Chuyên đề Nâng cao hiệu quả hoạt động bảo lãnh tại chi nhánh ngân hàng thương mại cổ phần Bắc Á chi nhánh Hàng Đậu

Bảo lãnh là một nghiệp vụ ngân hàng hiện đại, cho đến này nó dần khẳng định tầm quan trọng của mình với bản thân ngân hàng nói riêng và với nền kinh tế nói chung. Nằm trong hoạt động kinh doanh chung của ngân hàng, bảo lãnh có ảnh hưởng rất nhiều đến các dịch vụ khác của ngân hàng, và chúng có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau. Nếu nghiệp vụ bảo lãnh được thực hiện tốt một mặt nó thúc đẩy các hoạt động khác của ngân hàng phát triển, góp phần nâng cao uy tín, vị thế của ngân hàng trên thị trường, một mặt nó làm tăng thu nhập cho ngân hàng thông qua phí bảo lãnh. Nói cách khác, bảo lãnh là chất xúc tác quan trọng cho sự phát triển của nền kinh tế.

doc92 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1372 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Nâng cao hiệu quả hoạt động bảo lãnh tại chi nhánh ngân hàng thương mại cổ phần Bắc Á chi nhánh Hàng Đậu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lãnh), năm 2005 đạt 5.09 tỷ đồng ( chiếm 14.08% tổng dư nợ), năm 2006 đạt 5.32 tỷ đồng , chiếm 13.14% tổng dư nợ. Tuy giá trị hợp đồng của mỗi món bảo lãnh không lớn, song dư nợ loại bảo lãnh này đều tăng qua các năm, đó là do nhu cầu đầu tư XDCB trong nước tăng cao, các dự án xây dựng được triển khai xây dựng nhiều… làm cho số món bảo lãnh tăng cao kéo theo doanh số loại bảo lãnh này tăng cao. Với loại bảo lãnh này, phí bảo lãnh thu về trên mỗi món là không lớn ( do nó có giá trị nhỏ). Tuy nhiên, đây là một loại bảo lãnh khá an toàn do nó có thời gian ngắn, tỷ lệ trúng thầu của các doanh nghiệp được ngân hàng bảo lãnh cao nên khả năng phải trả nợ thay là rất thấp, hầu như không xảy ra qua các năm. Bảo lãnh thanh toán: Đây là loại bảo lãnh chiếm tỷ trọng cao thứ hai ( sau bảo lãnh thực hiện hợp đồng) trong tổng dư nợ bảo lãnh. Năm 2005 đạt 7,06 tỷ đồng, chiếm 21,90% trong tổng dư nợ, năm 2006 đạt 8,05 tỷ đồng chiếm 22,26% tổng dư nợ, năm 2007 đạt 9,05 tỷ đồng chiếm 22,36% tổng dư nợ. Tuy loại bảo lãnh này vẫn chiếm tỷ trọng cao trong tổng dư nợ bảo lãnh và con số này vẫn tăng qua các năm. Nhưng tốc độ tăng chậm và có xu hướng giảm vào năm 2008. Điều này cho thấy, tỷ trọng của các loại bảo lãnh khác đang có xu hướng tăng nhanh hơn loại bảo lãnh này. Bảo lãnh bảo hành. Đây là loại bảo lãnh có doanh số thấp và biến động thất thường qua các năm. Năm 2005, đạt 2,92 tỷ đồng chiếm 9,05% tổng dư nợ bảo lãnh, năm 2006 tăng lên 3,10 tỷ đồng nhưng tỷ trọng trong tổng dư nợ bảo lãnh lại giảm chỉ còn chiếm 8,57 %. Năm 2007, dư nợ loại bảo lãnh này giảm còn 3,04 tỷ đồng chiếm 7,51% ( giảm 1,94% so với năm 2006). Đây là một loại hình bảo lãnh mà phạm vi và đối tượng áp dụng của nó không lớn như các loại bảo lãnh khác. Hầu hết mục đích của loại bảo lãnh này là nhằm bảo lãnh đảm bảo cho chất lượng công trình xây dựng đang thi công hoặc đã hoàn thành và đang khảo nghiệm chất lượng của các khách hàng của ngân hàng. Hiện nay, ở hầu hết các NHTM nói chung, dư nợ loại bảo lãnh này không lớn do nhu cầu về loại bảo lãnh này không cao. Tuy nhiên, về lâu dài thì đây là một loại bảo lãnh hứa hẹn nhiều tiềm năng phát triển. Bảo lãnh khác: là những loại bảo lãnh chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng dư nợ bảo lãnh của ngân hàng, là những loại bảo lãnh có số món cũng như có giá trị nhỏ, khách hàng không có nhu cầu nhiều, thường xuyên. Các loại bảo lãnh này bao gồm: bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh mở L/C trả chậm, bảo lãnh đối ứng, bảo lãnh hoàn thanh toán… Tuy chiếm tỷ trọng nhỏ, nhưng dư nợ các loại bảo lãnh này tăng đều qua các năm. Tốc độ tăng của các loại bảo lãnh này tuy không cao, không có sự tăng đột biến, nhưng ổn định. Đặc biệt gần đây, NASB Hàng Đậu mới phát hành thêm một loại bảo lãnh khác: cam kết cho vay vốn. Làm cho dư nợ loại bảo lãnh này tăng cao, tốc độ tăng mạnh hơn so với những năm trước. 2.4.3.2 Theo thời gian bảo lãnh. Bảng 2.5: Dư nợ bảo lãnh theo thời gian Đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Số tiền % Số tiền % Số tiền % Ngắn hạn 29,65 92 31,1 86 38,04 94 Trung và dài hạn 2,58 8 5,06 14 2,43 6 Tổng 32,23 100 36,16 100 40,47 100 ( Nguồn: Báo cáo tình hình bảo lãnh trong nước của NASB Hàng Đậu) Nhìn vào bảng số liệu ta thấy bảo lãnh ngắn hạn chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng dư nợ bảo lãnh: Năm 2005 chiếm 92% (đạt 29,65 tỷ đồng), năm 2006 tỷ trọng này giảm xuống còn 86%, nhưng đến năm 2007 thì dư nợ bảo lãnh ngắn hạn lại tăng vọt ( chiếm 94%). Năm 2006 tỷ trọng bảo lãnh trung và dài hạn tăng lên nguyên nhân là do các món bảo lãnh năm 2005 chưa hết hạn mà lại phát sinh thêm một số món bảo lãnh khác trong năm 2006. Điều này làm cho dư nợ loại bảo lãnh này tăng vọt so với năm 2005. Nhưng đến năm 2007, dư nợ bảo lãnh trung và dài hạn lại giảm xuống chỉ còn 2,43 tỷ đồng ( chiếm 6% tổng dư nợ bảo lãnh). Điều này là do các món bảo lãnh phát sinh năm 2006 đã hết hiệu lực và ngân hàng không tìm kiếm được các món bảo lãnh mới làm cho dư nợ loại bảo lãnh này trong năm 2007 giảm hẳn so với năm 2006. Bảo lãnh ngắn hạn là loại bảo lãnh có thời hạn bảo lãnh dưới 12 tháng. Loại bảo lãnh này giúp cho ngân hàng giảm thiểu được nhiều rủi ro hơn so với bảo lãnh trung và dài hạn bởi vì thời gian càng dài thì rủi ro xảy ra đối với người được bảo lãnh càng lớn. Trong nền kinh tế thị trường luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro như hiện nay, các yếu tố về thị trường như sự biến động của tỷ giá, lãi suất, lạm phát, chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước… có tác động trực tiếp đến tình hình sản xuất kinh doanh của người được bảo lãnh, làm tăng rủi ro không thực hiện được cam kết với người thụ hưởng. Điều đó làm nảy sinh rủi ro thanh toán thay của ngân hàng. Ngoài ra, thời gian càng dài bảo lãnh còn chịu tác động của các yếu tố bất khả kháng như: thiên tai, lũ lụt, hạn hán… điều này làm gián đoạn quá trình sản xuất kinh doanh của người được bảo lãnh, dẫn đến rủi ro cho ngân hàng. Do luôn tiềm ẩn rủi ro, nên bảo lãnh trung và dài hạn đòi hỏi công tác thẩm định khách hàng phải được tiến hành chính xác, nhanh chóng phản ánh đúng tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng xin bảo lãnh. Đa số các món bảo lãnh của ngân hàng thường là bảo lãnh dự thầu ( giá trị mỗi món bảo lãnh thấp nhưng số món bảo lãnh lại cao) và bảo lãnh thực hiện hợp đồng. Những loại bảo lãnh này có thời hạn ngắn: bảo lãnh dự thầu thường kéo dài từ 1-3 tháng