Chuyên đề Nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm may mặc xuất khẩu của Công ty cổ phần May Thăng Long trên thị trường Mỹ

Như vậy, có thể khẳng định thị trường Mỹ là một thị trường rộng lớn đầy tiềm năng, có nhu cầu rất phong phú đa dạng về sản phẩm may mặc, do đó để nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh và không ngừng phát triển lớn mạnh hơn nữa thì mục tiêu xâm nhập, đứng vững và dần khẳng định vị trí của mình trên thị trường Mỹ là nhiệm vụ tất yếu đối với Công ty cổ phần May Thăng Long trong thời gian tới. Đặc biệt là trong hoàn cảnh hiện nay mối quan hệ Việt – Mỹ đang trở nên ngày càng tốt đẹp đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho hoạt động thương mại của hai nước cũng như hoạt động xuất khẩu sản phẩm may mặc sang thị trường Mỹ . Song bên cạnh đó vẫn còn không ít khó khăn mà công ty phải đối mặt khi thâm nhập vào thị trường Mỹ một thị trường khó tính và có sự cạnh tranh hết sức gay gắt cả về phạm vi và mức độ. Do vậy, để tồn tại và phát triển trên thị trường Mỹ, công ty cần không ngừng nỗ lực đổi mới, tận dụng những cơ hội tiềm năng vốn có của mình mới có thể nâng cao năng lực cạnh tranh mặt hàng của công ty trên thị trường này.

doc76 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1689 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm may mặc xuất khẩu của Công ty cổ phần May Thăng Long trên thị trường Mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kê trên cho thấy, xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ tăng vọt hơn 20 lần ngay năm đầu tiên khi BTA có hiệu lực (từ 47,4 triệu USD lên 975,7 triệu USD), tiếp đó đều duy trì mức tăng trưởng đều đặn đến năm 2006. Sang năm 2007, năm đầu tiên Việt Nam thực hiện các cam kết WTO, hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ có mức tăng ấn tượng khoảng trên 30% so năm 2006, với giá trị tuyệt đối lên đến gần 1,5 tỷ USD, chiếm khoảng 56% trong tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may của Việt Nam. Hiện Hoa Kỳ là nước tiêu thụ lớn nhất thế giới về hàng dệt may với tổng giá trị tiêu thụ khoảng 190 tỷ USD, trong khi đó sản xuất nội địa chỉ cung cấp khoảng 105 tỷ USD, do vậy để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng hàng năm nước này vẫn phải nhập khẩu hàng dệt may khoảng 85 tỷ USD. Các nước và vùng lãnh thổ xuất khẩu chính hàng dệt may vào Hoa Kỳ hiện là Trung Quốc, Mexico, Ấn Độ, Hồng Kông, Indonesia, Việt Nam… Theo các chuyên gia, trong các nước ASEAN, Việt Nam được xem là có khả năng cạnh tranh được với Trung Quốc và Ấn Độ về hàng dệt may tại Hoa Kỳ. Hiện nay xuất khẩu dệt may của Việt Nam chiếm 3,26% tổng hàng nhập khẩu của Hoa Kỳ, đứng thứ 4 sau Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia. Tuy nhiên, hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ bị nước này đối xử thiếu công bằng so các nước khác là thành viên của WTO như áp dụng hạn ngạch đến đầu năm 2007, sau đó thay thế bằng chương trình giám sát hàng dệt may, mặc dù cơ chế này chỉ đánh giá khối lượng hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ 6 tháng/lần nhưng đã làm ảnh hưởng đáng kể đến tốc độ tăng trưởng vào thị trường này, làm cản trở đầu tư nâng cao năng lực sản xuất của các DN trong nước cũng như nước ngoài, ngăn cản các khách hàng Hoa Kỳ đặt hàng từ Việt Nam. Các chuyên gia cho rằng, nếu không bị cản trở của Chương trình giám sát này xuất khẩu dệt may của Việt Nam sang Hoa Kỳ năm 2007 còn tăng mạnh hơn nữa. Bộ Công Thương Việt Nam cho rằng, thị trường này vẫn tiềm ẩn những rủi ro do Chương trình giám sát vẫn được duy trì và sẽ tiếp tục đánh giá số liệu 6 tháng tiếp theo vào tháng 3/2008. Bộ Thương mại Hoa Kỳ chưa đưa ra bất kỳ một hành động cụ thể nào nhằm giảm bớt tác động tiêu cực của Chương trình giám sát đối với hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam như không giảm bớt mặt hàng trong diện bị giám sát và cũng không nêu các tiêu chí điều kiện cụ thể làm cơ sở tự khởi kiện điều tra chống bán phá giá hàng dệt may Việt Nam. Khả năng cơ chế giám sát của Hoa Kỳ được duy trì cho đến hết năm 2008. Hiện nay theo số liệu xuất khẩu dệt may 9 tháng sang Hoa Kỳ mà Hải quan Hoa Kỳ công bố, giá xuất khẩu trung bình hàng tháng của Việt Nam đã có xu hướng giảm xuống và lượng xuất khẩu có xu hướng tăng lên, thêm vào đó yếu tố chính trị nội bộ của Hoa Kỳ làm tăng thêm nguy cơ khiến các nhà nhập khẩu càng e ngại trong việc đặt hàng tại Việt Nam, cản trở đáng kế tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng dệt may trong năm tới. Vì vậy các DN cần hợp tác chặt chẽ với các nhà nhập khẩu lớn Hoa Kỳ, thực hiện các đơn hàng có chất lượng và giá cao, lưu ý tránh nhận những đơn hàng đơn giản, giá trị thấp làm ảnh hưởng đến mức giá bình quân của cả nước, là cơ sở để phía Hoa Kỳ tự khởi kiện chống bán phá giá. 2.2.2 Tình hình xuất khẩu của công ty trên thị trường này. 2.2.2.1Kim ngạch xuất khẩu Công ty may Thăng Long là công ty xuất khẩu đầu tiên của nước ta, và cũng là công ty đầu tiên được bộ chủ quản cấp phép xuất khẩu trực tiếp. Thị trường xuất khẩu đầu tiên của công ty là một số nước ở châu âu như Pháp, Đức, và chủ yếu là xuất khẩu sang thị trường khối các nước XHCN Đông Âu. Với những thay đổi lớn về quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, công ty đã có những lô hàng xuất khẩu đầu tiên sang thị trường Mỹ ngay khi Mỹ bỏ cấm vận Việt Nam. Những đơn đặt hàng từ thị trường Mỹ ngày một tăng, Mỹ nhanh chóng trở thành thị trường trọng yếu của công ty. Thị trường chính của công ty là Mỹ, Eu, Canada, Nhật Bản, Hàn Quốc, Czeck, Đài Loan, Libi, Brazil...Nhưng Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của công ty. Kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Mỹ chiếm tỷ trọng lớn. Bước sang cơ chế thị trường, Công ty may Thăng Long đã tích cực trong việc tìm kiếm và mở rộng thị trường. Từ chỗ bạn hàng chính của Công ty chỉ có Liên Xô và các nước đông Âu, đến nay thị trường của Công ty đã vươn ra hơn 40 nước trên thế giới, chủ yếu là Nhật, EU, Mỹ ...