Chuyên đề Ngăn ngừa rủi ro tín dụng đối tượng hộ sản xuất kinh doanh ở chi nhánh Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông thôn huyện Đông Sơn – Thanh Hóa

- Đề xuất một số giải pháp cụ thể để phòng ngừa, hạn chế rủi ro tín dụng đối tượng hộ sản xuất tại Chi nhánh NHNo & PTNT Đông Sơn Đó là các giải pháp về cán bộ, về nghiệp vụ, về quản lý, điều hành, kiểm sóat và xử lý rủi ro của ngân hàng . Và những giải pháp nhằm nâng cao năng lực tự chủ trong hoạch toán kinh doanh của các hộ sản xuất-kinh doanh. Nhìn chung quản lý rủi ro tín dụng là một vấn đề rất phức tạp và rộng lớn, trong khi đó thời gian thực tập ngắn cũng như khả năng nhận thức, khả năng tìm hiểu thực tế của bản thân còn có những hạn chế nhất định. Vì vậy chuyên đề sẽ không tránh khỏi những khiếm khuyết. Bản thân em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của quý thầy cô và cơ quan chi nhánh NHNo&PTNT huyện Đông sơn.

doc77 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1455 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Ngăn ngừa rủi ro tín dụng đối tượng hộ sản xuất kinh doanh ở chi nhánh Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông thôn huyện Đông Sơn – Thanh Hóa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chất lượng tín dụng khá hơn, nợ xấu cao hơn nhưng dưới mức quy định, phản ảnh thực chất lượng tín dụng. Phân công lãnh đạo chỉ đạo tăng trưởng tín dụng hộ sản xuất, củng cố và phát triển tổ vay vốn, triển khai cho vay đến 20 triệu, 30 triệu không phải đảm bảo bằng tài sản, dư nợ hộ sản xuất tăng khá vào 6 tháng cuối năm, NQH hộ chiếm tỷ trọng thấp trong tổng NQH. Việc hnhf thành và phát triển tổ vay vốn tại địa phương đã nâng cao chất lượng tín dụng hộ sản xuất một cách đáng kể. Cụ thể: Thực hiện cho vay qua tổ theo phương án 01/LN, tại NHNo&PTNT huyện Đông sơn đã kết hợp với ban chỉ đạo huyện tổ chức đánh giá tình hình hoạt động của tổ vay vốn liên hệ những việc đã làm được, chưa làm được từ đó triển khai củng cố tất cả các tổ vay vốn trên địa bàn huyện, đến nay các xã đều đã thành lập các tổ vay vốn theo địa bàn thôn xóm, tất cả các hộ vay vốn đến 20 triệu đều tự nguyện vào tổ. Hàng tháng, mỗi xã thực hiện giải ngân, thu lãi vào một ngày cố định trong tháng tại Uỷ ban nhân dân xã. Mỗi buổi giải ngân là một buổi họp giao ban giữa các tổ trưởng tổ vay vốn, ban chỉ đạo xã và cán bộ tín dụng ngân hàng. Thực hiện đúng quy trình cho vay qua tổ, các hộ có nhu cầu vay vốn chỉ cần đăng ký vào sổ vay vốn tại nhà tổ trưởng, mọi thủ tục hồ sơ đều được hướng dẫn tại tổ. Và kết quả đạt được rất khả quan. Về chất lượng tín dụng ngày càng được nâng cao,vốn vay có hiệu quả nên nợ quá hạn giảm 0,64% năm 2006 là 0,76% ,năm 2007 chỉ còn là 0,10% trên dư nợ tổ. Còn chất lượng hoạt động của tổ vay vốn cũng được nâng lên rõ rệt.6 tháng đầu năm còn 34/ 179 tổ xếp loại C, chỉ có 96/ 179 xếp loại A nhưng đến 31/12/2007 đã có 157/179 tổ xếp loại A, 22 tổ xếp loại B và không có tổ xếp loại C. Như vậy tổ loại A tăng 61 tổ, tổ loại B giảm 27 tổ, tổ loại C giảm 34 tổ so 6 tháng đầu năm. Thực hiện nghiêm túc phân loại nợ, trích lập dự phòng và xử lý rủi ro. Giao trách nhiệm phân nhóm nợ định lượng cho kế toán, định tính cho tín dụng. Hàng tháng tiến hành phân tích nợ, giao chỉ tiêu đến từng cán bộ tín dụng bám sát nguồn thu của đơn vị, cá nhân để thu nợ.Đồng thời bám sát kết quả hoạt động kinh doanh của hộ và cấp vốn theo từng giai đoạn của chu kỳ kinh doanh, không những kích thích hộ mạnh dạn mở rộng sản xuất mà còn kiểm soát và giảm thiểu rủi ro. 3.3.2. Những mặt còn tồn tại và nguyên nhân Dư nợ xấu các doanh nghiệp đang còn cao, việc phân tích tài chính, theo dõi thu nợ, giải ngân các dự án của cán bộ tín dụng còn hạn chế. Dư nợ hộ sản xuất phân bố chưa đều đối với từng loại vay cũng như từng đối tượng hộ. Chủ yếu cho vay ngắn hạn và cho vay các hộ trong lĩnh vực nông nghiệp chiếm tỷ trọng cao, chưa thực sự chú trọng đến cho vay trung và dài hạn, và rủi ro tín dụng của đối tượng này cũng còn cao. Số lượng trang trại trên địa bàn có quan hệ với ngân hàng lại quá ít, ngân hàng chưa thực sự quan tâm đến tín dụng trang trại. Đa số các tổ chưa thực hiện họp sinh hoạt tổ thường xuyên để đánh giá sử dụng vốn vay và các biện pháp xử lý nợ vay ,một số tổ còn nợ quá hạn.Qui mô tổ chưa đạt yêu cầu như thành viên còn ít ,dư nợ thấp. Số tổ tham gia thành lập quỹ hỗ trợ vay vốn đạt thấp và vẫn còn tình trạng tổ trưởng vay ké. Trình độ cán bộ không đều,tinh thần trách nhiệm chưa cao, thiếu tận tuỵ với công việc, chưa giám sát chặt chẽ công việc của các tổ vay vốn và các hộ. Vì vậy vẫn tồn tại những hộ sử dụng sai mục đích vốn vay. Việc ghi chép theo dõi của tổ trưởng cìn chưa đúng quy định. Hạch toán kế toán thu lãi thừa, thiếu vẫn còn, đăng ký tài sản thế chấp chưa đúng quy trình, xuất nhập và giải chấp chưa cập nhật, kiểm ngân kịp thời. Công tác tự kiểm tra được quan tâm đúng mức nhưng mới ở diện rộng, chưa đi vào chiều sâu nên có vụ việc đã qua kiểm tra nhưng không phát hiện ra. Trình độ cán bộ không đều, một số cán bộ ngaị rèn luyện, không chịu khó học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tin học, khả năng tiếp cận chương trình chuyển đổi hạn chế. Công nghệ thông tin lạc hậu, trang bị thiếu đồng bộ, chương trình chắp vá nên năng suất lao động chưa cao. Những tồn tại này do nhiều nguyên nhân nhưng chủ yếu có những nhóm nguyên nhân sau: * Nguyên nhân khách quan + Do thiên tai, dịch bệnh diễn biến thất thường Trong một số năm gần đây thiên nhiên diễn biến phức tạp, thường xuyên xảy ra lũ lụt, hạn hán, lũ quét, lốc xoáy, dịch bệnh gia súc, gia cầm… Đã gián tiếp và trực tiếp ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của các hộ đặc biệt là những hộ kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp từ đó gây rủi ro tín dụng cho ngân hàng. Có những khách hàng do ảnh hưởng của thiên tai, sản phẩm hư hỏng, không tiêu thụ được dẫn đến NQH. + Môi trường kinh tế không ổn định Trong thời gian qua nền kinh tế trên thế giới và trong nước có nhiều biến động như tỷ giá đồng ngoại tệ, giá vàng, xăng dầu, vật liệu, phân bón…. biến động tăng cao ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các khách hàng. Chính sách quản lý vĩ mô của Nhà nước đang trong quá trình điều chỉnh để quản lý chặt chẽ hơn trong quá trình xây dựng cơ bản khi tình hình nợ đọng xây dựng cơ bản tăng cao. Chính phủ đã có biện pháp chấn chỉnh công tác đầu tư xây dựng cơ bản, kiểm soát chặt chẽ các dự án nhóm A. Những công trình chưa được phê duyệt tổng thể toàn bộ thì không được cấp phát vốn, việc cấp phát vốn