kể từ khi khách hàng nhận được thư mời thầu đến khi kết thúc phiên đấu thầu; tiếp theo là bảo lãnh thực hiện hợp đồng, thời gian bảo lãnh được xác định trong hợp đồng bảo lãnh căn cứ vào thời gian ký hợp đồng kinh tế đến khi giao hàng hoặc đến khi hoàn thành công trình. Ngược lại, trong bảo lãnh trung và dài hạn thì bảo lãnh bảo hành chiếm vị trí áp đảo các loại bảo lãnh khác với thời gian thường >12 tháng, Đây chủ yếu là loại bảo lãnh bảo đảm chất lượng các công trình đã hoặc đang thi công thuộc lĩnh vực đầu tư XDCB. Đối tượng khách hàng trong bảo lãnh ngắn hạn chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế ngoài quốc doanh còn khách hàng là doanh nghiệp nhà nước chiếm tỷ trọng rất nhỏ . Mặc dù, hoạt động bảo lãnh là hoạt động mang nhiều rủi ro, nhưng trong thời gian qua, với khả năng phân tích , thẩm định khách hàng khá tốt, NASB Hàng Đậu đã không phát sinh dư nợ bảo lãnh quá hạn cũng như những món bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ thay. Đây chính là một thành quả khả quan để chi nhánh tiếp tục phát huy và nâng cao hiệu quả hoạt động bảo lãnh trong thời gian tới. 2.4.4. Đánh giá chung về hoạt động bảo lãnh tại NASB Hàng Đậu 2.4.4.1. Những kết quả đạt được Bảo lãnh là một nghiệp vụ ngân hàng hiện đại và còn rất mới mẻ với hầu hết các NHTM Việt Nam. Hiện nay, loại hình hoạt động này chỉ được triển khai ở những ngân hàng lớn, có uy tín không chỉ ở thị trường trong nước mà còn phải có uy tín ở thị trường nước ngoài. Với vai trò là một chi nhánh cấp 1 quan trọng của NASB, hơn nữa lại được đóng trên một địa bàn trọng yếu về kinh doanh, thương mại, dịch vụ, hoạt động bảo lãnh được thực hiện ở NASB Hàng Đậu từ những năm đầu thành lập. Cho đến nay, chi nhánh đã gặt hái được những thành quả nhất định từ hoạt động dịch vụ mới mẻ này. Những kết quả đạt được của NASB Hàng Đậu: Dư nợ bảo lãnh qua các năm tăng trưởng đều đặn, ngày càng xuất hiện những hợp đồng bảo lãnh có giá trị lớn, số lượng các món bảo lãnh nhiều, có nhiều món bảo lãnh có nhân tố nước ngoài tham gia. Điều này đã khẳng định được uy tín của ngân hàng trên thị trường trong nước và quốc tế. Dư nợ từ hoạt động bảo lãnh tăng lên làm cho doanh thu từ hoạt động này cũng tăng lên. Góp một phần đáng kể vào doanh thu từ hoạt động dịch vụ của ngân hàng: Năm 2005 thu từ hoạt động bảo lãnh chiếm 14% tổng nguồn thu từ hoạt động dịch vụ của ngân hàng, năm 2006, chiếm 20%. Đến năm 2007, nguồn thu đã chiếm 1/3 tổng nguồn thu từ hoạt động dịch vụ. Điều này cho thấy, phí bảo lãnh là một nguồn thu quan trọng của chi nhánh. Vì vậy, khai thác và tận dụng hết tiềm năng và thế mạnh của các loại bảo lãnh nhằm tăng thu phí bảo lãnh là một nhiệm vụ hết sức quan trọng trong chiến lược phát triển và mở rộng hoạt động này của chi nhánh. Hoạt động bảo lãnh làm phong phú thêm hoạt động dịch vụ của chi nhánh. Không chỉ có vậy, nó còn góp phần quan trọng trong việc hỗ trợ các hoạt động khác như: tín dụng, huy động vốn… cùng phát triển. Tạo một điều kiện tốt trong việc xây dựng mối quan hệ khách hàng lâu dài làm cho công tác thẩm định trước khi cấp tín dụng cũng đơn giản hơn. Đồng thời, đi kèm với việc cấp bảo lãnh, khách hàng phải có xây dựng tài khoản tại ngân hàng, ký quỹ. Đây chính là một nguồn vốn quan trọng, ổn định với chi phí rẻ mà ngân hàng cần phải hết sức quan tâm. Hoạt động bảo lãnh của ngân hàng cũng là một nguồn tài trợ vốn quan trọng cho khách hàng. Thông qua bảo lãnh của ngân hàng, khách hàng có thể tìm được một nguồn tài trợ khách với chi phí rẻ, giúp khách hàng không bị bỏ lỡ cơ hội kinh doanh, đẩy nhanh tốc độ chu chuyển, lưu thông hàng hoá. Từ đó, làm động lức thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Trong những năm qua, hoạt động bảo lãnh đã đem về cho ngân hàng những khoản thu nhập ổn định và an toàn. Cho đến nay, chi nhánh đã không để phát sinh một khoản thanh toán hộ nào. Điều này chứng tỏ chất lượng bảo lãnh không ngừng được nâng lên để đối phó với nhiều loại rủi ro đang tiềm ẩn trong nền kinh tế thị trường. 2.4.4.2 Để có được những kết quả trên là do: a) Nhân tố khách quan: Nền kinh tế nước ta đang bước vào giai đoạn mở cửa, giao lưu thương mại giữa các quốc gia, giữa các đại lục, châu lục được lưu thông. Đây là một nhân tố quan trọng góp phần thúc đẩy hoạt động bảo lãnh ngân hàng phát triển. Nhờ có nhân tố này mà hoạt động bảo lãnh của ngân hàng được vươn tầm ra phạm vi quốc tế. Đặc biệt, do được đặt trụ sở trên một địa bàn trọng yếu, nơi mà giao lưu thương mại, dịch vụ, kinh doanh diễn ra sôi động nhất trên địa bàn Hà Nội. Điều này cũng góp phần làm cho hoạt động bảo lãnh của ngân hàng được tăng trưởng mạnh mẽ trong thời gian qua. b)Về nhân tố chủ quan: hoạt động bảo lãnh của một ngân hàng có phát triển hay không phụ thuộc phần lớn vào chính sách của ngân hàng đó. Trong thời gian gần đây, do nắm bắt được nhu cầu của thị trường cũng như biết được thế mạnh của mình là một ngân hàng lớn, uy tín, NASB đã có chính sách đưa hoạt động bảo lãnh dần trở thành một hoạt động kinh doanh chiến lược của ngân hàng. Hơn thế nữa, chi nhánh đã mạnh dạn trong việc mở rộng đối tượng khách hàng, đó là những doanh nghiệp nhỏ và vừa, những doanh nghiệp chưa có nhiều uy tín trên thị trường nhưng có tiềm năng phát triển trong tương lai. Đây chính là những đối tượng cần bảo lãnh của ngân hàng nhiều nhất và đem lại cho ngân hàng những khoản phí nhiều nhất. Ngoài ra, để hạn chế tối thiểu rủi ro có thể xảy ra, NASB đã xây dựng một quy trình nghiệp vụ bảo lãnh thống nhất, đơn giản nhưng hiệu quả, góp phần tiết kiệm thời gian, chi phí cho khách hàng mà vẫn đảm bảo chất lượng của những món bảo lãnh. Ngân hàng có cơ sở vật chất hiện đại, làm cho thời gian xử lý hồ sơ, cũng như giải toả hồ sơ diễn ra nhanh chóng: đến ngày hết hạn ghi trên hợp đồng, bảo lãnh tự giải toả trên hệ thống máy tính. Bên cạnh đó, nhân tố con người được ngân hàng đặc biệt quan tâm, cán bộ tín dụng của chi nhánh được đào tạo chuyên sâu về nghiệp vụ, cùng với việc phục vụ khách hàng một cách tận tình.Nhờ đó mà hoạt động bảo lãnh trong thời gian qua ở chi nhánh tăng trưởng nhanh chóng. Bên cạnh đó, hình thức quản lý phân tổ, mỗi chuyên viên tín dụng phụ trách một nhóm khách hàng nhất định giúp cho việc tìm hiểu về doanh nghiệp là khá sâu sát, giảm thiểu được rủi ro. Mặt khác, biểu phí bảo lãnh của ngân hàng được xây dựng mang tính cạnh tranh. Đối với những khách hàng quen, uy tín, ngân hàng áp dụng mức phí bảo lãnh thấp( nhằm giữ chân khách hàng). Đối với những doanh nghiệp nhỏ và vừa, chưa có nhiều uy tín trên thị trường, ngân hàng cũng thu