Chuyên đề Nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty dược phẩm trung ương 1

Quảng cáo xúc tiến là một hoạt động cần thiết giúp cho người tiêu dùng có thêm được các thông tin về sản phẩm mà công ty cung ứng. Hiện nay các sản phẩm của Công ty chủ yếu được quảng cáo trên các tạp chí thuốc và sức khỏe, nhưng mức độ quảng cáo cũng chưa thường xuyên. Bên cạnh đó, Công ty Dược Phẩm Trung Ương 1 còn áp dụng quảng cáo thông qua việc quảng cáo trên các kênh của đài truyền hình, đài phát thanh, . Đây là những hoạt động cần thiết giúp nâng cao hiệu quả kinh doanh hàng nhập khẩu. Tổ chức các hội nghị khách hàng cũng là một hình thức quảng cáo tới người tiêu dùng. Đặc biệt ở hình thức quảng cáo này đó là tạo được mối quan hệ thân thiết với khách hàng. Tuy nhiên nhược điểm của hình thức này là chi phí cho mỗi lần tổ chức khá tốn kém và lượng khách hàng có thể tham gia với số lượng hạn chế. Biện pháp này nên áp dụng đối với những khách hàng là doanh nghiệp lớn, khách hàng thường xuyên, khách hàng có tiềm năng tiêu thụ mạnh. Hiện nay, mỗi năm Công ty mới chỉ tổ chức được 2 cuộc họp hội nghị khách hàng để giới thiệu sản phẩm. Trong mỗi cuộc hội nghị, Công ty thường thu được nhiều ý kiến bổ ích đóng góp cho hoạt động kinh doanh và cũng qua đó biết được những yêu cầu của khách hàng để đáp ứng tốt hơn nhu cầu từ đó cũng góp phần tăng hiệu quả kinh doanh hàng nhập khẩu.

doc91 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1761 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty dược phẩm trung ương 1, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trong ba năm 2005, 2006, 2007 nói chung là tăng, Công ty cần có các biện pháp khuyến khích nhân viên làm việc hăng hái hơn, nâng cao mức sinh lợi của lao động từ đó tăng hiệu quả kinh doanh của hoạt động nhập khẩu. 2.6.2. Tình hình thực hiện các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh nhập khẩu tổng hợp Chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh nhập khẩu tổng hợp của doanh nghiệp sẽ cho ta cái nhìn bao quát về hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp đối với hoạt động kinh doanh nhập khẩu. Dưới đây ta xem xét về các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh nhập khẩu tổng hợp tuyệt đối và chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh nhập khẩu tương đối. 2.6.2.1. Chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh nhập khẩu tổng hợp tuyệt đối Dưới đây là kết quả kinh doanh nhập khẩu của Công ty Dược Phẩm Trung Ương 1 từ năm 2005 đến năm 2007. Nhìn vào bảng 2.6 ta thấy, doanh thu nhập khẩu của Công ty tăng lên qua các năm, năm sau luôn cao hơn năm trước. Tuy nhiên chi phí cũng tăng theo, nhất là năm 2006 do vậy cũng kéo theo lợi nhuận từ hoạt động nhập khẩu vì thế mà giảm trong năm 2006. Nhìn biểu đồ dưới ta thấy rằng lợi nhuận của Công ty có sự tăng trưởng đều từ năm 2005 đến 2007. Điều này cho thấy sự ổn định trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty Dược Phẩm Trung Ương 1 . Cụ thể năm 2005, lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh nhập khẩu là 807 triệu đồng tăng lên 812 triệu đồng vào năm 2006 và tiếp tục tăng 813 triệu đồng năm 2007. Mức nộp ngân sách nhà nước của hoạt động kinh doanh nhập khẩu là khá cao. Trung bình 2,5 tỷ một năm. Điều này góp phần xây dựng nền kinh tế xã hội nước ta. Bảng 2.6- Kết quả kinh doanh nhập khẩu từ năm 2005 – 2007 Đơn vị tính: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Trị số Trị số Tỷ lệ tăng (%) Trị số Tỷ lệ tăng (%) Doanh thu nhập khẩu 3837 3967 3,34 3992 0,63 Chi phí nhập khẩu 2994 3052 1,94 3046 -0,2 Lợi nhuận nhập khẩu 807 812 0,62 831 2,33 Nộp NSNN 2300 2430 5,65 2598 6,91 (Nguồn: Báo cáo nhập khẩu hàng năm của Công ty Cổ phần Dược TW) 2007 2006 2005 Hình 2.10: Lợi nhuận nhập khẩu của Công ty từ năm 2005 – 2006 2.6.2.2. Chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh nhập khẩu tổng hợp tương đối Việc sử dụng các nguồn lực của Công ty Dược Phẩm Trung Ương 1 được thể hiện qua các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh nhập khẩu tổng hợp tương đối.(Bảng 2.7) 2.6.2.2.1. Doanh lợi của tổng vốn kinh doanh nhập khẩu 2007 2006 2005 Doanh lợi của tổng vốn kinh doanh nhập khẩu phản ánh sức sinh lợi của mỗi đồng vốn khi bỏ vào hoạt động kinh doanh nhập khẩu. Nhìn vào biểu đồ ta thấy được doanh lợi của tổng vốn kinh doanh nhập khẩu của Công ty Dược Phẩm Trung Ương 1 tăng lên qua các năm từ 2005 đến 2007. Bảng 2.7- Một số chỉ tiêu HQKD nhập khẩu tổng hợp tương đối Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Trị số Trị số Tỷ lệ tăng (%) Trị số Tỷ lệ tăng (%) Doanh lợi của tổng vốn NK (%) 23,48 24,66 5,03 24,76 0,44 Doanh lợi theo chi phí NK (%) 26,46 29,32 10,84 29,77 1,52 Doanh lợi theo doanh thu NK (%) 22,31 22,76 2,02 23,07 1,36 (Nguồn: Báo cáo nhập khẩu hàng năm của Công ty Cổ phần Dược TW) Hình 2.11: Doanh lợi của tổng vốn nhập khẩu của Công ty từ 2005– 2007 Doanh lợi của tổng vốn kinh doanh nhập khẩu cao nhất vào năm 2007 là 24,76%, tăng nhẹ so với năm 2006 là 0,44%. Năm 2005 có mức doanh lợi của tổng vốn kinh doanh nhập khẩu thấp nhất 23,48% , thấp hơn so với năm 2006 là 5,03%. Như vậy, nguồn vốn có vai trò rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty vì thế Công ty cần tiếp tục có các biện pháp quản lý và sử dụng nguồn vốn hợp lý để tăng hiệu quả của hoạt động kinh doanh nhập khẩu. 2.6.2.2.2. Doanh lợi theo chi phí kinh doanh nhập khẩu Phân tích chỉ tiêu doanh lơi theo chi phí kinh doanh nhập khẩu cho ta biết được trình độ sử dụng chi phí của Công ty. Theo hình dưới ta thấy được doanh lợi theo chi phí kinh doanh nhập khẩu của Công ty Dược Phẩm Trung Ương 1 trong giai đoạn 2005 2007 2006 2005 Hình 2.12: Doanh lợi theo chi phí nhập khẩu của Công ty từ 2005 – 2007 Doanh lợi theo chi phí nhập khẩu của Công ty có xu hướng tăng từ năm 2005 đến 2007. Năm 2005, trong 100 đồng chi phí bỏ vào hoạt động kinh doanh nhập khẩu thì thu về 26,46 đồng lợi nhuận. Năm 2006, thu về 29,32 đồng lợi nhuận, tăng 10,84% so với năm 2005 và 29,77 đồng lợi nhuận trong năm 2007( tăng 1,52% so với năm 2006). Như vậy, trong những năm gần đây, doanh lợi theo chi phí nhập khẩu của Công ty Dược Phẩm Trung Ương 1 luôn tăng dù tăng ít hay tăng nhiều, điều này cho thấy việc sử dụng chi phí nhập khẩu của Công ty luôn được chú trọng điều chỉnh cho hợp lý hơn. 2.6.2.2.3. Doanh lợi theo doanh thu bán hàng nhập khẩu Lợi nhuận của hoạt động kinh doanh nhập khẩu phụ thuộc cả vào doanh thu của hoạt động nhập khẩu và chi phí nhập khẩu. Do vậy ta cần xem xét mối quan hệ giữa tốc độ tăng doanh thu nhập khẩu và tốc độ tăng của chi phí nhập khẩu dựa vào chỉ tiêu doanh lợi theo doanh thu bán hàng nhập khẩu. 2007 2005 2006 Hình 2.13: Doanh lợi theo doanh thu bán hàng nhập khẩu của Công ty từ năm 2005 – 2007 Theo hình trên ta thấy được doanh lợi theo doanh thu bán hàng nhập khẩu của Công ty Dược Phẩm Trung Ương 1 từ năm 2005 đến 2007 có xu hướng tăng đều. Nếu như trong năm 2005, doanh lơi theo doanh thu bán hàng nhập khẩu mới chỉ đạt ở mức 22,31% tức 100 đồng doanh thu từ hoạt động nhập khẩu có 22,31 đồng lợi nhuận thì năm 2006 tăng 2,02% ( 22,76 đồng lợi nhuận) và tiếp tục tăng trong năm 2007 lên đến 23,07 đồng lợi nhuận ( tăng 1,36% so với năm 2006). Như vậy, tốc độ tăng lợi nhuận của doanh nghiệp luôn lớn hơn tốc độ tăng doanh thu và Công ty cần duy trì và phát huy tỷ lệ tăng cao để mang lại hiệu quả kinh doanh nhập khẩu tốt hơn. 2.7. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH DOANH NHẬP KHẨU CỦA CÔNG TY DƯỢC PHẨM TRUNG ƯƠNG 1 Ở trên ta đã phân tích thực trạng hoạt hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của Công ty Dược Phẩm Trung Ương 1 . Để có thể đưa ra được các biện pháp giúp Công ty Dược Phẩm Trung Ương 1 nâng cao hơn hiệu quả kinh doanh nhập khẩu ta sẽ đánh giá những ưu điểm, những mặt đã đạt được và những tồn tại trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty, đồng thời tìm hiểu nguyên nhân của những tồn tại đó nhằm đưa ra được các biện pháp khắc phục từ đó nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của Công ty Dược Phẩm Trung Ương . 2.7.1. Ưu điểm 2.7.1.1. Hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của Công ty qua các năm đều có lãi Mục tiêu cuối cùng của tất cả các doanh nghiệp tham gia vào hoạt động kinh doanh đó là lợi nhuận và ta đã thấy hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty Dược Phẩm Trung Ương 1 trong giai đoạn từ 2005 đến 2007 luôn có lãi mặc dù đây là thời điểm rất khó khăn đối với nhiều doanh nghiệp Dược. Thị trường có nhiều biến động, giá cả tăng cao khiến cho việc kinh doanh nhập khẩu gặp phải rất nhiều khó khăn. Tuy nhiên, do dự đoán trước được những biến động của thị trường cũng như chủ động được nguồn cung cầu vì thế hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty Dược Phẩm Trung Ương 1 vẫn diễn ra với chiều hướng tốt. 2.7.1.2. Đóng góp vào ngân sách Nhà nước Mức đóng góp vào ngân sách Nhà nước của hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty Dược Phẩm Trung Ương 1 luôn ở mức xấp xỉ 2,5 tỷ mỗi năm. Điều này cho thấy sự đóng góp của hoạt động này vào ngân sách Nhà nước là khá lớn và hàng năm đây sẽ trở thành một nguồn đóng góp vào việc nâng cao hiệu quả của xã hội. 2.7.1.3. Hiệu quả sử dụng kinh doanh hàng nhập khẩu luôn có xu hướng tăng lên Hiệu quả sử dụng kinh doanh hàng nhập khẩu của Công ty Dược Phẩm Trung Ương 1 được thể hiện thông qua các chỉ tiêu: lợi nhuận nhập khẩu, doanh lợi của tổng vốn nhập khẩu, doanh lợi theo chi phí nhập khẩu, doanh lợi theo doanh thu bán hàng nhập khẩu. Như đã phân tích ở trên, các chỉ tiêu này đều có xu hướng tăng lên trong thời kỳ từ năm 2005 đến năm 2007. Đây là dấu hiệu rất tốt cho thấy hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty được đầu tư hiệu quả. 2.7.1.4. Hiệu quả sử dụng vốn nhập khẩu tăng Hiệu quả sử dụng vốn nhập khẩu nhìn chung tăng trong suốt thời kỳ từ năm 2005 đến 2007 tuy có sự giảm xuống trong năm 2006. Nhưng việc tăng trở lại của hiệu quả sử dụng vốn nhập khẩu cho thấy sự nhạy bén của doanh nghiệp trong sự thay đổi của thị trường thế giới cũng như thị trường trong nước là khá cao. 2.7.1.5. Hiệu quả sử dụng lao động tăng Như trên ta thấy, hiệu quả sử dụng lao động của Công ty Dược Phẩm Trung Ương 1 suốt 3 năm 2005, 2006, 2007 liên tục tăng và có sự tăng lên rõ rệt. Điều này thể hiện việc tuyển dụng nhân sự tốt, quá trình đào tạo và bố trí nhân sự hợp lý đã phát huy hiệu quả góp phần làm tăng hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của Công ty. 2.7.1.6. Hiệu quả sử dụng chi phí tăng Doanh lợi theo chi phí nhập khẩu của Công ty Dược Phẩm Trung Ương 1 có xu hướng tăng liên tục. Điều này phản ánh việc sử dụng chi phí nhập khẩu của Công ty Dược Phẩm Trung Ương 1 là khá tốt. Các khoản chi phí nhập khẩu sẽ bao gồm chi phí hải quan, chi phí cho ngân hàng, chi phí tiền lượng, chi phí cho hoạt động giao nhận, … nhưng đã được tính toán hợp lý vào được chi ra với mức phù hợp nhất do vậy mà chi phí ngày càng được giảm bớt làm cho hiệu quả sử dụng chi phí tăng lên. 2.7.2. Tồn tại 2.7.2.1. Hiệu quả sử dụng vốn cố định giảm trong năm 2006 Thực trạng phân tích số liệu ở trên chỉ ra rằng, hiệu quả sử dụng vốn cố định đã bị giảm đi trong năm 2006, đang từ 0.464 xuống nhẹ còn 0.462. Điều này đã thể hiện hiệu quả sử dụng vốn cố định nhập khẩu của Công ty bị giảm đi trong năm 2006. Lợi nhuận thu được chưa tương xứng với tổng vốn đầu tư trong năm này. 2.7.2.2. Số vòng quay tổng vốn nhập khẩu giảm trong năm 2006 Số vòng quay tổng vốn nhập khẩu trong năm 2006 chỉ còn 2,31 vòng, giảm so với năm 2005 ( 2,65 vòng). Số vòng quay giảm chứng tỏ lượng hàng quay vòng của doanh nghiệp chậm khiến cho doanh thu cũng vì thế mà chậm theo, làm cho hiệu quả kinh doanh cũng chậm lại. 2.7.2.3. Hiệu quả sử dụng lao động giảm trong năm 2006 Như trên đã thấy, mức sinh lợi lao động bình quân giảm xuống trong năm 2006 chỉ còn 81,79 triệu đồng/năm, giảm 1,3% so với năm 2005. Công ty đã có nhiều biện pháp đào tạo song chưa có sự bố trị nhân sự phù hợp, còn có một số vị trí chồng chéo. Ví dụ vấn đề thanh toán, chi tiền hàng là do phòng kế toán đảm nhận trong khi quy trình thực hiện nhập hàng thì do phòng Xuất nhập khẩu đảm nhiệm, nếu 2 phòng không có sự đồng thuận trong lô hàng sẽ dẫn đến việc thanh toán và việc thực hiện các nghiệp vụ nhập khẩu hàng không ăn khớp, gây mất thời gian và làm giảm hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp. 2.7.2.4. Nhập hàng nguyên liệu ít hơn thành phẩm trong khi mức lợi nhuận từ hàng nguyên liệu cao hơn hàng thành phẩm Số liệu ở trên cho thấy, Công ty Dược Phẩm Trung Ương 1 nhập hàng nguyên liệu ít hơn thành phẩm trong khi mức lợi nhuận từ hàng nguyên liệu cao hơn hàng thành phẩm. Hàng năm, lượng vốn đầu tư để nhập hàng thành phẩm thường gấp đôi hàng nguyên liệu nhưng tiến tới để phục vụ cho nhu cầu sản xuất trong nước, Công ty cần phải chú trọng hơn vấn đề nhập nguyên liệu và đây là thị trường có tỷ suất lợi nhuận cao. 2.7.3. Nguyên nhân của những tồn tại 2.7.3.1. Nguyên nhân chủ quan 2.7.3.1.1 Công tác quản lý vốn chưa tốt Công tác quản lý vốn của Công ty Dược Phẩm Trung Ương 1 còn chưa tốt do chính sách của