Chuyên đề Nghiên cứu tác động cuả Quy định chế độ bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc đến hoạt động triển khai nghiệp vụ bảo hiểm cháy tại Công ty Bảo hiểm dầu khí Khu vực Tây Bắc

Nghị định 130/2006/NĐ-CP là cơ hội giành cho tất cả các công ty bảo hiểm phi nhân thọ tại thị trường bảo hiểm Việt Nam: cơ hội để tăng doanh thu, cơ hội để tạo vị trí vững vàng hơn trước thời điểm 1/1/2008 khi cam kết WTO chính thức được dỡ bỏ. Hiện nay chỉ với 10% cơ sở và doanh nghiệp có nguy cơ cháy nổ tham gia bảo hiểm cháy thị trường bảo hiểm đối với nghiệp vụ này còn rất nhiều tiềm năng. Quy định bảo hiểm cháy nổ bắt buộc ra đời sẽ nhanh chóng đẩy cầu bảo hiểm cháy nổ lên cao. Tuy nhiên yếu tố bắt buộc cũng đưa lại nhiều thách thức cho các công ty bảo hểim trong hoạt động triển khai nghiệp vụ. Bởi kết quả triển khai không chỉ liên quan đến doanh thu của các công ty mà còn thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật Việt Nam.

doc110 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1452 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Nghiên cứu tác động cuả Quy định chế độ bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc đến hoạt động triển khai nghiệp vụ bảo hiểm cháy tại Công ty Bảo hiểm dầu khí Khu vực Tây Bắc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phổ biến nhất, nên với quy định mà Nghị định đưa ra chắc chắn sẽ làm thị trường bảo hiểm cháy nổ trong thời gian tới ổn định hơn. 2.3.2.2 Tác động đến các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ được phép triển khai bảo hiểm cháy nổ bắt buộc. Thứ nhất: Làm thay đổi chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp. Chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp là mục tiêu tổng thể, dài hạn để phát triển doanh nghiệp trong việc kết hợp tổng thể các yếu tố kinh tế- tổ chức- môi trường kinh doanh- chế độ chính trị- xã hội nhằm phát huy lợi thế của doanh nghiệp để giành thắng lợi trong cạnh tranh và đạt các mục tiêu đề ra. Để hoạch định chiến lược kinh doanh, cần căn cứ vào thị trường bảo hiểm, môi trường xã hội, môi trường pháp lý và mô hình tổ chức của doanh nghiệp. Nghị định 130/2006/NĐ-CP tác động lên hai trong số ba căn cứ để xây dựng chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp: Thứ nhất, yếu tố thị trường: Trong thị trường, yếu tố quan trọng nhất là khách hàng. Khách hàng là căn cứ đầu tiên khi lập chiến lược kinh doanh. Trong khi đó, do hiệu lực của nghị định, hàng loạt khách hàng trước đây là bộ phận khách hàng tiềm năng (vẫn có nhu cầu tham gia bảo hiểm cháy, nổ nhưng do những lý do khác nhau mà chưa tham gia bảo hiểm) trở thành khách hàng thực thụ của doanh nghiệp. Như vậy, đối tượng có nhu cầu tham gia bảo hiểm cháy nổ đã tăng lên, tất yếu phải tác động đến doanh nghiệp phi nhân thọ có kinh doanh nghiệp vụ này. Tất yếu tác động lên chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Thứ hai, môi trường xã hội, môi trường pháp lý: Doanh nghiệpbảo hiểm là tế bào của nền kinh tế, hoạt động trong môi trường kinh tế xã hội- pháp lý. Khi qui định của pháp luật trong lĩnh vực bảo hiểm thay đổi, đương nhiên các doanh nghiệp bảo hiểm chịu sự tác động của những biến đổi đó. Doanh nghiệp phải điều chỉnh hoạt động của mình cho phù hợp với tình hình mới. Nghị định 130/2006/NĐ-CP tạo ra những cơ hội và thách thức mới cho các doanh nghiệp bảo hiểm trên thị trường. Vì vậy, để nắm bắt cơ hội, doanh nghiệp