mức phí thấp hơn biểu phí của các ngân hàng khác, cũng như yêu cầu mức ký quỹ vừa phải. Tạo điều kiện cho doanh nghiệp, cũng như xây dựng mối quan hệ lâu dài với khách hàng. 2.4.4.3. Những hạn chế & nguyên nhân a) Những hạn chế Bên cạnh những kết quả đã đạt được, hiện nay việc thực hiện hoạt động bảo lãnh của chi nhánh vẫn còn rất nhiều những khó khăn, hạn chế. Những khó khăn, hạn chế này đã cản trở chiến lược phát triển hoạt động bảo lãnh của chi nhánh Hàng Đậu nói riêng và của toàn hệ thống NASB nói chung. Điều này được thể hiện ở những điểm sau: Về loại hình bảo lãnh: Các loại hình bảo lãnh mà ngân hàng cung cấp tuy nhiều, nhưng số lượng khách hàng có nhu cầu lại quá thấp, chủ yếu tập chung vào các loại bảo lãnh như: bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng. Còn các loại bảo lãnh khác chiếm tỷ trọng rất nhỏ và hầu như chưa được hiện. Nguyên nhân là do khách hàng đề nghị xin bảo lãnh của ngân hàng chủ yếu trong lĩnh vực xây dựng và kinh doanh máy móc, nên nhu cầu về các loại bảo lãnh khác hầu như không có. Về mức bảo lãnh và phí bảo lãnh của ngân hàng: Theo quy định của NHNN, mức bảo lãnh tối đa đối với một khách hàng là 15% vốn tự có của ngân hàng. Điều này đã cản trở việc cấp bảo lãnh cho khách hàng của các NHTM nói chung và của NASB nói riêng. Để có thể đáp ứng những hợp đồng bảo lãnh có giá trị lớn, các ngân hàng thường sử dụng hình thức đồng bảo lãnh với các ngân hàng khác. Song, các doanh nghiệp lại không thích việc sử dụng hình thức đồng bảo lãnh vì họ sẽ phải chịu mức phí cao, thủ tục phức tạp. Như vậy, họ sẽ tìm đến những ngân hàng lớn hơn, có thể đáp ứng hợp đồng bảo lãnh cho họ. Điều đó cũng có nghĩa là ngân hàng đã để “ mất” khách hàng- người mà có thể xây dựng quan hệ lâu dài, có khả năng thu được thu nhập từ phí cao và các quan hệ tín dụng khác. Hơn thế nữa, việc sử dụng biểu phí dịch vụ quá cứng nhắc cũng là một hạn chế lớn trong việc mở rộng hoạt động bảo lãnh của ngân hàng. Về bản chất, phí bảo lãnh được xác định dựa vào chất lượng khoản tín dụng, chi phí về thông tín, chi phí để thẩm định chất lượng khoản bảo lãnh. Như vậy, những khách hàng lớn, uy tín, có dự án kinh doanh khả thi, thì hoàn toàn có thể áp dụng mức phí ưu đãi nhằm khuyến khích đầu tư phát triển, tạo dựng và giữ gìn mối quan hệ khách hàng truyền thống. Chi phí vốn để đầu tư về cơ bản bao gồm chi phí trả lãi vay cộng với phí bảo lãnh. Nếu phí này quá cao sẽ không hấp dẫn được đầu tư. Về quy trình bảo lãnh: Quy trình bảo lãnh là một yếu tố quan trọng trong việc mở rộng hoạt động bảo lãnh ở chi nhánh. Một quy trình bảo lãnh đầy đủ, nhanh gọn sẽ hỗ trợ đắc lực cho cán bộ tín dụng dụng việc cấp dịch vụ bảo lãnh cho khách hàng. Vừa đảm bảo tính cạnh tranh cho sản phẩm dịch vụ của ngân hàng vừa đảm bảo an toàn cho hoạt động bảo lãnh của ngân hàng. Hiện nay, với thực trạng của các doanh nghiệp Việt Nam là báo cáo tài chính không rõ ràng, đã làm khó khăn cho cán bộ tín dụng trong việc tìm hiểu, phân tích năng lực khách hàng, khó cấp hạn mức bảo lãnh cho khách hàng. Ngoài ra, thông tin về thị trường không chính xác, không được cập nhật dẫn đến đánh giá sai năng lực thực sự của doanh nghiệp. Quy trình bảo lãnh của NASB có thể nói là khá rõ ràng, song việc xem xét hồ sơ bảo lãnh và phê duyệt các khoản bảo lãnh phải qua nhiều cấp… Vấn đề này có ảnh hưởng tới tâm lý của khách hàng, họ có thể bỏ lỡ cơ hội kinh doanh và ảnh hưởng tới hoạt động SXKD của khách hàng. Về tài sản đảm bảo cho khoản bảo lãnh: NASB quá coi trong tài sản đảm bảo, xem tài sản đảm bảo là công cụ tiên quyết, công cụ duy nhất đảm bảo cho khả năng thu hồi nợ nếu có rủi ro xảy ra mà không quan tâm đến năng lực tài chính của khách hàng. Đây là một hạn chế lớn, ngăn cản sự tham gia giao dịch của những doanh nghiệp lớn, uy tín và các doanh nghiệp nhỏ, không có tài sản đảm bảo. Làm mất cơ hội kinh doanh thu lợi nhuận của những doanh nghiệp này. Về dư nợ bảo lãnh và thu nhập từ bảo lãnh: Mặc dù dư nợ bảo lãnh đã có sự tăng trưởng hàng năm, song nó vẫn chỉ chiếm một tỷ lệ khá nhỏ trong hoạt động tín dụng, chưa đáp ứng được nhu cầu của khách hàng cũng như nhu cầu của thị trường. Về năng lực cán bộ công nhân viên ngân hàng: Hiện nay, chi nhánh chưa có phòng ban chuyên thực hiện việc cấp dịch vụ bảo lãnh cho khách hàng. Mà hoạt động này chủ yếu do cán bộ phòng tín dụng thực hiện, họ là những người trẻ nên kinh nghiệm và chuyên môn hạn chế là điều khó tránh khỏi. Mặt khác, một số cán bộ còn chưa được đào tạo bài bản về nghiệp vụ đặc biệt là nghiệp vụ bảo lãnh nên khả năng phân tích và theo rõi khách hàng còn yếu và chưa sát với thực tế b) Nguyên nhân của những hạn chế trên * Nguyên nhân khách quan Môi trường pháp lý: Hiện nay các văn bản pháp lý về bảo lãnh còn chưa hoàn thiện, chưa điều chỉnh hết những vấn đề phát sinh trong nghiệp vụ bảo lãnh. Hiện nay chỉ có một số văn bản pháp luật điều chỉnh việc thực hiện hoạt động bảo lãnh tại các NHTM, song các văn bản này lại thường xuyên thay đổi gây khó khăn cho ngân hàng và khách hàng khi thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh. Chẳng hạn như quyết định 283 vừa ra đời năm 2000 thay thế cho quyết định 196/QĐ-NH14 ngày 16/09/2004 về quy chế nghiệp vụ bảo lãnh thì đến năm 2001 đã xuất hiện quyết định 386/2001/QĐ-NHNN về việc sửa đổi một số điều trong quyết 283. Những thay đổi nhanh chóng như vậy có thể làm cho cả ngân hàng và khách hàng nhầm lẫn trong khi thực hiện hoạt động bảo lãnh. Đây chính là một khó khăn lớn cản trở việc mở rộng hoạt động bảo lãnh tại ngân hàng Môi trường kinh tế: Chi nhánh được đóng trên quận Hoàn Kiếm, đây là một địa bàn chủ yếu phát triển nhiều về kinh doanh thương mại, dịch vụ, xây dựng. Nên, việc phát triển các loại hình bảo lãnh như: bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh thanh toán… là điều đương nhiên. Hơn nữa, trong những năm gần đây, trên địa bàn số lượng doanh nghiệp không tăng mạnh như trước nữa, điều này cũng là một cản trở cho chi nhánh trong việc tìm kiếm những khách hàng mới. Môi trường chính trị: Sự biến động của tình hình chính trị bất ổn định trên thế giới cũng ảnh hưởng rất lớn đến việc mở rộng hoạt động bảo lãnh của ngân hàng. Tình hình chính trị đã làm cho các nhà đầu tư e ngại trong việc đầu tư mở rộng sản xuất. * Nguyên nhân chủ quan: Khách hàng của ngân hàng chủ yếu là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng trên địa bàn.Nguyên nhân là do các doanh nghiệp nhà nước thường đến giao dịch với các NHTM nhà nước, các doanh nghiệp nước ngoài thường đến giao dịch với các ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh. Ngân hàng chưa có chiến lược lôi kéo các đối tượng khách hàng này để nâng cao hiệu hoạt động bảo lãnh cho mình. Một phần cũng xuất phát từ nguyên nhân do chiến lược marketing quảng bá thương hiệu ngân hàng chưa được tiến hành tốt. Hiện nay, NASB chưa có phòng marketing và phát triển khách hàng, để chủ động tìm kiếm, mở rộng đối tượng khách hàng. Việc tư vấn quảng bá dịch vụ bảo lãnh mới chỉ dừng lại ở khâu tư vấn quy trình và thủ tục xin bảo lãnh, chưa đưa ra những chiến lược quảng bá sản phẩm dịch vụ hấp dẫn khách hàng, chưa đi sâu vào nghiên cứu nhu cầu khách hàng, phân loại khách hàng, tìm đặc điểm của từng nhóm khách hàng, giúp khách hàng hiểu được vai trò, lợi ích của bảo lãnh ngân hàng, khơi dậy nhu cầu bảo lãnh của khách hàng. Dẫn đến tình trạng loại bảo lãnh cung cấp thì nhiều nhưng sản phẩm khách hàng sử dụng được vẫn còn khiêm tốn Khâu thẩm định khách hàng trước khi cấp bảo lãnh chủ yếu dựa vào kinh nghiệm của cán bộ tín dụng, chưa có mô hình đánh giá mang tính chuẩn hoá chung cho tất cả các cán bộ tín dụng. Hơn nữa, phần lớn cán bộ tín dụng còn rất trẻ, thiếu kinh nghiệm, quá trình thẩm định chủ yếu dựa vào tài sản đản bảo, ít quan tâm đến tính khả thi của dự án và tình hình tài chính của khách hàng, nên nghiệp vụ bảo lãnh còn tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Đặc biệt, nếu như tài sản đảm bảo có giá trị giảm theo thời gian, thì khi rủi ro xảy ra, ngân hàng có nguy cơ không thu hồi được số tiền đã thanh toán thay khách hàng. Như vậy, chất lượng bảo lãnh của ngân hàng là không cao, sẽ ảnh hưởng đến việc mở rộng hoạt động bảo lãnh của ngân hàng. Cơ chế, chính sách của ngân hàng đối với cán bộ công nhân viên là chưa hợp lý. Chưa có chế độ khen thưởng hợp lý đối với những cán bộ tín dụng có thành tích tốt, như vậy đã kìm hãm sự phát triển nguồn lực của ngân hàng. Mặc dù, hoạt động bảo lãnh tại chi nhánh trong thời gian qua đã đựoc chú trọng, xong vẫn chưa có sự quan tâm đúng mức. Bằng chứng là, hiện nay chi nhánh vẫn chưa có phòng thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh riêng, mà hoạt động bảo lãnh đều do cán bộ tín dụng thực hiện. Điều này làm cho các cán bộ tín dụng “ quá tải” đối với một khối lượng khách hàng lớn, bao gồm tất cả các hoạt động tín dụng như: cho vay, cho thuê, chiết khấu thương phiếu và bảo lãnh. Như vậy khó có thể phục vụ tốt khách hàng, cũng như làm cho thời gian cấp bảo lãnh kéo dài ảnh hưởng đến tình hình kinh doanh của khách hàng. NASB Hàng Đậu là một chi nhánh ngân hàng cấp 1. Do đó hạn mức tín dụng được cấp là thấp. Điều này cũng ảnh hưởng đến quy mô bảo lãnh của chi nhánh. Dẫn đến tình trạng, chi nhánh bị “ vuột” mất những khách hàng lớn, uy tín với hợp đồng bảo lãnh có giá trị cao. Với những tồn tại và khó khăn gặp phải, NASB Hàng Đậu cần phải giải quyết triệt để từng bước nhằm đưa hoạt động bảo lãnh trở thành một trong những hoạt động chủ yếu trong cơ cấu dịch vụ, đem lại lợi ích đúng với bản chất của hoạt động này. Bảo lãnh là một nghiệp vụ ngân hàng hiện đại, do vậy để có thể mở rộng và phát triển hoạt động này, NASB Hàng Đậu cần đưa ra những giải pháp để tháo gỡ và từng bước giải quyết những hạn chế trên. CHƯƠNG 3 GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH TẠI NGÂN HÀNG TMCP BẮC Á – CHI NHÁNH HÀNG ĐẬU 3.1. Định hướng phát triển nghiệp vụ bảo lãnh tại NASB 3.1.1. Định hướng phát triển chung của ngân hàng trong thời gian tới. Định hướng chiến lược phát triển của ngân hàng TMCP Bắc Á trong thời gian tới là: Tăng vốn điều lệ, xây dựng NASB trở thanh ngân hàng bán lẻ hiện đại; giữ vững kết quả đạt được, vững chắc trong tăng trưởng, đảm bảo khả năng thanh toán nhanh, tiếp tục đổi mới toàn diện, đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ ngân hàng với cơ cấu hợp lý, chất lượng tốt, không ngừng nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ theo đòi hỏi của cơ chế thị trường và lộ trình hội nhập quốc tế, tăng cường quản trị điều hành, nhằm từng bước cơ cấu lại hoạt động ngân hàng vững mạnh, từng bước hội nhập quốc tế. Trên cơ sở định hướng chiến lược của NASB, với thực trạng và khả năng của bản thân, NASB Hàng Đậu xác định chiến lược hoạt động trong thời gian tới: Trong năm 2008, cũng như những năm tiếp theo, NASB Hàng Đậu tiếp tục đổi mới giữ vững hoạt động, từng bước tăng trưởng vững chắc, nâng cao chất lượng hiệu quả, an toàn; tiếp tục mở rộng thị trường, mở rộng các hoạt động dịch vụ ngân hàng, xây dựng nguồn lực. Phấn đấu giữa vững vai trò chi nhánh có chất lượng tốt nhất trong hệ thống NASB và là ngân hàng vững mạnh trên địa bàn Hà Nội. Cụ thể, trong năm 2008 thực hiện những nhiệm vụ chủ yếu sau: Tổng tài sản tăng 25%-30%; Nguồn vốn huy động bình quân 30-35%; Dư nợ tăng 40%; Phát triển tín dụng với phương châm: nhanh, bền vững, an toàn và hiệu quả, luôn bảo đảm tỷ lệ nợ quá hạn chung dưới 2%; Thu dịch vụ ròng tăng 10%; Lợi nhuận trước thuế, vốn điều lệ chuyển cho hệ thống theo kế hoạch hội sở chính giao. Cùng với toàn hệ thống: Thực hiện dự án hiện đại hoá, trên cơ sở đó sử dụng có hiệu quả và phát triển các sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại nhằm nâng cao năng lực quản trị điều hành và hiệu quả hoạt động ngân hàng. Tiếp tục thực hiện đề án tái cơ cấu ngân hàng, lành mạnh hoá và nâng cao năng lực tài chính. Cải tiến, hoàn thiện, phát triển các quy trình nghiệp vụ theo hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9000:2001. Thực hiện đồng bộ các giải pháp về huy động vốn, tín dụng, dịch vụ…để tiếp tục chuyển dịch cơ cấu tài sản tạo cơ cấu hợp lý và hiệu quả; Thực hiện kiểm soát các hoạt động theo chương trình của ngân hàng TMCP Bắc Á. 3.1.2. Định hướng về nâng cao hiệu quả hoạt động bảo lãnh của ngân hàng trong thời gian tới. Trong hoạt động bảo lãnh, nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập, nâng cao khả năng cạnh tranh của chi nhánh, thời gian qua chi nhánh đã xác định hướng hoạt động và phát triển nghiệp vụ bảo lãnh như sau: Tiếp tục phát triển các loại hình bảo lãnh chủ yếu như: bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh bảo hành. đồng thời mở rộng các loại hình bảo lãnh mới nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu của khách hàng cũng như nhu cầu của thị trường. Tăng doanh số bảo lãnh cũng như thu nhập từ hoạt động bảo lãnh, nâng cao vị thế của hoạt động bảo lãnh trong các hoạt động dịch vụ của một ngân hàng trung gian. Từng bước nâng cao chất lượng bảo lãnh theo hướng đơn giản hoá thủ tục bảo lãnh nhưng vẫn đảm bảo an toàn trong hoạt động. Nâng cao trình độ của nhân viên thẩm định để giảm chi phí nghiệp vụ, tạo tính cạnh tranh đối với mức phí bảo lãnh. Thực hiện tốt chính sách khách hàng, chiến lược marketing để thu hút thêm khách hàng mới, đáp ứng kịp thời nhanh chóng nhu cầu của khách hàng, tạo quan hệ tín dụng lâu dài. 3.2.Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động bảo lãnh tại NASB Hàng Đậu. Bảo lãnh là một loại hình dịch vụ ngày càng khẳng định được thế đứng của mình trong cơ cấu hoạt động của ngân hàng. Nằm trong hoạt động kinh doanh chung của ngân hàng, hoạt động bảo lãnh có ảnh hưởng lớn đến các hoạt động khác của ngân hàng và giữa chúng có quan hệ mật thiết với nhau. Do vậy, việc nâng cao hiệu quả hoạt động bảo lãnh đối với chi nhánh trong thời gian này là rất quan trọng, đặt trong sự định hướng phát triển chung của toàn hệ thống NASB. Nghiệp vụ bảo lãnh nếu được thực hiện tốt sẽ thúc đẩy các hoạt động khác của ngân hàng phát triển, nâng cao uy tín và vị thế của ngân hàng, đồng thời giúp cho ngân hàng có thêm nguồn thu nhập ổn định từ khoản phí bảo lãnh. Với lợi ích to lớn mà nghiệp vụ này đem lại, thời gian qua chi nhánh đã và đang chú trọng đẩy mạnh hoạt động này bên cạnh các hoạt động kinh doanh truyền thống của ngân hàng. Với thực trạng bảo lãnh tại ngân hàng, với những khó khăn và vướng mắc đang gặp phải, và để hạn chế những yếu tố bất lợi có thể ảnh hưởng không tốt tới hoạt động này, đồng thời tận dụng cơ hội phát triển, NASB Hàng Đậu đã và đang tìm kiếm các giải pháp để thực định hướng mở rộng hoạt động bảo lãnh của chi nhánh mình. 3.2.1.Xây dựng chiến lược phát triển hoạt động bảo lãnh thích hợp trong từng giai đoạn phát triển. Chiến lược hay kế hoạch phát triển hoạt động bảo lãnh được coi là xương sống của hoạt động này. Chiến lược có phù hợp, hoạt động bảo lãnh mới đạt hiệu quả cao và từng bước nâng cao chất lượng bảo lãnh của chi nhánh. Trước hết, chi nhánh cần xây dựng chiến lược phát triển nghiệp vụ bảo lãnh có tính khả thi với các mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ cụ thể trong ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Những mục tiêu, nhiệm vụ đó phải phù hợp với khả năng thực tế của chi nhánh tránh tình trạng đề ra mục tiêu quá xa với với thực tế hoặc quá chung chung. Điều đó khiến cho việc thực hiện hoạt động bảo lãnh trong thực tế gặp khó khăn, dẫn đến không hoàn thành nhiệm vụ đề ra thậm trí làm cản trở sự phát triển của nghiệp vụ bảo lãnh. Đồng thời chiến lược đặt ra phải dựa trên những nghiên cứu nhu cầu, thị hiếu của thị trường. Đặc biệt là nhu cầu trên địa bàn hoạt động của ngân hàng, địa bàn Hàng Đậu. Cụ thể, mục tiêu, phương hướng phát triển phải dựa trên những tiêu chí sau: Về loại bảo lãnh: chi nhánh cần đưa ra những tỷ lệ tăng trưởng về số dư bảo lãnh hoặc doanh số bảo lãnh cho từng loại bảo lãnh cụ thể bao gồm cả những loại bảo lãnh đang được thực hiện tại chi nhánh như: bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh bảo hành và những loại bảo lãnh sẽ được thực hiện trong thời gian tới như: bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh L/C trả chậm… Về khách hàng: Cần xây dựng mục tiêu duy trì số lượng khách hàng truyền thống như: công ty Thành Nam, công ty Elin…đồng thời mở rộng đối tượng khách hàng ra những thành phần kinh tế khác như: các công ty liên doanh, công ty nước ngoài… Đây chính là những hợp đồng bảo lãnh có giá trị lớn, độ an toàn cao, đem khả năng đem nguồn thu lớn về cho ngân hàng. Sau khi đưa ra những mục tiêu, chiến lược phát triển nghiệp vụ bảo lãnh, chi nhánh cần tăng cường nguồn lực để thực hiện: Bổ xung cán bộ chuyên thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh, đồng thời, chi nhánh cần có những khuyến khích tài chính để kích thích cán bộ nghiệp vụ bảo lãnh hoàn thành tốt công việc như: thưởng thêm cho cán bộ nếu nghiệp vụ bảo lãnh an toàn, vượt kế hoạch đề ra,…hoặc chi nhánh có thể đề ra phương thức thưởng cho nhân viên một tỉ lệ phần trăm nhất định trên giá trị hợp đồng bảo lãnh đã kí kết. Với những khuyến khích như vậy sẽ khiến cho cán bộ bảo lãnh có động lực để làm việc từ đó góp phần phát triển nghiệp vụ bảo lãnh của chi nhánh. Bên cạnh những khuyến khích, chi nhánh cũng cần quy trách nhiệm rõ ràng và có những hình thức phạt nghiêm minh đối với những hiện tượng sai phạm gây tổn hại cho lợi ích của chi nhánh. Ngoài ra, chi nhánh cũng cần tăng cường sự quan tâm giám sát đối với việc thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh nhằm tránh những rủi ro. Cấp lãnh đạo trực tiếp cần thường xuyên kiểm tra lại tất cả các món bảo lãnh hiện hành, đánh giá tiến độ thực hiện, tăng cường biện pháp bảo đảm. Hàng tháng, cán bộ bảo lãnh cần thống kê, báo cáo tình hình thực hiện các loại bảo lãnh, số tiền còn được bảo lãnh…sau đó trình lên cấp trên có thẩm quyền. Nếu nhận thấy các khoản bảo lãnh có dấu hiệu xấu, cấp lãnh đạo cần nhanh chóng đưa ra các biện pháp phòng ngừa, hạn chế rủi ro bằng cách tăng cường tài sản đảm bảo, chỉ đạo cán bộ bảo lãnh phối hợp cùng khách hàng giải quyết tình hình. Đồng thời, chi nhánh cần tăng cường công tác kiểm soát nội bộ, đảm bảo nội bộ trong sạch vững mạnh, tăng cường tính tuân thủ chỉ đạo của ban lãnh đạo trong nghiệp vụ bảo lãnh. Xây dựng chiến lược phát triển và tăng cường công tác quản lí đối với nghiệp vụ bảo lãnh là cơ sở tiền đề cho sự phát triển của nghiệp vụ bảo lãnh. Công tác đó có tốt thì nghiệp vụ bảo lãnh mới có điều kiện phát triển 3.2.3. Nâng cao chất lượng thẩm định, thường xuyên kiểm tra giám sát món bảo lãnh Thẩm định khách hàng trước khi phát hành bảo lãnh là khâu rất quan trọng trong quy trình bảo lãnh. Có thẩm đinh tốt mới ngăn ngừa được rủi ro phải trả thay khách hàng khi khách hàng không có khả năng trả nợ cho ngân hàng hoặc trả không đủ. Để nâng cao chất lượng công tác thẩm định, ngân hàng cần thu thập thông tin và số liệu chính xác, phù hợp; đánh giá và phân tích các yếu tố liên quan đến khách hàng cũng như những biến động của môi trường bên ngoài một cách khách quan; bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ công nhân viên trong công tác thẩm đinh nói riêng và nghiệp vụ bảo lãnh nói chung; áp dụng phương pháp tính toán hợp lý. Hiện nay, các khách hàng của chi nhánh hoạt động trên rất nhiều các lĩnh vực khác nhau. Do đó, đòi hỏi cán bộ thẩm định phải am hiểu ngành nghề, lĩnh vực hoạt động của khách hàng. Điều này là rất khó khăn do trình độ của cán bộ tín dụng là có hạn, do vậy, ngân hàng cần phối hợp với các ngân hàng khác, các chuyên gia, nhà tư vấn, để khai thác thông tin để có đánh giá, quyết định chính xác ( ngân hàng