Chuyên đề Một số ý kiến nhằm hoàn thiện chính sách Thuế để hỗ trợ phát triển khu vực Kinh tế tư nhân ở Việt Nam

Khu vực kinh tế tư nhân, khu vực kinh tế được đánh giá là năng động, sáng tạo và đầy tiềm năng phải được khuyến khích và tạo điều kiện để phát triển mạnh mẽ, xem như là một nhiệm vụ có tính chất chiến lược trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trên cơ sở vận dụng các phương pháp nghiên cứu, kết hợp lý luận và thực tiễn, đề tài đã góp phần làm rõ những căn cứ lý luận và thực tiễn trong việc sử dụng chính sách Thuế để hỗ trợ phát triển khu vực KTTN; đánh giá tác động của chính sách Thuế hiện hành; nêu lên những kết quả đạt được và nguyên nhân của những tồn tại trong chính sách Thuế đối với sự phát triển của KTTN. Đồng thời, đề tài cũng đưa ra một số ý kiến nhằm hoàn thiện chính sách Thuế để tạo điều kiện thuận lợi cho khu vực KTTN phát triển. Hoàn thiện chính sách Thuế là một vấn đề hết sức quan trọng đối với toàn bộ nền kinh tế nói chung và khu vực kinh tế tư nhân nói riêng và là một vấn đề phong phú cả về lý luận và thực tiễn. Kết quả nghiên cứu của đề tài chỉ là một đóng góp nhỏ bé, chắc chắn vấn đề còn cần được nghiên cứu sâu rộng thêm để tạo cơ sở cho việc sử dụng chính sách Thuế trong điều kiện thực tế ở nước ta.

doc51 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1329 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số ý kiến nhằm hoàn thiện chính sách Thuế để hỗ trợ phát triển khu vực Kinh tế tư nhân ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ất, chúng ta đã đạt được những thành tựu rất đáng khích lệ về nhiều mặt. Song cải cách thuế lần thứ nhất vẫn còn nhiều nhược điểm ảnh hưởng tới sự phát triển của khu vực KTTN Một là, chính sách thuế còn phức tạp trong việc xác định đối tượng chịu thuế, đối tượng không chịu thuế, đối tượng nộp thuế và đối tượng không phải nộp thuế, nhiều trườg hợp miễn giảm thuế. Đó là do hệ thống thuế được xây dựng vừa chứa đựng mục tiêu thu ngân sách, vừa có mục tiêu góp phần tham gia thực hiện các chính sách xã hội. Vì vậy các DNTN thường bị thua thiệt hơn so với các DNNN. Hai là, thuế doanh thu, thuế lợi tức còn chứa đựng sự phân biệt khá lớn về các ngành nghề và hoạt động kinh doanh: thương mại dịch vụ phải chịu thuế suất cao hơn hoạt động sản xuất. Khu vực KTTN quá nhỏ bé, mới được thừa nhận nên giai đoạn này chủ yếu kinh doanh tổng hợp hoặc đầu tư vào lĩnh vực thương mại, dịch vụ. Do vậy thuế suất cao đối với các hoạt động này thực sự là một trở lực lớn đối với khu vực KTTN. Ba là, việc xác định chi phí hợp lý, hợp lệ để tính lợi tức chịu thuế, tính thuế lợi tức bổ sung vẫn còn sự phân biệt đáng kể. Đối với DNNN, mỗi khi có sự tăng giá vật tư, thiết bị, hàng hoá, thay đổi tỷ giá thì toàn bộ vật tư có gốc ngoại tệ, hàng hoá tồn kho đều được đánh giá lại để bảo toàn vốn. Rõ ràng là khi không được áp dụng quy định này, trong trường hợp tăng giá hoặc tăng tỷ giá ngoại tệ, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tuy không có lãi hoặc lãi ít phải lấy vốn để nộp thuế. Tiền lương của các DNNN được tính vào chi phí hợp lý, hợp lệ theo đơn giá được duyệt trong khi hầu hết các doanh nghiệp ngoài quốc doanh phải thực hiện theo mức tiền lương bình quân từng ngành nghề do UBND cấp tỉnh quy định (thường rất thấp) mà thực tế số phải trả cho người lao động cao hơn nhiều. Trong trường hợp có lợi tức cao phải nộp thuế lợi tức bổ sung thì DNNN cũng có lợi thế hơn về mức lợi tức được trừ khi tính lợi tức bổ sung và được áp dụng mức thuế suất bổ sung thấp hơn khu vực tư nhân. Do đó hệ thống thuế vẫn đòi hỏi được cải cách để tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, tạo một môi trường kinh doanh bình đẳng hơn cho các khu vực kinh tế, khơi dậy và phát huy tối đa nội lực, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. * Cải cách thuế bước hai: Cải cách thuế bước 2 được bắt đầu từ năm 1997, với nội dung gồm: - Ban hành thuế Giá trị gia tăng (GTGT) thay thế thuế doanh thu - Sửa đổi, bổ sung Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu - Mở rộng diện đánh thuế TTĐB - Ban hành Luật thuế Thu nhập doanh nghiệp (TNDN) và thuế thu nhập cá nhân thay cho thuế lợi tức và Pháp lệnh về thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao - Ban hành Luật thuế tài nguyên thay cho Pháp lệnh hiện hành - Sắp xếp lại các loại thuế liên quan đến việc sử dụng đất - Ban hành Pháp lệnh phí, lệ phí Chính sách Thuế hiện hành là kết quả của quá trình cải cách thuế bước hai. 2- Những tác động thuận lợi của chính sách Thuế đến sự phát triển của khu vực KTTN Vậy chính sách Thuế đang được sử dụng có có những ưu điểm gì trong việc hỗ trợ khu vực KTTN phát triển. Chúng ta có thể xem xét những tác động thuận lợi của chính sách Thuế tới sự phát triển của khu vực KTTN trên hai khía cạnh: Một là, những thuận lợi từ phía các chính sách đến các doanh nghiệp trong nền kinh tế nói chung; hai là, sự bình đẳng giữa các khu vực trong nền kinh tế. Từ sau cải cách thuế bước 1, sự phân biệt đối xử về chính sách thuế nhằm kìm hãm, triệt tiêu sự phát triển của khu vực KTTN đã bị xoá bỏ. Cải cách thuế bước 2 tiếp tục có sự đổi mới đáng kể. Trong thời gian này, các DNNN tiếp tục được sắp xếp lại, các doanh nghiệp mới được thành lập để đón nhận các chính sách kinh tế mới đa số là các doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN. Biểu hiện rõ nhất của sự đổi mới này phải nói tới sự có mặt và nhanh chóng đi vào thực tế của hai Luật thuế mới là thuế TNDN và thuế GTGT. Luật thuế TNDN - Đối tượng nộp thuế không phân biệt thành phần kinh tế Thuế TNDN áp dụng chung cho tất cả các cơ sở kinh doanh theo quy định của pháp luật, không phân biệt thành phần kinh tế. -áp dụng một mức thuế suất thống nhất cho các hoạt động kinh doanh: Luật thuế TNDN với một mức thuế suất thống nhất không phân biệt theo hoạt động kinh doanh là một bước tiến đáng kể vì một tỷ lệ lớn các DNTN hoạt động trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ- lĩnh vực mà trước đây phải chịu mức thuế suất cao hơn. - Căn cứ tính thuế rõ ràng hơn, giảm đi sự phân biệt với các DNNN Sửa đổi chế độ thu sử dụng vốn Ngân sách đối với các DNNN, tạo nên sự bình đẳng hơn về chi phí tính thuế. Trước đây khoản nộp này được coi như lãi tiền vay tính trên số vốn được giao và được tính vào chi phí hợp lý, hợp lệ của DNNN. Khi các DNNN phải lấy khoản lợi nhuận sau thuế để trang trải cho khoản nộp này có nghĩa là khu vực KTTN có được sự bình đẳng với khu vực KTNN về chi phí tài chính của các chủ sở hữu bỏ ra để thành lập doanh nghiệp. - Các quy định về chuyển lỗ thông thoáng hơn với