phải hoàn thiện thủ tục xây dựng cơ bản, tránh tình trạng làm trước, chạy vốn sau và mở thầu các công trình tràn lan khi chưa bố trí đủ nguồn vốn. Do vậy một số hộ trong lĩnh vực xây dựng cơ bản gặp khó khăn trong thanh toán vốn dẫn đến NQH. + Môi trường pháp lý chưa đồng bộ Chính sách thuế, quy định pháp lý về đất đai, nhà ở có sự thay đổi, làm cho thị trường bất động sản đóng băng, nợ đọng vốn vay ngân hàng. Hệ thống pháp lý ban hành chưa đồng bộ, thường xuyên thay đổi và chưa phù hợp với thực tế. Ví dụ về việc bảo đảm tiền vay (cầm cố, thế chấp và bão lãnh bằng tài sản của bên thứ 3 theo quy định tại Nghị định 178/1999/NĐ-CP và Nghị định 85 sửa đổi của Chính phủ, Quyết định số 07/2003- NHNN ngày 19/05/2003 cảu thống đốc NHNN Việt nam) đối với những tài sản dùng làm bảo đảm Ngân hàng giữ bản gốc giấy tờ, khách hàng quản lý sử dụng tài sản, trong trường hợp tài sản là máy móc, thiết bị không có đăng ký quyền sở hữu thì ngân hàng giữ hoá đơn và đăng ký giao dịch bảo đảm, nếu khách hàng bán máy móc thiết bị trên chỉ cần xuất hoá đơn tại đơn vị, không cần xuất trình nguồn gốc tài sản, Ngân hàng gặp rủi ro khi nhận tài sản bảo đảm trên. Hoặc đối với chính sách đất đai khi cấp quyền sử đất cho người dân theo quy định toàn bộ các giấy tờ hồ sơ gốc được UBND cấp xã phường thị trấn thu lại để quản lý trước khi cấp giấy phép chứng nhận quyền sử dụng đất. Song thực tế nhiều địa phương do công tác quản lý lỏng lẻo dẫn đến vô hình chung đã tiếp tay cho một số đối tượng lừa đảo Ngân hàng dùng cả 02 loại hồ sơ của 01 thửa đất nói trên để đi thế chấp tại các tổ chức tín dụng. Việc triển khai đăng ký giao dịch đảm bảo tại Uỷ ban nhân dân Huyện thị còn chậm gây ách tắc. + Hiệu quả của trung tâm phòng ngừa rủi ro của NHNo&PTNT Việt Nam chưa cao Chưa thường xuyên cung cấp thông tin cho các chi nhánh về những khách hàng có quan hệ với nhiều tổ chức tín dụng, chưa phân tích đánh giá khách hàng từ những thông tin thu thập được. Bên cạnh việc đánh giá khách hàng, trung tâm chưa phân tích thêm về các thông tin giá cả thiết bị, mức đầu tư đối với dự án cụ thể,…để các chi nhánh tham khảo. * Nguyên nhân từ phía Ngân hàng + Thông tin về thị trường, khách hàng yếu Trong hoạt động kinh doanh thì thông tin chiếm vị trí hàng đầu, nếu thông tin đầy đủ, chính xác giúp cho việc xử lý thông tin được chính xác và đưa ra quyết định đúng đắn, cho vay hay không cho vay và các điều kiện để giảm thiểu rủi ro trong nghiệp vụ tín dụng. Tuy nhiên trên thực tế, việc thu nhập thông tin về khách hàng, khoản vay, tài sản bảo đảm, thông tin về sản phẩm thị trường, giá cả…. còn rất hạn chế. Hiện nay việc thu thập thông tin chủ yếu qua Trung tâm thông tin tín dụng của Ngân hàng nhà nước (CIC) và Trung tâm phòng ngừa rủi ro thuộc NHNo và PTNT Việt Nam. Các Trung tâm này đã đi vào hoạt động, nhưng việc thu thập thông tin của các trung tâm trên chưa cập nhật kịp thời chính xác, lượng thông tin nghèo nàn thường không phản ánh kịp thời tình hình tài chính, sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, vì cung cấp thông tin cho trung tâm thường là do các NHTM, số liệu thường chưa được kiểm toán… Vì vậy khi tìm khai thác thông tin khách hàng qua hệ thống thông tin trên thường không được cập nhật kịp thời, thiếu chính xác, có thể làm ảnh hưởng đến quyết định cho vay. Cụ thể là muốn tìm hiểu tình hình tài chính, quan hệ tín dụng của khách hàng với các tổ chức tín dụng khác, thông thường các trung tâm thông tin chỉ đưa ra được số tiền vay tiền gửi của khách hàng tại mỗi tổ chức tín dụng mà khách hàng có quan hệ, còn việc phân tích đánh giá khả năng tài chính thường không chính xác. Việc thu thập thông tin thị trường và dự báo biến động về thị trường còn kém, ảnh hưởng đến việc đánh giá dự báo tính khả thi của phương án kinh doanh chưa cao, thiếu chính xác. Việc biến động của tỷ giá ngoại tệ, giá vàng, giá cả vật tư hàng hoá sắt thép, xăng dầu… biến động giá cả thị trường bất động sản trong thời gian qua cho thấy các doanh nghiệp chưa nhậy bén. Do vậy, các khách hàng có nhu cầu vay chế tạo thiết bị, sắt thép xây dựng thi công xây lắp… theo hợp đồng đã ký trước dễ bị lỗ do chi phí nguyên liệu, nhiên liệu tăng nên một số khách hàng gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh, đã ảnh hưởng đến khả năng trả nợ vay. Đồng thời do cạnh tranh ngày càng gay gắt, sản phẩm sản xuất tiêu thụ khó khăn, tình hình nợ đọng có xu hướng tăng, một số đơn vị kinh doanh thua lỗ, ngừng hoạt động, phá sản. + Trình độ cán bộ chưa đáp ứng nhu cầu Trình độ hiểu biết về luật, nghiệp vụ thẩm định dự án của cán bộ thẩm định hạn chế. Chi nhánh NHNo&PTNT Đông Sơn hiện tại có 36 cán bộ công nhân viên, trong đó cán bộ quản lý và cán bộ làm chuyên môn nghiệp vụ: Đại học là 16 người. Tuy nhiên lớp trẻ chiếm đa số, chưa va chạm và kinh nghiệm thực tế còn hạn chế, khả năng quyết đoán chưa cao, còn thụ động, còn lại một bộ phận cán bộ cần được tiếp tục đào tạo nâng cao trình độ mới đáp ứng được nhiệm vụ hiện tại cũng như trong tương lai. Do vậy việc phân tích, thẩm định dự án còn rất nhiều hạn chế, đánh giá tính khả thi của dự án chưa chính xác, phân tích và đánh giá mức độ rủi ro chưa cao. Việc phân tích báo cáo tài chính của khách hàng chưa sâu nên đánh giá sai năng lực, khả năng tài chính của khách hàng có thể ra quyết định sai lầm và dẫn đến rủi ro cho ngân hàng. Trong quá trình thẩm định dự án việc quan tâm đến thẩm định khả năng thanh toán chắc chắn của nguồn vốn đầu tư còn chưa cao, do vậy dự án không bố trí đủ nguồn vốn để thực hiện nên khi đi vào sản xuất luôn trong tình trạng “ Giật gấu vá vai” hoạt động cầm chừng. Chưa thực hiện việc tái thẩm định dự án và thẩm định mới thực hiện phương án tĩnh, chưa lập dự án trên phương án động để có thể so sánh các phương án, đưa ra phương án tối ưu nhất. Trong hoạt động ngân hàng cán bộ tín dụng, thẩm định phải tiếp cận với nhiều ngành nghề khác nhau, nhiều lĩnh vực khác nhau, nhiều vùng khác nhau, do vậy cán bộ tín dụng khó có khả năng nắm bắt và hiểu chuyên sâu về mọi lĩnh vực, vì vậy rủi ro tín dụng luôn có thể xảy ra. Kiến thức về xã hội và thị trường còn nhiều hạn chế, chưa nhạy bén, chưa năm bắt được nhu cầu, thị hiếu của thị trường, do vậy việc tư vấn cho khách hàng chưa được nhiều, mặt hàng cho vay bị ứ đọng, khó tiêu thụ khả năng thu hồi vốn vay không cao. Hiện nay có nhiều bộ luật được ban hành và sửa đổi như: Luật ngân hàng, luật Ngân hàng nhà nước và luật các Tổ chức tín dụng được sửa đổi bổ xung, Luật doanh nghiệp, luật đất đai… và các văn bản dưới luật hướng dẫn, cán bộ tín dụng và cán bộ thẩm định