Chuyên đề Nâng cao chất lượng hoạt động cho vay đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Sở Giao dịch 1 – Ngân hàng Công thương Việt Nam

Trong 3 năm trở lại đây, tăng trưởng hồ sơ tín dụng khách hàng tại CIC tăng với tốc độ rất nhanh. Năm 2005, mức tăng trưởng là 865 nghìn hồ sơ, tăng 142% so với năm 2004. Năm 2006, mức tăng trưởng là 4.022 nghìn hồ sơ, tăng 272,8% so với năm 2005. Và đến năm 2007 thì mức tăng trưởng là 3.371 nghìn hồ sơ, đạt mức tăng 61,3% so với năm 2006. Như vậy, từ năm 2004 đến hết năm 2007, số lượng hồ sơ khách hàng tại CIC đã tăng 14,6 lần. Đây thực sự là một nỗ lực đáng kể của trung tâm thông tin tín dụng trong việc thu thập và cung cấp thông tin cho các tổ chức tín dụng trong nền kinh tế. Tuy nhiên, hiện nay với tốc độ tăng trưởng của ngành ngân hàng ước tính là 30%/năm cùng với tốc độ tăng trưởng chóng mặt về khách hàng của các tổ chức tín dụng trong nền kinh tế; thì vai trò cũng như nhiệm vụ của trung tâm thông tin tín dụng CIC trong những năm tới là hết sức nặng nề. Để xây dựng hệ thống thông tin tín dụng lớn, phục vụ đắc lực cho hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước cần thiết phải có những biện pháp sau đối với các tổ chức tín dụng:  Yêu cầu các đơn vị phải khai báo thông tin khách hàng theo đúng quy định của Ngân hàng Nhà nước.  Yêu cầu việc khai thác, sử dụng thông tin tín dụng trong việc thực hiện cấp tín dụng là một điều kiện bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng.  Hoàn thiện, đổi mới hệ thống công nghệ thông tin, cơ sở dữ liệu nhằm quản lý tốt hơn việc thu thập và cung cấp thông tin hồ sơ khác hàng đến các tổ chức tín dụng hoạt động trên cả nước.  Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, nhân lực và tăng cường các kênh cung cấp thông tin của trung tâm thông tin tín dụng CIC, mở rộng hệ thống này trên cả nước.

doc83 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1513 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Nâng cao chất lượng hoạt động cho vay đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Sở Giao dịch 1 – Ngân hàng Công thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dụng, CBTD hướng dẫn khách hàng hoàn thiện, đối chiếu và tiếp nhận hồ sơ. Sau khi kiểm tra, nếu hồ sơ của khách hàng đầy đủ, CBTD báo cáo trưởng phòng tín dụng (hoặc người được ủy quyền) và tiếp tục tiến hành các bước trong quy trình. Nếu hồ sơ của khách hàng chưa đầy đủ, CBTD yêu cầu khách hàng hoàn thiện tiếp hồ sơ. - Thẩm định các điều kiện vay vốn: Sau khi nhận được hồ sơ khách hàng đầy đủ, CBTD tiến hành thẩm định khách hàng theo những trình tự sau: Kiểm tra hồ sơ vay vốn và mục đích vay vốn: CBTD kiểm tra tính xác thực, hợp pháp, hợp lệ của các giấy tờ, văn bản trong danh mục hồ sơ khách hàng và kiểm tra tính hợp pháp của mục đích vay vốn. Điều tra, thu thập, tổng hợp thông tin về khách hàng và phương án sản xuất kinh doanh/ dự án đầu tư. Kiểm tra, xác minh thông tin. Thực hiện phân tích ngành: CBTD thực hiện phân tích và đánh giá triển vọng trong tương lai của doanh nghiệp với tình hình thị trường hiện tại. Phân tích, thẩm định khách hàng vay vốn: CBTD thẩm định tư cách, năng lực pháp lý, năng lực điều hành, năng lực quản lý sản xuất kinh doanh, mô hình tổ chức, bố trí lao động trong doanh nghiệp và thực hiện phân tích, đánh giá tình hình hoạt động, khả năng tài chính của doanh nghiệp. Dự kiến lợi ích của ngân hàng nếu khoản vay được phê duyệt: CBTD tính toán lãi, và các lợi ích có thể thu được nếu như khoản vay được phê duyệt, dựa trên số tiền giải ngân, thời hạn và lãi suất dự tính. Phân tích, thẩm định phương án sản xuất kinh doanh/ dự án đầu tư: CBTD tập trung phân tích, đánh giá về khía cạnh hiệu quả tài chính và khả năng trả nợ của phương án sản xuất kinh doanh/ dự án đầu tư. - Xác định phương thức cho vay: Việc lựa chọn phương thức cho vay phải phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh và luân chuyển vốn của khách hàng và yêu cầu kiểm tra, kiểm soát của ngân hàng. - Xem xét khả năng nguồn vốn, điều kiện thanh toán và xác định lãi suất cho vay của Sở giao dịch I: CBTD tổng hợp số liệu để tính toán và xác định mức lãi suất có thể áp dụng cho khoản vay; và cùng với trưởng phòng tín dụng phối hợp với bộ phận phụ trách nguồn vốn để cân đối nguồn vốn đối với những khoản vay lớn hoặc dự tính khả năng chuyển đổi ngoại tệ với những khoản vay thanh toán nước ngoài. - Lập tờ trình thẩm định vay: Trên cơ sở thẩm định theo các nội dung trên, CBTD phải lập tờ trình thẩm định cho vay lên trưởng phòng tín dụng. Trong đó nêu rõ quan điểm của mình về việc đồng ý hay từ chối cho vay, các điều kiện khác để vay, số tiền cho vay, lãi suất, thời hạn vay… - Tái thẩm định khoản vay: Tổ tái thẩm định có trách nhiệm thẩm định lại khách hàng và toàn bộ hồ sơ xin vay một cách độc lập, ghi rõ ý kiến và đề xuất của mình về khoản vay. - Trình duyệt khoản vay: CBTD trình tờ trình tái thẩm định và toàn bộ hồ sơ xin vay cho trưởng phòng tín dụng hoặc Giám Đốc để ra quyết định. - Ký kết hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm tiền vay, giao nhận giấy tờ và tài sản đảm bảo: Khi khoản vay được phê duyệt, CBTD soạn thảo Hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm tiền vay; trình ký kết với khác hàng và giao nhận giấy tờ và tài sản bảo đảm từ khách hàng. - Giải ngân: CBTD và bộ phận có liên quan thực hiện giải ngân theo hợp đồng đã ký kết và quy định của ngân hàng. - Kiểm tra, giám sát khoản vay: NHCT quy định việc kiểm tra, giám sát khoản vay được tiến hành định kỳ, đột xuất với 100% khảon vay, một hay nhiều lần tùy thuộc vào độ an toàn của khoản vay. - Thu nợ gốc, lãi và xử lý phát sinh: Căn cứ kỳ hạn trả nợ gốc, lãi của khoản vay, CBTD thông báo thu gốc và lãi bằng văn bản trước 07 ngày làm việc cho khách hàng; đồng thời xử lý những phát sinh theo thẩm quyền quy định. - Thanh lý hợp đồng tín dụng và hợp đồng bảo đảm tiền vay: Khi khách hàng trả hết nợ, CBTD tiến hành với bộ phận kế toán đối chiếu, kiểm tra số tiền trả nợ gốc, lãi, phí… để tất toán khoản vay và thanh lý hợp đồng tín dụng. - Giải chấp tài sản bảo đảm: Khi khách hàng thanh toán hết nợ, CBTD thực hiện xuất kho giấy tờ, tài sản đảm bảo, soạn công văn đề nghị xóa giao dịch bảo đảm và biên bản bàn giao tài sản đảm bảo trình trưởng phòng tín dụng ký duyệt. - Lưu giữ hồ sơ tín dụng và hồ sơ bảo đảm tiền vay: CBTD lưu toàn bộ hồ sơ tín dụng và các tài liệu liên quan đến khoản vay. 2.2.1.2. Thực trạng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ của Sở giao dịch I – NHCT Việt Nam. Trước đây, do những hạn chế trong thể lệ tín dụng, các doanh nghiệp vừa và nhỏ mà đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thường khó