sẽ đem lại hiệu quả, tức sẽ hình thành một TĐKT đáp ứng yêu cầu của nhà nước đó là hình thành một TĐKT mạnh. Các doanh nghiệp được phê duyệt đề án chuyển đổi cần khẩn trương hoàn chỉnh điều lệ tổ chức hoạt động, quy chế tài chính và quy chế hoạt động, hình thành cơ chế công ty mẹ - công ty con, bộ máy quản lý công ty mẹ. Trong kế hoạch cần xác định rõ cơ cấu, phương thức chuyển đổi, hình thức pháp lý của công ty mẹ, công ty con; kiểm kê phân loại, xác định các loại vốn, tài sản, công nợ…tổ chức Hội đồng quản trị để thực hiện là đại diện chủ sở hữu trực tiếp của Nhà nước tại công ty mẹ, thí điểm cơ chế Hội đồng quản trị ký hợp đồng thuê giám đốc, tổng giám đốc giỏi để điều hành DN; hiện nay các DNNN chưa chú trọng vào vần đề thuê Tổng giám đốc mà điều này trên thế giới đã có từ rât lâu, việc thuê Tổng giám đốc đã rất phát huy được hiệu quả trong việc điều hành các DN, các tập đoàn, mà các TĐKT trên thế giới đang áp dụng. Tăng cường quản trị công ty mẹ, nâng cao vai trò của các cổ đông nhà nước. Trong mô hình TĐKT, công ty mẹ giữ vai trò đặc biệt quan trọng tức là công ty mẹ nắm giữ vốn, có quyền chi phối các công ty thành viên của mình (trừ công ty liên kết), với vai trò là nhà đầu tư. Do đó, Nhà nước phải luôn kiểm soát được công ty mẹ và sử dụng nó để chi phối công ty con trong TĐKT, việc kiểm soát này phải phải được bảo đảm trên cơ sở kinh tế có nghĩa là nắm tỷ lệ cổ phần chi phối và cử đại diện sở hữu cổ phần nhà nước tại công ty mẹ. Để kiểm soát được công ty mẹ thì việc xác định đúng công ty mẹ là rất quan trọng bởi vì nều không xác định đúng thì việc tập trung nguồn lực vào đó sẽ là vô nghĩa, gây lãng phí và tất yếu sẽ không có được sức mạnh để chi phối được các công ty trong tập đoàn như về công nghệ, tài chính…Có thể phát triển các công ty con, công ty liên kết bằng hình thức đầu tư mới, liên doanh, liên kết, sáp nhập, mua lại, tiếp nhận sự tham gia của các DN thuộc mọi thành phần kinh tế… Công ty mẹ sử dụng vốn hiện có và lợi nhuận thu được có thể tiếp tục đầu tư vào các DN thuộc các thành phần kinh tế khác hoặc thành lập các DN mới. Trình độ của cán bộ quản lý Tập đoàn kinh tế có quy mô lớn và độ phức tạp cao trong tổ chức quản lý, nên đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ quản lý, điều hành thực sự có năng lực, trình độ cao, phong cách lãnh đạo và phẩm chất đạo đức tốt, để quản lý điều hành bộ máy tập đoàn hoạt động có hiệu quả. Sẽ là vô cùng nguy hiểm khi mà Nhà nước trao một lượng vốn hàng nghìn tỷ đồng vào tay những nhà quản lý, kinh doanh chưa đủ tầm, chưa đủ tài và kinh nghiệm để tổ chức quản lý quy mô TĐKT. Do đó để trở thành một TĐKT đủ mạnh thì yếu tố về trình độ quản lý phải đặt lên hàng đầu và để làm được điều đó thì phải: Coi trọng đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ mọi mặt của đội ngũ cán bộ quản lý điều hành TĐKT. Đây là vấn đề đang rất được quan tâm hiện nay của chúng ta, bởi vì trong các TCTNN đang rất thiếu nguồn nhân lực có chất lượng cao, có kỹ năng quản lý khi mà chúng ta đang phải cạnh tranh ngày càng gay gắt với các đối thủ đến từ bên ngoài nơi mà họ có các nhà quản lý cao cấp với trình độ quản lý hiện đại…Do đó Trước mắt cần khẩn trương ban hành điều kiện, tiêu chuẩn quyền hạn và trách nhiệm của các chức danh chủ chốt như chủ tịch và thành viên Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc, Ban kiểm soát…trong đó, Hội đồng quản trị là đại diện chủ sở hữu nhà nước tại TĐKT, do nhà nước bổ nhiệm trực tiếp, bảo đảm đủ tiêu chuẩn, đúng người đúng việc. Cần đổi mới công tác tuyển chọn, sử dụng đãi ngộ, thưởng phạt đối với các thành viên trong Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc. Nên áp dụng hình thức thi tuyển các chức danh chủ chốt gắn với những cam kết của người dự thi. Đi đôi với trách nhiệm là chế độ đãi ngộ hợp lý gắn với hiệu quả hoạt động của TĐKT. Ngoài ra cần có chiến lược, kế hoạch đào tạo và đào tạo lại các nhà quản lý theo chuẩn mực mới, để hình thành các nhà quản lý giỏi, đáp ứng được yêu cầu quản lý, điều hành những DN lớn. Tăng cường công tác lãnh đạo của Đảng trong quá trình chuyển đổi tổng công ty nhà nước sang mô hình TĐKT Hiện nay các tổ chức Đảng bộ cơ quan TCT trực thuộc Đảng uỷ khối cơ quan kinh tế trung ương, Đảng bộ các đơn vị thành viên trực thuộc đảng bộ địa phương. Cơ chế này dẫn đến những khó khăn trong việc thực hiện những quyền hạn, nhất là quyền điều động, bổ nhiệm các chức vụ chủ yếu của công ty mẹ đối với công ty con khi chuyển sang mô hình TĐKT. Vì vậy tuỳ theo đặc điểm