không thể không xét đến những tác động mà nghị định đưa lại để có những điều chỉnh hợp lý trong chiến lược kinh doanh. Vì vậy, năm 2007 và (có thể) trong một vài năm tới mục tiêu kinh doanh của các doanh nghiệp sẽ tập trung mạnh vào nghiệp vụ bảo hiểm cháy nổ bắt buộc do những lợi thế mà nghị định 130/2006/NĐ-CP đưa lại. Thực tế chứng minh trong những điều kiện thuận lợi như trên, chuyển hướng chiến lược kinh doanh là tất yếu. Bởi Nghị đinh 130/2006/NĐ-CP tương tự như Qui định bắt buộc BHTNDS chủ xe cơ giới đối với người thứ ba (NĐ 115/2003/NĐ-CP) trước đó. Năm 2003, thị trường đã chứng kiến sự ra quân đồng loạt của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ trong cả nước. Các doanh nghiệp đều tập trung tối đa nguồn nhân lực cho hoạt động khai thác BH xe cơ giới. Thị phần doanh thu từ nghiệp vụ này vì thế được phân chia từ năm 2003 và các năm sau không có nhiều thay đổi. Năm 2007 này, do là năm đầu trong triển khai nghị định bảo hiểm cháy nổ bắt buộc nên ý nghĩa của nó rất lớn. Kết quả triển khai năm đầu tiên còn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng vì nó liên quan mật thiết với thị phần của doanh nghiệp, số lượng đơn bảo hiểm tái tục hợp đồng và doanh thu thực hiện cũng như lợi nhuận của năm sau. Hơn nữa, các doanh nghiệp bảo hiểm trên thị trường bảo hiểm VN hiện nay, chưa khẳng định được rõ nét thế mạnh của công ty mình trong một lĩnh vực nhất định nào. Đây là điểm khác biệt của VN với thị trường bảo hiểm của các nước. Tại các nước, mỗi công ty bảo hiểm có sức mạnh tại một hoặc một số lĩnh vực riêng do vậy họ luôn trung thành với mục tiêu kinh doanh của họ. Ở VN lại khác, thị trường chưa ổn định, nên các công ty thử sức trên mọi lĩnh vực, đây là thời điểm để các công ty bảo hiểm tìm ra thế mạnh riêng. Và Qui định bảo hiểm cháy nổ là cơ hội để các doanh nghiệp thử nghiệm và trải nghiệm. Thứ hai: Cơ hội củng cố sức mạnh của doanh nghiệp bảo hiểm trong nước và tìm hiểu thị trường của doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài. Như trên đã trình bày, thời điểm 1/1/2008 các cam kết trong WTO chính thức được thực hiện. Các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài được đối xử bình đẳng với các doanh nghiệp trong nước. Đây là một thực tế mang nhiều bất lợi đối với các công ty bảo hiểm của nước ta. Để tận dụng khoảng thời gian còn lại, các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước đang tiếp tục các chương trình: Thực hiện chuyên nghiệp hoá bộ máy hoạt động; đào tạo phát triển nguồn nhân lực, có chế độ chính sách phù hợp với người có tài, đào tạo đội ngũ chuyên viên bảo hiểm giỏi nghiệp vụ, đạo đức tốt, tác phong làm việc tốt; tăng cường trang bị và ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, đơn giản hoá các khâu bán- giám định- bồi thường bảo hiểm, đầu tư cho quảng cáo để tạo dựng hình ảnh và lấy chất lượng phục vụ là cơ sở để xây dựng thương hiệu, văn hoá và phong cách phục vụ của doanh nghiệp; xây dựng mối quan hệ khách hàng với đối tác chiến lược lâu dài, , nâng cao năng lực tài chính, nâng cao sức cạnh tranh.... Đối với doanh nghiệp nước ngoài, đây là thời điểm để tìm hiểu sâu hơn về các quy định pháp luật của Việt Nam, hoạch định chính sách thâm nhập thị trường bảo hiểm Việt Nam hiệu quả nhất. Thời gian ngắn ngủi còn lại, thường được sử dụng trong việc tìm kiếm địa điểm đặt văn phòng, trụ sở công ty. Tìm kiếm ứng viên có khả năng. Điều tra hoạt động thị