các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp mới thành lập nói riêng; quy định về chi phí cho tiếp thị, cho tiêu thụ hàng hoá; tỷ lệ khống chế tối đa về chi phí giao dịch, chi phí khánh tiết,... tạo nên sự rõ ràng hơn trong chính sách cũng có thể coi như là các biện pháp gián tiếp để xoá đi khả năng phân biệt đối xử trong quá trình triển khai thực hiện các Luật của cơ quan thuế. - Về thuế thu nhập bổ sung Trước đây, theo quy định của Luật thuế Lợi tức, có phân biệt về khoản thu nhập sau thuế được tính trừ khi xác định thuế suất bổ sung và thuế bổ sung thì nay đều được áp dụng thuế suất thống nhất- chỉ tính thuế bổ sung 25% trên phần lợi nhuận sau thuế thu nhập cao hơn 20% vốn chủ sở hữu. - Mở rộng đối tượng miễn giảm thuế Luật thuế TNDN không chỉ là sự sửa đổi, bổ sung dổi mới của thuế lợi tức trước đây, mà còn quy định chế độ khuyến khích đầu tư, điều chỉnh lại cơ cấu đầu tư thông qua quy định về miễn giảm thuế: miễn giảm thuế hai năm đầu cho cho các cơ sở sản xuất mới được thành lập, giảm 50% trong hai năm tiếp theo và đối với những cơ sở mới thành lập ở những vùng khó khăn thì có thể được xét miễn giảm thêm hai năm nữa. Đồng thời, thuế TNDN còn mở rộng diện ưu đãi cho những dự án đầu tư vào những lĩnh vực, ngành nghề, vùng kinh tế khuyến khích phát triển. Như vậy Luật thuế TNDN dã tạo điều kiện cho sự ra đời ngày càng nhiều các DNTN, đa dạng hoá khu vực phân bổ và đa dạng hoá ngành nghề hoạt động của khu vực KTTN. Thuế GTGT - Các mức thuế suất đơn giản hơn Từ 11 mức thuế suất của thuế doanh thu, thuế GTGT hiện nay chỉ có 3 mức thuế suất: 5%, 10%, 20% đòi hỏi các doanh nghiệp phải tổ chức lại sản xuất kinh doanh, thực hiện hạch toán kinh doanh, tính toán giá thành, giá bán phù hợp với thị trường và nộp được thuế, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. - Giảm hiện tượng đánh trùng thuế Việc thực hiện Luật thuế GTGT thay thế cho thuế doanh thu trước đây đã thúc đẩy sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, lưu thông hàng hoá phát triển vì thuế GTGT chỉ đánh trên giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ thông qua khâu sản xuất, lưu thông và tiêu dùng chứ không đánh trùng, chồng chéo như thuế doanh thu. Với thuế doanh thu trước đây, cứ qua mỗi khâu mua bán hàng hoá là một lần phải chịu thuế, và đây là tồn tại cơ bản nhất của chế độ này. Trong khi đó, khả năng khép kín trong hoạt động sản xuất kinh doanh của DNTN là rất thấp. Chỉ trừ các doanh nghiệp chế biến nông sản là có thể tận dụng được nguyên liệu sẵn có ở địa phương, còn các doanh nghiệp chế tạo cơ khí, sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ hầu hết các vật tư thiết bị phục vụ sản xuất kinh doanh đều phải mua ngoài. Mặt khác, do hạn chế về khả năng tiếp cận thị trường nên các DNTN thường phải qua nhiều khâu trung gian thương mại để đáp ứng vật tư thiết bị phục vụ sản xuất kinh doanh, nên với thuế doanh thu trước đây, các DNTN phải chịu thiệt thòi rất lớn. Việc ban hành và đưa vào áp dụng thuế GTGT đã cơ bản khắc phục được tồn tại này, góp phần tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp. - Không thu thuế GTGT đối với máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, vật tư xây dựng nhập khẩu mà trong nước chưa sản xuất được để tạo tài sản cố đinh cho doanh nghiệp, thực hiện khấu trừ và hoàn thuế GTGT đối với tài sản cố định để khuyến khích đầu tư mới và trang bị thêm máy móc thiết bị, mở rộng sản xuất. - Chế độ hoàn thuế khuyến khích xuất khẩu Việc hoàn thuế GTGT đầu vào cho hàng hoá xuất khẩu thực chất là việc Nhà nước trợ giá cho hàng hoá xuất khẩu, giúp các doanh nghiệp xuất khẩu tập trung nguồn hàng để xuất khẩu, giảm giá vốn hàng xuất khẩu và tăng khả năng cạnh tranh của hàng Việt Nam xuất khẩu với hàng hoá trên thị trường quốc tế. Đặc biệt là các doanh nghiệp ở khu vực nông thôn sản xuất các mặt hàng truyền thống: thủ công mỹ nghệ, mây tre đan, gốm sứ,... thì chính chính sách trợ giá cho hàng xuất khẩu của Nhà nước thông qua thuế GTGT đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này có thể tăng khả năng xuất khẩu các hàng hoá của mình ra nước ngoài. - Về chế độ hoá đơn, chứng từ Để được khấu trừ thuế GTGT đầu vào được tính đúng số thuế GTGT đầu ra đòi hỏi các doanh nghiệp thực hiện mua bán hàng hoá dịch vụ phải có hoá đơn chứng từ đầy đủ và hợp lệ, từ đó chấn chỉnh công tác kế toán ở khu vực KTTN. * Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu mới được sửa đổi, bổ sung cũng có nhiều tác động tích cực. Việc điều chỉnh thường xuyên thuế suất thuế nhập khẩu theo hướng quy định mức thuế suất cao hơn đối với những sản phẩm trong nước đã sản xuất được, đã có tác dụng bảo hộ, khuyến khích sản xuất trong nước phát triển. Nhất là đối với các mặt hàng do khu vực KTTN trong nước sản xuất ra như: quần áo, giầy dép, đồ nhựa,... * Đối với thuế chuyển quyền sử dụng đất, Nhà nước đã giảm thuế chuyển quyền sử dụng đất từ 10% xuống còn 2% đối với đất sử dụng cho sản xuất nông lâm, ngư nghiệp, đất làm muối và giảm từ 20% xuống còn 4% đối với đất ở, đất xây dựng công trình, đất khác. Các cơ sở kinh doanh chuyển quyền sử dụng đất thuê không phải nộp thuế chuyển quyền sử dụng đất. Đồng thời các mức thuế và hạng đất tính thuế được ổn định trong 10 năm, nhằm khuyến khích sử dụng đất có hiệu quả, tạo điều kiện cho các DNTN phát triển sản xuất, cung cấp hàng hoá cho thị trường. Nhờ những tác động thuận lợi của chính sách Thuế và các chính sách ưu đãi khác của Nhà nước mà khu vực KTTN đã có những bước phát triển đáng kể. Kết quả của những tác động thuận lợi đó đến sự phát triển của khu vực KTTN đã được thể hiện trong thực tế: 4. Kết quả đạt được của các chính sách tài chính đối với sự phát triển của khu vực KTTN Nhờ những tác động thuận lợi của chính sách Thuế và các chính sách ưu đãi khác của Nhà nước mà khu vực KTTN đã có những bước phát triển đáng kể. Kết quả của những tác động thuận lợi đó đến sự phát triển của khu vực KTTN đã được thể hiện trong thực tế: Thứ nhất, chính sách Thuế tiếp tục khuyến khích sự ra đời của các DNTN , khuyến khích đầu tư mở rộng sản xuất Thứ hai, sự phát triển của khu vực KTTN còn thể hiện qua kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh và đóng góp của khu vực vào nền kinh tế Xét về giá trị sản xuất công nghiệp Giá trị sản xuất của khu vực KTTN tăng khá và với tốc độ ngày càng nhanh. Bảng 1: Giá trị sản xuất công nghiệp ngoài quốc doanh Năm 1995 1998 1999 2000 2001 Khối lượng (tỷ đ) 25.451 33.402 37.027 44.144,1 53.105,1 Tốc độ tăng so với năm trước (%) 111,5 107,5 110,9 113,2 120,3 Nguồn: Niên giám thống kê 2001- Nhà xuất bản Thống kê Chỉ riêng trong 