Đặc biệt là thị trường Mỹ đang được Công ty chú trọng. Bảng 4: Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Mỹ của công ty. Đơn vị: trUSD Năm Tổng KNXK của công ty KNXK sang thị trường Mỹ Tỷ trọng KNXK sang Mỹ (%) 2004 51,590 36,584 70,913 2005 45,260 20,408 45,09 2006 49,902 30,046 60,211 2007 48,802 23,527 48,21 Biểu đồ 1: Kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Mỹ qua các năm Từ biểu đồ ta có thể thấy rằng, kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Mỹ tăng giảm không ổn định. Kim ngạch xuất khẩu năm 2004 đạt mức cao nhất là 36,584 triệu USD, và năm 2005 có kim ngạch xuất khẩu đạt được mức thấp nhất. Những năm kim ngạch xuất khẩu không cao là do nhiều nguyên nhân nhưng nguyên nhân chủ yếu là do nguyên liệu đầu vào sản xuất sản phẩm có chất lượng không tốt ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm, làm ảnh hưởng tới doanh số bán hàng của công ty. Năm 2004, kim ngạch xuất khẩu đạt được mức cao nhất là do công ty đã làm tốt công tác hậu cần cho sản xuất, lựa chọn được nguyên liệu đầu vào chất lượng tốt với giá rẻ, sản phẩm của công ty sản xuất phù hợp với thị hiếu, đáp thỏa mãn nhu cầu của khách hàng nhạy cảm về giá, giá sản phẩm hợp lý. Bảng 6: Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Mỹ của công ty so với tổng KNXK của công ty Đơn vị: trUSD Năm Tổng KNXK của công ty KNXK sang thị trường Mỹ Tỷ trọng KNXK sang Mỹ (%) 2004 51,590 36,584 70,913 2005 45,260 20,408 45,09 2006 49,902 30,046 60,211 2007 48,802 23,527 48,21 Qua bảng số liệu trên ta thấy: Năm 2004 kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Mỹ chiếm 70,913% tổng kim ngạch xuất khẩu của công ty , chiếm hơn một nửa tổng kim ngạch xuất khẩu. Đóng góp lớn vào doanh thu xuất khẩu của công ty là doanh thu xuất khẩu sang thị trường Mỹ. Tuy, kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Mỹ có tăng giảm qua các năm nhưng tỷ trọng của nó so với các thị trường khác vẫn cao hơn. Một thị trường tiềm năng không kém thị trường Mỹ đó là thị trường EU. Biểu đồ 2: KNXK sang thị trường Mỹ và tổng KNXK của công ty Biểu đồ trên cho thấy thị trường Mỹ là thị trường trọng yếu của công ty. Xuất khẩu sang thị trường Mỹ ảnh hưởng lớn tới kim ngạch xuất khẩu của công ty. Kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Mỹ cao đồng nghĩa với kim ngạch xuất khẩu của công ty cao điều đó cho thấy thị trường Mỹ là thị trường quan trọng của công ty. Do vậy, công ty cần có những chính sách, biện pháp về sản phẩm sao cho sản phẩm có thể đáp ứng nhu cầu của một thị trường lớn và tiềm năng này. 2.2.2.2 Các mặt hàng xuất khẩu sang Mỹ - Áo sơ mi là mặt hàng truyền thống của Công ty, Công ty may Thăng Long rất có uy tín trong sản xuất từ chất liệu vải cotton, vải jean. Một vài năm lại đây giá bán sơmi tăng lên do chất lượng áo được nâng lên rất nhiều, kiểu dáng đẹp rất được khách hàng ưa chuộng. Công ty may Thăng Long hiện có dây chuyền công nghệ hiện đại như máy ép cổ, máy sấy, máy giặt…. Có thể tạo nên các áo sơmi rất sáng bóng, bền đẹp đủ tiêu chuẩn quốc tế xuất khẩu. Hàng sơmi là một trong những mặt hàng Công ty dự định sẽ tiếp tục đầu tư, phát triển và mở rộng thị trường tiêu thụ và coi đó là một trong những mặt hàng trọng điểm của Công ty. - Áo jacket là sản phẩm tiêu thụ được số lượng khá lớn trong những năm vừa qua ở cả thị trường trong nước và thị trường nước ngoài. Áo jacket là mặt hàng có đòi hỏi kỹ thuật sản xuất, gia công cao hơn áo sơmi. Nhiều đơn hàng đặt mua sản phẩm từ bạn hàng nước ngoài chứng tỏ sự ổn định trong chất lượng của mặt hàng này. Tuy nhiên, sản phẩm này cũng chịu nhiều sức ép cạnh tranh. -Quần áo các loại là mặt hàng có sản lượng thực hiện tương đối lớn. Số lượng xuất khẩu hàng năm của mặt hàng này sang thị trường Mỹ cũng khá lớn. Hiện nay, Công ty đã đầu tư nhiều thiết bị hiện đại chuyên dùng để sản xuất mặt hàng vải jean. Mặt hàng quần jean đang được thị trường trong nước và thị trường nước ngoài tiêu thụ một lượng khá lớn và mang lại lợi nhuận khá cao cho Công ty. Mặt hàng quần jean của công ty được thị trường Mỹ rất ưa chuộng đặc biệt là với giới trẻ. Bảng 7 : Tỷ trọng doanh thu xuất khẩu sang Mỹ theo mặt hàng. Năm 2005 2006 2007 Loại sản phẩm Doanh thu (trUSD) Tỷ trọng (%) Doanh thu (trUSD) Tỷ trọng (%) Doanh thu (trUSD) Tỷ trọng (%) 1.Quần áo các loại loại 9,595 21,2 11,727 23,5 9,028 18,5 2.Sơmi các loại 11,315 25 12,974 26 15,665 32.1 3.Quần bò 18,782 41,5 20,061 40,2 20,252 41,5 4.Áo jacket các loại 5,568 12,3 5,140 10,3 3,857 7,9 Tổng KNXK sang Mỹ 45,260 100 49,902 100 48,802 100 Từ bảng ta thấy tổng KNXK qua 3 năm tăng giảm không ổn định và tỷ trọng của các mặt hàng qua các năm có sự thay đổi: - Áo jacket chiếm tỷ trọng rất nhỏ khi xuất khẩu sang thị trường Mỹ. - Quần bò là mặt hàng chủ lực của công ty và cũng chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu mặt hàng xuất khẩu sang thị trường Mỹ của công ty. - Áo sơ mi chiếm doanh thu khá cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Trong những năm gần đây tỷ trọng xuất khẩu của áo sơ mi các loại có xu hướng tăng. Có thể nói rằng đây là mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của công ty, do vậy trong những năm tới Công ty cần phải xem xét lại vấn đề mẫu mã và chất lượng của mặt hàng này nhằm đẩy mạnh xuất khẩu. Công ty cần có chính sách, biện pháp khuyến khích xuất khẩu những mặt hàng có tiềm năng, đáp ứng được xu hướng tiêu dùng của thị trường xuất khẩu nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong kinh doanh xuất khẩu. 2.2.3Thực trạng cạnh sản phẩm may mặc xuất khẩu của công ty *Các chỉ tiêu mang định lượng 2.2.3.1Thị phần xuất khẩu hàng may mặc của công ty sang thị trường Mỹ Bảng 8: Thị phần xuất khẩu mặt hàng may mặc của công ty sang thị trường Mỹ qua các năm (2004-2007) Stt Kim ngạch Năm Kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc của công ty sang thị trường Mỹ (trUSD) Tổng kim ngạch nhập khẩu hàng may mặc của Mỹ (tỷUSD) Thị phần (10-4 %) 1 2004 51,590 38,12 0,1353 2 2005 45,260 33,55 0,1349 3 2006 49,902 40,23 0,1241 4 2007 48,802 37,98 0,1284 Từ bảng số liệu ta thấy: Thị phần xuất khẩu sản phẩm may mặc của công ty trên thị trường Mỹ tăng giảm không ổn định qua các năm. Năm 2004 thị phần của công ty trên thị trường Mỹ đạt mức cao nhất đạt 0,1353.10-4 %, 3 năm tiếp theo thị phần hàng may mặc của công ty liên tục giảm, năm 2005 giảm còn 0,1349.10-4 % và năm 2006 thị phần lại tiếp tục giảm chỉ còn 0,1241.10-4 %. Điều đó, phần nào phản ánh được sức cạnh tranh hàng may mặc của công ty trên thị trường Mỹ đã giảm sút, công ty cần thay đổi chiến lược sản xuất kinh doanh cho phù hợp để có thể cạnh tranh được với nhiều đối thủ mạnh trên thị trường Mỹ. 2.2.3.2 Tốc độ tăng doanh thu Tốc độ tăng doanh thu sản phẩm may mặc của công ty là tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu sản phẩm may mặc của công ty. Bảng 9: Tốc độ tăng doanh thu mặt hàng may của công ty trên thị trường Mỹ qua các năm(2004-2007) Stt Năm Trị giá 1000 trUSD Tốc độ tăng so với năm trước(%) 1 2004 36,584 2 2005 20,408 -44,21 3 2006 30,046 47,23 4 2007 23,527 -21,69 Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh của công ty qua các năm (2004-2007) Qua bảng