trường... Thứ ba: Để đáp ứng sự mở rộng thị trường, các doanh nghiệp buộc phải thuê thêm lao động, như vậy quy mô lao động của mỗi doanh nghiệp cũng như sức cạnh tranh trên thị trường lao động sẽ tăng lên rất nhiều. Cơ hội tăng doanh thu mở ra đối với doanh nghiệp, đối tượng tham gia bảo hiểm gia tăng mạnh về số lượng. Công việc trong các khâu từ khai thác đến giám định bồi thường tăng lên nhiều lần, do vậy nhu cầu tuyển dụng nhân viên là tất yếu. Hiện nay, cho dù số lượng lao động làm việc trong ngành bảo hiểm tăng nhanh qua các năm, đáp ứng phần nào sự tăng trường và phát triển của ngành bảo hiểm nhưng nhân lực vẫn là một trong những vấn đề nan giải khó giải quyết nhất. Lao động chưa đáp ứng được đòi hỏi của ngành, về cả lượng và chất. Với điều kiện thuận lợi do Nghị định 130/2006/NĐ-CP tạo ra, doanh nghiệp nào giải quyết tốt nhất vấn đề nhân sự doanh nghiệp đó sẽ thành công. Do vậy, để thu hút nhiều nhất chuyên viên bảo hiểm giỏi chuyên môn, ngoại ngữ, đạo đức nghề nghiệp tốt...các doanh nghiệp bảo hiểm thực sự phải tiến hành cạnh tranh gay gắt. Thị trường lao động trong lĩnh vực bảo hiểm vì thế sôi động hơn. Thứ tư: Bộ Tài chính qui định chi tiết cụ thể về biểu phí, qui trình khai thác, giám định, khiếu nại...Do đó các doanh nghiệp phải có thay đổi và điều chỉnh phù hợp với qui định của bộ. Trước khi Nghị định 130/2006/NĐ-CP ra đời, để phục cho hoạt động triển khai nghiệp vụ bảo hiểm cháy, nổ mỗi doanh nghiệp xây dựng một qui tắc bảo hiểm riêng. Về cơ bản, các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước xây dựng trên cơ sở của Bảo Việt, doanh nghiệp nước ngoài xây dựng theo chuẩn mực tập đoàn của họ. Các qui trình triển khai , qui tắc bảo hiểm này phù hợp với yêu cầu của pháp luật trước đây. Nhưng sau Nghị định 130/2006/NĐ-CP những điểm không tương thích, các doanh nghiệp phải tiến hành thay đổi cho phù hợp. Ví dụ, về tỷ lệ phí: danh mục tài sản của các công ty phân chia không tương ứng. Biểu phí của Bộ Tài chính nhìn chung đầy đủ, chi tiết hơn trong tất cả 16 đầu danh mục tài sản (nhất là danh mục các cơ sở sản xuất liên quan đến vật liệu nổ, xưởng sản xuất, công trình xây dựng..doanh nghiệp quy định còn tất sơ sài ).Tỷ lệ phí đưa ra cùng với mức dao động 25% về đa phần vẫn cao hơn so với tỷ lệ phí mà các doanh nghiệp đang áp dụng. Ví dụ, trên thị trường các doanh nghiệp như Bảo Minh, Bảo Việt, PVI... đang áp dụng mức phí khoảng 0.8‰ đối với khách sạn cao cấp, nhưng Bộ Tài chính quy định 1.35‰, mức chênh lệch là trên 40%. Hay đối với đối tượng bảo hiểm là rạp hát, rạp chiếu phim...tỷ lệ phí của doanh nghiệp hiện nay xoay quanh mức 2‰, Bộ Tài chính quy định 3.9‰, mức chênh lệch trên 49%. Với các loại kho hàng như nhụa đường, sơn ,hoá chất, bông vải sợi, thuốc lá, thiết bị điện tử...mức chênh lệch trên 27%, cao nhất là kho hàng nông sản, gạch gốm sứ....mức chênh lệch lên đến trên 40%...Và các tài sản khác hầu hết đều áp dụng mức phí thấp hơn mức phí Bộ Tài chính đưa ra, mức chênh lệch lớn hơn 25%. Vậy để theo đúng yêu cầu của pháp luật, các doanh nghiệp phải tiến hành điều chỉnh lại bảng tỷ lệ phí, chi tiết hơn nữa tỷ lệ phí cho các danh mục hàng hoá. Về các điều khoản trong qui tắc bảo hiểm, các doanh nghiệp qui định chi tiết hơn qui tắc do Bộ Tài chính đưa ra, nhưng về cơ bản tương đối phù hợp với tinh thần của Nghị định 130/2006/NĐ-CP. Thứ năm: Công ty bảo hiểm chuyên ngành, doanh nghiệp bảo hiểm nhà nước có lợi thế