Công ty đối với khách hàng chưa quy định chặt chẽ khiến cho thanh toán chậm vẫn còn diễn ra. Đối với hoạt động kinh doanh nhập khẩu thì nhu cầu về vốn là khá lớn đặc biệt là nguồn vốn lưu động để phục vụ cho việc thanh toán. Vì thế việc vẫn còn những khách hàng không hoàn trả đúng hạn làm cho việc tiếp tục đầu tư vào hoạt động nhập khẩu gặp khó khăn. Vì thế, Công ty cần có các biện pháp khác nhau để quản lý vốn hợp lý hơn, tránh tình trạng bị lạm dụng vốn. 2.7.3.1.2. Phong cách làm việc của người lao động đôi khi còn chưa năng động Một trong những nguyên nhân gây ra mức sinh lợi của lao động bình quân bị giảm xuống trong năm 2006 đó là do trong năm này tình trạng giá cả tăng cao khiến cho hoạt động kinh doanh nhập khẩu khó khăn gây ra một phần tâm lý chán hản cho một bộ phận lao động có độ tuổi cao, hạn chế với việc thích ứng sự thay đổi của thị trường từ đó làm giảm sút hiệu quả lạo động. 2.7.3.1.3. Công ty chưa chú trọng nhiều đến hoạt động quảng cáo, xúc tiến Hiện nay, chi phí cho hoạt động quảng cáo, xúc tiến của Công ty Dược Phẩm Trung Ương 1 chưa nhiều do chi phí mua hàng nhập khẩu đã quá cao. Bên cạnh đó, mặc dù doanh thu từ hoạt động kinh doanh nhập khẩu là lớn song phải chi trả cho rất nhiều khoản chi phí khác nhau vì thế Công ty Dược Phẩm Trung Ương 1 chưa thể chú trọng hơn vào hoạt động quảng cáo xúc tiến các sản phẩm nhập khẩu. 2.7.3.2. Nguyên nhân khách quan 2.7.3.2.1. Thủ tục nhập khẩu và thủ tục nhận hàng còn phức tạp Thủ tục nhập khẩu đối với mặt hàng dược phẩm hiện nay đòi hỏi khá nhiều yêu cầu từ việc thông quan đến việc hàng về phải lấy mẫu gửi về cơ quan kiểm tra chất lượng của ngành Y tế và chỉ được tiêu thụ hàng sau khi đã có phiếu kiểm nghiệm đạt tiêu chuẩn chất lượng. Như vậy việc nhập hàng về đến việc có thể tiêu thụ hàng đã phải trải qua rất nhiều công đoạn khác nhau, điều này gây mất thời gian, chi phí, cũng như mất cơ hội kinh doanh của Công ty từ đó sẽ làm giảm hiệu quả kinh doanh hàng nhập khẩu. 2.7.3.2.2. Công tác quản lý thuốc còn hạn chế Thị trường Dược phẩm trong nước hiện nay vẫn còn rất nhiều biến động. Mặc dù trong thời gian vừa qua Nhà nước đã đưa ra nhiều biện pháp để bình ổn giá thuốc, quản lý thuốc kém chất lượng, thuốc giả, thuốc nhập lậu, … nhưng hiện tượng này vẫn còn diễn ra trên thị trường. Nó không chỉ ảnh hưởng tới sức khỏe của người tiêu dùng mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty Dược Phẩm Trung Ương 1 nói riêng cũng như các công ty Dược phẩm khác nói chung. 2.7.3.2.3. Chưa có quy định cụ thể về các loại thuốc có cùng hoạt chất Thị trường Dược phẩm hiện nay có rất nhiều mặt hàng thuốc có tên khác nhau với giá khác nhau nhưng thực chất chúng có cùng một hoạt chất. Nói đơn giản có nghĩa chúng là một. Mặc dù có cùng hoạt chất nhưng chúng lại được các nhà máy đặt cho các tên biệt dược khác nhau gây nên sự cạnh tranh về giá ở đây chủ yếu là do uy tín, mẫu mã, mức độ hiểu biết của người tiêu dùng. Như vậy, chương 2 đã cho ta biết thực trạng hoạt động kinh doanh nhập khẩu và hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty Dược Phẩm Trung Ương 1 , từ đó chỉ ra những ưu điểm, tồn tại và nguyên nhân của những tồn tại. Chương 3 sẽ đưa ra những giải pháp cụ thể để khắc phục tồn tại, góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của Công ty Dược Phẩm Trung Ương 1 . CHƯƠNG 3 PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH DOANH NHẬP KHẨU CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN DƯỢC TRUNG ƯƠNG 3.1. MỤC TIÊU CHIẾN LƯỢC CỦA CÔNG TY DƯỢC PHẨM TRUNG ƯƠNG 1 ĐẾN NĂM 2010 Thị trường dược phẩm nước ta thời gian qua đã có nhiều biến động. Giá cả các mặt hàng thuốc đặc biệt là thuốc nhập khẩu luôn tăng cao, sự cạnh tranh trên thị trường ngày càng khốc liệt do ngày càng có nhiều hơn các doanh nghiệp dược phẩm trên thị trường mà đặc biệt là các doanh nghiệp nước ngoài. Trước tình hình đó để đứng vững trong tình hình này, Công ty Dược Phẩm Trung Ương 1 đã đặt ra mục tiêu đến năm 2010 là: “ Tiếp tục là doanh nghiệp dẫn đầu trong ngành, củng cố mở rộng thị trường, tăng cường hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như hoạt động nhập khẩu. Đẩy mạnh hơn nữa việc tiêu thụ sản phẩm nhằm nâng doanh thu lên mức 800 tỷ trong năm 2010.” Như vậy ta có thể thấy rằng hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty Dược Phẩm Trung Ương 1 được coi là một trong những hoạt động then chốt của doanh nghiệp. Điều này cho thấy vai trò của hoạt động này đối với hoạt động kinh doanh chung của Công ty là rất quan trọng. Việc thực hiện tốt hoạt động kinh doanh nhập khẩu sẽ đóng góp thêm nhiều vào thực hiện mục tiêu chung của Công ty. Công ty Dược Phẩm Trung Ương 1 đã đưa ra các mục tiêu cụ thể trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu vào năm tới như sau( Bảng 2.8) Nhìn trên bảng, ta thấy rằng Công ty Dược Phẩm Trung Ương 1 vẫn tập trung chủ yếu hơn vào việc nhập khẩu hàng nguyên liệu, điều này cho thấy Công ty đang hướng tới việc tự sản xuất các mặt hàng thuốc, nghiên cứu các dạng thuốc mới, các dạng thuốc thay thế để giảm được lượng hàng nhập khẩu đúng với chủ trương của Nhà nước là đẩy mạng sản xuất dược phẩm trong nước, hạn chế nhập khẩu những loại thuốc thành phẩm mà nước ta có thể sản xuất được. Bảng 2.8 : Chỉ tiêu kế hoạch nhập khẩu của Công ty năm 2007 – 2009 Đơn vị tính: triệu đồng Chỉ tiêu 2007 2008 2009 Giá trị Giá Trị Tỷ lệ tăng (%) Giá trị Tỷ lệ tăng (%) Doanh thu Nguyên liệu Thành phẩm 4000 2300 1700 4500 2600 1900 12.5 13.04 11.76 5000 2900 2100 9.09 11.5 10.5 Lợi nhuận nhập khẩu 940 1100 17.02 1300 18.2 3.2. CÁC CAM KẾT CỦA VIỆT NAM VỀ THỊ TRƯỜNG DƯỢC PHẨM KHI VIỆT NAM LÀ THÀNH VIÊN CỦA WTO 3.2.1. Cam kết của Việt Nam trong lĩnh vực dược phẩm khi gia nhập WTO 3.2.1.1. Cam kết về thuế Theo dự kiến mức thuế áp dụng chung cho dược phẩm sẽ chỉ còn 0- 5% so với mức thuế 0- 10% như trước đây. Theo cam kết về lộ trình giảm thuế của Việt Nam khi gia nhập WTO, thì phần lớn các mặt hàng dược phẩm sẽ được cắt giảm thuế còn 0%. Mức thuế trung bình sẽ là 2.5% sau 5 năm kể từ ngày Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO. Việt Nam là một nước đang phát triển và đồng thời nền kinh tế thị trường còn chưa thực sự được công nhận chính vì vậy việc thực hiện các nghĩa vụ đối với các nước thành viên trong cộng đồng WTO sẽ được gia hạn sau 5 năm kể từ ngày gia nhập (đối với lĩnh vực dược phẩm nói riêng). Điều đó có nghĩa là khi gia nhập WTO, giá thuốc sẽ giảm xuống và trên bình diện chung, người dân sẽ có lợi rất nhiều. Như vậy sau khi Việt Nam cắt giảm mức thuế quan xuống còn 0-5% thì các doanh nghiệp