số liệu trên ta thấy: Doanh thu hàng may mặc của công ty trên thị trường Mỹ qua các năm (2004-2007) tăng giảm không ổn định. Năm 2004 đạt doanh thu tương đối cao đạt 36,584 trUSD, năm 2005 thì doanh thu lại giảm xuống còn 20,048 trUSD và giảm 44,21% so với năm 2004, sang năm 2006 doanh thu xuất khẩu hàng may mặc của công ty sang thị trường Mỹ tăng 47,23 % so với năm 2005 đạt 30,046 USD. Năm 2007 doanh thu xuất khẩu dệt may của công ty sang Mỹ đã giảm 21,69% điều này cho thấy sức cạnh tranh của công ty trên thị trường Mỹ ngày càng giảm. Nguyên nhân làm cho năng lực cạnh tranh sản phẩm may mặc của công ty giảm chủ yếu là do yếu tố chủ quan nguyên liệu đầu vào sản xuất sản phẩm quá đắt làm cho giá sản phẩm khá đắt so với các sản phẩm cùng loại của đối thủ cạnh tranh. Nguyên nhân khách quan, số lượng các đối thủ cạnh tranh của công ty ngày một gia tăng cả về quy mô lẫn số lượng. Công ty cần phải điều chỉnh cho phù hợp với tình hình mới để nâng cao sức cạnh tranh của hàng may mặc của công ty trên thị trường quan trọng này. 2.2.3.3 Giá thành, giá cả Một trong những yếu tố cấu tạo nên giá thành thấp của sản phẩm may mặc đó chính là chi phí nhân công để sản xuất hàng hoá. Hàng may mặc Việt Nam nói chung được xếp vào nhóm hàng có sức cạnh tranh nhờ lợi thế chi phí lao động/ giờ công tương đối thấp. So sánh với một số quốc gia như Trung Quốc, Ấn Độ.. thì Việt Nam vẫn có chi phí nhân công lao động tương đối thấp. Chính vì thế giá hàng may mặc xuất khẩu của công ty ở mức vừa phải có thể chấp nhận được, tuy giá một vài sản phẩm cao hơn chút ít so với đối thủ cạnh tranh, nhưng nhà nhập khẩu vẫn chấp nhận được. Trong tương lai chi phí nhân công của công ty bị cạnh tranh bởi chi phí nhân công rẻ của các công ty của một số nước trong khu vực như Lào, Myanma, có chi phí thấp hơn. Tuy nhiên, chi phí nhân công chỉ là một yếu tố tạo nên giá thành của hàng hoá ngoài ra còn có nhiều loại chi phí khác tạo nên, các chi phí này đều ở mức cao hơn các công ty khác trong khu vực như giá nguyên vật liệu đầu vào của Việt Nam thường đắt hơn so với Trung Quốc. Trên thị trường Mỹ, các công ty của Trung Quốc là đối thủ cạnh tranh lớn của công ty cũng như của dệt may Việt Nam nói chung. Một đối thủ cạnh tranh chiếm ưu thế về giá nguyên vật liệu đầu vào rẻ, do họ có thể trồng, và sản xuất nguyên phụ liệu tại chỗ. Ngoài ra, hàng may mặc của công ty khi xuất khẩu sang thị trường Mỹ còn phải chịu các chi phí như cước thông tin liên lạc, vận tải biển, hàng không, các khoản phí phí đều cao, bên cạnh đó, những chi phí chính thức này còn có các chi phí không ghi hóa đơn do thủ tục hành chính của Việt Nam còn rườm rà... đã góp phần làm tăng giá thành của hàng may mặc xuất khẩu của công ty trên thị trường Mỹ. Chi phí cho nguyên phụ liệu nhập khẩu của hàng may mặc của công ty ở mức quá cao chiếm tới 80% tổng giá thành hàng may mặc. Phần quan trọng là giá trị gia tăng trong hàng may mặc của công ty chỉ có 5,15% nếu chỉ số này càng cao thì năng lực cạnh tranh hàng may mặc của công ty càng cao. Giá trị gia tăng hàng may mặc của công ty thấp do đổi mới công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực của công ty còn chậm, năng suất lao động thấp, lao động không có kỹ năng chiếm 6,524 % trong giá thành hàng may mặc của công ty, lao động có kỹ năng chiếm tỷ trọng rất nhỏ chỉ đạt 3,102% trong giá thành hàng may mặc của công ty, giá thành cao từ đó tạo ra giá bán cao làm giá trị gia tăng trong hàng may mặc của công ty thấp, làm giảm năng lực cạnh tranh của hàng may mặc của công ty trên thị trường Mỹ. Với lợi thế chi phí nhân công rẻ, hàng may mặc của công ty phải có sức cạnh tranh cao so với các đối thủ cạnh tranh trên thị trường nhưng lại ngược lại giá thành một số sản phẩm may mặc của công ty còn cao hơn so với các sản phẩm cùng loại của đối thủ cạnh tranh. Giá cả hàng may mặc của công ty xuất khẩu sang thị trường Mỹ còn cao, thường cao hơn 10%-15% so với các công ty khác trong khu vực. So sánh với hàng may mặc của các doanh nghiệp Trung Quốc hàng may mặc của công ty cao hơn 20%-30%. Công ty cần phải có sự điều chỉnh để giảm chênh lệch về giá giữa hàng may mặc của công ty so với các đối thủ cạnh tranh nhằm nâng cao sức cạnh tranh cho sản phẩm. * Một số chỉ tiêu mang tính định lượng phản ánh năng lực cạnh tranh hàng may mặc xuất khẩu của công ty trên thị trường Mỹ. 2.2.3.4 Chất lượng của sản phẩm, mức độ hấp dẫn của sản phẩm * Chất lượng sản phẩm Cùng với giá, chất lượng sản phẩm đóng vai trò vô cùng quan trọng, ảnh hưởng tới quyết định mua sản phẩm của khách hàng. Đối với thị trường Mỹ một thị trường khó tính có yêu cầu cao về chất lượng cũng như nhu cầu an toàn khi sử dụng sản phẩm. Ở Mỹ, hiệp hội bảo vệ người tiêu dùng sẵn sàng đấu tranh bảo vệ quyền lợi cho người tiêu dùng khi quyền lợi của họ không được bảo đảm. Hiểu rõ tầm quan trọng của chất lượng, công ty đã rất chú trọng tới việc đảm bảo chất lượng của sản phẩm xuất khẩu. Đại bộ phận người dân Mỹ có mức thu nhập từ trung bình trở xuống hài lòng về chất lượng sản phẩm của công ty. Không những chỉ chú trọng tới chất lượng của sản phẩm mà công ty còn quan tâm tới các quy định về quản lý chất lượng sản phẩm. Để đánh giá chất lượng hàng hoá, khách hàng Mỹ thường đánh giá gián tiếp thông qua hệ thống tiêu chuẩn quốc tế mà doanh nghiệp có được như ISO 9000, ISO 14000, tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội SA 8000, hoặc các nhãn sinh thái được gián lên sản phẩm. Sản phẩm may mặc của công ty đạt các chứng chỉ tiêu chuẩn chất lượng quốc tế nên thường được khách hàng ưu tiên lựa chọn và sản phẩm có sức cạnh tranh cao hơn so với một số đối thủ cạnh tranh.. *Mức độ hấp dẫn của sản phẩm. Sản phẩm xuất khẩu chủ lực như sơ mi, Jacket, áo khoác, quần jean được làm theo những mẫu chung, nguyên phụ liệu thông thường mà không có sự khác biệt, hơn nữa mức độ hấp dẫn hàng may mặc của công ty khó thể hiện do chưa chú trọng đến chất lượng của nguyên liệu đầu vào. Những nguyên liệu cao cấp như những loại vải dệt được ứng dụng công nghệ mới, công nghệ Nano tạo ra loại vải có sợi vải nhỏ mà bền đẹp, độ mịn cao, chống nhàu, chống thấm nước nếu được may với chất liệu đó sẽ rất đẹp, tạo cảm giác dễ chịu cho người mặc sản . Nhưng do những nguyên liệu này quá đắt nên công ty chưa thể ứng dụng trong sản xuất sản phẩm của mình, đây cũng là hạn chế làm giảm tính hấp dẫn của sản phẩm. 2.2.3.5 Uy tín của thương hiệu, hình ảnh của công ty. Người dân Mỹ khi mua hàng thường lựa chọn mua những sản phẩm có thương hiệu, uy tín thương hiệu chính là chỗ dựa vững chắc cho niềm tin của khách hàng. Công ty đã đăng ký nhãn