hơn hẳn khi thực hiện các dự án cho “người trong nhà”, còn phần không thuộc về sự ảnh hưởng của bên nào, sẽ là đối tượng để các công ty giành giật....Nguy cơ cạnh tranh không lành mạnh theo đó sẽ tăng. Tại thị trường Việt Nam hiện nay, hình thành một qui định bất thành văn, các doanh nghiệp nhà nước, cơ sở hành chính sự nghiệp ở các tỉnh thành phố chủ yếu tham gia bảo hiểm tại Bảo Việt;các doanh nghiệp trong ngành Dầu khí, hoặc có vốn góp trên 51% của ngành tham gia tại PVI; doanh nghiệp cơ sở liên quan đến ngành bưu chính tham gia tại PTI,...Nhìn chung, các doanh nghiệp bảo hiểm nhà nước và chuyên ngành đang chiếm ưu thế đối với phân đoạn thị trường mà họ có sức ảnh hưởng cao. Điều này theo Luật cạnh tranh là vi phạm pháp luật. Nhưng thực tế vẫn luôn luôn diễn ra. Trong thời gian tới, khi Nghị định 130/2006/NĐ-CP được áp dụng, chắc chắn khó có sự lấn sân lẫn nhau. Vì thế với đối tượng khách hàng không bị áp lực buộc tham gia tại bất kỳ doanh nghiệp bảo hiểm nào là mục tiêu để các doanh nghiệp lôi kéo. Tình hình cạnh tranh không lành mạnh (như đã phân tích trên đây) có thể gia tăng đáng kể. 2.3.2.3. Những tác động trực tiếp đến BHDK Tây Bắc. Bảo hiểm dầu khí Tây Bắc một trong những công ty trực thuộc của Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm dầu khí Việt Nam. BHDK Tây Bắc có trụ sở tại Hà Đông- Hà Tây, cửa ngõ thủ đô Hà Nội. Khách hàng của Công ty là doanh nghiệp, cơ sở sản xuất.. ngoài ngành dầu khí (vốn góp của Tập đoàn dầu khí nhỏ hơn 50% vốn điều lệ). Bảo hiểm cháy nổ là một trong các nghiệp vụ được công ty triển khai từ những năm đầu thành lập. Sau Nghị định 130/2006/NĐ-CP, cơ hội mở ra đối với tất cả các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ, trong đó có Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm Dầu khí nói chung và BHDK Tây Bắc nói riêng. Những tác động trực tiếp có thể kể đến bao gồm: Thứ nhất tạo ra cơ hội tăng doanh thu cho Công ty: Cơ hội tăng doanh thu từ lĩnh vực bảo hiểm cháy, nổ giành cho tất cả các công ty bảo hiểm được phép kinh doanh bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc. Riêng đối với BHDK Tây Bắc, do thị trường mà Công ty đảm nhận còn rất nhiều tiềm năng nên Nghị định 130/2006/NĐ-CP sẽ tạo ra một thời kỳ tăng trưởng mới. Hiện tại, BHDK Tây Bắc mới chỉ hướng đến đối tượng khách hàng là các cơ sở sản xuất vừa và nhỏ, doanh nghiệp tư nhân và trách nhiệm hữu hạn...Phần lớn tập trung ở Hà Nội, Hà Tây, Vĩnh Phúc... Đối tượng khách hàng lớn hơn và đối tượng ở các tỉnh thành phố khác như Lạng Sơn, Sơn La, Lai Châu, Bắc Giang...chưa là khách hàng của công ty. Trong khi đó, với tốc độ phát triển mạnh mẽ của đất nước, các tỉnh thành trên có rất nhiều hạng mục tài sản, cơ sở sản xuất, kho tàng bến bãi...thuộc diện tham gia bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc. Trước đó, do nhận thức của các cấp lãnh đạo, chủ các doanh nghiệp về bảo hiểm còn sơ khai, lệch lạc nên dù có nhu cầu, họ cũng chưa tham gia bảo hiểm. Nghị định 130/2006/NĐ-CP ra đời, kèm sau đó là văn bản hướng dẫn thực hiện của uỷ ban nhân dân các cấp gửi tới đối tượng đó, cùng với sự kiểm tra liên tục, định kỳ hàng tháng hàng quý.... Nhu cầu và ý thức tham gia bảo hiểm cháy nổ theo đó sẽ tăng nhanh chóng. Thứ hai: Tạo ra sự thay đổi chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp, thay vì mục tiêu năm của bảo hiểm xe cơ giới như năm trước, năm 2007 là năm của bảo hiểm cháy nổ bắt