2 tháng đầu năm 2003, giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã tăng 22,5% so với cùng kỳ năm 2002. Trong khi đó tốc độ tăng trưởng công nghiệp của cả nền kinh tế là 19%, khá nhất so với khu vực DNNN (19,4%) và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (16,3%)- (Theo tạp chí Ngân hàng số 4/2002). Với tốc độ tăng trưởng như vậy, giá trị đóng góp của khu vực KTTN vào GDP có một vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế. Hiệu quả kinh doanh của khu vực KTTN tốt hơn so với khu vực DNNN Nếu như năm 2001, chỉ có 40% doanh nghiệp làm ăn có lãi, 40% hoà vốn, còn lại là lỗ thì sang năm 2002 có từ 76-77% doanh nghiệp lãi, 7% khi lãi khi lỗ và chỉ có 16,5% là bị lỗ. Nếu so với thực trạng các DNNN, có 40% làm ăn thua lỗ, tỷ lệ nợ/vốn chủ sở hữu bình quân lên tới 100% thì mới thấy được sự nỗ lực của các DNTN. Góp phần tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu Khu vực KTTN cùng với khu vực KTNN đã đẩy mạnh xuất khẩu, lấy lại vị trí tương đối so với khu vực có vốn đầu tư nước ngoài: Bảng 2: Trị giá xuất khẩu hàng hoá của khu vực đầu tư trong nước Đơn vị: Triệu USD Năm 1995 1998 1999 2000 2001 Giá trị kim ngạch xuất khẩu 5448,9 9360,3 11541,4 14482,7 15027,0 Nguồn: Niên giám thống kê 2001 Thứ ba, các ưu đãi trong chính sách Thuế đã giúp các doanh nghiệp tư nhân tăng khả năng hoạt động kinh doanh, tăng khả năng hoạt động trên thị trường trong nước và quốc tế Những mặt hàng có sức cạnh tranh cao, được thị trường chấp nhận là của kinh tế tư nhân như: chế biến thuỷ sản, giầy dép, vật liệu trang trí nội thất, thực phẩm chế biến, thủ công mỹ nghệ. Một cuộc khảo sát gần 500 doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động chủ yếu trong các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động như may mặc, giày dép, chế biến hải sản,... do MPDE (chương trình phát triển dự án Mê Kông) tiến hành cho thấy các doanh nghiệp này xuất khẩu đến 3/4 sản lượng của mình. Bảng 3: Tỷ trọng xuất khẩu của các DNTN Lĩnh vực sản xuất Số lượng doanh nghiệp Tỷ lệ xuất khẩu so với sản lượng (%) Dệt may 159 80,5 Sản phẩm da 34 85,0 Cao su, nhựa 22 75,0 Thực phẩm, đồ uống 71 63,2 Chế biến gỗ 65 75,1 Các SP phi kim loại khác 39 73,2 Các sản phẩm kim loại 9 20,0 Các sản phẩm hoá chất 9 74,4 Các sản phẩm khác 49 Tổng số 457 Nguồn: Báo cáo của MPDE, 2002 Thứ tư, các DNTN đã mở rộng hoạt động của mình ở nhiều ngành nghề, lĩnh vực và nhiều vùng lãnh thổ từ Bắc đến Nam, từ nông thôn đến thành thị, từ đồng bằng đến miền núi. - Về ngành nghề: Từ việc tập trung chủ yếu vào lĩnh vực thương mại dịch vụ, các DNTN đã chuyển dần sang sản xuất và tham gia ngày càng nhiều vào các lĩnh vực trước đây chỉ có DNNN hoạt động như: Chế biến nông lâm, thuỷ hải sản, sản xuất phân bón, tái chế rác thải, sản xuất máy công cụ, máy móc phục vụ nông nghiệp. - Về địa bàn hoạt động: Chính sách ưu đãi thuế, ưu đãi đầu tư đã khuyến khích KTTN đầu tư vào những vùng kinh tế chậm phát triển, chuyển dịch cơ cấu sản xuất, thay đổi bộ mặt nông thôn. Trước đây, Bình Dương, Đồng Nai là nơi thu hút nhiều các nhà đầu tư thì bây giờ các nhà đầu tư tư nhân lại mở rộng đầu tư ở Lào Cai, Huế, Vĩnh Phúc, Hưng Yên, Hải Dương, Đắc Lắc. Phát triển kinh tế đã đóng góp không nhỏ trong việc thúc đẩy văn hoá xã hội và đời sống nhân dân ở những vùng này phát triển. Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực, chính sách Thuế hiện hành vẫn còn những bất cập, tạo thành những rào cản cho KTTN trong quá trình phát triển. 2. Hạn chế của chính sách Thuế đối với sự phát triển của kinh tế tư nhân: Về mặt lý thuyết, các chính sách thuế hiện tại đã không còn sự phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế. Nhưng trong thực tế sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp tư nhân vẫn còn nhiều vấn đề cần phải bàn đến. Nói về hệ thống thuế nói chung thì có thể thấy các đạo luật về thuế vẫn còn nhiều bất cập, còn thường xuyên phải sửa đổi bổ xung và các doanh nghiệp cũng phải thay đổi để thích nghi, điều đó tạo nên sự không ổn định trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Các sắc thuế còn quá phức tạp, chưa bao quát được hết các nguồn thu, phạm vi điều tiết của thuế còn hẹp, còn nhiều đối tượng nhiều hoạt động sản xuất kinh doanh chưa chịu điều tiết và quản lý của thuế, đương nhiên đường lối hoạt động này trở thành rào cản làm hạn chế tác dụng và loại trừ tác động của công cụ thuế. Thêm vào đó trong hệ thống chính sách thuế hiện hành chưa có sự thống nhất giữa các sắc thuế, các sắc thuế còn có sự trùng chéo lẫn nhau. Các quy định về thuế và việc thực hiện thu nộp thuế còn bất hợp lý, nặng nề về quy chế thu mà chưa quan tâm đúng mức cơ chế động viên nuôi dưỡng nguồn thu. Các vướng mắc cụ thể của từng sắc thuế có thể được đề cập đến như sau: Thuế thu nhập doanh nghiệp Còn nhiều vấn đề xung quanh chi phí hợp lý So với luật thuế lợi tức trước đây thì các khoản chi phí hợp lý theo luật thuế thu nhập doanh nghiệp đã được quy định cụ thể hơn, mở rộng hơn và tương đối phù hợp với thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên về các khoản chi phí hợp lý vẫn còn những điểm chưa hợp lý là: + Về chi phí khấu hao tài sản cố định: Chưa xác định rõ việc xác định khấu hao đối với tài sản gián tiếp phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh như các công trình nhà trẻ, nhà mẫu giáo, nhà ăn giữa ca, câu lạc bộ thể dục thể thao, nhà tập thể nằm trong khuôn viên của doanh nghiệp. Chưa quy định rõ việc xác định tài sản của cá nhân thành lập doanh nghiệp tư nhân, tài sản góp vốn thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp doanh. Chưa quy định rõ cách tính khấu hao đối với nhà ở của chủ doanh nghiệp tư nhân vừa dùng để ở vừa dùng để kinh doanh. Các doanh nghiệp tư nhân và công ty trách nhiệm hữu hạn cho rằng khi thành lập doanh nghiệp thì nhà cửa, cơ sở thuộc sở hữu cá nhân của họ đã được sử dụng vào mục đích sản xuất. Nhưng cơ quan thuế ít chấp nhận chi phí khấu hao tài sản này, chưa có chế tài về vấn đề này nên cơ quan thuế chưa thể thực hiện tính khấu hao. +Về lương trả cho người lao động: Đại diện một doanh nghiệp ở Hà Nội đặt vấn đề rằng việc trả lương, thưởng, phụ cấp và các khoản chi khác mang tính chất lương thưởng trả cho người lao động là quyền của doanh nghiệp căn cứ vào hiệu quả công việc và mức độ cống hiến của người lao động, miễn là đúng luật. Tuy nhiên, nhiều DNTN chưa thực hiện hợp đồng lao động, trong đó quy định về mức trả, cách thức trả lương và các khoản thu nhập có tính chất lương. Trong trường hợp đó, cơ quan Thuế chỉ chấp nhận loại trừ ở mức Nhà nước quy định là 210.000đ/tháng- tất