hiệu trên thị trường Mỹ nhằm tránh hàng nhái hàng giả, bảo vệ người tiêu dùng, bảo vệ uy tín của công ty. Công ty vẫn duy trì mối quan hệ với những khách hàng lớn, đảm bảo mối quan hệ làm ăn lâu dài, có mối quan hệ tốt tới các trung gian thương mại vì nếu có sự chú ý của họ tới sản phẩm của công ty thì khả năng khách hàng biết tới sản phẩm, lựa chọn mua sản phẩm là rất cao. Công ty vẫn duy trì các hoạt động quảng bá, giới thiệu sản phẩm thông qua hội chợ triển lãm, nhưng hiệu quả đạt được chưa thực sự cao. Thương hiệu hàng may mặc của công ty chưa minh chứng cho khách hàng những giá trị gia tăng do sản phẩm của công ty mang lại. Giá trị gia tăng của hàng hoá là chất lượng, mẫu mã, giá cả, giá trị nghệ thuật của hàng hoá, dịch vụ khách hàng, sự an toàn… đó là những yếu tố quan trọng đánh giá mức độ giá trị gia tăng của sản phẩm. Công ty cần có những hoạt động quảng bá thương hiệu để hình ảnh sản phẩm cũng như hình ảnh của công ty in đậm trong tâm trí của khách hàng. 2.2.4 Các đối thủ cạnh tranh lớn của công ty Đối thủ cạnh tranh quốc tế Hiện nay, công ty phải cạnh tranh với rất nhiều đối thủ nặng ký trên thị trường Mỹ như các công ty của Trung Quốc, Srilanca, Ấn Độ... Những công ty này có nhiều lợi thế hơn hẳn cụ thể: Các công ty của Trung Quốc là đối thủ cạnh tranh mạnh nhất so với các đối thủ khác trên thị trường Mỹ năm 2007 Trung Quốc chiếm 65% thị phần hàng may mặc của Mỹ, hàng may mặc của Trung Quốc nổi bật với lợi thế chất lượng tốt, mẫu mã đa dạng, phong phú, giá bán thấp và được nhiều khách hàng Mỹ biết đến do có hệ thống kênh phân phối rộng khắp... Các công ty Trung Quốc là đối thủ cạnh tranh số 1 của các công ty Việt Nam nói chung của công ty nói riêng. Các công ty xuất khẩu hàng may mặc của Ấn Độ là đối thủ thứ hai của công ty do Ấn Độ là có đội ngũ các nhà thiết kế chuyên nghiệp nên Ấn Độ có ngành công nghiệp nguyên phụ liệu rất phát triển nhất là ngành dệt vải, do đó, giá thành sản phẩm thấp dẫn tới giá bán thấp hơn. Đối thủ cạnh tranh thứ ba của hàng may mặc Việt Nam nói chung và của công ty nói riêng là các công ty của Srilanca. Các doanh nghiệp của Srilanca biết sử dụng hình thức nhượng quyền thương mại. Họ mua nhượng quyền các thương hiệu may mặc nổi tiếng, với những nhãn mác nổi tiếng trên sản phẩm đã giúp cho sản phẩm may mặc của các công ty Srilanca bán chạy trên thị trường Mỹ, do đó làm giảm sức cạnh tranh hàng may mặc của công ty trên thị trường Mỹ. Một số nhà sản xuất, kinh doanh nước ngoài đã đã tiến hành sản xuất hàng hóa mang nhãn hiệu nổi tiếng của Mỹ như Nike, Reebok …sau đó xóa nhập khẩu vào Mỹ. Vì vậy, sản phẩm của những công ty này sau khi mua nhượng quyền thương hiệu sẽ tăng sức cạnh tranh. Để mài sắc cạnh tranh nhiều công ty may mặc của Mỹ theo đuổi khuynh hướng xây dựng liên kết thiết kế- nhãn hiệu-sản xuất- bán lẻ bằng việc sử dụng hệ thống đáp ứng nhanh. Đáp ứng nhanh là một hệ thống rút ngắn khoảng cách giữa điểm bán lẻ và nơi giao hàng, giảm thời gian không cần thiết, giảm chi phí sử lý giấy tờ… Đáp ứng nhanh đang trở nên ngày càng thiết yếu để cạnh tranh trên thị trường biến đổi nhanh như ngày nay. Lợi thế cạnh tranh của các nhà sản xuất, kinh doanh may mặc Mỹ so với các nhà nhập khẩu là NHÃN HIỆU, CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM và ĐÁP ỨNG NHANH. Các nhà sản xuất, kinh doanh Mỹ chú trọng tới thị trường khách hàng sang trọng, khó tính, công ty vẫn chưa chú trọng tới mảng thị trường quan trọng này. Đối thủ cạnh tranh trong nước Về đối thủ cạnh tranh trong nước công ty May Thăng Long cũng phải cạnh tranh với nhiều đối thủ đã từng có tiếng không chỉ ở trên sân nhà như công ty May 10, công ty May Việt Tiến, công ty May Nhà Bè, công ty An Phước, công ty may Hồ Gươm...Công ty Việt Tiến xuất khẩu sản phẩm với chất lượng tốt được khách hàng Mỹ chấp nhận và thời gian giao hàng tương đối đúng thời hạn tạo dựng được uy tín đối với các đối tác Mỹ. Công ty May Nhà Bè trong lĩnh vực sản xuất nguyên phụ liệu phục vụ cho ngành may, Nhà Bè đã liên doanh với các công ty nước ngoài để sản xuất sản phẩm các loại cho nên giá cả hàng may mặc công ty thấp mà công ty May Thăng Long không thể cạnh tranh nổi trên thị trường Mỹ. Nhìn chung, công ty May Nhà Bè, công ty May Việt Tiến là hai trong số những công ty của Việt Nam có kim ngạch xuất khẩu sang thị trường thế giới nói chung và thị trường Mỹ nói riêng đạt ở mức cao, cả hai công ty đều có dây chuyền may đồng bộ tạo ra những mặt hàng may mặc có chất lượng không thua kém hàng may mặc của các đối thủ của Trung Quốc, Ấn Độ. Vì vậy, nếu công ty cần có những đổi mới cần thiết để có thể cạnh tranh được với chính các đối thủ trong nước trên thị trường Mỹ. 2.2.5 Các biện pháp công ty sử dụng nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm 2.2.5.1Công ty cạnh tranh bằng sản phẩm cấp trung bình và cấp thấp Sản phẩm may mặc của công ty nhắm vào nhóm khách hàng bình dân. Và doanh số bán hàng từ nhóm khách hàng này cao hơn so với đối thủ cạnh tranh. Do công ty đã tìm hiểu về nhóm khách hàng này, nên đã có những sản phẩm phù hợp. 2.2.5.2 Công ty cạnh tranh bằng giá. Giá là một trong những công cụ cạnh tranh hữu hiệu của công ty. Giá là công cụ cạnh tranh phổ biến được nhiều doanh nghiệp sử dụng để nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm do biện pháp này dễ thực hiện và có hiệu quả tức thì. Nhưng về lâu dài thì chính sách này tỏ ra không hiệu quả, vì nó đem lại lợi nhuận không nhiều. Công ty đang sử dụng chính sách giá cạnh tranh, vì trên thị trường hiện nay công ty phải đối đầu với nhiều đối thủ cạnh tranh cả trong và ngoài nước. Tuy nhiên, đối với mặt hàng may mặc là mặt hàng chủ lực của công ty thì công ty bán với các mức giá rất khác nhau. Để khuyến khích khách hàng Mỹ mua nhiều và tạo mối quan hệ bạn hàng truyền thống công ty đã sử dụng chính sách giá linh hoạt bằng cách giảm giá hoặc chiết khấu... 2.2.5.3 Công ty cạnh tranh bằng thời hạn giao hàng. Đáp ứng nhu cầu khách hàng một cách nhanh chóng kịp thời là một trong những tiêu chí giúp khách hàng lựa chọn sản phẩm của công ty. Do vậy, giao đủ hàng, đúng mặt hàng, kịp thời gian luôn được công ty quan tâm, đáp ứng. Người tiêu dùng trên thị trường Mỹ rất hài lòng về phong cách phục vụ của công ty và đây là điểm khác biệt so với đối thủ cạnh tranh 2.3 Đánh giá kết quả cạnh tranh ở thị trường Mỹ của công ty may Thăng Long. 2.3.1 Những thành tựu đạt được Hàng may mặc là một trong những mặt hàng xuất khẩu chính của công ty. Hàng năm, việc xuất khẩu mặt hàng này của công ty đã đạt được những kết quả đáng khích lệ với kim ngạch xuất khẩu lớn hơn những mặt hàng khác. Trong