chưa đi sâu tìm hiểu những quy định mới để bổ sung đầy đủ hồ sơ pháp lý, quyết định cho vay, tài sản bảo đảm… do vậy dẫn đến rủi ro khi khách hàng không trả được nợ. Thông thường sau khi dự án đi vào hoạt động, ngân hàng phải xem xét, đánh giá lại hiệu quả của việc đầu tư, tái thẩm định lại dự án đầu tư trên số liệu thực tế về công suất, giá thành… trên cơ sở đó so sánh với số liệu trên dự án để xác định lại khả năng trả nợ. + Việc thực hiện quy trình tín dụng chưa nghiêm túc Trong quá trình thực hiện các nghiệp vụ tín dụng và thẩm định khách hàng, có cán bộ chưa chấp hành đúng quy trình nghiệp vụ dẫn đến rủi ro cho ngân hàng: Như cho vay các công trình chưa xác định rõ ràng nguồn vốn (Chưa có thông báo vốn) xác định vòng quay VLĐ chưa phù hợp… do vậy đến hạn khách hàng không trả được nợ, dẫn đến NQH + Cán bộ làm công tác tín dụng quá tin tưởng vào tài sản bảo đảm Trong quá trình xét duyệt cho vay, bên cạnh việc xác định phương án khả thi thì tài sản bảo đảm cũng là yếu tố giúp cho việc giảm thiểu rủi ro trong hoạt động tín dụng. Tuy nhiên không phải cứ có tài sản bảo đảm là cho vay, vì mục đích cho vay của ngân hàng không phải để thu hồi tài sản. Có khi cán bộ làm công tác tín dụng không đánh giá đúng giá trị tài sản đảm bảo, không lường trước khả năng biến động của tài sản đảm bảo do khi đánh giá giá trị tài sản ở thời điểm cao, khi rủi ro phải phát mại tài sản thì giá trị tài sản thu hồi về không đủ thu nợ. Nghiệp vụ cho vay trung – dài hạn thì bảo đảm tín dụng thường là tài sản hình thành từ vốn vay, nếu khách hàng không trả được nợ cho ngân hàng thì có thể phát mại tài sản đó. Tuy nhiên tài sản đó có khi cũng khó có khả năng thu đủ vốn khi phại do tài sản bị xuống cấp, lạc hậu. Dựa trên biên bản định giá của doanh nghiệp để làm cơ sở định giá của ngân hàng, do vậy có khi không phù hợp với giá trị thực tế hoặc định giá dựa trên hoá đơn mua bán, có thể do thiết bị không phù hợp, lạc hậu khả năng phát mại rất thấp. Trong qúa trình cho vay việc bảo đảm tín dụng bằng thế chấp, cầm cố tài sản chưa được chấp hành nghiêm túc, do công tác quản lý và triển khai cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn chậm, quản lý thu hồi hồ sơ gốc còn lỏng lẻo. Đồng thời việc kiểm tra thẩm định hồ sơ tài sản đảm bảo không chặt chẽ. Do vậy khi khách hàng, khi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã không nộp cho ngân hàng mà có thể đem thế chấp vay vốn tại ngân hàng khác đây là biểu hiện rủi ro khi phát mại tài sản. + Việc xử lý tài sản bảo đảm còn chậm Trong quá trình cho vay việc thẩm định tài sản bảo đảm cũng là một trong những điều kiện để quyết định cho vay, tuy nhiên khi khách hàng không trả nợ đúng hạn việc sử lý tài sản bảo đảm rất phức tạp, do khách hàng không có thiện chí trong thoả thuận bán tài sản, không giao tài sản, không ký vào biên bản bán tài sản. + Việc giám sát sử dụng vốn vay và các luồng tiền thanh toán của khách hàng chưa chặt chẽ - Về vốn vay: Trong quá trình cho vay việc kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay còn lỏng lẽo, nên khách hàng sử dụng vốn sai mục đích, dẫn đến rủi ro cho Ngân hàng. - Về thanh toán: cán bộ tín dụng chưa quan tâm đến nguồn tiền thanh toán của khách hàng, chưa yêu cầu khách hàng, chủ đầu tư, người mua khi thanh toán chuyển thẳng vào tài khoản của khách hàng tại Ngân hàng. Mội phần do hộ còn nhiều hạn cjế trong việc tiếp cận các dịch vụ của ngân hàng. * Nguyên nhân từ phía hộ sản xuất – kinh doanh + Công tác đầu tư các dự án kinh doanh không đúng hướng, công nghệ còn lạc hậu Các doanh nghiệp muốn phát triển trong hoạt động kinh doanh thì phải luôn đổi mới công nghệ, sản phẩm, nhưng việc dự đoán và phân tích thị trường đôi khi thường không chính xác, đầu tư theo phong trào do vậy sản phẩm tiêu thụ khó khăn, nhất là đối với các hộ trong lĩnh vực nông nghiệp, dễ dẫn đến tình trạng sản phẩm bán ra với giá thấp do cung quá nhiều. + Công tác đầu tư chưa xác định đủ nguồn vốn Để dự án có thể đi vào hoạt động thì khi đầu tư cần phải có đủ nguồn vốn để thực hiện. Tuy nhiên, do chưa đủ nguồn vốn thì đã đầu tư bằng nguồn vốn tự có, tự huy động thông qua các thành viên trong hộ đi vay ngân hàng, chiếm dụng vốn tạm thời để thực hiện một phần dự án. Khi không đủ phần vốn còn lại thì tiến độ xây lắp chậm dẫn đến dự án cũng chậm đi vào hoạt động từ đó không có sản phẩm đưa ra thị trường, vốn xây dựng cơ bản ứ đọng chịu lãi vay nhiều dẫn đến NQH. Thường xảy ra đối với những hộ trong các lĩnh vực xây dựng, tiểu thủ công nghiệp. + Kinh doanh thua lỗ, phá sản Một trong nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng gia tăng NQH tại Chi nhánh NHNo và PTNT Đông Sơn là khách hàng kinh doanh không hiệu quả, thua lỗ. Bên cạnh nguyên nhân đầu tư không đúng hướng, thị trường tác động có tác động xấu…thì năng lực tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh của lãnh đạo doanh nghiệp còn hạn chế, chưa năng động. + Khách hàng không có thiện chí trả nợ Trường hợp này thường xảy ra đối với khách hàng làm ăn thua lỗ, có vấn đề, đối với khách hàng này khi ngân hàng xếp loại thì thường quy định mức cho vay nhỏ hơn thu nợ, do vậy đơn vị thường sử dụng chi tiêu tiền mặt tại đơn vị không nộp ngân hàng khi đến hạn thường không có thiện trí trả nợ. + Khách hàng cố ý lừa đảo Trong quan hệ tín dụng Chi nhánh NHNo và PTNT Đông Sơn đã có trường hợp khách hàng có biểu hiện lừa đảo thông qua việc dùng 02 bộ hồ sơ giấy tờ tài sản để thế chấp tại 02 ngân hàng. Để hạn chế rủi ro tín dụng, trong thời gian tới Chi nhánh NHNo và PTNT Đông Sơn cũng cần không ngừng nâng cao cảnh giác, trước tiên thực hiện tốt công tác đăng ký giao dịch đảm bảo đối với mợi khách hàng vay theo quy định của pháp luật. + Khách hàng không trung thực trong báo cáo Hàng năm, ngân hàng thường căn cứ vào báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của khách hàng để phân loại đánh giá khách hàng, trên cơ sở đó có chính sách tín dụng phù hợp. Thông thường khách hàng lập báo cáo gửi ngân hàng không qua kiểm toán, có đơn vị báo cáo lãi nhưng thật chất là lỗ, nếu báo cáo đúng ngân hàng áp dụng chính sách thắt chặt, điều kiện vay sẽ chặt chẽ hơn. Do vậy ngân hàng đánh giá phân loại không đúng, áp dụng chính sách sai, dẫn đến rủi ro tín dụng. + Nguyên nhân khác Khách hàng gặp rủi ro bất khả kháng do tai nạn, ốm đau…., trường hợp này thường đối với những khách hàng là cá nhân, thành viên chủ chốt hay lao động chính trong gia đình, do đó ảnh hưởng lớn đến khả năng trả nợ Ngân hàng. PHẦN III GIẢI PHÁP HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG ĐỐI VỚI HỘ SẢN XUẤT KINH DOANH TẠI CHI NHÁNH NHNN&PTNT HUYỆN ĐÔNG SƠN – THANH HÓA 1. ĐỊNH HƯỚNG CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN CỦA CHI NHÁNH NHNN&PTNT ĐÔNG SƠN 1.1. Định hướng chung Thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, định hướng mục tiêu đầu tư phát triển của Tỉnh. Bám sát sự chỉ đạo của NHNo và PTNT Thanh hoá, định hướng mục tiêu của NHNo và PTNT Việt nam về công tác tín dụng. Từ những định hướng trên của NHNo và PTNT Việt nam và chỉ đạo của Chi nhánh NHNo và PTNT Thanh hoá. Chi nhánh NHNo và PTNT Đông Sơn đã đề ra các kế hoạch, biện pháp thực hiện hoạt động kinh doanh an toàn, chất lượng, hiệu quả nói chung trong đó có định hướng hạn chế rủi ro tín dụng như sau: + Mở rộng tín dụng nâng cao thị phần cho vay trên địa bàn, khẳng định vị thế của Chi nhánh NHNo và PTNT Đông Sơn đáng là một ngân hàng thương mại quốc doanh, giữ vị thế chủ lực trong đầu tư phát triển góp phần vào xây dựng NHNo và PTNT Việt nam trở thành một tập đoàn tài chính đa năng và thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. + Tăng cường huy động vốn với cơ cấu hợp lý thông qua việc phát hành kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi, huy động tiết kiệm dự thưởng…. đồng thời thực hiện chính sách khách hàng và chính sách lãi suất linh hoạt để thu hút các khách hàng có nguồn tiền gửi lớn, luân chuyển và hoạt động với doanh số nhiều qua ngân hàng. + Nâng cao chất lượng tín dụng, tăng trưởng tín dụng phải gắn với an toàn và kiểm soát được rủi ro. Tiếp tục chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu tín dụng theo hướng tăng tỷ trọng cho vay ngắn hạn, tăng tỷ trọng cho vay ngoài quốc doanh, tăng dư nợ có tài sản bảo đảm trên tổng dư nợ, giảm hợp lý tỷ trọng cho vay trung, dài hạn đảm bảo cơ cấu chung của hệ thống. + Mở rộng và đa dạng hoá các loại hình tín dụng, dịch vụ, đẩy mạnh đổi mới công nghệ và phát triển nguồn lực, nâng cao chất lượng, phát triển các sản phẩm dịch vụ trên nền tảng dự án hiện đại hoá, tăng sức cạnh tranh và đa dạng hoá sản phẩm, đa dạng hoá khách hàng, giữ vững và đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng, đáp ứng cao nhất nhu cầu về vốn và các sản phẩm dịch vụ cung cấp cho khách hàng, nâng dần tỷ trọng thu dịch vụ trên tổng doanh thu. + Thực hiện tốt xử lý nợ tồn đọng, có biện pháp tích cực để xử lý, cơ cấu lại khoản NQH, nợ khó đòi. Đánh giá các khoản nợ tồn đọng để xác định thực trạng và có biện pháp đẩy nhanh tiến độ xử lý. + Trích lập quỹ dự phòng rủi ro theo đúng quy định. + Bám sát tình hình kinh tế địa phương, chương trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng Công nghiệp hoá - hiện đại hoá. 1.2. Một số chỉ tiêu cụ thể về hoạt động kinh doanh nói chung và hạn chế rủi ro tín dụng của Chi nhánh NHNo & PTNT Đông Sơn trong giai đoạn 2007 – 2010 Từ định hướng trên qua nghiên cứu tính toán Chi nhánh NHNo & PTNT Đông Sơn, xác định các chỉ tiêu kinh doanh chủ yếu trong giai đoạn 2007 – 2010 như sau: + Huy động vốn hàng năm tăng trưởng bình quân 25% phấn đấu đến năm 2010 đạt 322.107 triệu, đảm bảo chủ động cân đối 100% nguồn vốn để cho vay; + Dư nợ tín dụng bình quân tăng trưởng 15% - 17%, phù hợp với định hướng của NHNo&PTNT Thanh Hoá, phấn đấu đến năm 2010 đạt 365.800 triệu. + Dư nợ xấu dưới 5%, giảm nợ nhóm 5, 4, 3, tăng nợ nhóm 1, 2. Và nợ xấu đến năm 2010 xuống dưới 2%, không phát sinh nợ khó đòi. Để thực hiện đúng định hướng chiến lược và đạt được các chỉ tiêu có tính định hướng cụ thể nói trên, nhất là định hướng da dạng sản phẩm tín dụng và đạt được chỉ tiêu hạn chế rủi ro tín dụng, xử lý rủi ro tín dụng,… thì đòi hỏi phải có giải pháp phù hợp và đồng bộ. Các giải pháp và kiến nghị được trình bày và diễn giải chi tiết ở phần tiếp theo sau đây: 2. GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA, HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG NÓI CHUNG VÀ RỦI RO TÍN DỤNG ĐỐI VỚI HỘ SẢN XUẤT NÓI RIÊNG TẠI CHI NHÁNH NHNO VÀ PTNT ĐÔNG SƠN 2.1. Kiểm soát chặt chẽ và thực hiện tốt quy trình cho vay và quản lý tín dụng theo sổ tay tín dụng Trước tiên mọi cán bộ tín dụng và cán bộ quản lý tín dụng nhận thức được sổ tay tín dụng là công cụ quản lý đồng thời là cẩm nang cho mọi cán bộ làm công tác tín dụng tra cứu. Do vậy thực hiện nghiêm túc các quy trình cho vay và quản lý tín dụng là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng nó sẽ nâng cao được chất lượng tín dụng, kiểm soát phòng ngừa và hạn chế được rủi ro tín dụng. Vậy cần phải thực hiện các giải pháp sau: + Tuân thủ đúng quy trình tín dụng: việc xét duyệt cho vay phải đảm bảo khả năng thu hồi vốn, thông thường cán bộ tín dụng phải kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay. + Kiểm tra trước khi cho vay: Kiểm tra các điều kiện vay vốn của khách hàng như hồ sơ pháp lý, tình hình về năng lực tài chính, kinh nghiệm và năng lực sản xuất kinh doanh, nhu cầu vay vốn, tài sản đảm bảo, tư cách đạo đức và mối quan hệ của khách hàng….. + Kiểm tra trong khi cho vay: giúp cho cán bộ tín dụng cho vay đúng đối tượng, nhu cầu vay của khách hàng, việc kiểm tra nên thông thường dựa vào các hoá đơn tài chính, hợp đồng kinh tế,… + Kiểm tra sau khi cho vay: Sau khi giải ngân cán bộ tín dụng cần kiểm tra xem khách hàng có sử dụng tiền vay đúng mục đích đề nghị vay không. Thường kiểm tra thực tế việc sử dụng vốn vay để tránh việc khách hàng ký hợp đồng và hoá đơn khống để chuyển tiền vào tài khoản của người thụ hưởng rồi rút tiền mặt. Kiểm tra nhằm phát hiện khách hàng khi rút tiền mặt về sử dụng vào sai mục đích xin vay. Kiểm tra định kỳ tài sản đảm bảo nợ vay để tránh các hành vi lừa đảo hoặc tình trạng hư hao, biến dạng giảm giá trị tài sản đảm bảo. * Thường xuyên kiểm tra tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng: Trong quá trình cho vay việc kiểm tra có thể định kỳ, hay đột xuất. Việc kiểm tra giúp cho cán bộ tín dụng đánh giá được chính xác tình hình về hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng đồng thời tránh được sự bố trí đối phó khi có sự kiểm tra từ phía ngân hàng. * Sàng lọc lựa chọn khách hàng: Đối với những khách hàng là doanh nghiệp vay lần đầu hay khách hàng là cá nhân vay lớn đều phải thông qua tổ thẩm định, trường hợp cần thiết phải thông qua hội đồng tín dụng, qua đó sàng lọc lựa chọn khách hàng có khả năng tài chính, kinh doanh hiệu quả để hạn chế rủi ro. * Nâng cao năng lực công tác quản lý tín dụng và rủi ro tín dụng: Để làm tốt giải pháp này thì cán bộ tín dụng và quản lý tín dụng cần phải: + Kịp thời phát hiện các dấu hiệu phát sinh rủi ro từ phía khách hàng đó là dấu hiệu