tiếp cận được với nguồn vốn vay của các NHTM. Những trở ngại trong việc thế chấp tài sản đảm bảo, cũng như sự phức tạp của các thủ tục và các điều kiện khác như doanh nghiệp vay vốn phải kinh doanh có lãi trong năm gần nhất, báo cáo tài chính được kiểm toán… đã làm cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất khó tiếp cận được với nguồn vốn vay ngân hàng hoặc làm cho chi phí vay vốn đội lên rất cao. Nhưng trong những năm gần đây đã có sự chuyển biến tích cực từ phía các cơ quan Nhà nước giúp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể dễ dàng tiếp cận được nguồn vốn vay ngân hàng hơn. Nghị định số 178/1999/ NĐ-CP của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 29/12/1999 về “bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng” (sau này được thay thế bằng Nghị định số 163/2006/ NĐ-CP của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 29/12/2006 về giao dịch bảo đảm ), Quyết định số 1627/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống Đốc Ngân hàng Nhà nước về việc “ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng”…đã thực sự không còn sự phân biệt đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh với doanh nghiệp quốc doanh. Trong cơ cấu dư nợ cho vay của Sở giao dịch I – Ngân hàng Công thương Việt Nam, các doanh nghiệp vừa và nhỏ luôn chiếm một tỷ trọng lớn. Các doanh nghiệp làm ăn hiệu quả, uy tín, có năng lực tài chính luôn là những đối tượng tập trung mở rộng tín dụng của Sở. Bảng 2.7: Dư nợ cho vay đối với DNV&N của Sở giao dịch I (đơn vị: tỷ đồng,%) Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Tổng dư nợ cho vay Trong đó: 2.788 2.776 3.101 - Dư nợ đối với DNV&N Tỷ trọng 1.461 52,4 1.685 60,7 1.916 61,8 - DN quốc doanh Tỷ trọng 1.112 76,1 1.185 70,3 1.201 62,7 - DN ngoài quốc doanh Tỷ trọng 349 23,9 500 29,7 715 37,3 Tổng 100 100 100 (Nguồn: báo cáo hoạt động tín dụng của Sở giao dịch I – Ngân hàng Công thương Việt Nam 2005, 2006, 2007) Từ bảng trên ta thấy: Dư nợ cho vay hàng năm đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ thường chiếm tỷ trọng khá cao trong tổng Dư nợ của Sở giao dịch I. Năm 2005, dư nợ cho vay đối với DNV&N đạt 1.461 tỷ đồng, chiểm 52,4 % tổng dư nợ. Năm 2006, dư nợ cho vay DNV&N là 1.685 tỷ đồng, tăng 224 tỷ (tăng 15,3 %) so với năm 2005 và chiếm 60,7 tổng dư nợ. Năm 2007, dư nợ cho vay DNV&N đạt 1.916 tỷ đồng, tăng 231 tỷ (tăng 13,7 %) so với năm 2006 và chiếm 61,8 % tổng dư nợ cho vay. Hình 2.5: tăng trưởng dư nợ cho vay đối với DNV&N của Sở Giao dịch I Có thể nói rằng, cho vay đối với DNV&N là một hoạt động đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động cho vay của Sở. Với tỷ trọng dư nợ cho vay đối với DNV&N dao động trong khoảng từ 60 % tổng dư nợ, hoạt động cho vay đối với DNV&N đem lại phần thu nhập đáng kể cho Sở, đóng góp một tỷ lệ không nhỏ trong lợi nhuận hợp nhất của toàn hệ thống Ngân hàng Công thương Việt Nam. Mặt khác, có thể thấy rằng trong 03 năm qua, tỷ trọng doanh số cho vay đối với DNV&N khu vực kinh tế quốc doanh có xu hướng giảm. Hình 2.6: Cơ cấu dư nợ đối với DNV&N của Sở giao dịch I theo thành phần kinh tế Năm 2005 dư nợ đối với các doanh nghiệp này là 1.112 tỷ đồng, chiếm 76,1% dư nợ cho vay DNV&N. Năm 2006, con số này là 1.185 tỷ đồng (tăng 73 tỷ, tăng 6,6% so với năm trước), chiếm 70,3% dư nợ cho vay DNV&N. Sang năm 2007 thì dư nợ cho vay DNV&N khối Nhà nước là 1.201 tỷ (tăng 16 tỷ, tăng 1,4% so với năm trước) và chỉ còn chiếm tỷ trọng 62,7% trong dư nợ cho vay đối với DNV&N của Sở. Lý giải cho điều này chính là sự phát triển rất nhanh về mặt số lượng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn Hà Nội trong những năm qua khi Luật Doanh nghiệp 2005 cùng với sự tăng trưởng ổn định của nền kinh tế tạo điều kiện cho các DNV&N mở rộng sản xuất kinh doanh, tiêu thụ được sản phẩm và trả nợ ngân hàng. Hoạt động cho vay đối với DNV&N được chia thành: cho vay ngắn hạn và cho vay trung, dài hạn. Bảng 2.8: Dư nợ cho vay đối với nền kinh tế và DNV&N theo thời hạn cho vay của Sở giao dịch I – Ngân hàng Công thương Việt Nam (đơn vị: tỷ đồng,%) Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Dư nợ cho vay đối với DNV&N 1.112 1.185 1.201 - Cho vay ngắn hạn 794 934 1.041 Tỷ trọng (%) 71,4 78,8 86,7 - Cho vay trung, dài hạn 318 251 160 Tỷ trọng (%) 28,6 21,2 13,3 (Nguồn: Báo cáo hoạt động tín dụng Sở Giao dịch I – Ngân hàng Công thương Việt Nam năm 2005, 2006, 2007) Biểu 2.7: Cơ cấu cho vay DNV&N của Sở Giao dịch I theo thời hạn cho vay Qua bảng trên ta thấy cho vay ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu cho vay đối với DNV&N của Sở giao dịch I, trên 70% /năm. Hoạt động cho vay ngắn hạn đối với các DNV&N chủ yếu là để thanh toán các yếu tố đầu vào sản xuất, bổ sung vốn lưu động tạm thời, còn hoạt động cho vay trung, dài hạn chủ yếu là để đầu tư mở rộng quy mô sản xuất hiện có, xây dựng, mua sắm, đổi mới trang thiết bị… Dư nợ cho vay ngắn hạn đối với DNV&N của Sở trong 3 năm qua có sự tăng trưởng rõ rệt, thể hiện: năm 2006 tăng 140 tỷ, tăng 17,6% so với năm 2005; năm 2007 tăng 107 tỷ, tăng 11,5% so với năm 2006. Quy mô cho vay đối với DNV&N của Sở đều tăng qua các năm chứng tỏ rằng Sở đã quan tâm đến vai trò của các DNV&N trong nền kinh tế và nguồn vốn của Sở ngày càng tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, tỷ trọng cho vay trung, dài hạn vẫn còn khiêm tốn đã phần nào phản ánh đầu tư của Sở cho các DNV&N trong việc cải tiến, mở rộng, nâng cao trình độ công nghệ, năng lực sản xuất, trang thiết bị máy móc… vẫn còn hạn chế. Về mặt dài hạn, điều này có thể ảnh hưởng không tốt tới khả năng cạnh tranh về chất lượng hoạt động cho vay của Sở. 2.2.2. Chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ a. Tổng dư nợ cho vay đối với DNV&N Theo bảng 2.8 như đã phân tích ở trên, ta có thể thấy rằng hoạt động cho vay đối với DNV&N là một hoạt động quan trọng của Sở. Dư nợ cho vay đối với DNV&N luôn chiếm tỷ trọng cao (khoảng 60%) trong tổng dư nợ cho vay nền kinh tế. Năm 2007, dư nợ cho vay đối với DNV&N đạt 1.201 tỷ đồng. b. Thực trạng nợ quá hạn trong hoạt động cho vay DNV&N của Sở Có thể nói tỷ lện nợ quá hạn của NHTM là một tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng hoạt động cho vay của ngân hàng đó. Bảng 2.6 cho thấy trong những năm qua, tỷ lệ nợ quá hạn của Sở liên tục giảm và luôn ở mức thấp. Đó là do các CBTD của Sở đã thực hiện nghiêm túc quy trình tín dụng, liên tục kiểm tra, giám sát, đôn đốc khách hàng trong việc trả nợ vay và xử lý các khoản nợ tồn đọng bằng quỹ dự phòng rủi ro theo quy định và lựa chọn được những dự án vay vốn hiệu quả, có khả năng trả nợ ngân hàng. Bảng dưới đây cho thấy tình hình nợ quá hạn trong hoạt