cần lấy thông tin từ nhiều nguồn như: thông tin từ các phương tiện thông tin đại chúng, từ các đối tác của khách hàng, từ các ngân hàng mà khách hàng đã có quan hệ tín dụng…) Để hoạt động bảo lãnh thực sự có hiệu quả, phát huy hết được vai trò của nó thì ngân hàng nên thành lập tổ thẩm định hoạt động độc lập với cán bộ tín dụng để có cơ hội tìm hiểu, đi sâu, nghiên cứu khách hàng, đánh giá hoạt động của khách hàng… Sau khi ký kết hợp đồng bảo lãnh, cán bộ tín dụng phải thường xuyên kiểm tra, giám sát các món bảo lãnh nhằm thực hiện chức năng đôn đốc khách hàng thực hiện hợp đồng, đồng thời hạn chế rủi ro xảy ra đối với ngân hàng. Hiện nay, công tác kiểm tra, giám sát và quản lý các món bảo lãnh của khách hàng tại NASB nói chung còn yếu. Để khắc phục tình trạng này, tránh rủi ro xảy ra, sau khi ký kết hợp đồng bảo lãnh một thời gian ( 10-15 ngày), cán bộ tín dụng nên xuống cơ sở để kiểm tra, tìm hiểu tình hình thực tế của khách hàng và có thể tiến hành kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất. Làm tốt công tác này, sẽ giúp ngân hàng có được thông tin đầy đủ về việc sử dụng món bảo lãnh của ngân hàng đồng thời nhằm phát hiện kịp thời những sai sót, bất cập trong việc sử dụng và quản lý món bảo lãnh của khách hàng từ đó tư vấn cho họ cách giải quyết hoặc có biện pháp sử lý kịp thời khi cần thiết. 3.2.4. Xây dựng quy trình bảo lãnh riêng, đơn giản, gọn nhẹ Quy trình bảo lãnh riêng và phù hợp là quy trình bảo lãnh phù hợp với đặc điểm của Chi nhánh, đặc điểm của các đối tượng khách hàng của chi nhánh, nhưng vẫn tuân theo các quy định chung của toàn hệ thống. Quy trình bảo lãnh cần được xây dựng phù hợp với từng giai đoạn phát triển, với môi trường kinh tế chung. Quy trình bảo lãnh hiện nay mà NASB Hàng Đậu áp dụng là quy trình bảo lãnh chung cho toàn hệ thống NASB, chưa được sửa đổi. Do vậy, nó gây nhiều bất cập trong việc thực hiện, chưa theo sát với thực tế hoạt động bảo lãnh tại Chi nhánh. Chính vì thế, đặt ra yêu cầu là Chi nhánh cần được xây dựng một quy trình bảo lãnh riêng cho mình, phù hợp hơn, vừa tuân thủ các quy định về bảo lãnh của NHNN và quy trình bảo lãnh chung của NASB. Để làm được điều này, Chi nhánh cần tiến hành các bước sau: - Trước tiên là phải đánh giá, phân tích những ưu điểm, khó khăn của quy trình bảo lãnh hiện nay trong quá trình thực tế thực hiện tại Chi nhánh, đánh giá những đặc điểm tại Chi nhánh, từ đó nhận thức được những gì cần thay đổi. - Thu thập, tham khảo ý kiến từ phía khách hàng. - Trên cơ sở đó, xây dựng một quy trình thẩm định hợp lý, đặc biệt nhấn mạnh sự phối hợp ăn ý, nhanh chóng giữa các phòng ban. - Xây dựng quy trình bảo lãnh riêng cho từng loại bảo lãnh - điều này vừa giúp cho việc thực hiện một hợp đồng bảo lãnh một cách nhanh chóng nhất, vừa giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng. Quy trình bảo lãnh là xương sống của toàn bộ hoạt động bảo lãnh, nó đóng vai trò quan trọng nhất, quyết định tính hiệu quả và an toàn trong hoạt động bảo lãnh ngân hàng. Do vậy, một quy trình bảo lãnh cụ thể, phù hợp có ý nghĩa rất lớn cho việc mở rộng hoạt động này. 3.2.5. Nâng cao trình độ của cán bộ thực hiện bảo lãnh. Cũng như những ngành kinh tế khác, kinh doanh lĩnh vực ngân hàng đòi hỏi phải có bộ ba yếu tố cơ bản đó là con người, nguồn vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật để ngân hàng có thể đi vào hoạt động và phát triển. Do đó con người là một trong ba nhân tố quan trọng nhất quyết định đến sự phát triển của ngân hàng. Hoạt động ngân hàng luôn đứng trước nguy cơ rủi ro rất cao mà hoạt động bảo lãnh là một lĩnh vực chứa đựng rủi ro. Chất lượng bảo lãnh không chỉ thể hiện trên các báo cáo tài chính mà nó nằm trong Cũng giống như mọi hoạt động kinh doanh khác, để hoạt động bảo lãnh đạt được hiệu quả cao thì tất yếu đòi hỏi phải có một cơ cấu tổ chức và quản lý chặt chẽ, hợp lý. Cán bộ nhân viên phải đi sâu đi sát thực tế, cùng đoàn kết xây dựng tập thể vững mạnh trong đó cán bộ lãnh đạo phải là những người có năng lực, khả năng tổ chức và tinh thần trách nhiệm cao. Trong nền kinh tế thị trường, mọi doanh nghiệp đều đang cố gắng xây dựng văn hoá kinh doanh riêng của đơn vị mình để có thể cạnh tranh và phát triển bền vững. Văn hoá kinh doanh trong mỗi doanh nghiệp được thể hiện qua cán bộ nhân viên làm việc tại doanh nghiệp.từng khách hàng có quan hệ bảo lãnh với ngân hàng. Hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng không lành mạnh sẽ ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng, có thể gây rủi ro cho ngân hàng. Để tìm kiếm và lựa chọn khách hàng có đề nghị phát hành bảo lãnh an toàn và hiệu quả đòi hỏi cán bộ ngân hàng phải biết thu thập và xử lý thông tin, phân tích đánh giá và vận dụng những thông tin đó có hiệu quả. Trong tất cả mọi lĩnh vực của nền kinh tế, con người là yếu tố quan trọng, mang tính quyết định mọi thành công của công việc. Đối với riêng ngành ngân hàng, nhân viên trực tiếp giao dịch với khách hàng được coi là hình ảnh của ngân hàng. Tác phong làm việc, trình độ chuyên môn và thái độ phục vụ của nhân viên ngân hàng luôn là những yếu tố quan trọng tác động đến sự tin tưởng và trung thành của khách hàng đối với ngân hàng. Khách hàng đến với ngân hàng là vì công việc, vì quan hệ làm ăn lâu dài với ngân hàng, vì vậy thái độ và tính chuyên nghiệp trong công việc của nhân viên ngân hàng sẽ gây ấn tượng tốt đẹp với khách hàng, tạo sự tin tưởng và triển vọng hợp tác sau này. Mặt khác ngân hàng hoạt động chủ yếu dựa vào chữ tín, và uy tín của ngân hàng không chỉ thể hiện qua kết quả kinh doanh hàng năm của ngân hàng mà cả ở hình ảnh của ngân hàng được thể hiện qua tác phong làm việc của nhân viên ngân hàng. Chính vì lẽ đó mà việc đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ nhân viên luôn là mục tiêu trọng tâm của các ngân hàng. Đối với hoạt động bảo lãnh nói riêng, việc nâng cao trình độ chuyên môn của cán bộ ngân hàng liên quan trực tiếp đến việc hoàn thiện quy trình bảo lãnh theo hướng nhanh gọn, an toàn cho ngân hàng và thuận tiện cho khách hàng. Ngân hàng nên hướng dẫn cho các cán bộ về thủ tục hành chính, các giấy tờ liên quan để giảm bớt các giấy tờ, thủ tục không cần thiết, tránh gây phiền hà và giảm bớt chi phí nghiệp vụ. Cụ thể: + Đối với khách hàng thường xuyên có quan hệ tín dụng với ngân hàng hoặc khách hàng đã được bảo lãnh lần thứ hai trở đi, cán bộ ngân hàng có thể bỏ qua các giấy tờ mang tính thủ tục như hồ sơ năng lực pháp lý, năng lực hành vi dân sự của khách hàng mà vẫn có thể lập hồ sơ bảo lãnh ngân hàng; + Đối với khách hàng