nhiên với mức lương như vậy thì không một người lao động nào chấp nhận làm. + Hàng mua của nông dân trực tiếp làm ra như các sản phẩm làm từ mây tre, cói dừa... hàng thủ công mỹ nghệ và một số khoản chi sửa chữa nhỏ, bốc xếp, dịch tài liệu kỹ thuật của người không kinh doanh, không có hoá đơn nên không được tính vào chi phí sản xuất kinh doanh là chưa phù hợp - nhất là đối với các cơ sở sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ. Quy trình thu nộp thuế chưa hợp lý Để tránh tình trạng thu thuế ồ ạt vào cuối năm gây mất cân đối ngân sách nên nhà nước quy định doanh nghiệp tạm nộp tiền thuế thu nhập doanh nghiệp hàng quý. Tuy nhiên, việc tính ra mức thuế tạm nộp của cơ quan thuế còn mang tính áp đặt. Có doanh nghiệp mức tạm nộp thuế TNDN gấp gần 2 lần so với tự kê khai và con số thực nộp năm 2002, gây sự bất bình cho các doanh nghiệp vì bị chiếm dụng vốn trong khi nhu cầu vốn là nhu cầu rất cấp thiết. Thuế GTGT Quy định về đối tượng chịu thuế, không chịu thuế GTGT chưa hợp lý Theo quy định tại khoản 3, điều 4 Luật thuế GTGT hiện hành thì hàng hóa, dich vụ ở khâu chịu thuế TTĐB (sản xuất và nhập khẩu); dịch vụ cung ứng cho đối tượng tiêu dùng ngoài Việt Nam thì thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT. Do các hàng hoá dịch vụ trên không chịu thuế GTGT nên không được khấu trừ và hoàn thuế GTGT đầu vào, làm mất tính liên hoàn trong việc tính và khấu trừ thuế GTGT giữa các khâu sản xuất kinh doanh, ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh, không khuyến khích các doanh nghiệp xuất khẩu dịch vụ như gia công hàng hoá cho nước ngoài. Thuế suất còn phức tạp Việc quy định 3 mức thuế suất là 0%, 5%, 10%, gây nên sự rắc rối khi xác định mức thuế suất hợp lý cho từng mặt hàng vì có loại mặt hàng tuỳ từng khía cạnh nhìn nhận mà có thể chịu thuế suất khác nhau. Khi đó cơ quan thuế thì muốn áp dụng mức thuế suất cao còn các doanh nghiệp chắc chắn sẽ muốn áp dụng mức thuế suất thấp hơn. áp dụng phương pháp tính thuế trực tiếp gây thiệt thòi cho các doanh nghiệp nhỏ: Theo ý kiến của các doanh nghiệp áp dụng hai phương pháp tính thuế: trực tiếp và khấu trừ dẫn đến hai “sân chơi”, không đảm bảo sự công bằng. Những DNTN chưa thực hiện đầy đủ chế độ hoá đơn chứng từ do quy mô nhỏ, trình độ quản lý kinh doanh và hạch toán thấp phải nộp thuế theo phương pháp trực tiếp. Ưu điểm nổi bật của thuế GTGT là khắc phục được việc thu thuế trùng lắp. Thế nhưng thực tế việc không cho khấu trừ thuế đầu vào đối với trường hợp chỉ có hoá đơn bình thường mà thực chất là hàng đã được nộp thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp là còn duy trì chế độ nộp thuế trùng lắp, cao hơn thuế doanh thu vì thuế suất cao hơn. Tính thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp chỉ mang tính lý thuyết để chỉ rõ đây là thuế đánh trên phần giá trị tăng thêm, ở các nước chỉ áp dụng thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ. Việc tính thuế theo tỷ lệ % ấn định trên doanh thu hoặc ấn định mức thuế khoán ổn định từ 6 tháng đến một năm dễ gây ra tình trạng không công bằng do phải có sự thoả hiệp giữa cán bộ thuế và chủ doanh nghiệp. Khấu trừ thuế Nghị quyết số 09/2002/NQ/QH11 của Quốc hội trong kỳ họp thứ hai từ 1/1/2003 đã bãi bỏ quy định thuế GTGT đầu vào theo tỷ lệ % quy định tại điểm 1d, Điều 10. Đối với đa số các DNTN thu mua nông lâm sản làm ăn đàng hoàng thì đây là một thiệt thòi lớn, giảm động lực kinh doanh của các doanh nghiệp. Thủ tục hoàn thuế phức tạp, làm đọng vốn của doanh nghiệp Thủ tục hoàn thuế còn rất phức tạp. Hồ sơ hoàn thuế tưởng chừng như rất đơn giản nhưng đơn vị phải chạy đi chạy lại rất nhiều lần mới có thể hoàn tất được hồ sơ. Đối với các DNTN, đã nộp thuế vào kho bạc thì rất khó hoặc mất một thời gian khá lâu mới có thể rút ra được. Hiện nay, tại cục Thuế Hà Nội, một hồ sơ hoàn thuế phải có đủ 8 chữ ký thì mới thực hiện. Những vướng mắc trong thủ tục hoàn thuế không những làm chậm vòng chu chuyển vốn của doanh nghiệp, làm vốn kinh doanh của doanh nghiệp bị ứ đọng mà còn làm giảm lòng tin của các doanh nghiệp nơi các cơ quan Nhà nước. Về nộp thuế Việc quy định doanh nghiệp phải nộp Thuế GTGT ngay từ khi nhập khẩu nguyên liệu đã làm nhiều doanh nghiệp phải vay ngân hàng để nộp thuế, làm đội giá thành sản phẩm. Như vậy, chính sách Thuế hiện hành còn tồn tại khá nhiều bất cập. Do những bất cập này mà các chính sách tài chính chưa giúp khu vực KTTN tháo gỡ hết những khó khăn để phát triển mạnh trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. 2.4 Nguyên nhân của những tồn tại trong chính sách Thuế Vậy những tồn tại trong chính sách Thuế của Nhà nước đối với khu vực KTTN là do đâu. Chúng ta có thể đề cập tới một số nguyên nhân chính như sau: (1) Nguyên nhân trong quá trình xây dưng chính sách - Trước hết, sự phân biệt đối xử còn nằm ngay trong quá trình xây dựng chính sách Thuế đối với khu vực KTTN. Còn nhiều quy định mang tính phân biệt giữa các DNNN và các doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN. Theo một cuộc điều tra của Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI), 2/3 giám đốc tư nhân kêu ca đối xử ưu đãi cho DNNN chính là trở ngại cho doanh nghiệp của họ, 43% coi đó là trở ngại lớn. - Chính sách Thuế còn chưa phù hợp với thực tế đặc điểm về trình độ và điều kiện của DNTN. - Chính sách Thuế nói chung còn mang tính không ổn định, các quy định luôn thay đổi và không được báo trước đã tạo tâm lý thiếu yên tâm khi đầu tư. Số văn bản dưới luật quá nhiều, không nhất quán, do quá nhiều cơ quan Nhà nước ban hành đã gây ra không ít khó khăn cho việc thực hiện - Quy định trong các sắc Thuế còn nhiều điều chưa rõ ràng, mơ hồ, gây khó khăn cho các doanh nghiệp và các cơ quan quản lý Nhà nước khi áp dụng. (2) Nguyên nhân trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách của Nhà nước Nhìn chung, bộ máy quản lý của Nhà nước ở cả trung ương và địa phương lâu nay chưa quan tâm đúng mức đến sự phát triển của khu vực KTTN, cung cách quản lý chưa chuyển kịp theo theo yêu cầu phát triển của tất cả các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa; còn lúng túng về cả nội dung và phương thức quản lý của Nhà nước, chưa cập nhật được tình hình phát triển, cả thuận lợi và khó khăn của khu vực kinh tế tư nhân, có phần buông lỏng và còn sơ hở, cải cách hành chính còn chậm, các doanh nghiệp còn phàn nàn nhiều về cung cách làm việc của các cán bộ Nhà nước. - Các ngành chức năng chưa có sự phối hợp tốt trong khâu đăng ký kinh doanh và quản lý sau đăng ký kinh doanh. Quản lý của Nhà nước sau đăng ký kinh doanh còn nhiều bất cập. Mặc dù có nhiều cơ quan tham gia quản lý đối với khu vực kinh tế tư nhân, song trong thực tế, không có cơ quan quản lý Nhà nước nào ở Trung ương và ở địa phương làm đầu mối để theo dõi, nắm chắc tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp tư nhân. Nội dung quản lý còn chưa được đổi mới phù hợp. - Tình trạng "trống đánh xuôi, kèn thổi ngược", "trên nói dưới không nghe" vẫn còn là vấn nạn trong quản lý điều hành tập trung, thông suốt của Chính phủ, ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực thi cơ chế chính sách của Đảng và Nhà nước đối với khu vực kinh tế tư nhân. Như vậy, có thể nói, sự chuyển động của bộ máy Nhà nước để đưa chủ trương chính sách đúng đắn vào cuộc sống vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. - Việc kiểm tra thanh tra doanh nghiệp của chồng chéo, kéo dài, gây phiền hà cho cơ sở. Chúng ta vẫn chưa có chế tài để xử lý những cán bộ Nhà nước nhũng nhiễu, gây khó khăn, thiệt hại cho người kinh doanh. Sự nhũng nhiễu xảy ra ở tất cả các cấp, từ nhân viên bảo vệ đến người có chức vụ cao- đã trực tiếp ảnh hưởng dến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp dân doanh luôn bị lép vế trước các cơ quan công quyền. (3) Hạn chế của bản thân các DNTN Chúng ta phải thừa nhận một thực tế là trình độ quản trị doanh nghiệp của nhiều chủ DNTN hết sức hạn chế. Phần lớn các chủ DNTN đều chưa được đào tạo về công tác quản lý doanh nghiệp và chủ yếu tiến hành theo kinh nghiệm. Hoạt động kinh doanh của DNTN chưa có chiến lược dài hạn, chủ yếu là kinh doanh theo thương vụ, "đánh quả" mà hoạt động dễ đổ bể. Một số doanh nghiệp lại chạy theo kiểu kinh doanh lừa đảo, chụp giật, ít chú ý tới chất lượng, giá thành sản phẩm và thương hiệu. Các doanh nghiệp dành nhiều thời gian để tìm cách "lách luật", lợi dụng kẽ hở của các chính sách, đối phó với các quy định còn nhiều hơn là dành cho quản lý kinh doanh, phát triển doanh nghiệp. - Hiểu biết của các doanh nghiệp về chính sách Thuế rất hạn chế: rất nhiều doanh nghiệp không nắm được quy trình thu- nộp thuế, thủ tục hoàn thuế; nhiều doanh nghiệp còn chưa thực hiện đúng các quy định của Nhà nước như việc ký kết hợp đồng lao động với người lao động để làm căn cứ rõ ràng cho các cơ quan thuế tính và thu thuế. - Tính hợp tác của các doanh nghiệp rất kém, không chỉ trong làm ăn mà còn trong việc cùng nói lên tiếng nói của mình, đưa ra những kiến nghị đối với Chương III Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện chính sách Thuế để hỗ trợ phát triển khu vực KTTN ở việt nam I. Quan điểm chung Về sử dụng chính sách thuế để hỗ trợ phát triển khu vực KTTN 1. Định hướng phát triển khu vực KTTN Vai trò của đầu tư tư nhân đối với phát triển kinh tế-xã hội và CNH, HĐH đã được minh chứng ở nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các nước trong khu vực. Sự tăng trưởng nhanh chóng của KTTN sẽ giúp Việt Nam đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế theo kế hoạch đã đề ra trong Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 2001-2010 và phương hướng, nhiệm vụ, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2001-2005. Việc khuyến khích khu vực KTTN phát triển cần dựa trên các quan điểm sau: Một là, phát triển các doanh nghiệp trong khu vực KTTN phải trên quan điểm đánh giá đúng vị trí và vai trò của khu vực này trong quá trình CNH, HĐH đất nước Nghị quyết TW 5 khẳng định: "Kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần quan trọng trong việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế-xã hội, CNH, HĐH, nâng cao nội lực của đất nước trong hội nhập kinh tế quốc tế". Do vậy, cần đẩy mạnh phát triển KTTN trong mối quan hệ chặt chẽ với các thành phần kinh tế khác, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo và ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Điều này thể hiện quan điểm nhất quán của Đảng về vị trí, vai trò quan trọng của KTTN trong việc phát huy nội lực, tạo sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Hai là, Nhà nước tôn trọng và phát huy quyền tự do kinh doanh theo pháp luật, bảo hộ quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân, khuyến khích hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi và định hướng, quản lý sự phát triển KTTN theo pháp luật, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Ba là, phát triển khu vực KTTN theo hướng đa dạng hoá ngành nghề, đa dạng hoá địa bàn hoạt động và loại hình doanh nghiệp Nhà nước khuyến khích tối đa, không hạn chế sự phát triển rộng rãi của KTTN trong những ngành, những lĩnh vực mà pháp luật không cấm, khuyến khích phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa, không hạn chế phát triển các doanh nghiệp có quy mô lớn. Cần chú trọng phát triển KTTN ở những ngành ít vốn, tạo nhiều việc làm, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu là: các cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp truyền thống và hàng thủ công mỹ nghệ (gốm sứ, khảm trai, sơn mài, chiếu cói, dệt thổ cẩm, mây tre đan...) và các cơ sở sản xuất hàng gia công xuất khẩu, tiến tới phát triển mạnh các ngành công nghệ cao như điện tử (tivi, quạt điện, ổn áp, loa thùng...), tiếp cận công nghệ phần mềm. Chỉ duy trì các DNNN ở những lĩnh vực, những ngành cần thiết đáp ứng nhu cầu công cộng của xã hội, có vai trò quyết định tới sự phát triển của nền kinh tế quốc dân như: năng lượng, bưu chính, xây dựng cơ sở hạ tầng. Khuyến khích phát triển các loại hình doanh nghiệp công ty cổ phần, công ty TNHH vì các loại hình doanh nghiệp này có ưu thế hơn so với các doanh nghiệp hộ gia đình và hộ kinh doanh cá thể tiểu chủ. Bốn là, phát triển khu vực KTTN trên cơ sở đa dạng hoá về trình độ công nghệ, trong đó khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư để đổi mới và áp dụng công nghệ hiện đại, tiên tiến Trình độ công nghệ của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung là thấp, không tính đến khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Do đó yêu cầu đặt ra là phải đẩy nhanh tốc độ đổi mới công nghệ trong các DNTN theo hướng áp dụng công nghệ thích hợp với từng ngành nghề, quy mô cụ thể. Tranh thủ công nghệ hiện đại đối với một số doanh nghiệp có nhu cầu, khả năng và điều kiện, trước hết đó là các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, chế biến lương thực thực phẩm, sản xuất vật liệu xây dựng, cơ khí. Do đó cần chú trọng đổi mới công nghệ với trình độ thích hợp, cần có giải pháp huy động và sử dụng vốn theo hướng đầu tư chiều sâu là chủ yếu. Bên cạnh đó, cần phát triển quan hệ liên kết giữa các doanh nghiệp với các tổ chức khoa học về nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật. 