dược phẩm nước ngoài có thể tham gia vào thị trường Việt Nam một cách dễ dàng hơn. Đồng thời giá của các loại thuốc tân dược nước ngoài hiện nay giảm đi càng làm gia tăng khả năng cạnh tranh của các sản phẩm này Thế nhưng, ngành Dược Việt Nam chủ yếu là công nghiệp bào chế, sản xuất các thuốc gốc, chưa chú trọng phát triển nguồn dược liệu để sản xuất thuốc. Thuốc sản xuất trong nước chỉ bảo đảm được khoảng 652/1.563 hoạt chất. Vì thế, theo phân tích của nhiều doanh nghiệp, việc giảm giá thành dược phẩm khi gia nhập WTO tuy lớn nhưng sẽ chỉ tùy thuộc vào một số mặt hàng. Đối với các dòng thuốc hiếm, nhất là các thuốc chuyên khoa mà Việt Nam chưa sản xuất được, việc giảm giá chỉ có thể xảy ra khi các công ty đa quốc gia có ý định giảm. 3.2.1.2. Quyền kinh doanh Bắt đầu từ ngày 1/1/2009 các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các chi nhánh của doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam được phép trực tiếp xuất nhập khẩu dược phẩm vào Việt Nam. Thông thường các doanh nghiệp dược nước ngoài muốn đưa sản phẩm vào Việt Nam phải thông qua sự nhập khẩu uỷ thác, điều này cũng là một nguyên nhân khiến giá thuốc tăng cao. Nhưng đến thời điểm Việt Nam bắt đầu thực hiện nghĩa vụ của mình thì đây sẽ là cơ hội cho các doanh nghiệp trên thế giới tham gia vào thị trường dược phẩm của Việt Nam. Theo thống kê của cục quản lý dược Việt Nam: Tính đến tháng 9-2006, đã có 312 doanh nghiệp dược nước ngoài đã được cấp phép hoạt động về thuốc và nguyên liệu làm thuốc ở Việt nam, doanh thu của các nhà máy có vốn đầu tư nước ngoài là 1.834 tỷ đồng. Về tình hình đăng ký thuốc, số lượng thuốc đăng ký tăng cao; các nước đang ký thuốc nhiều nhất là Ấn độ, Hàn Quốc, Pháp và Đức. 9 tháng đầu năm 2006, Việt Nam đã cấp 2030 số đăng ký cho thuốc nước ngoài. Như vậy chắc chắn sau khi Việt Nam cho phép các doanh nghiệp nước ngoài được phép nhập khẩu trực tiếp vào Việt Nam thì những con số trên chưa dừng ở mức đó. Điều này sẽ càng làm cho các doanh nghiệp dược phẩm trong nước chịu sức ép lớn hơn. 3.2.1.3. Quyền phân phối trực tiếp. Việt Nam yêu cầu các doanh nghiệp nước ngoài sẽ không được tham gia phân phối trực tiếp dược phẩm tại Việt Nam mà phải thông qua các doanh nghiệp có chức năng phân phối. Đây là một cam kết vĩnh viễn giữa Việt Nam và các nước thành viên của WTO. Việc áp dụng điều khoản này sẽ có hiệu lực vào ngày 1/1/2009. Đây có thể coi là một biện pháp để bảo vệ ngành dược phẩm trong nước vì khi đó nó sẽ tạo cơ hội cho các doanh nghiệp dược phẩm trong nước có cơ hội cạnh tranh công bằng hơn trong việc phân phối các sản phẩm tới các đối tượng khách hàng. Chính vì vậy, các doanh nghiệp trong nước cần phải tận dụng cơ hội này để có thể phát huy được ưu thế sân nhà khi Việt Nam bắt đầu thực hiện nghĩa vụ với tư cách là một nước thành viên của WTO. 3.2.1.4. Cam kết về quyền sở hữu trí tuệ Trên cơ sở Hiệp định thương mại thế giới 1994, đặc biệt là TRIPS (Trade-Related Aspects of Intellectual Property Rights = Các khía cạnh thương mại của Quyền sở hữu trí tuệ), Việt Nam đã ban hành Bộ luật Dân sự (Sửa đổi) năm 2005, Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 để phù hợp với pháp luật thương mại quốc tế khi Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO).Chính phủ Việt Nam cam kết đầy đủ bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Bộ y tế đã ban hành quyết định số 30/2006/QĐ-BYT quy chế về bảo mật dữ liệu đối với hồ sơ đăng ký thuốc. Đây là một văn bản có ý nghĩa hết sức quan trọng và “nhạy cảm” đối với các hãng nghiên cứu, bào chế dược phẩm, đặc biệt là các hãng dược phẩm đa quốc gia vốn sở hữu nhiều sáng chế, phát minh. Theo số liệu của Cục Sở hữu trí tuệ thì tính đến thời điểm hiện tại, tổng số bằng sáng chế của các cá nhân/tổ chức Việt Nam là 19, của cá nhân và tổ chức nước ngoài là 877; tổng số giấy phép đăng ký nhãn hiệu hàng hóa cấp cho cá nhân/tổ chức Việt Nam là 5036, cấp cho cá nhân, tổ chức nước ngoài là 3394. Khi gia nhập WTO, chúng ta phải cam kết bảo mật dữ liệu thử nghiệm lâm sàng có trong hồ sơ đăng ký của các thuốc mới trong thời hạn 5 năm. Do đó, các cơ quan quản lý phải có các cơ chế, quy định bảo mật đối với các hồ sơ khi được yêu cầu, đối mặt với nguy cơ bị các công ty kiện trong trường hợp để bộc lộ dữ liệu. Việc thực hiện bảo mật quyền sở hữu trí tuệ đối với công thức bào chế các loại dược phẩm. Điều này thể hiện việc Việt Nam luôn tuân thủ theo những nguyên tắc của WTO. Việt Nam luôn đảm bảo cho quyền lợi cho các doanh nghiệp dược nước ngoài. Đây là điều kiện tốt để đảm bảo cho các doanh nghiệp nước ngoài yên tâm đầu tư vào Việt Nam. Mặt khác nó cũng thể hiện sự minh bạch cũng như cụ thể các chính sách về dược phẩm của Chính phủ Việt Nam. 3.3. DỰ BÁO THỊ TRƯỜNG DƯỢC PHẨM 3.3.1. Thị trường dược phẩm thế giới Thị trường dược phẩm thế giới hiện nay đang phân bố không đồng đều, 80% thị phần ở các nước phát triển và 20% ở phần còn lại của thế giới trong khi đó dân số ở các nước phát triển chỉ chiếm 10% dân số thế giới còn các nước đang phát triển và các nước nghèo chiếm 90% dân số thế giới. Theo thống kê của tổ chức Y Tế thế giới WHO thì trong các năm gần đây, con số người nghèo trên thế giới không được dùng thuốc chữa bệnh lên đến 70% và đặc biệt là các loại thuốc đặc trị, các loại thuốc mới. Tại sao lại có hiện tượng như vậy, đó là do thị trường dược phẩm thế giới hiện nay đang bị thao túng bởi các tập đoàn dược phẩm lớn. Các tập đoàn này với lợi thế có tiềm lực khoa học kỹ thuật, tài chính, kinh nghiệm có thể điều chỉnh mức giá mong muốn vì thế gây khó khăn cho các doanh nghiệp nhập khẩu dược phẩm ở các nước khác đặc biệt là các nước nghèo. Vì thế việc người tiêu dùng ở các nước nghèo có thể tiếp cận được với các mặt hàng thuốc đắt tiền là rất khó khăn. Thêm nữa, trong thời gian gần đây, tình trạng thuốc giả, thuốc kém chất lượng đang ngày càng nhiều ở các quốc gia trên thế giới và nhất là ở các nước đang phát triển. Hàng năm lượng thuốc giả vẫn đang gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe của con người. Theo tổ chức Y Tế thế giới cho biết, mỗi năm thất thoát 35 tỷ USD trong thương mại dược phẩm. Gần đây, thuốc giả còn tấn công vào các bệnh viện lớn. Các loại thuốc đang bị làm giả nhiều nhất là kháng sinh, thuốc điều trị ung thư, rối loạn cương, sốt rét, tim mạch, … là những loại thuốc đắt tiền, có nhãn hiệu nổi tiếng. Trên thế giới đã phát hiện trường hợp ung thư dùng phải thuốc ung thư giả khiến bệnh ngày càng nặng. Theo các chuyên gia thì lượng thuốc giả không những giảm mà sẽ còn gia tăng trong thời gian tới. Điều này không những ảnh hưởng