có mức ký quỹ 100%, ngân hàng có thể qua qua các thủ tục thẩm định thông thường về năng lực tài chính của khách hàng; Để hoàn thiện hơn nữa quy trình nghiệp vụ bảo lãnh, cần áp dụng khoa học công nghệ hiện đại như chấm điểm tín dụng doanh nghiệp qua phần mềm máy tính, thống nhất các chỉ tiêu tài chính doanh nghiệp theo chuẩn hoá từ phía hội sở chính. Bên cạnh đó cần hướng dẫn cán bộ ngân hàng thẩm định các dự án trong điều kiện kinh tế vĩ mô như định hướng kinh tế vĩ mô từ phía Chính Phủ, xem xét các yếu tố thị trường như cung và cầu trên thị trường, thị hiếu người tiêu dùng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm… để đánh giá tính khả thi của dự án một cách toàn diện và khách quan; Bảo lãnh ngân hàng ra đời khá lâu trên thế giới và mới chỉ áp dụng tại Việt Nam trong những năm gần đây, vì vậy nhiều cán bộ ngân hàng vẫn chưa có nhận thức đầy đủ và toàn diện về hoạt động này. Trước tiên cần phải thấy rõ vai trò của bảo lãnh trong việc thúc đẩy giao dịch kinh tế, đặc biệt là thương mại quốc tế. Trong điều kiện đất nước đang phát triển, nguồn vốn trong nước khan hiếm và chi phí vốn cao thì thu hút vốn đầu tư nước ngoài là nhu cầu cấp thiết của nền kinh tế. Trong các hợp đồng kinh tế có yếu tố nước ngoài tham gia thì bảo lãnh ngân hàng là một yếu tố không thể thiếu được, vì vậy cam kết bảo lãnh được ký phát bởi một ngân hàng uy tín sẽ giúp các nhà đầu tư yên tâm hơn. Ngoài ra bảo lãnh vay vốn nước ngoài còn tỏ ra ưu điểm hơn một số loại bảo lãnh khác là tài khoản tiền gửi của khách hàng tại ngân hàng từ chính số tiền vay có thể bổ sung thêm nguồn vốn cho ngân hàng. Như vây, bảo lãnh đã không hạn chế tín dụng trong nước mà còn thúc đẩy tín dụng phát triển. Việc nâng cao nhận thức cho cán bộ ngân hàng về bảo lãnh còn có nghĩa là phải nhận thức rõ tính chất của bảo lãnh. Như chương I đã đề cập, bảo lãnh ngân hàng được dùng như một công cụ đôn đốc hoàn thành hợp đồng. Cán bộ ngân hàng không nên có suy nghĩ là bảo lãnh ngân hàng thì ngân hàng không phải xuất vốn nên thực hiện bảo lãnh tràn lan, tiến hành nghiệp vụ đơn giản, sơ sài theo hướng cứ hợp đồng bảo lãnh có mức ký quỹ 100% hay có tài sản bảo đảm đủ tiêu chuẩn là phát hành bảo lãnh. Thực tế này dễ dẫn đến việc cán bộ ngân hàng không đi sâu đi sát, đôn đốc khách hàng thực hiện đúng hợp đồng đã ký kết với bên thụ hưởng bảo lãnh. Và như vậy khi rủi ro xảy ra, bên thụ hưởng sẽ không tin tưởng vào ngân hàng nữa, làm giảm uy tín của ngân hàng. Bảo lãnh ngân hàng là loại hình dịch vụ mới, chưa được sử dụng rộng rãi tại Việt Nam, vì vậy mở rộng hoạt động bảo lãnh là việc làm cần thiết và lâu dài ở các ngân hàng. Thông qua việc tìm hiểu thực tế hoạt động bảo lãnh ở các nước phát triển và thực tế hoạt động bảo lãnh tại NASB Hàng Đậu, công tác tổ chức cán bộ nên tập trung vào một số vấn đề sau: + Việc đào tạo nâng cao trình độ nghiệp vụ cán bộ ngân hàng không chỉ thực hiện bằng hình thức cử đi học tại các trung tâm đào tạo và các trường đại học mà cần phải quan tâm đến công tác đào tạo tại chỗ. Phương pháp đào tạo này không chỉ tiết kiệm chi phí và thời gian mà còn rất thực tế và phù hợp với đặc điểm riêng của mỗi ngân hàng. Thông qua việc những cán bộ có kinh nghiệm hướng dẫn cho những cán bộ trẻ sẽ giúp họ dễ hiểu và không bị bỡ ngỡ khi gặp những tình huống thực tế; + Ngân hàng nên tập trung nâng cao trình độ ngoại ngữ, nắm rõ các luật, quy tắc áp dụng trong nước và quốc tế như UCP500, Inconterm 2000 cho cán bộ nhân viên để đáp ứng được các nhu cầu thương mại quốc tế. Điều này giúp ngân hàng hạn chế rủi ro trong các giao dịch có yếu tố nước ngoài mà nguyên nhân chủ yếu là do không nắm rõ luật kinh doanh quốc tế và các luật thương mại quốc tế; + Cập nhật thường xuyên và đầy đủ những thay đổi, điều chỉnh trong các văn bản pháp luật có liên quan; + Đẩy mạnh phong trào thi đua làm việc và học tập của cán bộ ngân hàng thông qua việc tổ chức hội thi nghiệp vụ giỏi, cán bộ ngân hàng năng động… Những phong trào thi đua như vậy không chỉ tạo ra không khí làm việc sôi nổi, doàn kết trong ngân hàng mà còn giúp phát hiện ra những cá nhân xuân sắc, từ đó có chế độ đãi ngộ, khen thưởng phù hợp; + Tuy nhiên muốn có đội ngũ cán bộ giỏi, đáp ứng được nhu cầu công việc cần chú ý ngay từ công tác tuyển dụng. Công tác tuyển dụng cần khách quan và đúng đắn. Tiếp theo công tác tổ chức vị trí làm việc cho nhân viên phải hợp lý, phù hợp với năng lực và trình độ của từng người, phát huy được kỹ năng của mỗi người; + Cuối cùng, ngân hàng cần có chính sách khen thưởng, đãi ngộ hợp lý, đúng người và đúng lúc để tạo khích lệ trong công việc. Những người có nhiều đóng góp phải được khen thưởng xứng đáng còn những người vi phạm kỷ luật gây thiệt hại cho ngân hàng thì phải có hình thức kỷ luật thích đáng 3.3.Một số kiến nghị 3.3.1. Kiến nghị với chính phủ và các cơ quan nhà nước có liên quan Mọi chủ thể của nền kinh tế đều hoạt động dưới sự chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, dưới những cơ chế chính sách và luật lệ do Nhà nước ban hành. Thứ nhất, Nhà nước cần tạo môi trường kinh doanh đồng bộ, ổn định cho các đơn vị kinh tế hoạt động, đây cũng là điều kiện quan trọng để hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động bảo lãnh ngân hàng nói riêng có thể mở rộng và phát triển mạnh mẽ. Bởi hoạt động ngân hàng có liên quan đến tất cả các ngành, các thành phần kinh tế. Thứ hai là hoạt động ngân hàng được đặt dưới sự điều chỉnh hai bộ luật là Luật các tổ chức tín dụng và Luật NHNN. Hiện nay, hai bộ luật này cũng đã thể hiện nhiều thiếu sót, bất cập trong việc chỉ đạo, giám sát, quản lý hoạt động của các tổ chức tín dụng. Hoạt động bảo lãnh ngân hàng mới chỉ có quy chế chung để chỉ đạo, chứ chưa được ban hành thành luật riêng. Cần thiết có Luật bảo lãnh thống nhất, cụ thể, đầy đủ để hoạt động bảo lãnh ngân hàng có thể mở rộng và phát triển một cách an toàn. Hơn nữa, trong nền kinh tế thị trường mở cửa hội nhập quốc tế như ở nước ta hiện nay, có rất nhiều mối quan hệ kinh tế phức tạp, và chịu sự điều chỉnh của các thông lệ quốc tế. Chính phủ cần xây dựng một hệ thống luật pháp đầy đủ, chặt chẽ, vừa phù hợp với thông lệ quốc tế, nếu không chúng ta sẽ bị thiệt thòi trong quan hệ kinh tế đối ngoại, các doanh nghiệp bị bỏ lỡ cơ hội kinh doanh, Ngân hàng bị mất cơ hội bảo lãnh. Thực trạng rất nhiều các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay không muốn công bố hoạt động kinh doanh một cách rõ ràng, các con số chỉ là mù mờ, điều này làm hạn chế sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế. Chính phủ cần có những biện pháp mạnh mẽ hơn để giải quyết tình trạng này, buộc các doanh nghiệp công bố rộng rãi các thông tin đúng, điều này làm lành mạnh hoá các hoạt động kinh doanh, tạo thuân lợi cho công tác đánh giá khách hàng của ngân hàng, từ đó tạo điều kiện cho sự phát triển hoạt động Bảo lãnh ngân hàng cả về lượng và chất. 3.