bối cảnh giá nguyên liệu trong nước và thế giới có nhiều thay đổi theo chiều hướng tăng thì khả năng tiếp cận và cạnh tranh hàng may mặc của công ty vào thị trường Mỹ được xem là có thuận lợi. Công ty tìm mọi biện pháp hữu ích để nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng may mặc, từ đó, nhiều công nghệ sản xuất hiện đại đã được công ty đưa vào sử dụng vì vậy, mà năng suất lao động ngày càng được cải thiện, chất lượng hàng may mặc tăng lên công ty đã đạt được chứng chỉ ISO 9001 góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm may mặc trên thị trường Mỹ của công ty. Công ty đã có nhiều nỗ lực trong việc cải tiến mẫu mã, đa dạng hoá chủng loại, cơ cấu mặt hàng xuất khẩu sang thị trường Mỹ. Công tác đào tạo thiết kế và Maketing được quan tâm chú trọng hơn. Công ty cũng đã dần chủ động hơn trong khâu thiết kế mẫu mã, tăng giá trị cho hàng may mặc của mình. Trước sức ép mạnh mẽ của đối thủ cạnh tranh buộc ban lãnh đạo của công ty không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng giao dịch đàm phán, giao dịch thương mại, nghiên cứu thị trường, tìm kiếm hệ thống kênh phân phối, thực hiện hoạt động xúc tiến thương mại… Do đó, mà trình độ của các nhà quản lý trong công ty không ngừng được nâng cao cả về lượng và chất. Có thể nói, với những kết quả đạt được như vậy cùng với sự nỗ lực lớn của công ty, công ty sẽ tiếp tục khẳng định được vị thế của mình trong lĩnh vực xuất khẩu hàng may mặc ra thế giới nói chung và sang thị trường Mỹ nói riêng. 2.3.2 Các tồn tại trong hoạt động cạnh tranh hàng may mặc của công ty trên thị trường Mỹ. *Chất lượng hàng may mặc của công ty chưa ổn định và đồng đều, một số sản phẩm còn bị phai màu dưới tác dụng của các điều kiện lý hóa như ánh sáng mặt trời…Đây là hạn chế trong khâu kiểm tra kiểm soát trong quá trình nhuộm. Mẫu mã hàng may mặc của công ty còn đơn điệu về mầu sắc, kiểu dáng, các sản phẩm may mặc ít có sự khác biệt. Để tạo nên sự khác biệt cho sản phẩm đòi hỏi phải có đội ngũ thiết kế thời trang chuyên nghiệp, nắm bắt kịp thời thị hiếu của khách hàng trên thị trường mình muốn nhắm tới. Thời gian giao hàng của công ty thường bị trễ không đúng hạn do quy mô sản xuất của công ty nhỏ, nhưng những đơn đặt hàng của các nhà nhập khẩu có số lượng lớn và thời gian giao hàng lại ngắn thêm vào đó công ty lại thụ động về nguyên liệu đầu vào do phải nhập khẩu, đồng thời máy móc thiết bị lạc hậu, các thủ tục hành chính rườm rà trong thủ tục hải quan. *Công ty chủ yếu sản xuất và kinh doanh mặt hàng đơn giản, giá trị thấp và sức ép cạnh tranh cao hướng tới khách hàng có thu nhập trung bình và thấp. Sản phẩm chưa hướng tới những khách hàng có thu nhập cao, mặt hàng may mặc còn đơn điệu thiếu sáng tạo trong thiết kế điều này làm giảm năng lực cạnh tranh của sản phẩm so với sản phẩm của đối thủ cạnh tranh. Những sản phẩm mà công ty bán dễ làm và cũng dễ tiêu thụ, cũng là những mặt hàng có doanh số cao của các đối thủ cạnh tranh. Đối thủ cạnh tranh hơn hàng may mặc của công ty là họ không ngừng đầu tư vào các mặt hàng may mặc cao cấp để tạo ra sự khác biệt giúp tăng khả năng cạnh tranh của hàng may mặc trên thị trường Mỹ mà hàng may mặc của công ty không có được, do đó, sức ép cạnh tranh đối với hàng may mặc của công ty trên thị trường Mỹ là rất lớn. * Hệ thống cửa hàng kênh phân phối của công ty trên thị trường Mỹ. Sản phẩm may mặc của công ty chưa tiếp cận trực tiếp được với những kênh phân phối của các nhà bán lẻ, siêu thị lớn. Hàng may mặc của công ty mới chỉ đưa vào kênh phân phối của các nhà sản xuất Mỹ, các nhà sản xuất Mỹ nhập khẩu về để bán. Ngoài ra, công ty thường sử dụng những kênh phân phối gián tiếp thông qua các trung gian thương mại việc sử dụng các kênh phân phối như vậy rất bị động, sức cạnh tranh hàng may mặc của công ty trên thị trường Mỹ bị ảnh hưởng rất nhiều. *Hoạt động xúc tiến thương mại của công ty chưa thực hiện tốt bởi chi phí cho hoạt động này rất tốn kém, đồng thời thiếu tính linh hoạt và đa dạng về cách thức, phương tiện quảng cáo. Công tác quan hệ công chúng ( PR ) của công ty còn hạn chế dẫn tới các thông tin về hàng may mặc của công ty chưa được nhiều khách hàng biết tới. Việc tham gia các hội chợ, triển lãm, các cuộc tiếp xúc của công ty với các doanh nghiệp trên thị trường Mỹ là chưa đủ cần phải có nhiều hình thức quảng cáo hơn , cần có cửa hàng của công ty ở các trung tâm thương mại đặt tại một số quốc gia tiêu thụ hàng may mặc lớn. Việc xây dựng website quảng bá hình ảnh của công ty chưa thật sự hiệu quả, nội dung website của công ty còn sơ xài, không được cập nhật thường xuyên, không đạt hiệu quả trong việc quảng bá, phatr triển hình ảnh của công ty. => Nguyên nhân Công ty chủ yếu sử dụng nguyên vật liệu nhập khẩu nên giá thành sản phẩm cao vì nguồn nguyên liệu trong nước không đảm bảo chất lượng để sản xuất hàng may mặc sang thị trường Mỹ. Công ty đã dùng chính sách giá để cạnh tranh thì chắc chắn hiệu quả sẽ không cao. Đội ngũ thiết kế chưa thực sự có chuyên môn cao và có những hiểu biết chưa sâu sắc về thị trường Mỹ để thiết kế những mẫu trang phục cho thực sự phù hợp. Do vậy, đã làm giảm tính phong phú, đa dạng của các mẫu sản phẩm làm cho hàng may mặc của công ty không đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. Công ty chưa có chính sách đầu tư thích đáng cho công tác nghiên cứu thị trường Mỹ nếu. Các biện pháp chưa được phối hợp đồng bộ, không liên tục, rời rạc. Các biện pháp mà công ty đã sử dụng chủ yếu là giới thiệu qua sách báo, tạp chí còn các biện pháp sử dụng để tiếp xúc trực tiếp với khách hàng qua hội chợ triển lãm còn rất ít vì chi phí để mang hàng sang các hội chợ để giới thiệu sản phẩm tới khách hàng Mỹ là rất lớn mà khả năng tài chính của công ty còn eo hẹp. Chất lượng sản phẩm của công ty chưa ổn định do công tác kiểm tra giám sát sản xuất hàng may mặc chưa thực sự đạt hiệu quả. Do quy mô sản xuất của công ty còn nhỏ, thêm vào đó công ty còn bị động về nguyên phụ liệu do phải nhập khẩu nhiều. Hạn chế trong khâu quản lý, việc quản lý kém dẫn tới năng suất không cao làm giảm tính cạnh tranh.Trình độ ngoại ngữ của của các bộ thực hiện nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu còn yếu kém. Ở Việt Nam còn có quá nhiều thủ tục hành chính rườm rà trong việc xuất khẩu làm mất thời gian, gây ra sự chậm trễ trong việc thực hiện các đơn hàng của công ty. CHƯƠNG 3 BIỆN PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH SẢN PHẨM MAY MẶC XUẤT KHẨU CỦA CÔNG TY TRÊN THỊ TRƯỜNG MỸ 3.1 Dự báo nhu cầu tiêu dùng sản phẩm may mặc của Mỹ trong những năm tới Trong những năm tới đây, Mỹ vẫn là một