liên quan đến mối quan hệ với Ngân hàng và các dấu hiệu có liên quan đến phương pháp quản lý, tình hình tài chính và hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng. Như dấu hiệu trì hoãn hoặc gây khó khăn, trở ngại đối với ngân hàng trong quá trình kiểm tra, có dấu hiệu không thực hiện đầy đủ các quy định và vi phạm pháp luật trong quan hệ tín dụng, chậm hoặc trì hoãn việc gửi báo cáo tài chính, không có các báo cáo hay dự toán về lưu chuyển tiền tệ, đề nghị gia hạn nợ và điều chỉnh kỳ hạn nợ nhiều lần mà không rõ lý do hoặc thiếu căn cứ thuyết phục về căn cứ khách quan. Sự sụt giảm bất thường số dư tài khoản tiền gửi mở tại Ngân hàng, xuất hiện những thay đổi bất thường ngoài dự kiến và không giải thích được trong tốc độ và tổng mức lưu chuyển tiền tệ thanh toán của khách hàng chậm thanh toán hoặc thanh toán không đầy đủ các khoản nợ lãi và gốc khi đến hạn. Xuất hện NQH, mức độ vay thường xuyên gia tăng, yêu cầu các khoản vay vượt quá dự kiến, tài sản đảm bảo không đủ tiêu chuẩn, giá trị tài sản bị giảm sút so với định giá khi cho vay, có dấu hiệu tài sản đã có người khác thuê, bán trao đổi hoặc đã biến mất không còn tồn tại. Có dấu hiệu khách hàng trông chờ các nguồn thu nhập bất thường khác không từ hoạt động sản xuất kinh doanh, có dấu hiệu tìm liếm sự tài trợ nguồn vốn lưu động từ nhiều nguồn khác đặ biệt từ đối thủ cạnh tranh của Ngân hàng, có dấu hiệu sử dụng nhiều khoản tài trợ ngắn hạn cho các hoạt động đầu tư dài hạn hoặc khách hàng chấp nhận sử dụng các nguồn vốn vay với giá trị cao với mọi điều kiện …. + Kịp thời phát hiện các dấu hiệu xuất phát từ chính sách tín dụng của Ngân hàng như đánh giá phân loại không chính xác về mức độ rủi ro của khách hàng, cấp tín dụng dựa trên các cam kết không chắc chắn, tốc độ tăng trưởng tín dụng quá nhanh vượt quá khả năng và năng lực kiểm soát cũng như nguồn vốn của Ngân hàng, cho vay dựa trên các sự kiện bất thường có thể xảy ra, soạn thảo các văn kiện ràng buộc trong hợp đồng tín dụng mập mờ không rõ ràng, chính sách tín dụng quá cứng nhắc, cung cấp khối lượng tín dụng lớn cho khách hàng không phân đoạn thị trường tối ưu của Ngân hàng, hồ sơ tín dụng không đầy đủ, thiếu sự tuân thủ hay tuân thủ không đầy đủ, các quy đinh hiện hành về phê duyệt tín dụng, có khuynh hướng cạnh tranh thái quá… + Kịp thời xác định mức độ vấn đề: Nghĩa là khi phát hiện thấy dấu hiệu phát sinh rủi ro, thì cán bộ tín dụng phải tiến hành ngay các bước xác định mức độ nghiên trọng của nó và nguyên nhân gây ra rủi ro, đồng thời phải phân loại ngay chất lượng khoản vay (khoản vay bị hạ xuống nhóm mấy?), xác định được nguyên nhân gây nên xuống hạng của khoản vay như: Nguyên nhân do thông tin lừa đảo, nguyên nhân do khách hàng không chịu hợp tác, nguyên nhân do suy thoái tiền kinh tế hoặc rủi ro do thị trường; nguyên nhân do bất khả kháng; do hoả hoạn thiên tai dịch bệnh chiến tranh; nguyên nhân do trình độ năng lực quản lý kém, thiếu trách nhiệm và mất phẩm chất của một số cán bộ Ngân hàng hoặc nguyên nhân do sự thay đổi về chính sách của nhà nước và cơ chế của nhà nước… 2.2. Khai thác có hiệu quả thông tin trong hoạt động tín dụng * Thu thập thông tin về khách hàng: Trong hoạt động tín dụng mọi thông tin về khách hàng rất quan trọng, nó ảnh hưởng trực tiếp dến quyết định cho vay. Hiện nay việc khai thác thông tin về khách hàng thường qua báo cáo của khách hàng, chẳng hạn thông tin về tài chính thường dựa trên báo cáo tài chính trong các năm gần đây của khách hàng ( là doanh nghiệp ). Các báo cáo do khách hàng lập thường không qua kiểm toán, không có cơ quan chức năng xác định tính trung thực của báo cáo. Do vậy đối với cán bộ Ngân hàng bên cạnh việc thu thập thông tin tử khách hàng cần thu thập thông tin từ các đối tác của khách hàng, từ những Ngân hàng mà khách hàng có quan hệ từ các cơ quan quản lý khách hàng của ngân hàng nhà nước ( CIC ), trung tâm thông tin NHNo & PTNT Việt Nam, từ phản ánh của cán bộ Ngân hàng … * Phân tích xử lý thị trường: Khi khách hàng đã đặt quan hệ tín dụng bên cạnh việc khai thác thông tin về khách hàng cán bộ tín dụng còn phải khai thác thông tin mang tính chất thị trường về sản phẩm khách hàng kinh doanh, như dự đoán tình hình cung cầu, giá cả sản phẩm, tài sản đảm bảo. * Phân tích xử lý thông tin: Sau khi đã thu thập các nguồn thông tin của cán bộ tín dụng phải sàng lọc nguồn thông tin đã thu thập, để phân tích đánh giá khách hàng, khả năng tài chính của khách hàng, khả năng trả nợ của vốn vay. Trên cơ sở đó để ra quyết định cho vay hay từ chối cho vay, điều kiện cho vay nhằm phòng ngừa hạn chế cho vay có thể xảy ra. 2.3 Thực hiện tốt hoạt động phân tích đánh giá khách hàng Hoàn thiện hệ thống chấm điểm cụ thể để hỗ trợ công tác phân tích tín dụng, đặc biệt là phân tích khách hàng hộ sản xuất, là khách hàng của NHNo mà cẩm nang chưa có. Phân tích tín dụng có ý nghĩa rất quan trọng, giúp Ngân hàng nhìn nhận một cách toàn diện tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng trong quá khứ, hiện tại và xu hướng phát triển trong tương lai… đánh giá chính xác đối tượng đầu tư để có đối sách thích hợp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Đây là căn cứ Ngân hàng đánh giá cơ cấu chất lượng tín dụng, khả năng thu nợ và lập kế hoạch cung cấp tín dụng theo đối tượng cho vay cũng như trong từng lĩnh vực đầu tư vốn. Duy trì và phát triển khách hàng tốt, thiết lập mối quan hệ tốt và lâu dài với khách hàng sẽ giúp Ngân hàng đánh bía đúng khách hàng, tiết kiệm được chi phí thẩm định, kiểm tra, giám sát. 2.4. Nâng cao tỷ trọng cho vay có tài sản đảm bảo trên tổng dư nợ Để thực hiện tốt định hướng của NHNo&PTNT Việt Nam, để giảm thiểu rủi ro, hạn chế cho vay không có tài sản đảm bảo. Thì trong tình hình kinh tế, thị trường có nhiều diễn biến phức tạp như hiện nay hoạt động tín dụng đang chứa đựng rất nhiều tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cao. Một trong những biện pháp để đảm bảo an toàn và hạn chế tổn thất khi rủi ro xảy ra và tăng cường cho vay có đảm bảo, đây chính là nguồn cung cấp thu hồi nợ sau sử lý. 2.5. Đa dạng hoá phương thức cho vay nhằm giảm thiểu rủi ro tín dụng Trong hoạt động tín dụng rủi ro là điều khó tránh khỏi. Vậy làm thế nào để hạn chế rủi ro có thể xảy ra đồng thời đạt được mục tiêu lợi nhuận. Một trong những nguyên tắc cổ điển nhất trong kinh doanh là “ không nên bỏ trứng vào một giỏ” được thể hiện dưới các hình thức sau: * Đa dạng hoá phương thức cho vay + Cho vay theo hạn mức: Thường áp dụng đối với khách hàng vay ngắn hạn và đã có quan hệ tín dụng thường xuyên uy tín