động cho vay DNV&N của Sở: Bảng 2.9: Nợ quá hạn của các DNV&N tại Sở giao dịch I (đơn vị: tỷ đồng) Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Tổng dư nợ cho vay DNV&N 1.112 1.185 1.201 Nợ quá hạn DNV&N 6 1,2 0 Nợ quá hạn/ Tổng dư nợ (%) 0,54 0,1 0 Khoản nợ quá hạn có khả năng thu hồi 2 0,5 0 Nợ quá hạn có khả năng thu hồi/ Nợ quá hạn (%) 33 41,7 0 (Nguồn: Báo cáo hoạt động tín dụng của Sở giao dịch I – Ngân hàng Công thương Việt Nam năm 2005, 2006, 2007) Qua số liệu trên, có thể thấy rằng tỷ lệ nợ quá hạn của các DNV&N của Sở là rất thấp. Dư nợ quá hạn của các DNV&N năm 2005 là 6 tỷ đồng, sang năm 2006 chỉ còn 1,2 tỷ đồng, giảm 4,8 tỷ (giảm 80%) và sang năm 2007 thì Sở không còn nợ quá hạn đối với DNV&N. Mặc dù tỷ lệ nợ quá hạn có khả năng thu hồi / Nợ quá hạn tăng từ năm 2005 sang năm 2006 nhưng về số tuyệt đối thì cả nợ quá hạn và nợ quá hạn có khả năng thu hồi đều giảm. Những tỷ lệ này là rất thấp và có xu hướng đi xuống chứng tỏ chất lượng cho vay đối với DNV&N của Sở giao dịch I trong những năm qua đang được cải thiện rõ rệt. c. Vòng quay vốn tín dụng Bảng 2.10: Vòng quay vốn tín dụng đối với DNV&N của Sở giao dịch I (đơn vị: tỷ đồng) Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Doanh số thu nợ DNV&N 1.072 1.218 1.160,2 Doanh số cho vay DNV&N 1.112 1.185 1.201 Vòng quay vốn tín dụng DNV&N 96,4 102,8 96,6 (Nguồn: Báo cáo hoạt động tín dụng của Sở giao dịch I – Ngân hàng Công thương Việt Nam năm 2005, 2006, 2007) Bảng trên cho thấy, vòng quay vốn tín dụng đối với DNV&N của Sở giao dịch luôn được duy trì ở mức cao, đặc biệt trong năm 2006 vòng quay vốn tín dụng của Sở vượt mức 100%. Điều này cho thấy chất lượng cho vay của Sở đang được cải thiện dần từng năm. Từ những phân tích trên, có thể thấy rằng chất lượng hoạt động cho vay đối với DNV&N của Sở trong 3 năm qua đang được cải thiện, là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm tăng lợi nhuận của Sở, góp phần đáng kể vào lợi nhuận hợp nhất toàn hệ thống Ngân hàng Công thương Việt Nam. 2.3. Đánh giá chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ 2.3.1. Kết quả đã đạt được Mặc dù hoạt động cho vay đối với DNV&N là một hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro, nhưng do thực hiện tốt quy trình tín dụng, công tác phân tích đánh giá khách hàng… trong 3 năm qua, hoạt động cho vay đối với DNV&N của Sở giao dịch I – Ngân hàng Công thương Việt Nam đã thu được những kết quả đáng khích lệ: Thứ nhất, Sở giao dịch I đã trở thành một địa chỉ tin cậy cho khách hàng. Nhận thức được vai trò của các DNV&N trong nền kinh tế, trong những năm qua Sở giao dịch I đã có những chính sách khuyến khích, thu hút khách hàng tiềm năng. Chính vì vậy mà dư nợ cho vay đối với DNV&N của Sở liên tục tăng trưởng. Thứ hai, bên cạnh sự tăng trưởng về quy mô hoạt động cho vay, chất lượng hoạt động này của Sở không ngừng được nâng cao. Tỷ lệ nợ quá hạn nói chung và tỷ lệ nợ quá hạn của các DNV&N nói riêng là rất thấp và có xu hướng giảm dần qua các năm và đặc biệt là không có dư nợ quá hạn mới phát sinh. Đến năm 2007, dư nợ quá hạn đối với DNV&N của Sở giao dịch đã giảm xuống bằng 0. Chất lượng cho vay được nâng cao cũng nâng cao uy tín của Sở và cải thiện mối quan hệ với các khách hàng tiềm năng. Thứ ba, là một ngân hàng hoạt động trên địa bàn thủ đô Hà Nội chịu sự cạnh tranh rất gay gắt từ phía các NHTM khác, đặc biệt là khối NHTM cổ phần nhưng bằng những nỗ lực chủ quan và chiến lược kinh doanh đúng đắn, chất lượng hoạt động cho vay được nâng cao góp phần làm cho lợi nhuận của Sở trong những năm qua luôn ở mức cao, đóng góp phần lớn vào lợi nhuận hợp nhất của toàn hệ thống Ngân hàng Công thương Việt Nam. 2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân 2.3.2.1. Hạn chế Chất lượng hoạt động cho vay đối với DNV&N của Sở giao dịch I – Ngân hàng Công thương Việt Nam trong những năm qua đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, trong hoạt động cho vay của Sở vẫn còn có những hạn chế cần phải khắc phục: - Thứ nhất, mặc dù tổng dư nợ cho vay đối với các DNV&N liên tục tăng trưởng nhưng dư nợ cho vay đối với DN ngoài quốc doanh dù có chiều hướng tăng lên nhưng chuyển biến chậm và vẫn chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng dư nợ. Đến năm 2007 là năm có dư nợ cho vay đối với DNV&N ngoài quốc doanh tăng rất cao thì con số này cũng mới chỉ là 37,3%. Đây là một yếu tố cần phải xem xét trong xu thế hiện nay. Cùng với xu thế cổ phần hóa các DN quốc doanh hiện nay là sự lớn mạnh của DN ngoài quốc doanh, nếu như lãnh đạo cũng như cán bộ tín dụng của Sở không kịp thời thay đổi nhận thức thì rất có thể sẽ tự thu hẹp thị phần cho vay, gây ảnh hưởng đến chất lượng cho vay và lợi nhuận kinh doanh của Sở. - Thứ hai,hoạt động cho vay đối với DNV&N của Sở chủ yếu vẫn là cho vay ngắn hạn, cho vay trung, dài hạn vẫn chỉ chiếm một tỷ trọng rất khiêm tốn và có xu hướng giảm dần. Như ta đã biết, hoạt động cho vay đầu tư đối với DN có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế. Thông qua quá trình đầu tư, mở rộng sản xuất làm cho DN tạo thêm công ăn việc làm, tăng khả năng cạnh tranh của DN. Mặt khác, việc duy trì tỷ trọng cho vay ngắn hạn cao cũng ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của Sở vì cho vay trung, dài hạn mang lại lợi nhuận cho Sở cao hơn. Thêm vào đó, thúc đầy việc cho vay trung, dài hạn về lâu dài sẽ gắn kết mối quan hệ giữa DN và ngân hàng; đồng thời cũng góp phần tăng trưởng dư nợ cho vay ngắn hạn vì DN mở rộng sản xuất sẽ phát sinh nhu cầu về vốn lưu động tăng thêm. - Thứ ba, quy mô hoạt động cho vay của Sở giao dịch I mặc dù trong những năm qua đã có những bước tăng trưởng đáng khích lệ nhưng vẫn chưa tương xứng với tiềm năng huy động vốn của Sở. Tỷ lệ tổng dư nợ cho vay DNV&N/Tổng vốn huy động trong 3 năm từ 2005 - 2007 chỉ dao động trong khoảng 16-18%. Đây thực sự là một tỷ lệ sử dụng vốn rất thấp. - Thứ tư, quy trình xét duyệt cho vay đối với DNV&N của Sở vẫn còn chưa phù hợp. Hiện nay, quy trình cho vay DNV&N của Sở vẫn áp dụng theo một quy trình chung như cho vay đối với các loại hình DN khác. Điều này đôi khi không phù hợp với đặc điểm của DNV&N hoặc gây phức tạp đối với hoạt động kinh doanh của các DN này. Mặt khác, thực hiện theo cơ chế tín dụng mới của Ngân hàng Nhà nước và Ngân hàng Công thương Việt Nam, nhiều DN không đủ điều kiện để Sở cho vay. Các DN Nhà nước chuyển đổi sang Công ty cổ phần, Nhà nước nắm cổ phần chi phối, tài sản thế chấp chưa đủ điều kiện pháp lý nên rất khó khăn trong việc nhận tài sản đảm bảo tiền vay. Từ đó làm ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động cho vay của Sở đối với loại hình DN này. 2.3.2.2. Nguyên