2. Quan điểm về sử dụng chính sách Thuế để hỗ trợ phát triển khu vực KTTN Trong giai đoạn từ nay đến năm 2010, với mục tiêu khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân phát triển trong môi trường có tính cạnh tranh cao, chính sách Thuế cần được hoàn thiện theo hướng sau: Một là, chính sách Thuế đối với các DNTN phải gắn với định hướng phát triển chung của đất nước, của từng vùng lãnh thổ và quy hoạch phát triển chung của từng ngành. ở nước ta, đất đai nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn. Nền kinh tế thị trường phát triển sẽ kéo theo sự di dân ồ ạt từ khu vực nông thôn vào các thành phố lớn. Vì vậy cần ổn định xã hội bằng cách khuyến khích hơn nữa việc phát triển KTTN ở nông thôn, vùng sâu vùng xa, xoá đói giảm nghèo. Hai là, chính sách Thuế phải tiếp tục hoàn thiện theo hướng xoá bỏ hoàn toàn sự phan biệt giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, xây dựng một môi trường kinh doanh lành mạnh, bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp, bảo đảm quyền tự do cạnh tranh của doanh nghiệp. Ba là, chính sách Thuế cần tạo điều kiện huy động tối đa các nguồn lực phát triển như vốn, đất đai, nhân lực, thông tin và công nghệ kể cả trong và ngoài nước. Bốn là, chính sách Thuế của Nhà nước cần tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế khai thác được lợi thế so sánh của nền kinh tế, tạo điều kiện để doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư đổi mới trang thiết bị, điều chỉnh cơ cấu sản xuất, nâng cao hiệu quả, đáp ứng được sự thay đổi trong tương lai về điều kiện cạnh tranh quốc tế theo lộ trình hội nhập. Nâng cao chất lượng của các ngành dịch vụ và tiêu chuẩn của sản phẩm hàng hoá nhằm tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước với các nguồn hàng hoá khác. III- Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện chính sách thuế để hỗ trợ phát triển khu vực KTTN Nhận thức được tầm quan trọng của khu vực KTTN đối với sự phát triển kinh tế đất nước, Chính phủ đã tiến hành những cải tổ lớn trong hệ thống tài chính. Cùng với sự hỗ trợ của quốc tế, nhiều bộ Luật đã được ban hành và sửa đổi, trong đó có Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật các tổ chức tín dụng, Luật doanh nghiệp, Luật thuế GTGT, Luật thuế TNDN... các bộ luật này đã củng cố hệ thống tài chính và hỗ trợ cho khu vực KTTN phát triển. Đặc biệt là việc bổ sung, sửa đổi các sắc Thuế của Nhà nước trong thời gian vừa qua đã góp phần cơ cấu lại nền kinh tế, tham gia tích cực vào việc khuyến khích đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện tiền đề cho sự hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Tuy nhiên, như đã phân tích, chính sách Thuế hiện hành còn một số hạn chế cần phải được tiếp tục hoàn thiện và đổi mới. Trong phạm vi đề tài này, xin đưa ra một số kiến nghị đối với chính sách Thuế như sau: 1. Thực hiện áp dụng biểu thuế suất thuế TNDN luỹ tiến Do đa số các DNTN có quy mô vừa và nhỏ, chúng ta cũng có thể nghiên cứu đưa vào áp dụng thuế suất luỹ tiến từng phần đối với thuế TNDN thay thế mức thuế suất 32% hiện nay. Biểu thuế luỹ tiến từng phần có thể như sau: Đơn vị: Triệu đồng Thu nhập/năm Thuế suất <100 20% 100 đến dưới 300 25% 300 đến dưới 500 28% 500 đến dưới 1.000 30% 1.000 trở lên 32% áp dụng biểu thuế suất trên, những doanh nghiệp có mức thu nhập từ 1tỷ đồng/năm thì chịu mức thuế suất thuế TNDN là 32%, những doanh nghiệp có mức thu nhập dưới 1 tỷ đồng/năm thì phải chịu thuế suất trung bình từ 30% trở xuống. Đây chính là giải pháp giảm thuế rất hiệu quả cho các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ ở Mỹ. 2. Hoàn thiện phương pháp tính thuế GTGT Tiến tới nên thực hiện chi duy nhất phương pháp tính thuế GTGT cho các doanh nghiệp có đầy đủ hoá đơn GTGT. Đối với các doanh nghiệp nhỏ, chưa đủ điều kiện thực hiện hoặc thực hiện chưa đầy đủ hoá đơn GTGT thì nên chuyển sang áp dụng thuế doanh thu, bỏ phương pháp tính thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp. Đây là kinh nghiệm thực tế của Trung Quốc đã thực hiện thành công và tương đối phù hợp với điều kiện Việt Nam. Nhưng các giải pháp trên đây đòi hỏi chúng ta tăng cường hơn nữa công tác hoá đơn chứng từ để theo dõi được hoạt động của các DNTN. Để thúc đẩy các doanh nghiệp thực hiện nghiêm túc thì có thể thực hiện theo biện pháp khuyến khích người mua hàng lấy hoá đơn. Trên mỗi tờ hoá đơn mua hàng của khách hàng đều có số để cào trúng thưởng. Việc quay số để xác định khách hàng trúng thưởng sẽ thực hiện hàng tháng ở các cục Thuế. Tuỳ theo số tiền ghi trên hoá đơn mua hàng mà các mức trúng thưởng có thể khác nhau. Nhờ đó, khách hàng khi mua hàng sẽ đòi hoá đơn và công tác hoá đơn ở các doanh nghiệp sẽ được thực hiên nghiêm túc hơn. 3. Tăng mức và mở rộng diện ưu đãi thuế Các doanh nghiệp nói chung và các DNTN nói riêng khi mới thành lập đều được hưởng ưu đãi theo các luật thuế hiện hành. Có quan điểm cho rằng thực hiện ưu đãi, miễn giảm thuế sẽ gây ra sự méo mó trong quyết định của nhà đầu tư, làm ảnh hưởng tới ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên để khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp mới thành lập và doanh nghiệp ở nông thôn, vùng cao, vùng xa vẫn là rất cần thiết và cần tập trung vào một số yếu tố sau: Một là, ưu đãi miễn giảm thuế đối với tất cả các cơ sở kinh doanh mới được thành lập nhằm khuyến khích dân chúng bỏ vốn đầu tư trực tiếp tham gia tạo lập doanh nghiệp mới. Hai là, ưu đãi miền giảm thuế đối với tất cả các doanh nghiệp đầu tư vào các ngành nghề cần khuyến khích phát triển. Đây là những ngành cần tăng trưởng phát triển nhanh để tạo sự ổn định và phát triển chung của nền kinh tế hoặc cho phép khai thác lợi thế so sánh của nước ta trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Những ngành nghề cần khuyến khích phát triển sẽ được Nhà nước xem xét và công bố trong từng thời kỳ. Ba là, ưu đãi miễn giảm thuế đối với tất cả các doanh nghiệp mới thành lập sử dụng công nghệ hiện đại. Nhờ đó, nâng cao trình độ công nghệ của các DNTN, tránh nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Bốn là, ưu đãi miễn giảm thuế đối với tất cả các doanh nghiệp mới thành lập thuộc các vùng khó khăn, miền núi, hải đảo. Để phát triển các vùng này, Nhà nước cần cải thiện cơ sở hạ tầng- nhưng đó lại là vấn đề hết sức khó khăn và cần thời gian. Vì vậy, khi mà điều kiện cơ sở hạ tầng và điều kiện kinh doanh chưa được cải thiện nhiều. Nhà nước cần sử dụng công cụ tài chính để khuyến khích đầu tư, khai thác tối ưu khả năng của từng vùng. Tuy nhiên, nếu kéo dài quá lâu ưu đãi về thuế sẽ làm suy