trong những thị trường tiêu thụ hàng may mặc lớn, là 1 thị trường đầy tiềm năng nhưng cũng “gai góc” đối với các nhà xuất khẩu may mặc vào thị trường này. Mỹ có xu hướng nhập khẩu hàng may mặc từ các nước đang phát triển với mức giá thấp vì Mỹ chú trọng vào công nghiệp nặng và công nghệ thông tin để xây dựng và phát triển kinh tế, ngoài ra Mỹ chủ yếu tập trung vào việc sản xuất hàng may mặc cao cấp, đòi hỏi kỹ thuật cao, mẫu mã phức tạp chứ không chú ý tới đoạn thị trường phục vụ nhu cầu ăn mặc thông thường, mặt khác chi phí sản xuất ở đây cũng rất cao. Người Mỹ luôn đòi hỏi cao về chất lượng với hàng may mặc. Họ yêu cầu hàng may mặc phải phong phú về mẫu mã, kích cỡ, đa dạng về chủng loại, mầu sắc đặc biệt hàng may mặc là loại hàng chịu ảnh hưởng rất lớn của tính văn hóa, phong tục tập quán, sở thích…những mặt hàng này thì giá thấp cho nên người tiêu dùng có thể thay đổi một cách thường xuyên. Xu hướng tiêu dùng những hàng may mặc có nguồn nguyên liệu tự nhiên. Vì thế, xu hướng tiêu dùng hàng may mặc trong những năm tới là dùng các sản phẩm được làm từ tơ tằm, thổ cẩm… Nắm bắt được nhu cầu tiêu dùng của người dân Mỹ, công ty cần đưa ra sản phẩm đáp ứng tốt nhu cầu đó nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm. 3.2 Các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm may mặc xuất khẩu của công ty. 3.2.1 Nâng cao chất lượng, đa dạng hóa sản phẩm. *Chất lượng sản phẩm tốt đồng nghĩa với sức cạnh tranh của sản phẩm cao. Chất lượng sản phẩm tốt bên cạnh thỏa mãn tốt nhu cầu của khách hàng, còn phải đáp ứng những tiêu chuẩn an toàn về sản phẩm của Mỹ. Bên cạnh biện pháp hữu hiệu nhằm đáp ứng yêu cầu của Mỹ về tiêu chuẩn đối với hàng may mặc nhập khẩu, công ty có thể mời các chuyên gia đánh giá về chất lượng của Mỹ trong thẩm định chất lượng hàng may mặc của công ty xuất khẩu sang thị trường Mỹ bởi vì, ngoài đánh giá chất lượng hàng may mặc xuất khẩu sang Mỹ bằng các tiêu chuẩn quốc tế, Mỹ còn có các tiêu chuẩn riêng tiêu chuẩn của quốc gia để đánh giá. Nếu sản phẩm đạt được các tiêu chuẩn quốc tế đó, thì đó chính là một cơ hội tốt để sản phẩm, cũng như công ty tạo uy tín, chỗ đứng trên thị trường Mỹ. Là biện pháp hữu hiệu nhất nhằm nâng cao uy tín hàng may mặc của công ty, khẳng định chất lượng hàng may mặc của công ty có phù hợp với tiêu chuẩn của Mỹ, từ đó nâng cao sức cạnh tranh hàng may mặc của công ty trên thị trường Mỹ. Công ty nên nghiên cứu và thực hiện các tiêu chuẩn nhãn hiệu sinh thái của Mỹ, để hàng may mặc của công ty sớm được dán nhãn sinh thái, trong khi hàng may mặc của các đối thủ cạnh tranh đang có chiến lược thực hiện dán nhãn sinh thái, nếu họ thực hiện trước thì hàng may mặc của các doanh nghiệp này có sức cạnh tranh rất mạnh. Nâng cao chất lượng sản phẩm đồng nghĩa với việc nâng cao chất lượng của nguyên phụ liệu. Đòi hỏi công ty phải nghiên cứu và tổ chức tốt công tác thu mua nguyên liệu đầu vào. *Đa dạng hoá mặt hàng may mặc xuất khẩu Một trong những biện pháp của công ty để nâng cao sức cạnh tranh của hàng may mặc trên thị trường Mỹ là đa dạng hoá hàng may mặc xuất khẩu, có nhiều cách thức để đa dạng hoá. Để đa dạng hóa hàng may mặc xuất khẩu trước tiên công ty cần phải đa dạng hoá về chất liệu để tạo ra sản phẩm. Đa dạng hóa mẫu mã sản phẩm thông qua các ý tưởng thiết kế là rất quan trọng vì nếu có nhiều nguyên phụ liệu mà ý tưởng thiết kế thiếu tính sáng tạo, mới mẻ thì hàng may mặc của công ty sẽ không thể cạnh tranh được với các đối thủ. Ngành Dệt May Việt Nam không thể tiếp tục phát triển theo cách hiện nay là dựa vào nguồn nhân công rẻ, tay nghề khéo léo mà phải chuyển sang giai đọan mới là khai thác phần giá trị tăng thêm trong sản phẩm. Một trong những cách khai thác tốt nhất giá trị tăng thêm là phải tự thiết kế sản phẩm, xây dựng thương hiệu và tổ chức bán hàng và các dịch vụ về thời trang, từ đó biến ngành dệt may thành một ngành công nghiệp thời trang đúng nghĩa. Tự thiết kế, sáng tạo các mẫu mới phong phú đa dạng, công ty cần có một đội ngũ thiết kế năng động sáng tạo và đặc biệt là phải có kinh nghiệm trong nắm bắt nhu cầu tiêu dùng sản phẩm của khách hàng.Ý tưởng của đội ngũ thiết kế trong công ty nếu hay, đặc sắc sẽ tạo nên những sản phẩm may mặc với nhiều màu sắc khác nhau, công dụng khác nhau sẽ kết hợp với các chất liệu khác nhau, ý tưởng của đội ngũ thiết kế trong công ty phải xuất phát từ nhu cầu, thị hiếu của khách hàng Mỹ. Để có một đội ngũ thiết kế chuyên nghiệp, công ty cần làm tốt từ khâu đầu tiên là lựa chọn nhà thiết kế, và không ngừng bồi dưỡng cho các nhà thiết kế những khóa học về thời trang, rèn luyện và bồi dưỡng cộng với tinh thần ham học hỏi của các nhà thiết kế sẽ giúp công ty có được những sản phẩm thời trang, phong cách và quan trọng là thỏa mãn tốt nhu cầu của khách hàng. Đối với mỗi loại hàng may mặc phù hợp trong từng thời gian khác nhau. Do vậy, công ty cần hình thành theo những bộ sưu tập thời trang theo mùa, làm được điều này hàng may mặc của công ty sẽ thể hiện được tính chuyên nghiệp cao. Công ty muốn đa dạng hoá được sản phẩm, cần có những thông tin nghiên cứu thị trường biết được thị trường cần gì và công ty sẽ cố gắng thay đổi cho phù hợp với nhiều loại hàng và nhiều chất liệu khác nhau, đó chính là biện pháp rất tốt để nâng cao sức cạnh tranh hàng may mặc của công ty trên thị trường Mỹ. 3.2.2 Hạ giá bán sản phẩm bằng cách hạ chi phí phí liên quan. Hiện nay, giá bán một số mặt hàng may mặc xuất khẩu sang thị trường Mỹ của công ty còn cao. Do đó, trong sản xuất kinh doanh hàng may mặc công ty cần hạ chi phí liên quan, những chi phí không có ích từ đó làm giảm giá bán. Giảm các chi phí liên quan không có nghĩa là công ty cắt giảm các chi phí càng nhiều càng tốt, đối với những chi phí chi cho hoạt động có ích như PR, quảng cáo nên có, nhưng với mức độ quy mô sao cho hiệu quả là tối ưu nhất. Cắt giảm những chi phí không có ích như bị phạt hợp đồng do trễ thời gian giao hàng, bảo quản hàng không tốt bị hư hỏng…Trong vấn đề hạ giá bán công ty cần chú ý hạ chi phí trong sản xuất kinh doanh góp phần làm giảm giá bán nhưng không được vi phạm Luật chống bán phá giá của Mỹ. Giảm chi phí bằng cách tìm nhà cung ứng nguyên vật liệu giá phải chăng. Giảm chi phí bằng cách đẩy mạnh công tác quản lý chặt chẽ khâu sản xuất và xuất khẩu. Đẩy mạnh giao dịch bằng các ứng dụng thương mại điện tử trong kinh doanh. Thông qua đó, công ty có thể giảm chi phí hạ giá thành hàng may mặc điều này thì công ty đã và đang thực hiện, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng may mặc Việt Nam trên thị trường Mỹ. 3.2.3 Các giải pháp về thị trường. *Giải