nhân Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những hạn chế trong hoạt động cho vay của Sở giao dịch I – Ngân hàng Công thương Việt Nam là: a. Nguyên nhân chủ quan - Thứ nhất, mặc dù trong những năm gần đây chính sách cho vay của Sở đã có sự thông thoáng hơn nhưng yêu cầu đặt ra đối với các DN ngoài quốc doanh vẫn còn chưa hợp lý. Yêu cầu phải có tài sản đảm bảo luôn là một điều kiện đối với các DNV&N ngoài quốc doanh và tâm lý e dè khi xem xét cho vay đối với các DN này làm cho các DN này rất khó vay vốn ngay cả khi phương án sản xuất kinh doanh của DN là rất khả thi, có hiệu quả cao. Thêm vào đó, các cán bộ Sở chưa chú ý đúng mức đến những dự án vay vốn trung, dài hạn của DNV&N, chưa tin tưởng vào những dự án sản xuất kinh doanh của các DNV&N ngoài quốc doanh. - Nguyên nhân thứ hai là cán bộ tín dụng của Sở giao dịch. Trong tình hình đổi mới phức tạp như hiện nay, yêu cầu đối với đội ngũ cán bộ rất cao. Cán bộ tín dụng không những phải nắm bắt chuyên môn nghiệp vụ mà còn phải hiểu khách hàng, hiểu được thực lực tài chính của khách hàng, nắm rõ tư cách đạo đức của từng người vay. Hơn nữa, cán bộ tín dụng còn phải có một sự hiểu biết nhất định về thị trường và lĩnh vực khách hàng mình đang kinh doanh. Những yêu cầu đặt ra khá cao này không phải cán bộ tín dụng nào cũng đáp ứng được. Hiện nay, Sở đang phải chấp nhận một thực trạng là chất lượng CBTD chưa đồng đều, trình độ một số CBTD chưa đáp ứng được thực tế công việc, khả năng phân tích, đánh giá khách hàng, phân tích tài chính, phân tích tình hình sản xuất kinh doanh… còn yếu kém. Tình trạng này khiến cho các cán bộ không giám ra quyết định cho vay, thiếu sự chủ động. - Thứ ba là Sở giao dịch I chưa đẩy mạnh công tác Marketing đối với các hoạt động cho vay, chưa có biện pháp tích cực để lôi cuốn, hấp dẫn khách hàng mới. Các thông tin thu thập về thị trường, về khách hàng còn thiếu và chưa thường xuyên. Hiện nay, Sở giao dịch chưa có một bộ phận thu thập, quản lý thông tin khách hàng, đánh giá khách hàng độc lập dựa trên những thông tin thu thập được. Do đó, thông tin về khách hàng vẫn còn thiếu, chưa chính xác. Việc thu thập thông tin khách hàng hiện nay của Sở vẫn do các CBTD đảm nhiệm cùng với việc thẩm định khoản vay. Bên cạnh việc thu thập thông tin từ phía doanh nghiệp, các CBTD vẫn đi thu thập thông tin từ các ngân hàng khác, các đối tác khác mà đôi khi là không thể thu thập được vì họ giữ bí mật về khách hàng. Điều này ít nhiều gây quá tải cho các CBTD và ảnh hưởng đến chất lượng của các khoản vay. b.Nguyên nhân từ phía doanh nghiệp - Thứ nhất, các DNV&N thường thiếu các dự án mang tính khả thi cao. Hầu hết các DNV&N, do trình độ cán bộ còn yếu kém nên dẫn đến việc không giải đáp được những thắc mắc từ phía ngân hàng hay không xây dựng được phương án sản xuất kinh doanh có tính thuyết phục để ngân hàng có thể cho vay. - Thứ hai, một số DNV&N chưa chấp hành nghiêm chỉnh các quy định về kế toán doanh nghiệp, số sách ghi chép còn lộn xộn, thiếu khoa học gây khó khăn cho cán bộ ngân hàng trong công tác kiểm tra. Thậm chí còn có những DN làm giả báo cáo tài chính, báo cáo sai sự thật với ngân hàng để được vay vốn. Chính những yếu tố này gây tâm lý e ngại trong hoạt động cho vay của Sở, đặc biệt là các khoản vay trung, dài hạn. - Thứ ba, các DNV&N thường không đảm bảo được các điều kiện về tài sản đảm bảo để vay vốn ngân hàng. Rất nhiều DNV&N không có đủ tài sản thế chấp để vay vốn, hoặc tài sản đảm bảo không đủ điều kiện pháp lý hoặc giá trị tài sản đảm bảo không đáp ứng được yêu cầu của ngân hàng… dẫn đến việc khó vay vốn ngân hàng. Và đặc biệt trong những trường hợp không trả được nợ thì ngân hàng cũng rất khó khăn trong việc phát mại tài sản thế chấp. c. Các nguyên nhân khách quan khác: - Thứ nhất là tốc độ tăng trưởng nhanh về số lượng các DNV&N. Hiện nay, tốc độ tăng trưởng trung bình về số lượng các DNV&N vào khoảng 30%/năm. Với tốc độ phát triển nhanh chóng như vậy trong khi điều kiện của Sở không đủ đáp ứng về số lượng cán bộ cũng như trình độ của đội ngũ nhân viên nên dẫn đến tình trạng là không đáp ứng được hết nhu cầu vay vốn thực tế của DNV&N. - Thứ hai là môi trường pháp lý chưa đồng bộ, các thủ tục hành chính còn phức tạp. Hệ thống giấy tờ về quyền sở hữu tài sản, quyền sử dụng đất và bất động sản còn phức tạp, thiếu thống nhất làm cho DNV&N gặp khó khăn trong việc thế chấp vay vốn ngân hàng. Bên cạnh đó, vẫn còn thiếu các văn bản pháp lý hướng dẫn cụ thể thực hiện Luật Doanh nghiệp 2005. Điều này đã gây trở ngại cho DN trong hoạt động sản xuất kinh doanh, ảnh hưởng đến khả năng vay vốn ngân hàng của DN. Tóm lại, hoạt động cho vay đối với DNV&N của Sở giao dịch I – Ngân hàng Công thương Việt Nam trong những năm qua đã góp phần quan trọng vào hoạt động sử dụng vốn và chiếm một tỷ trọng không nhỏ trong lợi nhuận hàng năm của Sở. Tuy nhiên, những vấn đề còn tồn tại trong hoạt động cho vay đối với DNV&N cần phải được xem xét cẩn trọng để có những giải pháp khắc phục kịp thời, không ngừng củng cố nâng cao chất lượng hoạt động này của Sở trên địa bàn Hà Nội cũng như trên toàn quốc. Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Sở giao dịch I 3.1. Định hướng hoạt động cho vay của Sở giao dịch I trong những năm tới 3.1.1. Nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam Nền kinh tế nước ta trong những năm qua tăng trưởng tương đối ổn định, là điều kiện thuận lợi cho các DN mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Đồng thời, Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế cùng phát triển trên cơ sở cạnh tranh bình đẳng. Số lượng các doanh nghiệp mới thành lập ngày càng nhiều và tăng trưởng nhanh chóng mà chủ yếu là các DNV&N. Các DN này chiếm một số lượng đông đảo và đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế. Các DN vừa và nhỏ chịu sự giới hạn về vốn, trình độ công nghệ thấp, trang thiết bị lạc hậu, thiếu đồng bộ… nên dẫn đến việc các DNV&N gặp khó khăn trong việc sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, khả năng cạnh tranh và chiếm lĩnh thị trường kém… Đặc biệt, trong xu thế toàn cầu hóa và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, khi mà Việt Nam đã gia nhập AFTA, hiệp định thương mại song phương Việt Nam – Hoa Kỳ có hiệu lực từ 2001 và trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO thì các DNV&N trong nước nếu không nâng cao được khả năng cạnh tranh, cải thiện tình hình sản xuất kinh doanh thì rất khó có thể đứng vững trước sức ép cạnh tranh từ bên ngoài. Chính vì thế, trong những năm tới nhu cầu vay vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh, đổi mới trang thiết bị, nâng cao năng lực cạnh tranh của các DN này là rất lớn. Nhằm đạt mục tiêu phát triển kinh tế giai đoạn 2005 – 2010 thì định hướng phát triển DNV&N trong thời gian tới được xác định như sau: - Một là: Hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ là một nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta. Doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động trong nhiều lĩnh vực sản xuất kinh doanh, có ưu thế là tạo được nhiều công ăn việc làm. Điều này hết sức quan trọng đối với một nước đang phát triển có tiềm năng về lao động nhưng cũng lại là một gánh nặng đối với xã hội như Việt Nam. Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ vừa góp phần thu hút thêm lao động, giảm sức ép về việc làm, tăng thêm thu nhập để cải thiện đời sống cho người lao động; vừa góp phần sử dụng tốt hơn nguồn lực sẵn có của nền kinh tế là lao động, tạo tiền đề cho các giai đoạn phát triển về sau. Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng là một cơ hội cho các nhà đầu tư tự huy động vốn của mình và những người khác để tham gia vào kinh doanh. Đây cũng là một biện pháp nhằm làm tăng tỷ lệ tích lũy của nền kinh tế để đạt được các mục tiêu tăng trưởng kinh tế. - Hai là: Doanh nghiệp vừa và nhỏ cần được ưu tiên phát triển trong một số ngành nghề có lựa chọn là: Các ngành sản xuất hàng tiêu dùng, hàng thay thế nhập khẩu và hàng xuất khẩu có khả năng cạnh tranh. Các ngành tại đầu vào cho các doanh nghiệp lớn, cũng như trong các lĩnh vực phục vụ đầu ra cho các sản phẩm của doanh nghiệp lớn (tức là phân phối sản phẩm, chế biến sâu…). Các ngành thuộc lĩnh vực công nghiệp nông thôn, bao gồm các sản phẩm thuộc các ngành nghề truyền thống . - Ba là: Doanh nghiệp vừa và nhỏ được khuyến khích phát triển trong một số ngành nhất định mà doanh nghiệp lớn không có lợi thế tham gia. - Bốn là: Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trong mối liên kết chặt chẽ với các doanh nghiệp lớn. Mối liên kết chặt chẽ phải được thể hiện qua các khía cạnh sau: Phân công chuyên môn hóa giữa doanh nghiệp vừa và nhỏ với doanh nghiệp lớn sao cho có hiệu quả. Doanh nghiệp vừa và nhỏ vừa tạo đầu vào vừa góp phần tạo đầu ra cho các doanh nghiệp lớn. Doanh nghiệp lớn hỗ trợ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ về đào tạo tay nghề, trao đổi thông tin, chuyển giao công nghệ và kinh nghiệm quản lý. Giao thầu lại cho doanh nghiệp vừa và nhỏ những phần việc trong những hợp đồng lớn mà các doanh nghiệp lớn ký kết với Nhà nước. - Năm là: Nên có một khu công nghiệp tập trung ở các thành phố lớn dành riêng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Kinh nghiệm ở các nước cho thấy, sự ra đời của các khu công nghiệp vừa và nhỏ tập trung sẽ có một số tác dụng sau: Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ về cơ sở hạ tầng: điện, nước, thông tin liên lạc, tiếp cận thị trường, giải quyết khó khăn về mặt bằng sản xuất cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhà nước dễ dàng thực hiện chính sách ưu đãi và tiến hành hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ nằm trong khu công nghiệp. Như vậy, có thể nói rằng trong những năm tới bên cạnh số lượng các DNV&N đã thành lập (khoảng 300.000 DN) thì sẽ có rất nhiều các DNV&N được thành lập ở tất cả các ngành nghề. Vì thế, nên nhu cầu vay vốn của các đối tượng này trong tương lai là rất lớn, và là một nhu cầu bức xúc đối với nền kinh tế. Tại Sở giao dịch I – Ngân hàng Công thương Việt Nam, hoạt động cho vay đối với DNV&N đã và đang được chú ý, và tầm quan trọng của loại hình DN này cũng đang ngày càng được nâng cao. Nhận thức của Sở về đối với các DNV&N mà nhất là các DN ngoài quốc doanh đã có những thay đổi theo chiều hướng tích cực và Sở cũng đã và đang từng bước thay đổi cho phù hợp định hướng cho vay đối với loại hình doanh nghiệp này. 3.1.2. Định hướng hoạt động cho vay DNV&N của Sở giao dịch I – Ngân hàng Công thương Việt Nam Nhận thấy được xu hướng và diễn biến của nền kinh tế trong những năm tới, Ban Giám Đốc Sở giao dịch I – Ngân hàng Công thương Việt Nam đã đề ra định hướng trong hoạt động của Sở trong thời gian tới như sau: 1. Đẩy mạnh các biện pháp huy động vốn, đặc biệt là nguồn tiền gửi dân cư. Duy trì ổn định khách hàng gửi tiền truyền thống, chú trọng khai thác nguồn vốn của các tổ chức kinh tế, đoàn thể xã hội, đơn vị sự nghiệp có thu, tạo ra nhiều kênh huy động vốn mới, cơ cấu cân đối, ổn định. Đặc biệt quan tâm việc nâng cao chất lượng phục vụ, cải tiến thủ tục giao dịch nhanh chóng, chính xác, an toàn. Chủ động nắm bắt tình hình kinh doanh, kế hoạch sử dụng vốn và nhu cầu sử dụng các sản phẩm dịch vụ, lãi suất, phí dịch vụ… của khách hàng, để thực hiện chính sách tiếp thị, khuyến mãi linh hoạt, phù hợp và hấp dẫn khách hàng gửi tiền, ổn định và tăng cường huy động vốn. 2. Tăng trưởng tín dụng trong tầm kiểm soát, đảm bảo an toàn, hiệu quả. Căn cứ vào định hướng của NHCT, chương trình phát triển kinh tế Hà Nội và diến biến của thị trường để cho vay đúng hướng. Đẩy mạnh cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, kinh tế tư nhân, cá thể, hộ gia đình sản xuất. Tiếp tục bổ sung tài sản đảm bảo vốn vay, nâng tỷ trọng dư nợ có tài sản đảm bảo lên 50% tổng dư nợ cho vay. Nâng cao năng lực thẩm định, kiểm tra, giám sát tín dụng và quản lý rủi ro để đảm bảo an toàn và hiệu quả tiền vay, không phát sinh nợ xấu. Tiếp tục làm việc với các cơ quan chức năng để xử lý thu hồi các khoản nợ tồn đọng cũ. 3. Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng của các sản phẩm dịch vụ, nhằm tạo được sự khác biệt của sản phẩm và có tính cạnh tranh cao. Áp dụng linh hoạt biểu phí dịch vụ nhằm thu hút khách hàng. Đẩy mạnh phát triển thẻ ATM và đẩy mạnh các giá trị gia tăng cho sản phẩm thẻ. 4. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, chú trọng đào tạo chuyên sâu theo từng loại nghiệp vụ, trong đó tăng cường đào tạo tại chỗ. Làm tốt công tác quy hoạch cán bộ, đánh giá sử dụng cán bộ phù hợp với năng lực để phát huy tác dụng tốt. Xây dựng văn hoá kinh doanh công sở nhằm nâng cao uy tín và thương hiệu của Ngân hàng công thương Việt Nam. 5. Tiếp tục củng cố và mở rộng mạng lưới kinh doanh. Trang bị đầy đủ phương tiện làm việc phù hợp với từng nghiệp vụ, trên cơ sở tiết kiệm chi phí. Cải tạo khang trang sạch đẹp các điểm giao dịch. Tích cực tìm kiếm địa điểm thích hợp để mở rộng mạng lưới, phát triển các sản phẩm dịch vụ ngân hàng. 6. Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát đảm bảo an toàn mọi mặt hoạt động. Kết hợp nhiều hình thức kiểm tra định kỳ, đột xuất, phát hiện và chấn chỉnh kịp thời những sai sót, nâng cao ý thức chấp hành cơ chế, quy trình nghiệp vụ. Trên cơ sở định hướng hoạt động của Sở, Ban Giám Đốc đã đề ra phương hướng hoạt động cho vay đối với DNV&N như sau: - Tiếp cận, rà soát, phân loại DNV&N, đáp ứng kịp thời nhu cầu phát triển sản xuất kinh doanh, làm tốt công tác tiếp thị để thu hút khách hàng, tăng cơ cấu tỷ trọng dư nợ DN ngoài quốc doanh. - Mở rộng đối tượng khách hàng Đối với các DN xuất khẩu có quy mô vừa và nhỏ, ưu tiên tập trung vào các lĩnh vực hàng thủ công mỹ nghệ, nông sản xuất khẩu. Các DN sản xuất có quy mô vừa và nhỏ, đặc biệt quan tâm đến lĩnh vực chế biến nông lâm, sản xuất hàng tiêu dùng có chất lượng cao, lắp ráp và chế tạo các phương tiện vận tải. - Tiếp tục tăng trưởng dư nợ lành mạnh, an toàn, hiệu quả, nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư. - Công tác quản trị rủi ro phải được đặc biệt chú ý và xây dựng theo định hướng của một ngân hàng hiện đại. - Thực hiện tốt chính sách khách hàng dựa trên cơ sở lãi suất linh hoạt, khái thác các nguồn vốn có chi phí thấp, nhất là nguồn vốn của DN. - Các quy chế tín dụng cần phải được củng cố và hoàn thiện, tiếp tục cải tiến quy trình tín dụng cho phù hợp với thực tế hoạt động cho vay DNV&N của Sở. - Nâng cao chất lượng của đội ngũ CBTD làm công tác cho vay thông qua việc tuyển dụng, đào tạo lại, tập huấn… để nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động cho vay của Sở. 3.2. Các giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Sở Trên cơ sở nhận xét, phân tích về vai trò của DNV&N trong nền kinh tế, cũng như thực trạng hoạt động cho vay đối với DNV&N tại Sở giao dịch I – Ngân hàng Công thương Việt Nam, em xin đề xuất một số giải pháp sau: 3.2.1. Thiết lập chính sách cho vay hợp lý & xây dựng quy trình cho vay riêng đối với các DNV&N Chính sách cho vay là một hệ thống các nguyên tắc cơ bản nhằm mở rộng và đảm bảo an toàn trong hoạt động cho vay của ngân hàng. Chính sách cho vay là cơ sở tham khảo cho các CBTD thực hiện công việc trong quyền hạn của mình. Chính sách cho vay của Sở nên đề ra quy trình cụ thể trong việc kiểm tra, giám sát hoạt động cho vay, xây dựng mục tiêu hoạt động cho vay hợp lý theo định hướng phát triển của nền kinh tế. Bên cạnh đó, Sở cần phải xây dựng quy trình cho vay riêng đối với các DNV&N. Theo số liệu thống kê của Tổng cục thống kê, đến cuối năm 2007, các DNV&N chiếm khoảng 96% tổng số DN trên cả nước, đóng góp 42% vào GDP. Với mức tăng trưởng trung bình dự kiến trong những năm tới đạt mức 30%/năm làm cho nhu cầu vay vốn phát triển sản xuất kinh doanh của các DN này gia tăng mạnh mẽ. Thêm vào đó, hoạt động cho vay đối với DNV&N là một hoạt động chính trong việc sử dụng vốn và mang lại lợi nhuận không nhỏ cho Sở.Chính vì thế mà Sở cần phải xây dựng quy trình cho vay riêng đối với các DNV&N trong những năm tới. 3.2.2. Đổi mới cơ cấu huy động vốn Vốn huy động của ngân hàng chưa được sử dụng có hiệu quả tối đa. Tỷ lệ Dư nợ/ Tổng vốn huy động trong 3 năm đều không vượt quá 20%. Lý giải cho vấn đề này là tỷ trọng tiền gửi doanh nghiệp trong tổng vốn huy động của Sở chiếm tỷ trọng lớn, mà đây là một nguồn không thích hợp để cho vay của ngân hàng như đã nói ở trên. Cũng bởi vì tỷ trọng tiền gửi doanh nghiệp lớn mà đây là một nguồn không có tính ổn định, nên ảnh hưởng trực tiếp đến việc cho vay đối với DNV&N. Như đã phân tích ở trên, có đến 70-80% dư nợ cho vay đối với DNV&N là dư nợ ngắn hạn, còn dư nợ trung, dài hạn chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ so với mục tiêu đề ra của Ngân hàng Công thương Việt Nam là gần 40%. Trong những năm tới, Sở giao dịch I cần đổi mới cơ cấu nguồn vốn huy động theo hướng giảm tỷ trọng tiền gửi doanh nghiệp, tăng tỷ trọng nguồn vốn huy động trung, dài hạn từ trong dân cư và các thành phần kinh tế để gia tăng nguồn vốn có thể cho vay trung, dài hạn của Sở. Qua đó có thể mở rộng được Dư nợ cho vay đối với nền kinh tế nói chung và dư nợ đối với các DNV&N nói riêng. 3.2.3. Đa dạng hóa các loại tài sản đảm bảo tiền vay Trong những năm tới, Sở giao dịch I cần thiết phải từng bước đa dạng hóa các loại tài sản đảm bảo tiền vay nhằm tạo điều kiện nâng cao khả năng đáp ứng tài sản đảm bảo cho DN vay vốn. Ngân hàng có thể xem xét chấp nhận toàn bộ hoặc chấp nhận từng phần các loại tài sản đảm bảo là bất động sản và các tài sản gắn liền với đất đai. Ngoài các tài sản đảm bảo thông thường, Sở cũng nên mở rộng việc nhận thế chấp đối với các loại tài sản khác như các giấy tờ trị giá bằng tiến, cổ phiếu, trái phiếu… Từng bước mở rộng đối tượng tài sản đảm bảo theo hướng: giá trị của tài sản đảm bảo đủ lớn để thực hiện nghĩa vụ bảo đảm; tài sản đảm bảo có khả năng thanh khoản tốt và có cơ sở pháp lý, thuận tiện cho ngân hàng trong việc xử lý. Việc đa dạng các loại hình tài sản đảm bảo sẽ tháo gỡ cho các doanh nghiệp nhất là các DNV&N trong việc vay vốn ngân hàng. Sử dụng hình thức tài sản đảm bảo thích hợp và các biện pháp, nghiệp vụ cho vay để tạo điều kiện cho các DNV&N có dự án, phương án sản xuất kinh doanh khả thi, làm ăn đứng đắn dễ dàng tiếp cận nguồn vốn ngân hàng và thúc đẩy nghĩa vụ trả nợ của khách hàng. 3.2.4. Hình thành trung tâm thông tin tín dụng riêng đối với hoạt động cho vay của Sở giao dịch Một thực trạng trong hoạt động cho vay đối với các CBTD của Sở giao dịch I là việc các CBTD bên cạnh việc phân tích, đánh giá khách hàng vẫn phải thực hiện công việc thu thập thông tin về khách hàng. Điều này đôi khi làm cho công tác thu thập thông tin không được tốt, chất lượng thông tin đầu vào không được như ý làm ảnh hưởng đến công tác phân tích, đánh giá khách hàng. Việc hình thành một trung tâm thông tin tín dụng riêng đối với hoạt động cho vay của Sở có tác dụng làm tăng chất lượng thông tin về khách hàng. Trung tâm thông tin tín dụng có chức năng thu thập thông tin cả về khách hàng cũ và khách hàng mới từ phía chính khách hàng, các cơ quan chủ quản, các công ty kiểm toán… cung cấp thông tin đầu vào cho công việc phân tích của các CBTD. Đồng thời, trung tâm thông tin tín dụng cũng thực hiện lưu trữ thông tin về khách hàng vay vốn của ngân hàng; phân tích, đánh giá và xếp loại khách hàng và lưu trữ để phục vụ cho những khoản vay sau của khách hàng. Việc xây dựng một trung tâm thông tin tín dụng như thế sẽ duy trì chất lượng thông tin đầu vào cho CBTD, góp phần nâng cao chất lượng cho vay của ngân hàng. 3.2.5. Nâng cao chất lượng cán bộ tín dụng Một trong những yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động cho vay của ngân hàng là yếu tố con người. Muốn nâng cao được chất lượng thẩm định dự án, phương án vay vốn của khách hàng Sở cần phải có một đội ngũ cán bộ tín dụng giỏi, được đào tạo có hệ thống, am hiểu và có kiến thức phong phú về thị trường, nắm vững những văn bản pháp luật có liên quan đến hoạt động tín dụng… Muốn vậy, Sở cần quan tâm thích đáng đến việc đào tạo và đào tạo lại cán bộ, coi đào