yếu khả năng cạnh tranh, làm cho hoạt động của nền kinh tế trở nên kém lành mạnh, vì vậy ưu đãi cũng nên có thời hạn nhất định. Bên cạnh các chế độ ưu đãi về miễn, giảm thuế như các đối tượng thuộc diện ưu tiên trong các luật thuế GTGT, thuế TNDN, đối với các doanh nghiệp mới thành lập ở vùng cao, biên giới hải đảo, nông thôn thời hạn ưu đãi nên dài hơn, ít nhất là miễn thuế trong 3 năm đầu mới thành lập và giảm 50% thuế phải nộp trong 5 năm tiếp theo. Những lĩnh vực, vùng kinh tế cần ưu tiên đặc biệt thì thời hạn có thể dài hơn. 4. Thực hiện chính sách thuế nhằm đẩy mạnh xuất khẩu và bảo hộ có điều kiện hàng hoá trong nước Cùng với việc tham gia AFTA (khu vực mậu dịch tự do ASEAN), thực hiện hiệp định chung về ưu đãi thuế quan (CEPT) sẽ tạo điều kiện cho Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu, trao đổi hàng hoá dịch vụ với các nước trong khu vực. tuy nhiên, mở cửa thị trường sẽ làm cho hàng hoá từ các nước ASEAN vào Việt Nam nhiều hơn. Trước tình hình đó, cần thực hiện giảm bớt mức thuế suất và tiến mức thuế suất 0% cho tất cả các hàng hoá xuất khẩu; xoá bỏ các hàng rào phi thuế quan đối với tất cả các hàng hoá và dịch vụ (trừ những hàng hoá và dịch vụ nằm trong danh mục cấm xuất khẩu) để đẩy mạnh tối đa hoạt động xuất khẩu, tạo điều kiện và thúc đẩy các DNTN tham gia hoạt động xuất khẩu. Nhà nước nên xem xét thực hiện hoàn thuế đối với những sản phẩm thuộc đối tượng chịu thuế GTGT mà doanh nghiệp mua vào có hoá đơn thông thường để sản xuất hàng xuất khẩu hoặc mua để xuất khẩu. Mức thuế hoàn trả cho doanh nghiệp xuất khẩu cũng tính bằng 3% so với giá trị hàng mua vào theo hoá đơn thông thường. Việc hoàn thuế này sẽ có tác dụng giảm bớt khó khăn co doanh nghiệp xuất khẩu. Bên cạnh đó nhanh chóng tháo dỡ những vướng mắc trong thủ tục hoàn thuế GTGT tăng tốc độ quay vòng vốn của các doanh nghiệp, đảm bảo quyền lợi và sự công bằng của các doanh nghiệp theo đúng pháp luật. Ngành thuế nên thiết kế mẫu tờ khai hoàn thuế với đầy dủ thông tin cần kiểm tra, đặc biệt có thể đưa lên mạng vi tính những dữ liệu cần thiết để đơn giản hoá và rút ngắn thời gian kiểm tra. Bên cạnh đó, để chính sách Thuế phát huy được hiệu quả trong thực tế, cần kết hợp đồng bộ việc thực hiện các chính sách tài chính với các chính sách vĩ mô khác như: chính sách tín dụng ngân hàng, chính sách hỗ trợ phát triển, chính sách ưu đãi đầu tư, chính sách xúc tiến thương mại, chính sách công nghệ, chính sách đào tạo nguồn nhân lực, chính sách về đất đai và mặt bằng kinh doanh. Chính sách ưu đãi đầu tư: Lâu nay, phần lớn các DNTN tập trung vào lĩnh vực thương mại và dịch vụ, còn lĩnh vực công nghiệp thì quá ít. Vì vậy, việc khuyến khích đầu tư vào công nghiệp, nhất là công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu rất cần được chú trọng. Công nghiệp chế biến nông sản, lâm sản, thuỷ sản cần được chú trọng nhiều hơn nữa. Nghị định thi hành Luật khuyến khích đầu tư trong nước đã quy định rõ các lĩnh vực đầu tư, các vùng được ưu đãi. Rất cần thiết tạo điều kiện thuận lợi để các DNTN có thể tiếp cận các chính sách ưu đãi đó, đặc biệt là giảm bớt phiền hà, phân biệt đối xử trong các thủ tục, giấy tờ ưu đãi đầu tư. Chính sách thị trường và cạnh tranh: Tiếp cận thị trường đang là khó khăn chung của các DNTN. Nhà nước cần có một chính sách thị trường chung dành cho tất cả các doanh nghiệp, đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng thông qua các biện pháp sau: - Tạo điều kiện cho các DNTN tham gia vào các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng bằng nguồn vốn ngân sách. Đó có thể là các dự án quy mô nhỏ do chính quyền địa phương các cấp làm chủ đầu tư, phù hợp với năng lực tài chính, kinh tế và quản lý của một hoặc một số DNTN tập hợp lại. - Có chính sách khuyến khích mối quan hệ hợp tác giữa các DNTN và các DNNN thông qua việc ký kết các hợp đồng cung ứng nguyên vật liệu, bán thành phẩm, gia công chi tiết, phân phối sản phẩm. - Thực hiện kiên quyết công tác chống buôn lậu để lành mạnh hoá môi trường kinh doanh và bảo vệ thị trường cho hàng hoá trong nước. - Giúp đỡ các DNTN trong các thủ tục xuất khẩu để tiép cận thị trường ngoài nước. Khuyến khích các DNTN tìm kiếm thị trường, tham gia các hội chợ, triển lãm ở nước ngoài...Chính phủ và các bộ ngành nên hướng việc phân bổ rộng rãi các hợp đồng gia công xuất khẩu cho các DNTN có khả năng thay vì chủ yếu cho các DNNN như hiện nay. Chính sách về công nghệ: Qua việc phát triển các trung tâm nghiên cứu và ứng dụng công nghệ, khuyến khích, hướng dẫn các DNTN áp dụng các công nghệ phù hợp với mình. Có thể hỗ trợ một phần chi phí chuyển giao công nghệ hoặc cho các DNTN vay vốn trang bị công nghệ mới. Chính sách đào tạo nguồn nhân lực: Các trường đào tạo dạy nghề của Nhà nước chỉ có một số lượng hạn chế chỉ tiêu đào tạo ngề hàng năm. Số lượng còn lại Nhà nước cần khuyến khích tạo thuận lợi cho các cơ sở dạy nghề dân doanh tiếp nhận. Khuyến khích các DNNN giúp đỡ, nhận các công nhân trong các DNTN học việc để đào tạo công nhân lành nghề. Chính phủ và các cấp chính quyền địa phương cần phối hợp chặt chẽ với các tổ chức kinh tế xã hội để mở rộng mạng lưới đào tạo, phổ biến kiến thức kinh doanh, cung cấp thông tin thị trường cho các chủ doanh nghiệp. Chính sách về đất đai và mặt bằng kinh doanh: Các thủ tục về chuyển quyền sử dụng đất cho các DNTN, thủ tục thuê địa điểm lập doanh nghiệp cần được cải tiến, giảm bớt khó khăn về mặt bằng cho các doanh nghiệp, đồng thời cũng để thực hiện quy hạch đô thị hoá, cần hình thành các cụm công nghiệp, các tiểu khu công nghiệp cho các DNTN. Mở rộng quyền của doanh nghiệp trong việc chuyển nhượng, cho thuê, cầm cố, thế chấp tài sản thuộc quyền quản lý của doanh nghiệp. Giảm mức thu về quyền sử dụng đất, thuế chuyển quyền sử dụng đất hoặc tạm ngừng áp dụng các khoản thu này trong một thời gian nhất định. Kết luận Khu vực kinh tế tư nhân, khu vực kinh tế được đánh giá là năng động, sáng tạo và đầy tiềm năng phải được khuyến khích và tạo điều kiện để phát triển mạnh mẽ, xem như là một nhiệm vụ có tính chất chiến lược trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trên cơ sở vận dụng các phương pháp nghiên cứu, kết hợp lý luận và thực tiễn, đề tài đã góp phần làm rõ những căn cứ lý luận và thực tiễn trong việc sử dụng chính sách Thuế để hỗ trợ phát triển khu vực KTTN; đánh giá tác động của chính sách Thuế hiện hành; nêu lên những kết quả đạt được và nguyên nhân của những tồn tại trong chính sách Thuế đối với sự phát triển của KTTN. Đồng thời, đề tài cũng đưa ra một số ý kiến nhằm hoàn thiện chính sách Thuế để tạo điều kiện thuận lợi