pháp về nhượng quyền thương mại Nhượng quyền thương mại là việc công ty thuê sử dụng một thương hiệu, phương thức, điều kiện kinh doanh của doanh nghiệp nhượng quyền trong một thời gian nhất định. Công ty phải trả cho bên nhượng quyền một khoản lệ phí và tuân thủ theo các yêu cầu của bên nhượng quyền về chất lượng sản phẩm, kiểu dáng và những yêu cầu khác để đảm bảo uy tín cho bên nhượng quyền. Thực tế là công ty Cổ phần May Thăng Long chưa tạo dựng được uy tín cao với khách hàng trên thị trường, nên việc đẩy mạnh xuất khẩu thông qua nhượng quyền thương mại là rất cần thiết đối với công ty. Giải pháp này giúp hàng may mặc của công ty nâng cao uy tín, nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường Mỹ. *Sử dụng nhiều kênh phân phối Sử dụng đa dạng các kênh phân phối là một trong những biện pháp hữu hiệu để nâng cao sức cạnh tranh hàng may mặc của công ty trên thị trường Mỹ do được nhiều người tiêu dùng Mỹ biết đến, từ đó mà hình ảnh sản phẩm may mặc của công ty được cải thiện hơn. Công ty nên cung cấp hàng may mặc cho các siêu thị lớn, nhưng với điều kiện công ty phải đáp ứng những yêu cầu chặt chẽ của các nhà nhập khẩu Mỹ đề ra là phải cung cấp một khối lượng lớn, thời gian giao hàng phải tuyệt đối đúng hạn, giá cả rẻ, chất lượng hàng tốt… Với hình thức cung cấp này công ty sẽ có được đơn hàng lớn, ổn định. Các công ty siêu thị bán lẻ các hàng tiêu dùng, chủ yếu là quần áo và dụng cụ gia đình của Mỹ như: Sears với hơn 870 cửa hàng. JC Penney Company Boston… Công ty nên cung cấp qua những trung gian thương mại như các nhà bán buôn nhập khẩu sau đó các nhà bán buôn này lại bán cho các nhà bán lẻ, các đại lý từ đó tăng doanh thu, tăng thị phần cho công ty. Công ty nên cung cấp qua các nhà bán lẻ đây là kênh phân phối tốt nhất vì những nhà bán lẻ có vai trò quan trọng trong hệ thống kênh phân phối hàng may mặc trên thị trường Mỹ. Các nhà phân phối này ngoài hệ thống các cửa hàng, siêu thị khắp các quốc gia trong Mỹ còn có hệ thống các cửa hàng, siêu thị ở các quốc gia trên châu lục khác. Qua đó, hàng may mặc của công ty không chỉ được biết tới ở thị trường Mỹ mà còn ở các quốc gia trên thế giới. Tóm lại, khi kênh phân phối hàng may mặc của công ty được mở rộng, sẽ tạo sự ảnh hưởng nhất định đối với đối thủ cạnh tranh và khách hàng Mỹ từ đó nâng cao sức cạnh tranh hàng may mặc của công ty trên thị trường Mỹ. *Tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại Để khách hàng Mỹ có được những thông tin tốt về chất lượng hàng may mặc của công ty thì công ty nên tạo mối quan hệ tốt với các tổ chức liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới mua sắm hàng may mặc của khách hàng như hiệp hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trên thị trường Mỹ. Đồng thời, công ty nên tăng cường các hoạt động quảng cáo, tham gia các hội chợ được tổ chức hàng năm tại thị trường Mỹ từ đó góp phần nâng cao sức cạnh tranh hàng may mặc của công ty trên thị trường. Internet ảnh hưởng tới tất cả các khía cạnh của ngành từ việc bán thẳng cho người tiêu dùng đến việc đặt hàng tới các nhà cung cấp. Internet giúp cho việc mua sắm có hiệu quả hơn đối với hàng triệu người tiêu dùng, giảm chi phí sản xuất và tiêu thụ, Internet khiến cho kinh doanh may mặc đạt hiệu quả hơn. Công ty cần xây dựng Website quảng bá hình ảnh sản phẩm cũng như công ty, nó đạt hiệu ứng tới tất cả những khách hàng ở xa, với chi phí rẻ hiệu quả nhanh. Kinh doanh thương mại điện tử là một tất yếu trong kinh doanh hiện đại, nó dần thay thế cho loại hình kinh doanh truyền thống. Công ty cần có chiến lược về kinh doanh, giới thiệu sản phẩm trên mạng để đạt được mục tiêu kinh doanh đã đạt ra. 3.3 Các điều kiện để thực hiện các giải pháp trên Một số kiến nghị đối với Chính phủ, các bộ ngành liên quan Hỗ trợ nghiên cứu thị trường Hỗ trợ các doanh nghiệp trong nghiên cứu thị trường, tìm kiếm thông tin, thiết lập các kênh phân phối, tham gia hội chợ, triển lãm, hội thảo, các quan hệ công chúng, đặc biệt cung cấp thông tin về thị trường, những biến động của thị trường để có những dự báo cần thiết. Những thông tin thu thập được rất quan trọng, nó ảnh hưởng tới chiến lược xuất khẩu của doanh nghiệp, vì vậy, nó ảnh hưởng tới việc nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng may mặc Việt Nam trêng thị trường Mỹ. Các Hiệp hội, phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam cần phát huy hơn nữa vai trò của mình trong việc chủ động đưa ra các biện pháp và hạn chế được tác động của cơ chế giám sát từ phía Mỹ, để góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng may mặc Việt Nam trên thị trường Mỹ. Bộ Công Thương cần tiến hành giám sát chặt chẽ hoạt động xuất khẩu hàng may mặc sang thị trường Mỹ, xây dựng cơ chế quản lý, giám sát hàng dệt may xuất khẩu theo phương pháp “hậu kiểm” nhằm ngăn ngừa các hành vi gian lận thương mại, nhằm đảm bảo uy tín cho dệt may Việt Nam nói chung, các doanh nghiệp xuất khẩu nói riêng nhằm thu hút được những đơn hàng lớn từ thị trường này. Bộ Công Thương đã bãi bỏ giấy phép tự động (E/L) đối với xuất khẩu hàng dệt may, nhằm kiểm soát được chất lượng hàng khi xuất sang thị trường Mỹ. Khi xây dựng chiến lược hỗ trợ các doanh nghiệp may mặc xuất khẩu theo từng nhóm hàng, từng khu vực thị trường, Hiệp hội dệt may (Vista) cần có đội ngũ tư vấn thị trường, kinh doanh…để sẵn sàng giúp đỡ các doanh nghiệp khi cần. Sự phối hợp hoạt động này, góp phần tăng năng lực cạnh tranh của hàng may mặc Việt Nam trên thị trường Mỹ. Trong điều kiện kinh doanh trên thị trường Mỹ có nhiều biến động và áp lực cạnh tranh rất lớn, Nhà nước cần sẵn sàng hỗ trợ các doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh của hàng may mặc Việt Nam trên thị trường Mỹ bằng việc cung cấp thông tin liên quan như tìm kiếm khách hàng, hệ thống kênh phân phối, các dịch vụ hỗ trợ bán hàng nhằm bảo đảm năng lực cạnh tranh lâu dài. Đồng thời sớm đưa ra những dự báo có thể xảy ra của môi trường kinh doanh và giúp doanh nghiệp chuẩn bị sẵn sàng đối phó hiệu quả. Hiệp hội dệt may Việt Nam cần sớm đưa ra giải pháp kiến nghị với các cơ quan trong việc đơn giản hóa các thủ tục hành chính xét duyệt các chương trình xúc tiến thương mại trên thị trường Mỹ. Đây là giải pháp thiết thực giúp nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng may mặc Việt Nam trên thị trường Mỹ. Chính sách cho vay đối với các doanh nghiệp dệt may cần được hoàn thiện, hỗ trợ các doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận với các nguồn tài chính của Chính phủ. Các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh xuất khẩu hàng may mặc đang trong tình trạng thiếu vốn nghiêm trọng để thực hiện đổi công nghệ mới, đào tạo nâng cao tay nghề cho người lao động, xây dựng và quảng bá thương hiệu hàng may mặc Việt Nam trên thị trường Mỹ. Vốn là yếu tố đầu vào không thể thiếu của quá trình sản xuất kinh doanh, vốn càng lớn đồng nghĩa với việc doanh nghiệp có thể thực hiện các điều kiện, các hoạt động cần thiết cho quá trình kinh doanh của mình 1 cách hiệu quả nhất. Chính phủ cần có những chính sách, thủ tục cho vay sao cho chặt chẽ nhưng cũng linh hoạt để các doanh nghiệp có thể tiếp vay vốn nhanh nhất, và kịp thời trong hoạt động kinh doanh của mình.