buộc Trước khi Nghị định 130/2006/NĐ-CP ra đời, tại BHDK Tây Bắc bảo hiểm xe cơ giới là nghiệp vụ khai thác chính tại công ty. Trong cơ cấu doanh thu, bảo hiểm xe cơ giới và bảo hiểm con người luôn chiếm trên 40% tổng doanh thu. Đây cũng là nghiệp vụ mà các chuyên viên khai thác bảo hiểm cũng như mạng lưới đại lý có kỹ năng, sự thành thục cao hơn cả. Trong khi đó, nghiệp vụ bảo hiểm cháy nổ doanh thu chiếm một tỷ lệ tương đối thấp khoảng trên 10%. Bảo hiểm cháy nổ cũng không phải nghiệp vụ chủ chốt tại công ty trong những năm qua. Doanh thu nghiệp vụ này luôn đứng sau bảo hiểm xe cơ giới, bảo hiểm con người, bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu. So với tiềm năng của bảo hiểm cháy nổ và trên cơ sở chỉ đạo của Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm dầu khí Việt Nam, BHDK Tây Bắc xây dựng chiến lược phát triển tập trung khai thác bảo hiểm cháy, nổ trong giai đoạn tới. Xây dựng khẩu hiệu “năm của bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc” Lãnh đạo và chuyên viên tại các phòng của Công ty phấn đấu đưa doanh thu nghiệp vụ bảo hiểm cháy, nổ tăng mạnh mẽ và trở thành nghiệp vụ chủ đạo của trong những năm tới. Thứ ba: Tác động đến hoạt động khai thác . Hiện tại, để khai thác bảo hiểm cháy, nổ các chuyên viên tiếp cận khách hàng bằng quan hệ trực tiếp. Tức là chuyên viên trực tiếp liên hệ với các đối tượng có nhu cầu bảo hiểm cháy nổ, thông qua điện thoại, fax và email, và gặp gỡ. Chuyên viên tiến hành chào phí, ký kết hợp đồng. Nhìn chung hợp đồng có được mang tính chất hoạt động độc lập của các chuyên viên, các phòng. Phí bình quân trên mỗi hợp đồng không cao, thường ở mức trên 20 triệu đồng. Khách hàng chủ yếu là công ty tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, năng lực tài chính yếu. Đối tượng là doanh nghiệp nhà nước, cơ sở thuộc quyền quản lý của chính quyền các cấp ở các tỉnh chưa được Công ty quan tâm sâu sắc. Sau Nghị định 130/2006/NĐ-CP, với trách nhiệm cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện về PCCC đối với các cơ sở có nguy cơ cháy nổ của Bộ Công an và quy định “Doanh nghiệp bảo hiểm chỉ thực hiện giao kết hợp đồng bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc đối với bên mua bảo hiểm, khi bên mua bảo hiểm đã được Cơ quan Cảnh sát PCCC cấp Giấy chứng nhận hoặc biên bản xác nhận đủ điều kiện về PCCC”, hoạt động khai thác của BHDK Tây Bắc cần có sự thay đổi phương thức tiếp cận khách hàng. Hoạt động khai thác không chỉ là hoạt động độc lập của mỗi chuyên viên mà sẽ có sự hỗ trợ ngay từ ban đầu của công ty. Ban lãnh đạo BHDK Tây Bắc bằng uy tín tiến hành thiết lập mối quan hệ với cơ quan PCCC. Tận dụng tối đa mối quan hệ trong quá khứ với các đơn vị cấp Giấy chứng nhận PCCC, và các đơn vị công an thực hiện kiểm tra giám sát việc chấp hành Nghị định 130/2006/NĐ-CP. Thông qua hai đơn vị này, danh sách khách hàng có nguy cơ cháy, nổ được công ty cập nhật thường xuyên. Chi phí giành cho hoạt động quản trị rủi ro có thể giảm bớt do cơ quan cảnh sát PCCC hàng quý hàng tháng đều tiến hành kiểm tra hoạt động PCCC của đối tượng. Các bước trong quy trình khai thác cũng có khác biệt, trước chuyên viên nhận yêu cầu bảo hiểm từ khách hàng, chào phí, đánh giá rủi ro, cấp đơn...Nay nếu khách hàng có nhu cầu bảo hiểm nhưng chưa có giấy chứng nhận an toàn PCCC, chuyên viên khai thác tư vấn để khách hàng làm đơn đề nghị cơ quan Cảnh sát PCCC kiểm tra cơ sở của người