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước 3.3.2.1. Về mức phí bảo lãnh Theo Quyết định số 283/2000/QĐ-NHNN14 ngày 25 tháng 8 năm 2000 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc ban hành quy chế bảo lãnh thì mức phí bảo lãnh áp dụng cho các ngân hàng thương mại là: Tối đa 2%/năm tính trên số tiền còn đang được bảo lãnh và tối thiểu là 300.000đ. Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh vì vậy phí bảo lãnh phải đảm bảo bù đắp được chi phí và mang lại thu nhập cho ngân hàng. Vì vậy mức phí bảo lãnh có thể do ngân hàng và khách hàng thoả thuận. Tuỳ thuộc vào mức độ rủi ro cao hay thấp mà mức phí bảo lãnh sẽ cao hay thấp. Ngân hàng Nhà nước có thể không cần quy định mức bảo lãnh tối đa và tối thiểu mà cần tạo điều kiện để các ngân hàng áp dụng mức phí bảo lãnh mềm dẻo và linh hoạt với từng đối tượng khách hàng. Để cạnh tranh với các ngân hàng, ngân hàng cũng không thể đặt mức phí bảo lãnh quá cao, gây bất lợi cho khách hàng được. 3.3.4. Kiến nghị với NHTM cổ phần Bắc Á Ngân hàng cần chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ thực hiện bảo lãnh giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, có tác phong làm việc năng động và thái độ phục vụ khách hàng một cách tận tình. Ngân hàng cần tổ chức những lớp tập huấn ngắn hạn đến dài hạn, không những đào tạo trong nước mà còn cử cán bộ đi học tập ở nước ngoài. Tổ chức các buổi toạ đàm, mời các chuyên gia nước ngoài để trao đổi, học hỏi kinh nghiệm. Cần có chính sách tiền lương, đãi ngộ hợp lý tránh tình trạng chảy máu chất xám. Hoàn thiện quy trình bảo lãnh trên cơ sở đơn giản hoá các thủ tục cấp bảo lãnh sao cho vừa nhanh chóng thuận tiện cho khách hàng khi thực hiện, vừa bảo đảm an toàn cho ngân hàng. Cho phép các chi nhánh được xây dựng quy trình bảo lãnh riêng phù hợp với thực tế hoạt động tại chi nhánh mình. Cần tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ tại các chi nhánh, để hoạt động bảo lãnh được diễn ra một cách an toàn. Đưa vào ứng dụng hệ thống công nghệ thông tin hiện đại, đồng bộ. Tạo điều kiện cho chi nhánh mở rộng hoạt động, mở rộng quan hệ với các ngân hàng khác, trong nghiệp vụ đồng bảo lãnh, tái bảo lãnh với các hợp đồng bảo lãnh lớn, thời hạn bảo lãnh dài. NASB cần xây dựng Phòng Marketing riêng, đưa ra những chiến lược cụ thể cho toàn bộ hệ thống. Triển khai đến các chi nhánh bộ phận chuyên trách về Marketing ngân hàng để khai thác và mở rộng thị trường một cách hiệu quả, nhất là trong môi trường cạnh tranh ngày nay khi mà nhiều ngân hàng khác đều có Phòng Marketing riêng. KẾT LUẬN Bảo lãnh là một nghiệp vụ ngân hàng hiện đại, cho đến này nó dần khẳng định tầm quan trọng của mình với bản thân ngân hàng nói riêng và với nền kinh tế nói chung. Nằm trong hoạt động kinh doanh chung của ngân hàng, bảo lãnh có ảnh hưởng rất nhiều đến các dịch vụ khác của ngân hàng, và chúng có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau. Nếu nghiệp vụ bảo lãnh được thực hiện tốt một mặt nó thúc đẩy các hoạt động khác của ngân hàng phát triển, góp phần nâng cao uy tín, vị thế của ngân hàng trên thị trường, một mặt nó làm tăng thu nhập cho ngân hàng thông qua phí bảo lãnh. Nói cách khác, bảo lãnh là chất xúc tác quan trọng cho sự phát triển của nền kinh tế. Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động bảo lãnh và những lợi ích to lớn mà hoạt động này đem lại nên ngay từ khi được thành lập, NASB Hàng Đậu đã tiến hành triển khai thực hiện nghiệp vụ này. Từ đó đến nay, hoạt động này liên tục được hoàn thiện, phát triển và bước đầu thu được những thành công nhất định. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công bước đầu ấy, việc thực hịên nghiệp vụ bảo lãnh tại chi nhánh cũng gặp không ít những khó khăn vướng mắc làm hạn chế chiến lược mở rộng hoạt động này tại chi nhánh. Đứng trước vấn đề này, sau một thời gian thực tập tại chi nhánh, em đã mạnh dạn đưa ra một số giải pháp nhằm mở rộng hoạt động bảo lãnh trong thời gian tới. Hi vọng, những giải pháp và những kiến nghị của em phần nào giải quyết được những khó khăn mà chi nhánh đang gặp phải. Do thời gian thực tập tại chi nhánh không nhiều, cùng với trình độ, khả năng có hạn, em biết chuyên đề của em còn rất nhiều thiếu sót. Một lần nữa em mong được sự đóng góp ý kiến của các anh chị phòng tín dụng, thầy cô và các bạn để em co được những kiến thức sâu rộng hơn về loại hình hoạt động này. Em xin chân thành cảm ơn! DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO I. Tài liệu - Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh tại NASB Hàng Đậu - Báo cáo hoạt động ngoại bảng của NASB Hàng Đậu các năm 2005,2006,2007 - Báo cáo hoạt động bảo lãnh tháng 12 các năm 2005, 2006, 2007 của NASB Hàng Đậu - Sổ tay tín dụng ngân hàng TMCP Bắc Á - Tạp chí ngân hàng các năm 2004, 2005, 2006, 2007, 2008 - Tạp chí tài chính tiền tệ các năm 2004, 2005, 2006, 2007, 2008 II. Sách và giáo trình - PGS.TS. Phan Thị Thu Hà, Giáo trình ngân hàng thương mại, NXB Đại Học Kinh Tế Quốc Dân năm 2006 - Peter.S.Rose, Quản trị Ngân hàng thương mại, NXB Tài chính - Hà Nội năm 2001 - Lê Nguyên, Bảo lãnh ngân hàng và tín dụng dự phòng, NXB Tài chính - Hà Nội năm 1996 III. Các văn bản pháp quy điều chỉnh hoạt động bảo lãnh + Quyết định số 283/2000/QĐ-NHNN14 ngày 25 tháng 8 năm 2000 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc ban hành quy chế bảo lãnh; +Quyết định số 386/2001/QĐ-NHNN ngày 11 tháng 4 năm 2001 của thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc sửa đổi, bổ sung một số điều trong quy chế bảo lãnh ngân hàng ban hành kèm theo quyết định số 283/2000/QĐ-NHNN14 ngày 25/8/2000 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước; + Quyết định số 1348/2001/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 10 năm 2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc sửa đổi một số quy định liên quan đến thu phí bảo lãnh của các tổ chức tín dụng; + Quyết định số 112/2003/QĐ-NHNN ngày 11 tháng 2 năm 2003 của thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc sửa đổi, bổ sung một số điều trong quy chế bảo lãnh ngân hàng; + Luật ngân hàng nhà nước và luật các tổ chức tín dụng MỤC LỤC Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33342.doc
Tài liệu liên quan