với Ngân hàng, hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định có hiệu quả. + Cho vay từng lần: Thường áp dụng đối với khách hàng vay vốn không thường xuyên. + Cho vay đồng tài trợ: Trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng có những khách hàng có vay vốn lớn, khả năng đáp ứng của một Ngân hàng không đủ hay việc tập trung quá mức vào một khách hàng dễ dẫn đến rủi ro lớn nếu khách hàng không trả được nợ. Thông thường trong trường hợp này các Ngân hàng sẽ cùng liên kết tham gia thẩm định dự án và góp vốn cho vay để chia sẽ rủi ro đảm bảo an toàn trong kinh doanh. + Ngoài ra còn có các hình thức khác như: cho vay trả góp, cho vay uỷ thác, cho vay theo dự án đầu tư,… * Đa dạng hoá khách hàng Mở rộng cho vay đối với mọi thành phần kinh tế, mọi đối tượng khách hàng tránh việc cho vay quá mức đối với một khách hàng, hạn chế được rủi ro tập trung khi khách hàng lớn gặp phải rủi ro không trả được nợ. Qua việc phân tích rủi ro tại Chi nhánh NHNo & PTNT Đông Sơn. NQH tập trung chủ yếu là doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Do vậy cần phải có biện pháp thích hợp để mở rộng cho vay các thành phần kinh tế tư nhân, cá thể,..và hạn chế cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động không hiệu quả. * Đa dạng hoá lĩnh vực đầu tư Trong nền kinh tế thị trường, các lĩnh vực kinh doanh đều có chu kỳ tăng trưởng và suy thoái. Đa dạng hoá lĩnh vực đầu tư giúp cho Ngân hàng phân tán rủi ro tín dụng, nguồn tiền của Ngân hàng được đầu tư vào nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác nhau. Để đa dạng hoá lĩnh vực đầu tư có hiệu quả và an toàn, Chi nhánh NHNo & PTNT Đông Sơn cần có chiến lược kinh doanh lâu dài ổn định dựa trên các vấn đề sau: + Bám sát định hướng tín dụng của toàn ngành trong giai đoạn tới, và những lĩnh vực khuyến khích đầu tư của NHNo&PTNT Việt Nam để xây dựng kế hoạch, lĩnh vực đầu tư. + Trên cơ sở định hướng hoạt động tín dụng của NHNo&PTNT Việt Nam tại một số vùng kinh tế. Căn cứ vào định hướng của tỉnh Thanh Hoá và trên thực tế, thuận lợi khó khăn trên địa bàn để xác định lĩnh vực đầu tư. Đối với Chi nhánh NHNo & PTNT Đông Sơn có thuận lợi quản lý các xã đồng bằng có lợi thế về phát triển công nghiệp vì có nhiều núi đá vôi, cần có định hướng mở rộng cho vay đối với lĩnh vực công nghiệp, sản xuất đá xuất khẩu và cho vay đối với các doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu. * Thực hiện bảo hiểm tín dụng Đây là biện pháp nhằm san sẻ rủi ro tín dụng, nó thường được thực hiệndưói các loại như: Bảo hiểm hoạt động cho vay, bảo hiểm tài sản hình thành từ vốn vay, bảo hiểm tài sản cầm cố,…Hiện nay theo quy định của pháp luật quy định tại Nghị định 178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999 của Chính Phủ; thì tài sản dùng để cầm cố thế chấp vay vốn Ngân hàng trong suốt thời gian còn vay vốn phải mua bảo hiểm đầy đủ. Do vậy để hạn chế rủi ro đối với tài sản bảo đảm thì Ngân hàng phải yêu cầu khách hàng mua bảo hiểm vật chất toàn bộ giá trị tài sản bảo đảm cho Ngân hàng, đồng thời cùng ký cam kết tay ba giừa Ngân hàng – doanh nghiệp bảo hiểm – chủ sở hữu tài sản cầm cố, thế chấp, bảo lãnh để Ngân hàng được toàn quyền được thanh toán số tiền bồi thường bảo hiểm tài sản đó nếu trong trường hợp tài sản đảm bảo đó bị rủi ro về vật chất để thu hồi nợ vay. 2.6. Nâng cao vai trò kiểm tra, kiểm soát nội bộ Công tác, kiểm tra, kiểm soát nội bộ trong hoạt động tín dụng là một công cụ vô cùng quan trọng, thông qua hoạt động kiểm soát có thể phát hiện, ngăn ngừa và chấn chỉnh những sai sót trong quá trình thực hiện nghiệp vụ tín dụng. Bên cạnh đó hoạt động kiểm soát cũng phát hiện, ngăn chặn những rủi ro đạo đức do cán bộ tín dụng gây ra. Để nâng cao vai trò của công tác kiểm tra kiểm soát nhằm phòng ngừa, hạn chế rủi ro tín dụng, Chi nhánh NHNo & PTNT Đông Sơn cần thực hiện một số biện pháp sau: + Tăng cường những cán bộ có trình độ, đã qua nghiệp vụ tín dụng, có tinh thần trách nhiệm cao, đạo đức tốt để làm công tác kiểm soát. +Trong quá trình kiểm tra hoạt động tín dụng có thể tăng cường cán bộ làm trực tiếp từ bộ phận tín dụng hoặc thẩm định và quản lý tín dụng cùng phối hợp kiểm tra. + Thường xuyên đào tạo, nâng cao trình độ nghiệp vụ, luật pháp cho cán bộ kiểm soát. + Cần quy định trách nhiệm đối với cán bộ kiểm soát, có chế độ khuyến khích thưởng phạt để nâng cao tinh thần trách nhiệm trong hoạt động kiểm soát. + Không ngừng hoàn thiện và đổi mới phương pháp kiểm tra, áp dụng linh hoạt các biện pháp kiểm tra tuỳ thuộc vào từng thời điểm, từng đối tượng và mục đích kiểm tra. 2.7. Xử lý nợ quá hạn và nợ khó đòi Đây là biện pháp nhằm hạn chế tối đa những khoản thiệt hại đã xảy ra đối với Chi nhánh NHNo & PTNT Đông Sơn trong khi NQH đang có xu hướng tăng, việc sử lý NQH cần có biện pháp cụ thể sau: * Phải phân tích nguyên nhân NQH của từng khách hàng Việc phân tích nguyên nhân NQH của khách hàng để từ đó có biện pháp tháo gỡ khó khăn. Đối với những khách hàng NQH có tính chất tạm thời, hoạt động sản xuất kinh doanh bình thường, Ngân hàng xem xét khả năng trả nợ và phương án sản xuất kinh doanh trong thời gian tới để quyết định cho vay. Việc cho vay phải đảm bảo thu hồi được vốn, giúp khách hàng vượt qua khó khăn và có biện pháp trả nợ có thể áp dụng biện pháp sau: Xác định phương án cơ cấu nợ, ngân hàng căn cứ vào kinh doanh của khách hàng, khách hàng chứng minh được khả năng hoàn trả khi đến hạn sau khi được cơ cấu lại nợ thì ngân hàng mới cơ cấu lại nợ. Để thực hiện lại cơ cấu lại nợ cho khách hàng thì đòi hỏi ngân hàng phải gíam sát các khoản nợ và hoạt động của khách hàng sau khi cơ cấu. * Quản lí chặt chẽ đối với khách hàng khó khăn Đối với khách hàng khó khăn về tài chính, kinh doanh thua lỗ, khó khắc phục NQH chưa xác định được nguồn trả, ngân hàng cần quản lí chặt chẽ khoản vay và khách hàng trên như sau: + Đối với khoản vay có tài sản bảo đảm hoặc đảm bảo hợp đồng: Tìm các khách hàng có khả năng về tài chính nhận lại nợ của khách hàng khó khăn để tiếp tục khai thác hiệu quả tài sản khả năng trả nợ. Ngân hàng rà soát tài sản bảo đảm, tình trạng tài sản, hồ sơ pháp lí để có thể phát mại tài sản thu hồi vốn. Phối hợp cùng với các cơ quan chức năng để tiến hành thanh lí, phát mại các tài sản bảo đảm để thu hồi vốn. Trong trường hợp tài sản phát mại không đủ thu hồi vốn thì buộc khách hàng phải trả tiếp phần còn lại. + Đối với khoản vay không có bảo đảm: Trong trường hợp này cần kiểm soát chặt chẽ nguồn tài chính của khách hàng, các khoản phải thu, nguồn vốn thanh toán của các công trình qua thông báo vốn hàng năm đối với lĩnh vực xây dựng. đối với lĩnh vực khác thì yêu cầu khách hàng cùng chủ đầu tư, người mua hàng cam kết thanh toán chuyển khoản về tài khoản của khách hàng tại ngân hàng để thu hồi nợ. Tư vấn cho khách hàng bán bớt tài sản không phát huy hiệu quả, không cần để sử dụng để trả nợ tiền vay. + Đối với khách hàng là cá nhân kết hợp cùng cơ quan nơi công tác hoặc chính quyền địa phương, đôn đốc nhắc nhở hoặc vận động thân nhân khách hàng trả nợ thay. * Biện pháp khởi kiện ra toà: Theo qui định của luật phá sản doanh nghiệp thì sau thời hạn 30 ngày kể từ ngày ngân hàng gửi giấy đòi nợ đến hạn mà không được doanh nghiệp thanh toán nợ, ngân hàng có chủ nợ không có bảo đảm hoặc chủ nợ có bảo đảm 1 phần có quyền gửi đơn đề nghị toà án nơi đặt trụ sở chính của doanh nghiệp yêu cầu giải quyết việc tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Hiện nay trong quan hệ kinh tế việc khởi kiện ra toà chưa thành thói quen đối với mọi người và mọi doanh nghiệp. Song trong nền kinh tế thị trường chúng ta cần quen dần với việc giải quyết các vụ kiện kinh tế qua toà án kinh tế. Việc khởi kiện ra toà sẽ có tác dụng đối với khách hàng không có thiện chí trong việc trả nợ. 2.8. Giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tín dụng + Để hạn chế rủi ro tín dụng cần nâng cao trách nhiệm của cán bộ tín dụng, gắn trách nhiệm với quyền lợi của cán bộ làm công tác tín dụng. Nên có chế độ thưởng phạt rõ ràng, do cán bộ tín dụng luôn đối mặt với những rủi ro cần phải có chế độ tiền lương đặc biệt để khuyến khích người làm công tác tín dụng tránh rủi ro đạo đức nghề nghiệp. + Thường xuyên làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng, tổ chức học tập nghiên cứu về luật pháp, các văn bản chế độ cho cán bộ làm công tác tín dụng, để mọi người hiểu và chấp hành nghiêm chỉnh luật pháp và thực hiện đúng quy trình nghiệp vụ. + Chuẩn hoá cán bộ tín dụng: Cán bộ tín dụng có một vai trò rất quan trọng đối với hoạt động của Ngân hàng, có thể mang lại lợi nhuận cho Ngân hàng và cũng đem đến rủi ro cho Ngân hàng. Do vậy để hạn chế rủi ro trong công tác tín dụng ngay từ khâu tuyển dụng cán bộ làm công tác tín dụng cần phải chặt chẽ và phải có một số tiêu chuẩn sau: - Phải đào tạo chính quy, đúng chuyên nghành ở các trường đại học có uy tín. - Có khả năng ngoại ngữ, tin học, điều kiện để phục vụ cho nghiên cứu tài liệu, giao dịch và sử dụng máy vi tính trong việc tính toán, thẩm định dự án… - Có phẩm chất đạo đức: Đây chính là tiêu chuẩn quan trọng đối với cán bộ tín dụng, quyết định đến vấn đề rủi ro đạo đức trong kinh doanh. - Có hiểu biết về xã hội và khả năng giao tiếp: Đây là yếu tố giúp cho khách hàng và Ngân hàng hiểu nhau hơn, làm cho khách hàng có thiện cảm với Ngân hàng. Với khả năng giao tiếp của cán bộ tín dụng sẽ hiểu thêm được nhiều thông tin về khách hàng phục vụ trong sử lý nghiệp vụ. * Nâng cao trình độ cán bộ + Trong hoạt động Ngân hàng, cán bộ Ngân hàng vừa là người trực tiếp cung ứng sản phẩm dịch vụ cho khách hàng, vừa là người trực tiếp quan hệ với khách hàng. Vì vậy mối quan hệ giữa cán bộ Ngân hàng và khách hàng quyết định đến chất lượng sản phẩm dịch vụ cung ứng. + Do hoạt động tín dụng liên qua đến nhiều lĩnh vực, nhiều nghành nghề, sản phẩm, trong khi đội ngũ cán bộ tín dụng chủ yếu được đào tạo từ các trường kinh tế, kinh nghiệm về các lĩnh vực liên quan đến kỹ thuật bị hạn chế. Đòi hỏi cán bộ tín dụng không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, thường xuyên tìm hiểu các ngành nghề, lĩnh vực khác để phục vụ cho hoạt động tín dụng. + Để nâng cao chất lượng cán bộ tín dụng ngay từ khâu tuyển chọn cán bộ tín dụng phải có đạo đức, trình độ chuyên môn, được đào tạo bài bản, hiểu biết nhiều vè lĩnh vực kinh tế, xã hội … + Hiện nay Nhà nước ta đang hoàn thiện dần hệ thống pháp lý, các luật đưa vào cuộc sống. Cán bộ tín dụng bên cạnh việc giỏi chuyên môn nghiệp vụ thì chưa đủ mà còn phải tích cực tìm hiểu các văn bản pháp luật, các quy dịnh của nhà nước, Chính phủ, Bộ ngành có liên quan, như Luật doanh nghiệp nhà nước, Luật doanh nghiệp, Luật đất đai…. + Mời các chuyên gia về pháp lý đến giảng, trao đổi kinh nghiệm trong các tình huống, vụ án liên quan đến lĩnh vực Ngân hàng để cán bộ Ngân hàng có thêm kinh nghiệm, hiểu thêm về pháp luật, quyết định cho vay được an toàn. 3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 3.1. Đối với NHNN&PTNT Việt Nam - Nâng cao hiệu quả của trung tâm phòng ngừa rủi ro của NHNN&PTNT Việt Nam, thường xuyên cung cấp thông tin cho các chi nhánh về những khách hàng có quan hệ với nhiều tổ chức tín dụng, phân tích đánh giá khách hàng từ những thông tin thu thập được. Bên cạnh việc đánh giá khách hàng, trung tâm cũng cần phân tích thêm về các thông tin giá cả thiết bị, mức đầu tư đối với các dự án cụ thể... để các chi nhánh tham khảo. - Đề nghị NHNN&PTNT Việt Nam đẩy nhanh tiến trình hiện đại hóa công nghệ Ngân hàng, để hệ thống Ngân hàng NN&PTNT Việt Việt Nam có điều kiện hội nhập sâu rộng trong khu vực và trên thế giới, giúp lãnh đạo có thể quản lý tài sản, an toàn hệ thống tốt hơn, nhất là quản lý rủi ro tín dụng. - Xây dựng phần mềm thẩm định dự án và thường xuyên tổ chức các lớp đào tạo nâng cao trình độ cán bộ làm công tác thẩm định và tín dụng. - Ban hành các văn bản hướng dẫn một cách đồng bộ, phù hợp với thực tế, giảm việc chỉnh sửa thay đổi thường xuyên như hiện nay. - Ban hàng các hướng đẫn kịp thời với chủ trương chính sách của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước cho các chi nhánh. 3.2. Đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Trong quá trình thực hiện các quy định của NH Nhà nước, đôi khi các NH và các tổ chức tín dụng gặp không ít khó khăn, và các văn bản luật này đưa ra phần rất khó hiểu, phần lại không có hướng dẫn rõ ràng. Vì thế trong các văn bản luật, đặc biệt là các văn bản điều chỉnh bổ sung chính sách của mình, thì Ngân hàng Nhà nước cần ban hành kèm theo các văn bản hướng dẫn cụ thể. 3.3. Đối với Chính phủ và các Bộ ngành có liên quan * Hoàn thiện môi trường pháp lý Hiện nay nước ta đang chuyển dần sang cơ chế thị trường đòi hỏi Nhà nước phải có hệ thống pháp luật đồng bộ và phù hợp. Việc ban hành các luật và văn bản dưới luật cần phải đồng bộ kịp thời để tạo môi trường pháp lý hoàn thiện, ổn định và thông thoáng cho hoạt động kinh doanh của mọi chủ thể trong nền kinh tế. Thực tế cho thấy hệ thống pháp luật và văn bản dưới luật ở nước ta còn chưa đồng bộ và kịp thời, một phần nào đó đã gây ra khó khăn cho Ngân hàng, đặc biệt trong hoạt động tín dụng. Dưới đây là