tạo là một trong những nhhiệm vụ quan trọng hàng đầu để xây dựng nên một đội ngũ cán bô có đủ trình độ chuyên môn, có hiểu biết về quy trình, kỹ thuật thẩm định dự án, phương án vay vốn của khách hàng, biết thu thập xử lý các thông tin cần thiết, có hiểu biết nhất đinhhj về tình hình kinh tế xã hội trong nước cũng như quốc tế để đáp ứng được đòi hỏi ngày càng cao của hoạt động Ngân hàng. Ngoìa ra, Ngân hàng cũng nên thường xuyên giáo dục về tư tưởng, phẩm chất đạo đức đối với đội ngũ cán bộ tín dụng, tránh tình trạng một số cán bộ tín dụng tha hoá về đạo đức, thiếu tinh thần trách nhiệm, không trung thực hoặc cầu kết với doanh nghiệp lừa đảo chiếm đoạt vốn vay Ngân hàng… làm thất thoát tiền của của Nhà nước và nhân dân. 3.3. Kiến nghị 3.3.1. Đối với Ngân hàng Công Thương Việt Nam Là cơ quan chỉ đạo, điều hành; trong những năm tới Ngân hàng Công thương Việt Nam cần thiết phải quan tâm hơn nữa đến việc nâng cao chất lượng hoạt động cho vay đối với các DNV&N, thể hiện: - NHCT cần xây dựng và có những hướng dẫn riêng, cụ thể hơn về chính sách cho vay đối với các DNV&N. Chính sách cho vay này phải phù hợp với thực trạng và đặc điểm của các DNV&N trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Bên cạnh đó, cần phải có một chương trình phối hợp giữa Sở và các chi nhánh trong việc triển khai cho vay đối với các DNV&N, qua đó có thể trao đổi kinh nghiệm, thông tin và hỗ trợ nhau trong công tác theo dõi, quản lý doanh nghiệp. - NHCT cần thành lập ra một phòng hay một tổ quản lý chuyên biệt chuyên quản lý hoạt động cho vay đối với các DNV&N. Bộ phận này có nhiệm vụ xây dựng tiêu chuẩn cho vay và có nhiệm vụ kiểm tra thường xuyên hoạt động cho vay đối với các DNV&N trong toàn hệ thống. - NHCT nên thường xuyên tổ chức các chương trình hội thảo, các lớp tập huấn về nghiệp vụ cho vay đối với các DNV&N cho cán bộ tín dụng trong toàn hệ thống. Thông qua các chương trình này, cán bộ tín dụng sẽ có được một cái nhìn toàn diện hơn và nâng cao kỹ năng quản lý, kỹ năng phân tích của mình. Bên canh đó, để không ngừng nâng cao chất lượng cán bộ làm công tác cho vay, Sở cũng nên tạo điều kiện hơn nữa về thời gian và vật chất cho các cán bộ tham gia các chương trình đào tạo trong nước và quốc tế. - NHCT cần hoàn thiện và phát triển hơn nữa mạng lưới thông tin về các DNV&N để các chi nhánh có thể tham khảo thêm thông tin trước khi ra quyết định cho vay. Nguồn thông tin cần phải đảm bảo tính chính xác, đầy đủ và kịp thời. Trước mắt nên phối hợp với một số đơn vị có nhiều thông tin và kinh nghiệm trong lĩnh vực này như: VCCI, MPDF… trong việc trao đổi, thu thập thông tin về các DNV&N. 3.3.2. Đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Tại Việt Nam, cũng như ở nhiều nước khác trên thế giới, các DNV&N hoạt động trong môi trường chính sách và pháp lý thích hợp sẽ đóng vai trò rất quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Bên cạnh vai trò và tiềm năng rất to lớn của mình trong việc sản xuất hàng hoá, máy móc, thiết bị để phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng và nhun cầu sản xuất của xã hội, nhất là cho các ngành sản xuất hàng tiêu dùng và các ngành thủ công nghiệp, các DNV&N còn góp phần tạo ra công ăn việc làm cho một số lượng lớn người lao động, tạo ra được sự phát triển cân đối giữa các vùng kinh tế… Chính vì vậy hoạt động của các doanh nghiệp này cần phải có sự quan tâm, phối hợp và giúp đỡ nhiều hơn nữa của Nhà nước, các cơ quan hữu quan và chính quyền địa phương. Dưới đây là một số kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước nhằm tạo ra điều kiện hơn nữa cho các DNV&N phát huy vai trò phát huy tầm quan trọng của mình trong nền kinh tế xã hội, đồng phần góp phần ngăn ngừa được những nguy cơ rủi ro trong hoạt động cho vay đối với các doanh nghiệp này. - Ngân hàng Nhà nước cần ban hành các văn bản hướng dẫn việc thi hành Luật và các văn bản khác một cách rõ ràng, chính xác và hạn chế sự thay đổi trong một thời gian ngắn. - Cần áp dụng một cách linh hoạt những công cụ như: lãi suất tái chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn, nghiệp vụ thị trường mở… để điều tiết cung cầu tiền tệ trên thị trường và những diễn biến bất thường của lãi suất. Tránh tình trạng để nền kinh tế bị “khát” vốn hay bị “đóng băng” về vốn, đồng thời tránh sự can thiệp quá sâu về mặt kỹ thuật nghiệp vụ của Ngân hàng Nhà nước vào hoạt động của các NHTM. - Cần có một quy chế cho vay và quy chế miễn giảm lãi áp dụng riêng đối với các DNV&N để các NHTM có căn cứ cụ thể hơn nữa trong việc thực hiện cho vay đối với loịa hình doanh nghiệp này. - Ngân hàng Nhà nước cần sớm đưa quỹ bảo lãnh tín dụng cho các DNV&N đi vào hoạt động. Hiện nay, quỹ này đã được thành lập. Theo quy định thì nguồn vốn chủ yếu của quỹ này do các NHTM đóng góp. Chính vì vậy rất khó triển khai vì các NHTM không thực sự thấy được sự cần thiết của quỹ này, đồng thời ý nghĩa của việc bảo lãnh cũng mất đi khi các NHTM phải bỏ tiền ra để bảo lãnh cho chính các khoản cho vay của mình. Ngân hàng Nhà nước cần có những quy định cụ thể về mức bảo lãnh đối với mỗi NHTM căn cứ vào mức độ đóng góp vào quỹ. Trước mắt nên trích một phần từ quỹ dự trữ bắt buộc của các NHTM để tạo nguồn cho quỹ này. Còn về lâu dài, Ngân hàng Nhà nước cần có kiến nghị với Chính phủ về việc cho phép giữ lại một phần thuế thu nhập của các NHTM để bổ sung cho quỹ bảo lãnh tín dụng cho các DNV&N. - Ngân hàng Nhà nước cần nâng cao chất lượng công tác thanh tra, giám sát các NHTM trong hoạt động cho vay nhất là cho vay đối với các DNV&N. Hoạt động này có thể được tiến hành theo phương thức giám sát từ xa hay kiểm tra tại chỗ. Bên cạnh việc tìm ra những bất cập trong hoạt động cho vay của các NHTM, công tác thanh tra còn phải nêu lên những kiến nghị, giải pháp để tháo gỡ, sửa chữa cho các NHTM để từ đó nâng cao được chất lượng quản lý của NHTM trong việc cho vay, hạn chế và ngăn ngừa rủi ro trong kinh doanh ngân hàng. Để làm tốt công tác này, Ngân hàng Nhà nước cũng cần phải nâng cao chất lượng đội ngũ công tác làm thanh tra, tránh một tình trạng phổ biến hiện nay là một số cán bộ có trình độ chuyên môn thấp khi vào thanh tra NHTM không phát hiện được những nguy cơ tiềm ẩn rủi ro của các món vay hay của khách hàng vay. Một số khác do không nắm chắc quy trình cho vay và các văn bản có liên quan hiện hành nên đưa ra những đòi hỏi, yêu cầu không cần thiết, không sát với thực tế, không tập trung thanh tra vào nội dung chủ yếu của công tác cho vay, dẫn đến hiệu quả của công tác thanh tra, giám sát chưa cao. - Cuối cùng, Ngân hàng Nhà nước cần thiết phải đẩy mạnh và nâng cao hơn nữa vai trò của trung tâm thông tin tín dụng trong hoạt động ngân hàng. Kinh nghiệm ở các