đến người tiêu dùng mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh nhập khẩu của các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp ở những nước đang phát triển. Các doanh nghiệp luôn phải có thanh tra kiểm tra sát sao các mặt hàng nhập khẩu của doanh nghiệp mình để tránh bị làm giả nguy hại đến sức khỏe người tiêu dùng. 3.3.2. Thị trường dược phẩm trong nước Ngành dược phẩm chịu tác động của rất nhiều yếu tố, trong số đó dân số và thu nhập của người dân sẽ là yếu tố rất lớn ảnh hưởng tới sự tăng trưởng của ngành, và tiền thuốc bình quân đầu người. Theo dự báo của tổng cục thống kê, đến năm 2010 dân số Việt Nam có thể lên tới 86 triệu dân. Và chắc chắn nhu cầu chữa bệnh và phòng bệnh của người dân cũng sẽ tăng lên. Sự gia tăng về dân số cũng như nhu cầu sẽ khiến Việt Nam trở thành một thị trường giàu tiềm năng. Mặt khác, cùng với sự phát triển của xã hội, trình độ dân trí được nâng lên kéo theo đó là sự hiểu biết về các mặt hàng dược phẩm cũng được nâng lên nhanh chóng. Mặc dù đơn thuốc là do bác sĩ kê đơn tuy nhiên do dân trí được nâng lên nên người tiêu dùng đã có thể nhận thức được đầy đủ về các loại dược phẩm. Như vậy Việt Nam có thể coi là một thị trường đầy tiềm năng đối với hàng hoá nói chung và nhu cầu về dược phẩm nói riêng. Trong thời gian tới khi đời sống của nhân dân được nâng cao thì nhu cầu chăm sóc sức khoẻ cũng càng được quan tâm nhiều hơn. Chính vì vậy theo cục quản lý dược Việt Nam tiền thuốc bình quân đầu người sẽ là 12-15 USD. Với nhu cầu sử dụng dược phẩm như vậy trên một qui mô dân số tương đối lớn các doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải tìm cách đáp ứng được nhu cầu ngày một tăng này. Sự gia tăng về tiền thuốc bình quân đầu người tăng lên cũng có nghĩa là nhiệm vụ đáp ứng yêu cầu về dược phẩm của người dân cũng ngày một lớn hơn. Với một thị trường tương đối lớn và còn giàu tiềm năng như vậy, các doanh nghiệp dược Việt Nam cũng cần phải chú ý tới sự xâm chiếm thị trường từ bên ngoài. Các doanh nghiệp nước ngoài luôn biết tận dụng thời cơ để lấn sâu vào thị trường đang lên. Nhất là đối với ngành dược phẩm, một mặt hàng mà bất cứ giai đoạn nào, thời kỳ nào con người cũng cần tới. Hình 3.1-Dự báo thị trường dược phẩm Việt Nam (Nguồn: Cục quản lý dược Việt Nam) Theo như biểu đồ dự báo thị trường dược phẩm như trên thì trong tương lai chắc chắn ngành dược phẩm sẽ có nhiều triển vọng để phát triển. Với tổng mức thị trường có xu hướng tăng lên đều đặn mặc dù tỉ lệ tăng trưởng không có sự thay đổi nhưng đây vẫn có thể coi là một thành công lớn của ngành dược phẩm Việt Nam. Đến năm 2008 tổng thị trường Việt Nam có thể đạt trên 1tỷ USD, điều này sẽ tạo đà cho sự phát triển sau này của ngành dược Việt Nam. 3.3.3. Các cơ hội và thách thức đối với việc nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty Dược Phẩm Trung Ương 1 3.3.3.1. Cơ hội Các dự báo về thị trường dược phẩm Việt Nam cho biết nhu cầu về thuốc khám chữa bệnh sẽ tăng cao trong thời gian tới vì thế các doanh nghiệp Dược sẽ có hướng tăng tổng mức nhập khẩu và do người dân có hiểu biết hơn về các mặt hàng dược phẩm sẽ là nhân tố tác động giúp các doanh nghiệp có thể chuyển hướng lựa chọn ưu tiên về chất lượng so với giá cả. Từ đó kéo theo mức lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh nhập khẩu cũng tăng theo. Hiện nay, lượng thuốc nội mới chỉ đáp ứng được khoảng 40% nhu cầu trong nước còn lại là 60% thuốc nhập ngoại. Điều này cho thấy công nghiệp dược nước ta phát triển chưa theo kịp nhu cầu của người tiêu dùng. Bên cạnh đó, thị trường dược phẩm trên thế giới đang tập trung chủ yếu ở các nước phát triển, đây là một cơ hội để các nước đang phát triển và các nước nghèo tự mình khai thác tiềm năng thị trường sẵn có. Đối với Công ty Dược Phẩm Trung Ương 1 , với quy mô vốn đầu tư cho hoạt động kinh doanh nhập khẩu hàng năm tăng từ 4 tỷ lên 5 tỷ và tiếp tục tăng cao trong các năm tới, thì việc thu lợi nhuận từ 60% thị trường là một khoản thu rất lớn. Bên cạnh đó, 90% nguồn nguyên liệu phục vụ cho hoạt động sản xuất trong nước đều là từ nguồn nhập ngoại. Trung bình hàng năm, giá trị nhập khẩu dược phẩm của nước ta lên đến 80 triệu USD. Bên cạnh đó, việc phát triển công nghiệp dược của nước ta theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi các công ty dược phẩm trong nước phải có đầy đủ các trang thiết bị hiện đại và cần thiết. Nước ta hiện nay mới chỉ có 175 công ty sản xuất dược phẩm, và chỉ 58 doanh nghiệp trong số đó được chứng nhận chứng chỉ chất lượng GMP. Nhu cầu về trang thiết bị rất lớn cũng mở cho các doanh nghiệp dược phẩm kinh doanh mảng thiết bị vật tư. Đây là một mảng kinh doanh rất lớn cho các doanh nghiệp nhập khẩu nói chung và Công ty Dược Phẩm Trung Ương 1 nói riêng. 3.3.3.2. Thách thức Bên cạnh thuận lợi đối với việc nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu, các doanh nghiệp Dược cũng phải đối mặt với thách thức lớn nhất đó chính là sự cạnh tranh của thị trường dược phẩm và vấn đề thuốc giả hiện nay chưa được quản lý chặt chẽ. Việt Nam càng trở thành thị trường Duợc tiềm năng thì sẽ càng làm cho các doanh nghiệp muốn nhảy vào kinh doanh từ đó làm cho lợi nhuận của thị trường bị san sẻ, lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh nhập khẩu cũng bị giảm sút. Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, càng có thêm nhiều các doanh nghiệp Dược phẩm lớn tham gia vào thị trường đặc biệt là các Công ty nước ngoài. Hiện nay, nước ta có trên 500 doanh nghiệp dược phẩm trong nước và trên 200 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Điều này làm cho môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt. Một điều đáng nói ở đây đó là ngoài nguồn cung chủ yếu từ con đường nhập khẩu của các doanh nghiệp trong nước thì các mặt hàng thuốc đặc trị, thuốc chuyên sâu, thuốc có công nghệ cao lại chủ yếu do các doanh nghiệp nước ngoài cung cấp. Trong thời gian tới, Chính Phủ đang khuyến khích các Công ty trong nước tự sản xuất và các Công ty nước ngoài tiếp tục đầu tư vào thị trường Dược phẩm Việt Nam dưới nhiều hình thức khác nhau, như liên doanh với Việt Nam hoặc 100% vốn đầu tư nước ngoài. Việc các doanh nghiệp liên tiếp tham gia vào thị trường Việt Nam làm tăng mức độ cạnh tranh của thị trường này, điều này càng yêu cầu các doanh nghiệp phải nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp mình. Một thách thức lớn đặt ra cho các doanh nghiệp dược phẩm nói chung cũng như Công ty Dược Phẩm Trung Ương 1 nói riêng đó là nạn làm thuốc giả hiện nay trên thị trường. Không chỉ là lượng thuốc giả từ chính trong nội địa làm mà còn là lượng thuốc giả từ bên ngoài nhập vào thị trường Việt Nam. Năm 2007, thuốc không đạt chất lượng chiếm 3,3% số mẫu, cao nhất trong 7 năm qua. Cục quản lý dược (Bộ Y tế) đã phối hợp với các cơ quan chức năng điều tra, phát hiện 43 loại thuốc giả (0,17%), tăng gấp đôi so với năm 2005 và cao hơn nhiều so với năm 2006. Theo TS Trịnh Văn Lẩu, Viện trưởng Viện Kiểm nghiệm thuốc Trung ương: thuốc có nguồn gốc dược liệu không đạt chất lượng chiếm tỷ lệ khá cao, tới 355 mẫu/3.200 mẫu được kiểm tra không đạt chất lượng. Thuốc nhập khẩu không đạt chất lượng bị đình chỉ lưu hành cũng lên tới 29 lô riêng trong năm 2007. TS Trịnh Văn Lẩu cũng thừa nhận, thuốc giả sản xuất ngày càng tinh vi, khó phát hiện. Trong số những loại thuốc giả được phát hiện thì thuốc kháng sinh, tân dược chiếm tỷ lệ lớn. Đặc biệt, còn nhiều thuốc đông dược trộn lẫn tân dược. Thuốc nhập khẩu không đạt chất lượng khá cao với 29 lô bị đình chỉ và thu hồi, chiếm 34,8% (trong đó Ấn Độ 17 mẫu, Hàn Quốc 7 mẫu). Như vậy, việc quản lý thuốc giả, thuốc kém chất lượng hiện nay còn hạn chế, các thuốc giả lại thường làm giống với các dược phẩm nhập khẩu để thu lợi nhuận cao hơn. Như vậy, hoạt động làm giả thuốc có ảnh hưởng rất lớn đến uy tín cũng như sự tin tưởng của người tiêu dùng vào các sản phẩm thuốc, làm giảm đi quá trình nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp. 3.4. MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH DOANH HÀNG NHẬP KHẨU CỦA CÔNG TY DƯỢC PHẨM TRUNG ƯƠNG 1 3.4.1. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của Công ty Dược Phẩm Trung Ương 1 3.4.1.1. Tiến hành quản lý thời gian Hoạt động nhập khẩu hàng của Công ty Dược Phẩm Trung Ương 1 là một hoạt động xuyên suốt quá trình từ khâu lựa chọn nhà cung ứng tới việc tiêu thụ hàng. Trong mỗi bước đều có sự phát sinh chi phí vì thế việc sử dụng vốn, thời gian sao cho hợp lý là cần thiết. Nói đến quản lý thời gian, đó là việc Công ty Dược Phẩm Trung Ương 1 đặt ra các hạn mức thời gian nhất định cho từng khâu, từng bước. Tránh tình trạng công việc bị ứ đọng, người này là không xoể còn người khác lại không có việc để làm. Điều này sẽ tác động xấu làm phát sinh thêm nhiều chi phí và thời gian vô ích. Vì thế để công tác quản lý thời gian trong kinh doanh nhập khẩu được tốt hơn thì việc quy định, tính toán thời gian hoàn thành công việc phải hợp lý nhất để tiết kiệm thời gian đồng thời đẩy nhanh tiến độ công việc, tạo thêm thời gian quay vòng vốn nhanh từ đó vừa giảm bớt các chi phí không cần thiết vừa tăng thêm hiệu quả kinh doanh nhập khẩu. Quản lý thời gian nên đặt ở chính mỗi phòng và do trưởng phòng đảm nhiệm, trưởng phòng sẽ là người nắm bắt được tình hình tiến triển công việc chung trong phòng và sẽ biết được tốt nhất việc nào nên làm trước, việc nào nên làm sau, điều phối hoạt động của cả phòng sao cho tận dụng được tối đa thời gian mỗi ngày. 3.4.1.2. Tăng cường huy động vốn, nâng cao hiệu quả công tác quản lý vốn cho hoạt động kinh doanh nhập khẩu Vốn là một yếu tố rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu. Nguồn vốn có thể đến từ nhiều kênh khác nhau như vốn Nhà nước, vốn cổ đông, vốn vay từ ngân hàng, vốn từ hoạt động chứng khoán, vốn tự có phát sinh từ các hoạt động kinh doanh có lãi và vốn của Ngân hàng. Các biện pháp tăng nguồn vốn tự có và vốn cổ đông được khuyến khích do mức lãi suất thấp hơn nguồn vốn đi vay của Ngân hàng. Việc quản lý vốn sao cho hiệu quả rất quan trọng, Công ty Dược Phẩm Trung Ương 1 liên tục cố gắng tăng quy mô vốn và tăng số quay vòng vốn, tránh không để tình trạng một số khách hàng chiếm dụng vốn thông qua việc trả chậm làm phát sinh những khoản nợ khó đòi. Để khắc phục tình trạng này, Công ty nên có những biện pháp khuyến khích cho các khách hàng có thể thanh toán sớm đồng thời có những quy định chặt chẽ hơn đối với các khách hàng trong việc thanh toán. Như vậy, để nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu thì công tác quản lý về thời gian và vốn cần phải được quan tâm hàng đầu để tránh các chi phí không đáng có gây thiệt hại cho hiệu quả kinh doanh nhập khẩu. 3.4.1.3. Nâng cao mức độ nhạy bén của doanh nghiệp trước các nguyên nhân làm tăng giá thuốc Hàng loạt các mặt hàng thuốc tây tăng giá vùn vụt, gây "sốc"cho người dân. Trung bình các loại thuốc tăng giá khoảng 10-20% so với đầu năm 2007, có không ít loại tăng đến gần 100% .Ngày 19-11-2007, ghi nhận tại một số nhà thuốc, trung tâm bán sỉ dược phẩm tại TPHCM cho thấy những loại thuốc tăng giá gây "giật mình" nhất là 14 mặt hàng thuốc của Công ty Gedeon Richter (Hungary) sản xuất, Công ty cổ phần Dược phẩm Bến Tre (Bepharco) nhập khẩu và phân phối. Giá thuốc mới được Bepharco thông báo tăng kể từ ngày 1-11-2007. Cụ thể, thuốc Cavinton 5mg giá bán tăng từ 67.000đ/hộp hai vỉ/25 viên lên gần 97.000đ/ hộp, tăng khoảng 44%. Cũng thuốc này nhưng hàm lượng 10mg từ 70.000đ/hộp hai vỉ/15 viên lên gần 104.000đ/ hộp (tăng khoảng 48%); thuốc Panangin từ 32.000đ/hộp/50 viên lên 42.000 đ (31%); thuốc Mydocalm loại 150 mg tăng từ 43.000/hộp ba vỉ/10 viên lên 60.000 đ, tăng khoảng 39%. Cũng thuốc này nhưng hàm lượng 50 mg giá từ 27.000 đ tăng lên gần 38.000 đ... Ngoài ra, 3/5 mặt hàng thuốc của Công ty Egis (Hungary) sản xuất do Bepharco nhập khẩu, phân phối cũng tăng giá bán khá cao. Theo một số nhà thuốc, trước đây khi các công ty chuẩn bị tăng giá thuốc thì các trình dược viên đều biết trước để thông báo cho khách hàng (nhà thuốc bán lẻ) mua nhiều hơn với giá cũ nhằm điều chỉnh giá lẻ bán ra tăng dần từng bước cho khách hàng không bị "sốc". Thế nhưng, thời gian gần đây việc tăng giá thuốc của một số công ty được giữ rất kín. Vì vậy, nhiều nhà thuốc không biết để lấy thêm hàng, dẫn đến tình trạng người bệnh phản ứng với giá thuốc đột ngột tăng quá cao. Thống kê sơ bộ 100 mặt hàng thuốc thông dụng thì có tới 92 mặt hàng tăng giá so với đầu năm 2007. Có những loại thuốc chỉ tăng nhẹ vài %, nhưng nhiều loại tăng 10% trở lên như: thuốc Efferalgan Codein (viên sủi) tăng 9,27% so với quí 1-2007; thuốc Tetra 500 mg (Mekophar cung cấp) tăng 13,46%; thuốc Enteric (Công ty cổ phần Dược phẩm 2-9 cung cấp) tăng 16,9%; thuốc Lincomycin 500mg (Mekophar cung cấp) tăng 18%..., thuốc tăng giá mạnh nhất là các loại kháng sinh, kháng viêm, tim mạch, an thần. Các loại thuốc được sản xuất ở các nước Canada, Pháp, Hàn Quốc, Ấn Độ… đều tăng giá từ 10% trở lên. Chẳng hạn, thuốc Clofen 75 mg (kháng viêm - Hàn Quốc) đầu năm 2007 chỉ có 23.060 đ/hộp 10 viên, thì tháng 10-2007 tăng lên 28.000 đ/hộp (tăng 21,4%). Có khá nhiều loại thuốc kháng sinh do các doanh nghiệp