cho khu vực KTTN phát triển. Hoàn thiện chính sách Thuế là một vấn đề hết sức quan trọng đối với toàn bộ nền kinh tế nói chung và khu vực kinh tế tư nhân nói riêng và là một vấn đề phong phú cả về lý luận và thực tiễn. Kết quả nghiên cứu của đề tài chỉ là một đóng góp nhỏ bé, chắc chắn vấn đề còn cần được nghiên cứu sâu rộng thêm để tạo cơ sở cho việc sử dụng chính sách Thuế trong điều kiện thực tế ở nước ta. Phụ lục 2: Danh mục các từ viết tắt KTTN: Kinh tế tư nhân KTNN: Kinh tế Nhà nước DNTN: Doanh nghiệp tư nhân DNNN: Doanh nghiệp Nhà nước XHCN: Xã hội chủ nghĩa GTGT: Giá trị gia tăng TTĐB: Tiêu thụ đặc biệt CNH, HĐH: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá Tài liệu tham khảo 1,Tài liệu Hội thảo “ Giải pháp kinh tế-tài chính hỗ trợ và phát triển kinh tế tư nhân” 2, Tài liệu Hội thảo “Phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam trong giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH” 3, Niên giám thống kê 2001- Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội 4, IMF Country Report No 21/151 July, 2002 5, Tạp chí Tài chính 7/2002 6, Báo Diễn đàn doanh nghiệp 26/3/2003 Mục lục Trang Lời nói đầu............................................................................................ Chương I: Khu vực kinh tế tư nhân và vai trò của chính sách thuế đối với sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân....................................................... I. Khu vực kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường.............................. 1. Khái quát chung về khu vực KTTN.................................................. 2. Vai trò của khu vực KTTN trong nền kinh tế thị trường................... 3. Đặc điểm của khu vực KTTN............................................................ 3.1 Ưu thế của doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN......................... 3.2 Một số hạn chế của các doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN..... II. Vai trò của chính sách thuế đối với sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân..................................................................................... 1.Nội dung của chính sách Thuế............................................................ 2. Vai trò của chính sách Thuế trong sự phát triển của khu vực KTTN..................................................................................................... Chương II: hiện trạng của chính sách thuế đối với sự phát triển KTTN ở Việt Nam ................................. I. Tình hình phát triển của khu vực KTTN....................................... 1. Tình hình phát triển của khu vực KTTN........................................... 1.1 Số lượng và quy mô doanh nghiệp.......................................... 1.2 Cơ cấu của các DNTN............................................................ 1.3 Số lượng lao động................................................................... 1.4 Đất đai và công nghệ............................................................. 1.5 Đóng góp cho nền kinh tế....................................................... 2. Những khó khăn chủ yếu của khu vực KTTN ở nước ta ................... 2.1 Khó khăn về vốn..................................................................... 2.2 Khó khăn về công nghệ, kỹ thuật........................................... 2.3 Trình độ quản lý doanh nghiệp và tay nghề người lao động.. 2.4 Thiếu mặt bằng sản xuất kinh doanh ổn định, lâu dài............ 2.5 Thiếu thông tin và phương tiện xử lý thông tin...................... 2.6 Những khó khăn khác............................................................. II. Tác động của các chính sách tài chính đối với khu vực KTTN 1. Chính sách tín dụng ngân hàng.......................................................... 2. Chính sách thuế................................................................................. 3. Chính sách hỗ trợ phát triển của Nhà nước........................................ 4. Kết quả đạt được của các chính sách tài chính đối với sự phát triển của khu vực KTTN................................................................................. III. Những bất cập của các chính sách tài chính làm hạn chế sự phát triển của khu vực KTTN........................................................... 1. Những rào cản từ phía chính sách tín dụng....................................... 2. Sự phân biệt đối xử trong chính sách thuế........................................ 3. Nguồn vốn Hỗ trợ phát triển cung cấp cho khu vực KTTN hạn chế.. 4. Nguyên nhân...................................................................................... Chương III....................................................................................... Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các chính sách tài chính để hỗ trợ phát triển khu vực KTTN ở Việt Nam.......................................................................... I. Quan điểm chung về sử dụng các chính sách tài chính hỗ trợ phát triển khu vực KTTN................................................................... 1. Định hướng phát triển khu vực KTTN............................................... 2. Quan điểm về sử dụng các chính sách tài chính để hỗ trợ phát triển khu vực KTTN....................................................................................... II. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các chính sách tài chính để hỗ trợ phát triển khu vực KTTN........................................................ 1. Chính sách tín dụng thuận lợi hơn cho người đi vay và người cho vay......................................................................................................... 2. Sửa đổi một số chính sách thuế đối với khu vực KTTN.................... 3. Mở rộng tín dụng ĐTPT của Nhà nước đối với khu vực KTTN ....... 4. Kết hợp đồng bộ chính sách tài chính với các chính sách vĩ mô khác....................................................................................................... Kết luận................................................................................................ Tài liệu tham khảo Phụ lục 1: Một số điểm khác nhau căn bản giữa DNNN và DNTN Phụ lục 2: Một số khác biệt về chính sách giữa DNNN và DNTN Phụ lục 3: Danh mục các từ viết tắt Phụ lục 4: Danh mục bảng biểu 1 3 3 3 4 9 9 11 13 13 13 13 14 15 18 18 23 26 26 26 26 28 30 31 32 33 34 34 35 36 36 37 38 38 41 46 50 54 54 58 62 65 68 68 68 70 71 72 74 78 81 84

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc37110.doc
Tài liệu liên quan