quốc gia cho thấy những nước nào có hệ thống thông tin tín dụng phát triển thì tại nước đó sẽ có nhiều DN và cá nhân tiếp cận được nhiều nguồn tài chính. Chính vì vậy mà vai trò của thông tin tín dụng đối với hoạt động ngân hàng là vô cùng quan trọng và phát triển ở nhiều nước trên thế giới. Trung tâm thông tin tín dụng là tổ chức trung gian đứng ra thu thập, cung cấp và chia sẻ thông tin cho các tổ chức tín dụng. Việc chia sẻ thông tin sẽ ngăn chặn những khách hàng xấu tiếp cận tín dụng. Đồng thời, nó cũng giúp các khách hàng tốt có nhiều cơ hội tiếp cận với nguồn tín dụng với mức lãi suất thấp hơn do giảm chi phí điều tra thông tin. Qua đó giúp các tổ chức tín dụng có thể tăng trưởng dư nợ, và giúp các cá nhân, doanh nghiệp tiếp cận tín dụng một cách dễ dàng. Ở Việt Nam, trung tâm thông tin tín dụng (CIC) trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được thành lập từ năm 1999. Là một tổ chức thông tin tín dụng công, CIC có 02 chức năng chủ yếu sau: Thu thập thông tin tín dụng về người vay từ các tổ chức tín dụng và cung cấp thông tin trở lại cho các tổ chức tín dụng để phục vụ hoạt động kinh doanh. Cung cấp thông tin tín dụng cho Ngân hàng Nhà nước để đưa ra các quy định về giám sát các tổ chức tín dụng nhằm góp phần đảm bảo an toàn, phát triển bền vững hệ thống ngân hàng Việt Nam. Cho đến thời điểm 31/12/2007, hệ thống thông tin tín dụng Ngân hàng Nhà nước đã thu thập được 8.867 nghìn hồ sơ khách hàng cả khách hàng cá nhân và khách hàng doanh nghiệp có quan hệ tín dụng tại các tổ chức tín dụng. Hình 3.1: Tăng trưởng hồ sơ thông tin khách hàng tại trung tâm thông tin tín dụng – Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (Nguồn: thông tin NHCT Việt Nam số 03/2008) Trong 3 năm trở lại đây, tăng trưởng hồ sơ tín dụng khách hàng tại CIC tăng với tốc độ rất nhanh. Năm 2005, mức tăng trưởng là 865 nghìn hồ sơ, tăng 142% so với năm 2004. Năm 2006, mức tăng trưởng là 4.022 nghìn hồ sơ, tăng 272,8% so với năm 2005. Và đến năm 2007 thì mức tăng trưởng là 3.371 nghìn hồ sơ, đạt mức tăng 61,3% so với năm 2006. Như vậy, từ năm 2004 đến hết năm 2007, số lượng hồ sơ khách hàng tại CIC đã tăng 14,6 lần. Đây thực sự là một nỗ lực đáng kể của trung tâm thông tin tín dụng trong việc thu thập và cung cấp thông tin cho các tổ chức tín dụng trong nền kinh tế. Tuy nhiên, hiện nay với tốc độ tăng trưởng của ngành ngân hàng ước tính là 30%/năm cùng với tốc độ tăng trưởng chóng mặt về khách hàng của các tổ chức tín dụng trong nền kinh tế; thì vai trò cũng như nhiệm vụ của trung tâm thông tin tín dụng CIC trong những năm tới là hết sức nặng nề. Để xây dựng hệ thống thông tin tín dụng lớn, phục vụ đắc lực cho hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước cần thiết phải có những biện pháp sau đối với các tổ chức tín dụng: Yêu cầu các đơn vị phải khai báo thông tin khách hàng theo đúng quy định của Ngân hàng Nhà nước. Yêu cầu việc khai thác, sử dụng thông tin tín dụng trong việc thực hiện cấp tín dụng là một điều kiện bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng. Hoàn thiện, đổi mới hệ thống công nghệ thông tin, cơ sở dữ liệu nhằm quản lý tốt hơn việc thu thập và cung cấp thông tin hồ sơ khác hàng đến các tổ chức tín dụng hoạt động trên cả nước. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, nhân lực và tăng cường các kênh cung cấp thông tin của trung tâm thông tin tín dụng CIC, mở rộng hệ thống này trên cả nước. KẾT LUẬN Trong điều kiện nền kinh tế thị trường chiếm đa số là các Doanh nghiệp vừa và nhỏ như hiện nay thì nhu cầu vốn tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh là rất lớn. Điều đó mở ra những cơ hội thuận lợi cho hệ thống ngân hàng trong việc phát triển hoạt động cho vay. Tuy nhiên, hoạt động nào cũng đều có những mặt thuận lợi và khó khăn nhất định. Do đó, để phát triển hoạt động cho vay đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ, Sở Giao dịch 1 – Ngân hàng Công thương Việt Nam không thể chỉ quan tâm đến việc mở rộng, nâng cao doanh số cho vay mà còn phải đặc biệt quan tâm đến việc nâng cao chất lượng hoạt động cho vay đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ. Qua quá trình thực tập, tìm hiểu, nghiên cứu thực trạng hoạt động của Sở Giao dịch 1 – Ngân hàng Công thương Việt Nam, em đã hoàn thành đề tài “Nâng cao chất lượng hoạt động cho vay đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Sở Giao dịch 1 – Ngân hàng Công thương Việt Nam”. Với sự cố gắng nỗ lực của bản thân, cùng sự giúp đỡ nhiệt tình của Giáo viên hướng dẫn và các cán bộ Tín dụng tại đơn vị thực tập, chuyên đề đã giải quyết được các yêu cầu sau: - Nêu lên một số cơ sở lý luận về hoạt động cho vay và chất lượng hoạt động đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ. Từ đó, vận dụng phân tích làm rõ vấn đề nghiên cứu - Tìm hiểu hoạt động kinh doanh của Sở Giao dịch 1 - Ngân hàng Công thương Việt Nam: về lịch sử hình thành, các lĩnh vực hoạt động, kết quả kinh doanh trong 3 năm 2005, 2006 và 2007 - Đi sâu phân tích hoạt động cho vay đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm đánh giá thực trạng và tìm ra nguyên nhân của những mặt hạn chế. - Đề xuất những giải pháp cụ thể nhằm nâng cao chất lượng hoạt động cho vay đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Sở giao dịch I. Mặc dù đã cố gắng, song do trình độ hiểu biết, kinh nghiệm thực tế và thời gian nghiên cứu còn hạn hẹp, nên luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong sẽ nhận được sự tận tình góp ý, chỉ bảo của Thầy cô và các bạn có quan tâm đến đề tài này. Em xin chân thành cảm ơn. Sinh viên Đồng Duy Lâm DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình Ngân hàng Thương mại, PGS.TS Phan Thị Thu Hà – NXB Thống Kê 2006. Nghiệp vụ Ngân hàng hiện đại, TS Nguyễn Minh Kiều – NXB Thống Kê 2007. Cẩm nang quản lý tín dụng ngân hàng, Viện nghiên cứu khoa học ngân hàng – NXB Thống Kê 1998. Giải pháp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam, GS.TS Nguyễn Đình Hương – NHB Chính trị Quốc gia 2002. Quản trị Ngân hàng thương mại, Peter Rose 2004. Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính, Frederic S.Mishkin – NXB Khoa học kỹ thuật 1994. Thông tin tín dụng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, số 21-27 Luật doanh nghiệp 2005, luật các tổ chức tín dụng 2004, luật ngân hàng Nhà nước 1998 và các văn bản luật của Ngân hàng Nhà nước và những hướng dẫn của Ngân hàng Công thương Việt Nam. Các báo cáo tổng kết hoạt động của Sở giao dịch I – Ngân hàng Công thương Việt Nam các năm 2005, 2006 và 2007. Các trang web: www.sbv.gov.vn www.hasmea.org www.vneconomy.vn MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc11946.doc
Tài liệu liên quan