Để các doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh thì Chính phủ nên khai thác tối đa ưu đãi cho các quốc gia đang phát triển trong hỗ trợ cho vay các doanh nghiệp mà được phép của WTO. Đào tạo, phát triển nguồn nhân lực cần có sự hỗ trợ của Chính phủ. Ngành Dệt May sử dụng nhiều lao động, do vậy chất lượng của nguồn lực lao động là một nhân tố mang tính sống còn cho ngành. Việc nâng cao chất lượng lao động, đặc biệt là lực lượng quản lý cấp trung sẽ góp phần hết sức quan trọng trong việc nâng cao được giá trị gia tăng, cải thiện mức thu nhập cho người lao động. Ngoài ra, việc nâng cao chất lượng nguồn lực lao động này còn giúp ngành dệt may đối phó với tình trạng thiếu hụt lao động, góp phần thoát khỏi tình trạng thâm dụng lao động, chỉ dựa vào nguồn lao động giá rẻ. Nhà nước nên có hỗ trợ đào tạo ban đầu cho các chuyên viên thiết kế trong nước, đặc biệt là mời những chuyên gia thiết kế có tiếng trên thế giới để các nhà thiết kế trong nước có điều kiện tiếp cận trực tiếp với yêu cầu của thị trường quốc tế và biến những sản phẩm được thiết kế ra có khả năng chào bán; hơn là chỉ nặng về trình diễn như hầu hết các sản phẩm được thiết kế hiện nay. Hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn chất lượng Cạnh tranh giữa các sản phẩm là sự tương quan giá cả, chất lượng giữa các sản phẩm, đây là một trong 2 yếu tố cơ bản nhất khi so sánh các sản phẩm với nhau. Để nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng may mặc Việt Nam trên thị trường Mỹ thì nâng cao chất lượng hàng may mặc là vấn đề rất cần thiết. Chất lượng hàng may mặc cần phải đạt tiêu chuẩn chất lượng của Mỹ Do vậy, cần xây dựng tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm may mặc Việt Nam gần hơn với tiêu chuẩn chất lượng của quốc tế. Khi xây dựng các tiêu chuẩn cần căn cứ vào hệ thống tiêu chuẩn chất lượng quốc tế làm cơ sở cho xây dựng và hoàn thiện tiêu chuẩn chất lượng của Việt Nam, các tiêu chuẩn chất lượng của Việt Nam nên gắn với các tiêu chuẩn chất lượng của quốc tế. Tổng cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng Việt Nam cần xây dựng cơ chế và thiết lập hệ thống kiểm tra, giám sát việc sử dụng những hoá chất trong sản xuất các nguyên phụ liệu phục vụ cho các doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc xuất khẩu. Bên cạnh đó, cần xây dựng những phòng thí nghiệm với trang thiết bị hiện đại để đánh giá chất lượng hàng may mặc trên cơ sở tiêu chuẩn quốc tế. Cải cách thủ tục hải quan Hiện nay, vấn đề về các thủ tục hải quan của Việt Nam còn nhiều vấn đề cần giải quyết sao cho thời gian hoàn thành thủ tục hải quan của các doanh nghiệp được rút ngắn, nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất khẩu cho doanh nghiệp nói riêng và cho hoạt động xuất khẩu dệt may của nước ta nói chung. Cải cách thủ tục hải quan theo hướng một cửa, một dấu nhằm giảm tối đa thời gian cho các khẩu thủ tục hành chính để đáp ứng thời gian giao hàng. KẾT LUẬN Như vậy, có thể khẳng định thị trường Mỹ là một thị trường rộng lớn đầy tiềm năng, có nhu cầu rất phong phú đa dạng về sản phẩm may mặc, do đó để nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh và không ngừng phát triển lớn mạnh hơn nữa thì mục tiêu xâm nhập, đứng vững và dần khẳng định vị trí của mình trên thị trường Mỹ là nhiệm vụ tất yếu đối với Công ty cổ phần May Thăng Long trong thời gian tới. Đặc biệt là trong hoàn cảnh hiện nay mối quan hệ Việt – Mỹ đang trở nên ngày càng tốt đẹp đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho hoạt động thương mại của hai nước cũng như hoạt động xuất khẩu sản phẩm may mặc sang thị trường Mỹ . Song bên cạnh đó vẫn còn không ít khó khăn mà công ty phải đối mặt khi thâm nhập vào thị trường Mỹ một thị trường khó tính và có sự cạnh tranh hết sức gay gắt cả về phạm vi và mức độ. Do vậy, để tồn tại và phát triển trên thị trường Mỹ, công ty cần không ngừng nỗ lực đổi mới, tận dụng những cơ hội tiềm năng vốn có của mình mới có thể nâng cao năng lực cạnh tranh mặt hàng của công ty trên thị trường này. Bài viết gặp không ít thiếu xót, cũng như khả năng phân tích chưa sắc bén, được sự giúp đỡ, sửa chữa, góp ý của thầy PGS_TS Hoàng Minh Đường em đã hoàn thành bài viết. Em xin chân thành cảm ơn thầy. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Sách 1. Giáo trình: “Quản trị doanh nghiệp thương mại” Đồng chủ biên: PGS-TS Hoàng Minh Đường và PGS-TS Nguyễn Thừa Lộc 2. Giáo trình “Marketing thương mại”, TS Nguyễn Xuân Quang 3. Giáo trình “Quản trị dự án và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài FDI” PGS.TS Nguyễn Thị Hường 4. Giáo trình “Kinh doanh quốc tế” PGS.TS Nguyễn Thị Hường 5. Giáo trình “Maketing quốc tế” PTS Nguyễn Cao Văn 4. “Nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế” TS Vũ Trọng Lâm 6. “Nâng cao sức cạnh tranh xuất khẩu trên cơ sở cắt giảm chi phí” TS Đinh Văn Ân và TS Lê Xuân Ba Tài liệu công ty 1. Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh của công 2. Báo cáo tài chính của công ty 3. Báo cáo tình hình xuất nhập khẩu của công ty Các trang web MỤC LỤC DANH MỤC BẢNG VÀ BIỂU ĐỒ Bảng 1: Thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh 38 Bảng 2: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh: 39 Bảng 3: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Hoa Kỳ 41 Bảng 4: Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Mỹ của công ty. 43 Bảng 6: Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Mỹ của công ty so với tổng KNXK của công ty 45 Bảng 7 : Tỷ trọng doanh thu xuất khẩu sang Mỹ theo mặt hàng. 47 Bảng 8: Thị phần xuất khẩu mặt hàng may mặc của công ty sang thị trường Mỹ qua các năm (2004-2007) 48 Bảng 9: Tốc độ tăng doanh thu mặt hàng may của công ty trên thị trường Mỹ qua các năm(2004-2007) 49 Biểu đồ 1: Kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Mỹ qua các năm 44 Biểu đồ 2: KNXK sang thị trường Mỹ và tổng KNXK của công ty 45

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc11514.doc
Tài liệu liên quan