trong nước sản xuất có mức tăng giá rất cao. Chẳng hạn, thuốc Amoxycilin 250 mg (Vidipha sản xuất) đầu năm 2007 là 3.552 đ/vỉ 10 viên, hiện tăng lên tới 6.787 đ/vỉ (tăng 90,7%); thuốc Ampi 500 mg (Vidipha) đầu năm chỉ có 3.322 đ/vỉ, nhưng tháng 10-2007 là 6.518 đ/vỉ (tăng 96,2%); thuốc Cefalexin 500 mg (Vidipha) đầu năm 4.912 đ/vỉ, hiện nay 7.367 đ/vỉ (tăng 49,9%). Các loại thuốc kháng sinh cùng loại do Domesco sản xuất cũng có tỉ lệ tăng giá tương tự. Thuốc Amox tăng 70% (từ 3.552đ/vỉ tăng lên 6.048 đ/vỉ); thuốc Ampi tăng 66,4% (từ 3.322 đ/vỉ lên 5.624đ/vỉ) và thuốc Cefalexin tăng 39% (từ 5.265 đ/vỉ lên 7.323 đ/vỉ)... Tuy nhiên đây chỉ là giá bán sỉ, chưa tính thuế. Các nhà thuốc bán lẻ sẽ tiếp tục cộng thuế VAT 5% và lợi nhuận trung bình khoảng 10% nữa để bán cho bệnh nhân. Lý giải về việc tăng giá thuốc, doanh nghiệp đưa ra hàng tá lý do: giá nguyên liệu, chi phí sản xuất và bao bì đều tăng nên buộc các nhà sản xuất phải tăng giá thuốc. Các chi phí sản xuất, quản lý đối với nhà máy sản xuất thuốc theo tiêu chuẩn GMP-ASEAN hoặc GMP-WHO đều tăng cao hơn bình thường, nên các nhà sản xuất cũng phải tính vào giá thành. Còn theo một số công ty kinh doanh dược phẩm, do tác động của "cơn bão" giá ở rất nhiều mặt hàng trên thị trường, sắp tới khả năng sẽ có thêm nhiều mặt hàng thuốc tây tiếp tục tăng giá. Như vậy, có thể thấy rằng giá cả tăng cao sẽ khiến cho hiệu quả kinh doanh nhập khẩu cùng giảm đi do lượng thuốc nhập khẩu được tiêu thụ sẽ ít đi, nhưng vấn đề giá cả tăng cao là do nguyên nhân khách quan, Công ty không thể thay đổi được mà chỉ cố gắng phản ứng, dự báo trước được các mức giá sẽ tăng trong tương lai từ các kênh thông tin khác nhau để từ đó có những tính toán trước và giảm thiểu thiệt hại đối với hiệu quả kinh doanh nhập khẩu. 3.4.1.4. Đẩy mạnh hoạt động quảng cáo, xúc tiến bán hàng tạo điều kiện cho việc tiêu thụ hàng nhập khẩu Hoạt động quảng cáo xúc tiến có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy nhanh việc tiêu thụ hàng nhập khẩu. Giúp cho khách hàng biết đến sản phẩm của Công ty và gợi mở nhu cầu sử dụng sản phẩm cho họ. Tuy nhiên hầu hết các sản phẩm nhập khẩu hiện nay tiêu thụ thông qua các Công ty khác hoặc thông qua việc kê đơn của bác sĩ. Để có thể tiêu thụ tốt hơn lượng hàng nhập khẩu Công ty Dược Phẩm Trung Ương 1 cần có các kế hoạch đầu tư cho hoạt động quảng cáo, xúc tiến thông qua hội nghị khách hàng, tổ chức đội ngũ nhân viên marketing chuyên nghiệp, mở các quầy hàng bán và giới thiệu sản phẩm. Quảng cáo xúc tiến là một hoạt động cần thiết giúp cho người tiêu dùng có thêm được các thông tin về sản phẩm mà công ty cung ứng. Hiện nay các sản phẩm của Công ty chủ yếu được quảng cáo trên các tạp chí thuốc và sức khỏe, nhưng mức độ quảng cáo cũng chưa thường xuyên. Bên cạnh đó, Công ty Dược Phẩm Trung Ương 1 còn áp dụng quảng cáo thông qua việc quảng cáo trên các kênh của đài truyền hình, đài phát thanh, …. Đây là những hoạt động cần thiết giúp nâng cao hiệu quả kinh doanh hàng nhập khẩu. Tổ chức các hội nghị khách hàng cũng là một hình thức quảng cáo tới người tiêu dùng. Đặc biệt ở hình thức quảng cáo này đó là tạo được mối quan hệ thân thiết với khách hàng. Tuy nhiên nhược điểm của hình thức này là chi phí cho mỗi lần tổ chức khá tốn kém và lượng khách hàng có thể tham gia với số lượng hạn chế. Biện pháp này nên áp dụng đối với những khách hàng là doanh nghiệp lớn, khách hàng thường xuyên, khách hàng có tiềm năng tiêu thụ mạnh. Hiện nay, mỗi năm Công ty mới chỉ tổ chức được 2 cuộc họp hội nghị khách hàng để giới thiệu sản phẩm. Trong mỗi cuộc hội nghị, Công ty thường thu được nhiều ý kiến bổ ích đóng góp cho hoạt động kinh doanh và cũng qua đó biết được những yêu cầu của khách hàng để đáp ứng tốt hơn nhu cầu từ đó cũng góp phần tăng hiệu quả kinh doanh hàng nhập khẩu. Quảng cáo thông qua việc mở ra các quầy hàng và giới thiệu sản phẩm. Hiện nay người tiêu dùng thường đến các cửa hàng thuốc trong cả nước mua những sản phẩm mà họ có nhu cầu sử dụng vì thế việc có những quầy hàng của riêng Công ty sẽ là nơi có nhiều sản phẩm của Công ty nhất, giúp người tiêu dùng không bị lẫn lộn với sản phẩm của các Công ty khác từ đó tạo cho họ có thêm dấu ấn đối với hàng hóa của Công ty. Hoạt động của các quầy hàng không chỉ bó hẹp trong việc quảng cáo hàng hóa mà còn phải tạo uy tín, thương hiệu thông qua việc hướng dẫn sử dụng cho người tiêu dùng. Hiện nay, Công ty đã có tất cả 26 gian hàng trên toàn quốc. Thời gian tới, Công ty Dược Phẩm Trung Ương 1 đang tiếp tục triển khai mở thêm các gian hàng ở các tỉnh khác giúp cho việc tiêu thụ hàng nhanh hơn, tạo ra mức lợi nhuận cao hơn, tăng hiệu quả cho hoạt động kinh doanh nhập khẩu. Tất cả các biện pháp trên đều có tác dụng giúp nâng cao hiệu quả cho hoạt động sản xuất kinh doanh và Công ty Dược Phẩm Trung Ương 1 nên dành ra một khoản kinh phí nhất định để phục vụ cho các hoạt động này. 3.4.2.Đối với nhà nước 3.4.2.1.Đơn giản hóa các thủ tục hành chính đối với hoạt động nhập khẩu dược phẩm Hiện nay, để có thể nhập khẩu hàng về tiêu thụ, các doanh nghiệp Dược phẩm cần phải thông qua rất nhiều khâu. Đầu tiên, khi các doanh nghiệp thực hiện nhập khẩu dược phẩm theo danh mục quản lý của Bộ Y Tế phải lập hồ sơ gửi về Bộ Y Tế bao gồm các nội dung: Đơn xin phép nhập khẩu bao gồm 3 bộ hồ sơ trong đó 1 bộ gửi Tổng cục Hải quan, 1 bộ gửi doanh nghiệp và 1 bộ lưu tại Bộ Y Tế. Bộ gửi Hải quan sẽ được Bộ Y Tế đóng dấu “ BỘ GỬI HẢI QUAN” và gửi trực tiếp đến Tổng cục Hải Quan. Bộ gửi doanh nghiệp sẽ được Bộ Y Tế đóng dấu “ BỘ GỬI DOANH NGHIỆP”, doanh nghiệp được sử dụng bộ hồ sơ này để trình Hải quan cửa khẩu khi nhận hàng. Bản sao hợp lệ giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh do Sở kế hoạch – Đầu tư tỉnh, thành phố trực thuộc Trung Ương cấp, giấy chứng nhận đăng ký mã số doanh nghiệp xuất nhập khẩu do cơ quan Hải quan cấp ( chỉ nộp lần đầu khi xin nhập khẩu) Tài liệu hướng dẫn sử dụng, tài liệu kỹ thuật kèm theo ( bản gốc) và bản dịch tiếng Việt. Giấy phép lưu hành và các chứng chỉ chất lượng của cơ quan có thẩm quyền của các nước sản xuất cấp ( Bản sao có công chứng) Đây là một trong những khó khăn trong việc thực hiện hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Nó làm chậm quá trình tiêu thụ hàng, làm giảm tiến độ nhập khẩu và còn tạo ra nhiều chi phí liên quan ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của Công ty Dược Phẩm Trung Ương 1 . Đối với các đơn thường xuyên phải nhập về mà mỗi lần nhập phải qua 4 bước làm thủ tục sẽ gây phiền hà cho doanh nghiệp. Theo em Nhà nước nên quy định thêm đối với các đơn