của từng tổng công ty khi chuyển sang TĐKT để xây dựng tổ chức Đảng phù hợp. Đối với TĐKT lớn, đứng đầu một nghành thì nên thành lập Ban cán sự Đảng trực thuộc ban chấp hành Trung ương trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý các Đảng bộ trực thuộc ở các đơn vị thành viên. Về cơ chế điều hành, Nhà nước thành lập Hội đồng quản trị thay mặt mình quản lý các TĐKT và chịu trách nhiệm trước Nhà nước về kết quả hoạt động của tập đoàn. Trừ các quyền của Nhà nước như quyết định thành lập, đầu tư vốn ban đầu, tổ chức lại và giải thể; Hội đồng quản trị phải có toàn quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến quản lý TĐKT, kể cả lựa chọn người đứng đầu bộ máy điều hành tập đoàn. Tổng giám đốc phải chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị về hoạt động điều hành của mình. Phân định rõ ràng chức năng quản lý của các cơ quan nhà nước, chức năng quản lý của đại diện chủ sở hữu và chức năng quản lý của Tổng giám đốc, Tránh tình trạng chồng chéo đùn đẩy trách nhiệm. Kết luận Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, toàn cầu hóa hiện nay việc hình thành và phát triển các TĐKT là rất cần thiết và quan trọng để nâng cao khả năng cạnh tranh của các DNNN với các TĐKT mạnh, các công ty đa quốc gia, xuyên quốc gia trên thế giới…và việc hình thành TĐKT là rất phù hợp đối với nước ta đang trong quá trình đổi mới, trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đang rất cần có một TĐKT mạnh để đáp ứng trong thời kỳ mới và phấn đầu đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp Qua bài viết cho ta hiểu được tập đoàn kinh tế là như thế nào? có đặc điểm gì? Vai trò như thế nào trong nền kinh tế thị trường? cần có điều kiện gì? để cho việc thành lập tập đoàn được hình thành, nguyên tắc hình thành tập đoàn như thế nào, phương thức hình thành ra làm sao? của tập đoàn kinh tế. Và việc tại sao tập đoàn được hình thành từ các tổng công ty nhà nước; mô hình công ty mẹ - công ty con có những điều kiện như thế nào cho việc tạo ra tiền đề để hình thành tập đoàn kinh tế vận hành được tốt. Và những giải pháp thúc đẩy việc hình thành tập đoàn được tốt hơn, đúng với nguyện vọng của Nhà nước cũng như các doanh nghiệp việt nam, các tập đoàn kinh tế. Mặc dù có nhiều con đường khác nhau để nâng cao sức cạnh tranh cho các DNNN, tuy nhiên trong bối cảnh hiện nay việc thành lập TĐKT là phù hợp với nước ta. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Sách tham khảo TS. Trần Tiến Cường - Tập đoàn kinh tế: lý luận và kinh nghiệm quốc tế ứng dụng vào Việt nam- NxB Giao thông vận tải - năm 2005 Nguyễn Đình Phan - Thành lập và quản lý các tập đoàn kinh doanh ở Việt nam – NxB Chính trị quốc gia - năm 1996 Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư - Đề án: Hình thành và phát triển tập đoàn kinh tế trên cơ sở tổng công ty nhà nước - năm 2005 tạp chí: Tạp chí Quản lý kinh tế - số1, tháng 1 năm 2005 - Tập đoàn kinh tế: Một số vấn đề lý luận và áp dụng vào thực tiễn ở Việt nam - Trần Tiến Cường. Nghiên cứu kinh tế - số 349, tháng 6 năm 2007 - Tập đoàn kinh tế: một số vấn đề lý luận và thực tiễn – Doãn Hữu Tuệ. Quản lý kinh tế - sô 15, tháng 7+8 năm2007 – Xây dựng tập đoàn kinh tế: Giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh và hội nhập của các tổng công ty nhà nước hiện nay - Đỗ Duy Hà. Tài chính doanh nghiệp - số 4, năm 2007 - Chuyển tổng công ty nhà nước sang mô hình Tập đoàn kinh tế: Tránh tình trạng “Bình mới, rượu cũ” – Vũ Thị Hồng Loan Nghiên cứu kinh tế - số 335 – tháng 4 năm 2006 – Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp khi việt nam trở thành thành viên của WTO - Đặng Thị Hiếu Lá. Quản lý kinh tế - số 2, tháng 4 năm 2005 - Đổi mới khu vực doanh nghiệp nhà nước ở Việt nam: Thách thức và định hướng giải pháp - Trần Xuân Lịch và Bùi Văn Dũng. Kinh tế Châu Á –Thái Bình Dương - số 27, tháng 7 năm 2007 - Quản lý nhà nước đối với việc chuyển đồi sang mô hình công ty mẹ-công ty con – Ths. Lê Cao Thế. Quản lý kinh tế - số 12, tháng 1+2 năm 2007 - Cải cách doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn: Thực trạng, triển vọng và thách thức - Trần Tiến Cường. Quản lý kinh tế - số3, tháng 7 năm 2005 - Hội nhập kinh tế quốc tế- những vấn đề đặt ra đối với doanh nghiệp Việt nam – Lê Danh Vĩnh Quản lý kinh tế - số 12, tháng 1+2 năm 2007 - Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế - Lê Xuân Bá. Các wesite: http:// www.dddn.com.vn ……………………..

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc12235.doc
Tài liệu liên quan