một vài đẫn chứng cụ thể: - Luật doanh nghiệp nhà nước đã có hiệu lực từ ngày 01/07/2004, đến tháng 12/2004 Chính phủ đã ban hành nghị định 199/2004/NĐ-CP về việc ban hành quy chế quản lý tài chính của Công ty Nhà nước và quản lý vốn nhà nước đầu tư vào các doanh nghiệp khác. Nhưng việc thực hiện đồng ý cho phép doanh nghiệp Nhà nước không cho HĐQT vay vốn, thế chấp, bảo lãnh... vẫn chưa được triển khai gây khó khăn đối với doanh nghiệp Nhà nước và Ngân hàng trong việc cho vay. - Luật phá sản đã có hiệu lực từ ngày 15/10/1004 nhưng đến nay vẫn chưa có văn bản dưới luật cụ thể. - Điểm b điều 77 Luật các tổ chức tín dụng: quy định những trường hợp không được cho vay là người thẩm định xét duyệt cho vay. Nên quy định cụ thể là người thẩm định, xét duyệt cho mình vay hay là tất cả cán bộ nhân viên làm nghiệp vụ thẩm định, xét duyệt cho vay là không hợp lý khi vay có tài sane bảo đảm như sổ tiết kiệm, ký phiếu... Đề nghị Chính phủ xem xét và có hướng dẫn cụ thể vấn đề trên. - Ban hàng luật kế toán và quy định kiểm toán hàng năm là điều kiện bắt buộc đối với các đơn vị hoạt động kinh doanh, nó là cơ sở để phản ánh thực chất hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. - Xây dựng cơ bản là lĩnh vực có rất nhiều vấn đề Chính phủ cần ban hành Luật xây dựng để quy định cụ thể về pháp lý trong hoạt động xây dựng cơ bản. * Ổn định chính sách kinh tế vĩ mô và đổi mới công tác quản lý doanh nghiệp - Phải xây dựng chiến lược kinh tế lâu dài trong quá trình quản lý cần tăng cường sử dụng các công cụ kinh tế làm đòn bẩy, hạn chế dùng các biện pháp hành chính, bảo hộ để tác động xấu đến nền kinh tế. Ví dụ việc tăng thuế nhập khẩu đối với linh kiện ô tô, các doanh nghiệp lắp ráp ô tô bị ảnh hưởng... - Cần đẩy nhanh tiến độ chuyển đổi hình thức sở hữu doanh nghiệp Nhà nước để làm lành mạnh hóa tài chính doanh nghiệp, đồng thời giảm bớt gánh nặng cho Nhà nước. - Đối với lĩnh vực xây dựng cơ bản: + Hiện nay nợ tồn đọng đối với lĩnh vực này rất lớn, ảnh hưởng đến hoạt động của nền kinh tế và doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực XDCB. Chính phủ và các bộ ngành liên quan cần chỉ đạo mạnh mẽ hơn trong việc rà soát lại toàn bộ các dự án, quy rõ trách nhiệm của các chủ đầu tư, người quyết định đầu tư, phê duyệt dự án để gây nên tình trạng ách tắc thiệt hại lớn về ngân sách Nhà nước và tài chính các doanh nghiệp xây lắp. Khi mở thầu phải bố trí đủ vốn để thực hiện dự án, tránh việc làm trước chạy vốn sau, hay vừa làm vừa chạy vốn, chưa có vốn đã mở thầu, việc đầu tư tràn lan, phân tán, không có hiệu quả trong XDCB. + Đối với thuế và bảo hiểm xã hội: đối với các doanh nghiệp thi công các công trình xây dựng có nguồn vốn thanh toán từ ngân sách, thương thanh toán chậm, nhỏ giọt trong nhiều năm. Trong khi doanh nghiệp vẫn nộp BHXH, thuế đầy đủ, do vậy ảnh hướng rất lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đề nghị Nhà nước có chính sách về thuế và BHXH với doanh nghiệp còn nợ trong lĩnh vực XDCB. + Cần thành lập tổ chức bảo hiểm tín dụng, nhằm phân tán rủi ro trong hoạt động tín dụng Ngân hàng. * Ổn định và nâng cao chất lượng hiệu quả công tác quy hoạch Chính phủ cần chỉ đạo các bộ ngành và các địa phương nhanh chóng ổn định nâng cao chất lượng hiệu quả của công tác quy hoạch. Khi quy hoạch cần phải chi tiết và đồng bộ. Quy hoạch phát triển các vùng miền hợp lý, tạo điều kiện phát triển các vùng, tránh quy hoạch tràn lan như tỉnh nào cũng có khu công nghiệp, nhưng thu hút vốn đầu tư không hiệu quả. KẾT LUẬN CHUNG Chuyên đề đã hoàn thành các nội dung chính sau đây - Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về hộ sản xuất ,rủi ro tín dụng trong hoạt động Ngân hàng Chuyên đề làm rõ khái niệm, bản chất, xu hướng phát triển hộ sản xuất. Chuyên đề cho rằng, rủi ro tín dụng là tất yếu trong quá trình hoạt động kinh doanh Ngân hàng, rủi ro diễn biến rất phức tạp do nhiều nguyên nhân khách quan khác nhau. Rủi ro tín dụng gây ra nhiều hậu quả cho Ngân hàng. Song cũng có nhiều biện pháp để phòng ngừa, hạn chế rủi ro tín dụng. - Tập trung phân tích thực trạng rủi ro tín dụng và rủi ro tín dụng đối tượng hộ sản xuất ở Chi nhánh NHNo & PTNT Đông Sơn Chuyên đề đã phân tích thực trạng rủi ro tín dụng và rủi ro tín dụng đối tượng hộ sản xuất dưới các góc độ khác nhau, đánh giá cụ thể các biện pháp hạn chế rủi ro, ưu điểm về hạn chế rủi ro, tồn tại và nguyên nhân của những tồn tại được nêu ra. Chuyên đề cho rằng có nhiều nguyên nhân từ chủ quan chi nhánh, khách quan của nền kinh tế và từ phía hộ sản xuất. - Đề xuất một số giải pháp cụ thể để phòng ngừa, hạn chế rủi ro tín dụng đối tượng hộ sản xuất tại Chi nhánh NHNo & PTNT Đông Sơn Đó là các giải pháp về cán bộ, về nghiệp vụ, về quản lý, điều hành, kiểm sóat và xử lý rủi ro của ngân hàng . Và những giải pháp nhằm nâng cao năng lực tự chủ trong hoạch toán kinh doanh của các hộ sản xuất-kinh doanh. Nhìn chung quản lý rủi ro tín dụng là một vấn đề rất phức tạp và rộng lớn, trong khi đó thời gian thực tập ngắn cũng như khả năng nhận thức, khả năng tìm hiểu thực tế của bản thân còn có những hạn chế nhất định. Vì vậy chuyên đề sẽ không tránh khỏi những khiếm khuyết. Bản thân em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của quý thầy cô và cơ quan chi nhánh NHNo&PTNT huyện Đông sơn. Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô, đặc biệt là thầy Nguyễn Hữu Tài (GV hướng dẫn), cùng toàn thể các bộ tại chi nhánh NHNo&PTNT huyện Đông Sơn đã hướng dẫn, giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này. TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình Ngân hàng thương mại Giáo trình nghiệp vụ tín dụng ngân hàng Giáo trình lập dự án phát triển Nông nghiệp - Nông thôn Giáo trình phân tích chính sách Nông nghiệp – Nông thôn Giáo trình kinh tế Nông nghiệp Giáo trình quản trị và kinh doanh ngân hàng, NXB Thống Kê - Hà Nội, 2002 Nghiệp vụ Ngân hàng thương mại, NXB Thống Kê, 2003 TS. Nguyễn Văn Tiến: đánh giá phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh Ngân hàng, NXB Thống Kê TS. Phan Thị Thu Hà - TS. Nguyễn Thị Thu Thảo, Ngân hàng thương mại - Quản trị và nghiệp vụ NHNo&PTNT Huyện Đông Sơn (2008), Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh các năm từ 2005 - 2007 NHNo&PTNT Huyện Đông Sơn (2008), Báo cáo kết quả hoạt động tín dụng hộ sản xuất – kinh doanh các năm từ 2005 - 2007 NHNo&PTNT Huyện Đông Sơn (2008), Báo cáo kế hoạch trích dự phòng Báo đài và các phương tiện thông tin đại chúng, truyền thông khác

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33451.doc
Tài liệu liên quan