hàng tương tự nhau trong cùng khoảng thời gian 1 năm sẽ chỉ cần làm thủ tục 1 lần và phải cam kết đảm bảo chất lượng, đồng thời chịu mức sử phạt rất nặng nếu kiểm tra bất kỳ thời điểm nào có phát hiện ra dấu hiệu bất thường trong lô hàng. Như vậy , Nhà nước cần có thêm các biện pháp giúp đơn giản hóa các thủ tục hành chính để giúp Công ty một mặt tiết kiệm được thời gian, chi phí mặt khác có thêm điều kiện để quay vòng vốn, nâng cao được hiệu qủa kinh doanh hàng nhập khẩu, phục vụ tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng trong nước. 3.4.2.2. Quản lý chặt chẽ hơn chất lượng thuốc, tránh thuốc giả Một trong những vấn đề “nóng” của thị trường Dược phẩm Việt Nam là tình trạng thuốc giả, thuốc kém chất lượng. Các thuốc giả hiện nay được phát hiện trên thị trường đều do các doanh nghiệp tự tìm. Nhưng việc chống thuốc giả mớ chỉ là phần ngọn, tức là yêu cầu thu hồi, báo cáo sau khi doanh nghiệp đã phát hiện thuốc giả. Việc xử lý sau đó mới chỉ dừng ở mức phạt tiền. Như vậy, vấn đề xử lý thuốc giả, thuốc kém chất lượng trên thị trường hiện nay còn lỏng lẻo. Thuốc giả sẽ gây ảnh hưởng tới uy tín và doanh số bán hàng của Công ty và tới việc tiêu thụ hàng nhập khẩu. Theo báo cáo của Cục Quản lý dược (Bộ Y tế) hôm qua 25-4 tại hội nghị ngành dược 2008 với chủ đề "Cân bằng cung cầu, ổn định thị trường" cho biết trong năm 2007, tỉ lệ thuốc giả phát hiện được lên đến 0,17%, tăng mạnh so với năm 2006 và tăng gần gấp đôi so với năm 2005. Qua lấy mẫu ngẫu nhiên, số thuốc không đạt chất lượng cũng lên đến 3,3% số mẫu, cao nhất trong bảy năm qua. Thuốc có nguồn gốc dược liệu không đạt chất lượng chiếm tỉ lệ khá cao, tới 355/3.200 mẫu được kiểm tra không đạt chất lượng. Thuốc nhập khẩu không đạt chất lượng bị đình chỉ lưu hành cũng lên tới 29 lô trong năm 2007. Trong khi đó việc thu hồi thuốc không đạt chất lượng chưa kịp thời, chưa triệt để; hệ thống thanh kiểm tra, giám sát thu hồi thuốc rất mỏng... Thứ trưởng Bộ Y tế Cao Minh Quang cho biết thị trường dược phẩm VN sẽ đạt trên 1,3 tỉ USD vào cuối năm 2008, tăng trưởng khoảng 17%/năm, cao hơn nhiều so với đánh giá của nhiều tổ chức quốc tế. Quí 1-2008, chỉ số giá hàng y tế - dược phẩm đứng thứ 9/10 nhóm hàng trọng yếu, nhưng giá thuốc vẫn có nguy cơ biến động trong thời gian tới. Một số thuốc hiếm, ít người dùng cũng không được nhập khẩu, dẫn đến tình trạng độc quyền, giá cả không kiểm soát được. Trước tình trạng thiếu thuốc điều trị, sinh phẩm tại một số bệnh viện ở Hà Nội và TP.HCM, cục trưởng Cục Quản lý dược Trương Quốc Cường cho biết đã yêu cầu các doanh nghiệp nhập khẩu, dự trữ bắt buộc các mặt hàng này. Theo thống kê của Bộ Y tế, hiện thị trường VN có khoảng 20.000 thuốc đã đăng ký lưu hành. Thuốc sản xuất trong nước bao trùm ở cả 27/27 nhóm dược lý nhưng có rất ít thuốc chuyên khoa, biệt dược như chống độc, huyết thanh miễn dịch, chống ung thư, kháng HIV, chủ yếu các nhà sản xuất trong nước tập trung vào thuốc thông thường, giá trị thấp. Nhà nước và đặc biệt là Bộ Y Tế nên có các biện pháp quản lý chặt chẽ hơn như quản lý chặt các cửa hàng dược bằng hóa đơn, phát hiện hàng không nguồn gốc xuất xứ sẽ yêu cầu hủy ngay. Mặt khác cần kêu gọi sự vào cuộc của chính các doanh nghiệp có thuốc bị làm giả để có nỗ lực thông tin đến người tiêu dùng đồng thời có chính sách giá phù hợp để giảm nguy cơ nhập lậu thuốc do chên h lệch giá quá cao giữa Việt Nam và các nước. Chất lượng dược phẩm luôn là mối lo ngại của toàn xã hội. Bộ Y tế sẽ thực thi những biện pháp tăng cường công tác kiểm tra chất lượng thuốc. Cục Quản lý dược khẳng định: Sẽ phấn đấu bảo đảm 75% lượng thuốc lưu hành trên thị trường được hậu kiểm. Mặt khác, hệ thống bán lẻ bao gồm 41.500 nhà thuốc trên toàn quốc sẽ được xây dựng và hoàn thiện theo tiêu chuẩn thực hành nhà thuốc tốt (GPP)... 3.4.2.3. Đưa giá thuốc lên trang web, tránh tình trạng giá thuốc tăng quá cao Áp dụng công nghệ thông tin vào ngành dược là một yếu tố rất quan trọng để giúp cho người dân có thể có thêm được những thông tin về giá thuốc. Cục quản lý dược đã thông báo về các loại giá nhập khẩu, giá dự kiến bán buôn, bán lẻ thuốc tại Việt Nam. Đưa giá thuốc lên trang web sẽ giúp người dân mua được thuốc với mức giá phù hợp, là một biện pháp hạn chế sự tăng quá đà của thị trường dược phẩm trong thời gian qua. Tuy nhiên, để khai thác tốt hơn nguồn thông tin này, Nhà nước nên cử ra một bộ phận riêng chuyên đi khảo sát giá thuốc trên thị trường và có những biện pháp tuyên truyền rộng rãi hơn tới người dân về trang web này. ( Tóm lại, chương 3 đã đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh hàng nhập khẩu cho Công ty Dược Phẩm Trung Ương 1 và kiến nghị một số giải pháp đối với Nhà nước. KẾT LUẬN Ở nước ta hiện nay, việc tiêu thụ thuốc từ hàng nhập khẩu là khá lớn, chiếm đến 60% tổng thuốc trên thị trường. Do vậy, nguồn thuốc từ hoạt động kinh doanh nhập khẩu đáp ứng một phần lớn nhu cầu của thị trường tuy nhiên hoạt động của các Công ty trong nước hiện nay vẫn còn gặp phải nhiều khó khăn vì thế chưa thực sự hiệu quả. Vấn đề nâng cao hiệu quả kinh doanh hàng nhập khẩu được đặt ra là một vấn đề cấp thiết để bảo đảm sự tồn tại và phát triển của các Công ty Dược đặc biệt là các Công ty Dược phẩm trong nước. Trong khuôn khổ đề tài: “ Nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của Công ty Dược Phẩm Trung Ương 1 ”, em đã tìm hiểu về thực trạng hoạt động kinh doanh nhập khẩu và đưa ra một số giải pháp kiến nghị chủ quan đối với Công ty. Em hy vọng rằng chuyên đề của em sẽ trở thành nguồn tài liệu tham khảo của Công ty. Một lần nữa, em xin chân thành cám ơn cô giáo PGS.TS. Nguyễn Thị Hường – Trưởng bộ môn Kinh doanh quốc tế, Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế cùng toàn thể các cô, các chú, các anh, các chị trong Công ty Dược Phẩm Trung Ương 1 đặc biệt là phòng kinh doanh Xuất nhập khẩu của Công ty đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề thực tập. Em xin chân thành cảm ơn! DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình Quản trị dự án và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài – FDI, tập II, PGS.TS.Nguyễn Thị Hường, NXB Thống kê, 2004. 2. Giáo trình Quản trị kinh doanh, GS.TS.Nguyễn Thành Độ, TS.Nguyễn Ngọc Huyền, NXB Lao Động Xã Hội, 2004. 3. Giáo trình Quản trị kinh doanh xuất nhập khẩu, PGS.TS.Trần Chí Thành, NXB Thống Kê, 2000. 4. Báo cáo thường niên của Công ty Dược Phẩm Trung Ương 1 các năm 2005, 2006, 2007 5. 6. 7. 8. 9. 10. 11. 12. 13. 14. 15. 16. 17. 18. 19. 20. 21. 22. 23.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26421.doc
Tài liệu liên quan