tham gia bảo hiểm để tiến hành lập biên bản xác nhận đủ hoặc không đủ điều kiện PCCC. Trường hợp khách hàng đã có giấy chứng nhận PCCC do cơ quan Cảnh sát cấp, khi nhận được yêu cầu bảo hiểm, công ty vẫn tiến hành cấp phiếu “Đánh giá rủi ro” để khách hàng kê khai, nhưng về cơ bản không tiến hành các hoạt động kiểm tra, và đánh giá lại theo những nội dung của cơ quan cảnh sát. Hiện tại, đội ngũ đại lý pháp nhân của BHDK Tây Bắc không tiến hành khai thác bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc. Vì đây là nghiệp vụ khó và phức tạp. Tuy nhiên, trong thời gian tới do nhu cầu tham gia cháy nổ gia tăng, do khó khăn về khoảng cách địa lý nên hoạt động của các chuyên viên khai thác tại các phòng ban không thể đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn. Bồi dưỡng chuyên sâu về bảo hiểm cháy cho đội ngũ đại lý pháp nhân tại các địa bàn xa là yêu cầu cấp bách. Năm 2007 và các năm sau công ty coi trọng việc tạo điều kiện để đại lý pháp nhân được tham gia các khoá đào tạo liên quan tới bảo hiểm cháy, nổ và các văn bản pháp luật liên quan. Tạo cơ sở bước đầu để đội ngũ đại lý pháp nhân đủ khả năng tiến hành các bước cơ bản đầu tiên trong quá trình khai thác bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc. Tăng cường kết hợp với các ban ngành có liên quan để tuyên truyền về sự cần thiết của bảo hiểm cháy nổ bắt buộc Để kết quả đạt được từ triển khai bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc khả quan nhất, BHDK Tây Bắc tiến hành các hoạt động tuyên truyền, phổ biến về Nghị định 130/2006/NĐ-CP và sự cần thiết của bảo hiểm cháy, nổ. Công tác này, trước đây Công ty chưa từng thực hiện, chủ yếu là hoạt động do Tổng Công ty Cổ phần Bảo hiểm Dầu khí tiến hành. Tuy nhiên, với tiềm năng lớn từ thị trường bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc và vì lợi ích an toàn xã hội, BHDK Tây Bắc phối hợp với Uỷ ban nhân dân các tỉnh trong khu vực thị trường đảm nhận để tiến hành tổ chức các chương trình khác nhau về bảo hiểm cháy, nổ, Nghị định 130/2006/NĐ-CP thông qua cơ quan truyền thông tại địa phương. Hiện tại, BHDK Tây Bắc chưa bắt tay thực hiện kế hoạch này, tuy nhiên trong thời gian không xa tới sẽ được triển khai. Thứ tư: Tác động đến công tác giám định- bồi thường-đề phòng hạn chế tổn thất: Công tác giám định -bồi thường và để phòng hạn chế tổn thất phải thực hiện theo một chuẩn mực mới, đảm bảo cao nhất các qui định của Bộ Tài Chính. Hiện tại công tác giám định bồi thường nghiệp vụ bảo hiểm cháy tại BHDK Tây Bắc thực hiện còn một số vướng mắc. Do trong những năm qua, tổn thất liên quan đến hợp đồng bảo hiểm cháy, nổ hầu như không xảy ra, hoặc nếu có thì tổn thất không lớn. Hơn nữa, chuyên viên trong phòng là đội ngũ nhân viên trẻ, nên chưa có nhiều cơ hội được cọ xát thực tế về giám định và bồi thường của nghiệp bụ bảo hiểm cháy, nổ. Trong thời gian tới, số đơn bảo hiểm cháy, nổ sẽ gia tăng đáng kể, do vậy chắc chắn số vụ tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm theo đó cũng gia tăng. Thậm chí sẽ gia tăng cả về mức độ tổn thất và sự phức tạp trong khâu giám định. Để đáp ứng tình hình mới, ngay từ thời điểm đầu năm phòng giám định bồi thường cũng như BHDK Tây Bắc đã tạo điều kiện để chuyên viên có thể tiếp cận các lĩnh vực có liên quan, các tài liệu lưu trong công ty và tài liệu lưu từ Tổng công ty về những vụ việc phức tạp. Làm tốt công tác này BHDK Tây Bắc sẽ giảm được số vụ cần thuê chuyên viên giám định độc lập. Và do đối tượng tham gia bảo hiểm gia tăng, để tốc độ gia tăng đơn bảo hiểm cao hơn nhiều lần tốc độ tăng số vụ tổn thất, BHDK Tây Bắc có kế hoạch tăng chi phí giành cho hoạt động đề phòng hạn chế tổn thất. Thứ năm: Tác động đến công tác chống trục lợi bảo hiểm, công tác thống kê: .Do đối tượng tham gia bảo hiểm sẽ gia tăng đáng kể trong những năm tới, nên công tác phòng chống trục lợi bảo hiểm và thống kê sẽ phải có những thay đổi nhất định để phù hợp. Phiếu điều tra rủi ro, có thể thêm hình thức điều tra thông qua mạng Internet. Thông tin trong bảng khai có thể đồng thời gửi đến những ban ngành có chịu trách nhiệm quản lý đối tượng để kiểm chứng. Phiếu điều tra rủi ro BHDK Tây Bắc đang sử dụng là mẫu do SwessRee thiết kế, tuy nhiên do bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc và bảo hiểm cháy nổ tự nguyện có những khác biệt nhất định nên công ty cũng như các thành viên khác của Tổng công ty Bảo hiểm Dầu khí Tây Bắc thực hiện một số thay đổi trong nội dung của phiếu. Hơn nữa, nhằm mục đích thực hiện công tác thống kê đầy đủ và chính xác, đáp ứng đòi hỏi của tình hình mới, Công ty dự định sử dụng một số phần mềm thống kê bảo hiểm, và đạo tạo sâu hơn về kiến thức thống kê cho chuyên viên các phòng. Năm 2007, Nghị định 130/2006/NĐ-CP chính thức phát huy tầm ảnh hưỏng của nó, tuy nhiên tác động lên toàn thị trường nói chung và công ty bảo hiểm dầu khí nói riêng còn nhiều hạn chế chưa thực sự mạnh mẽ. Bởi các lý do sau: + Công tác tuyên truyền về nghị định chưa có thời gian thực hiện đầy đủ. + Thông tư, hướng dẫn thực hiện nghị định còn ở dạng dự thảo, chưa có văn bản chính thức. Do vậy chế tài áp dụng cho những trường hợp sai phạm chưa có tác dụng. + Đây là một sự tác động rất mạnh mẽ lên các doanh nghiệp, đòi hỏi phải có thời gian đủ dài để DNBH có thể kịp thời thích ứng với thay đổi của thị trường. Thời gian cho phổ biến nghị định, đào tạo và tuyển dụng nhân viên , triển khai các chiến lược kinh doanh mới của doanh nghiệp. Do vậy, dù thời gian triển khai nghị định đã đi qua được 1quý, nhưng so với cùng kỳ năm trước, số đơn bảo hiểm có gia tăng nhưng chưa có những đột biến tích cực. Số gia tăng ngoài số đơn bảo hiểm tái tục là chủ yếu, chỉ có một lượng không lớn các đơn bảo hiểm mới. Như vậy, từ thực trạng triển khai nghiệp vụ bảo hiểm cháy nổ hiện nay, đòi hỏi công ty phải thực hiện mạnh mẽ hơn những quyết sách của ban quản trị. 2.3.3. Thuận lợi & Khó khăn. Sau nghị định 130/2006/NĐ-CP của chính phủ , thuận lợi và khó khăn của công ty trong khai thác bảo hiểm cháy nổ có thể khái quát như sau: 2.3.3.1 Thuận lợi: (Bao gồm cả những thuận lợi vốn có và những thuận lơi mới từ sau nghị định 130): + Thuận lợi xuất phát từ phía tập đoàn dầu khí và Tổng công ty BHDK . Thương hiệu ngành dầu khí ở Việt Nam là một thương hiệu mạnh, đa phần người dân nước ta đều có sự tin tưởng vào các công ty mang thương hiệu Dầu khí. Trong hoạt động kinh doanh, Tổng công ty BHDK cũng như các công ty thành viên có rất nhiều thuận lợi nhờ vào sức mạnh thương hiệu của tập đoàn. Do vậy, khi tiến hành triển khai bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc có thể hoạt động tuyên truyền quảng cáo của công ty chi phí không lớn bằng các công ty khác nhưng kết quả đạt được có khả năng cao hơn. + Thuận lợi về vị trí địa lý, dân cư, đời sống kinh tế chính trị xã hội tại khu vực thị trường mà công ty đảm nhận: BHDK Tây Bắc trụ sở chính đặt tại thành phố Hà Đông- Hà Tây, giáp ranh Hà Nội. Địa bàn công ty đảm nhận, phần lớn là các tỉnh đang trong quá trình phát triển mạnh mẽ như Hà Tây, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Phú Thọ...Hơn nữa, giáp ranh với Hà Nội nên BHDK Tây Bắc khá thuận lợi trong tiếp cận khách hàng tiềm năng, thuận lợi trong tuyển nhân sự có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ vững... Triển khai một nghiệp vụ bảo hiểm với đầy đủ thuận lợi từ khâu nhân sự, đến yếu tố khách hàng, giao thông, thông tin liên lạc... đã cho thấy hoạt động triển khai bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc của BHDK Tây Bắc sẽ đạt được kết quả tốt đẹp. + Thuận lợi từ sự phát triển của đất nước: Tốc độ tăng trưởng bình quân GDP của Việt Nam trong 5 năm qua luôn đạt trên 7,5%, năm 2006 đạt 8,17%. Việt Nam là quốc gia có tốc độ phát triển đứng thứ 2 trên thế giới, chỉ sau Trung Quốc. Các tỉnh thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Vũng Tàu... kết quả đạt được còn cao hơn nữa, ở khoảng 13 đến 15% mỗi năm. Qúa trình hội nhập kinh tế quốc tế thúc đẩy mạnh mẽ hình thành các nhà máy xí nghiệp, công ty... Đây là cơ hội cho BHDK Tây Bắc tăng doanh thu từ nghiệp vụ bảo hiểm cháy bởi nhu cầu vì nghiệp vụ bảo hiểm này cũng sẽ tăng theo. + Thuận lợi từ cơ sở vật chất và đội ngũ cán bộ công nhân viên: Được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Tổng công ty, cơ sở vật chất BHDK Tây Bắc nhìn chung được cải thiện đáng kể qua các năm. Tỷ lệ máy tính, điện thoại trên nhân viên đạt tỷ lệ xấp xỉ 1. Cán bộ đang làm việc tại Công ty đều được tuyển dụng trên cơ sở các kỳ sát hạch nghiêm túc, chất lượng cao. Trên 80% cán bộ, nhân viên có trình độ đại học, một số trên đại học, khả năng chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, tinh thần trách nhiệm cao. Hơn nữa, môi trường làm việc thân thiện cũng góp phần tạo điều kiện nâng cao năng suất lao động của Công ty.Những khó khăn khi triển khai bảo hiểm cháy nổ bắt buộc như nhân viên trẻ, hoặc cán bộ mới chưa có nhiều kinh nghiệm, và nắm chưa sâu và chắc vấn đề...sẽ được giải quyết nhanh chóng bằng sự giúp đỡ tận tình của người có thâm niên công tác, và trình độ, năng lực tốt hơn. + Thuận lợi chung đối với tất cả các công ty bảo hiểm, trong đó có BHDK Tây Bắc: Ngày nay, trình độ khoa học kỹ thuật phát triển cao, qui mô sản xuất ngày càng được mở rộng, rủi ro tiềm ẩn vì thế cũng gia tăng. Do vậy, hoạt dộng tự bảo hiểm, lập dự phòng không còn hiệu quả khi mà chỉ một sơ suất nhỏ đủ gây ra một tổn thất rất lớn. Mặt khác, ý thức của người dân, nhất là cán bộ, lãnh đạo các cơ sở, doanh nghiệp về PCCC, bảo hiểm cháy...ngày càng được nâng cao. Đáp ứng đòi hỏi của phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế, hệ thống văn bản pháp luật nói chung và văn bản pháp luật hướng dẫn điều chỉnh hoạt động bảo hiểm, PCCC, bảo hiểm cháy đang được hoàn thiện. Hơn nữa giữa các bộ ngành liên quan đã có sự phối hợp nhất định + Thuận lợi khác: Loại hình bảo hiểm cháy nổ có đối tượng bảo hiểm là tài sản của cá nhân, tổ chức doanh nghiệp... Đây là tài sản được xác định hoặc dễ xác định mà không xảy ra phức tạp như các hình thức bảo hiểm bắt buộc khác liên quan đến trách nhiệm dân sự, do vậy khi xảy ra tổn thất nó không hoặc ít gây tranh cãi, khiếu nại trong giải quyết bồi thường. Ngoài ra, trong thời gian gần đây, các vụ hoả hoạn xảy ra ở Việt Nam và thế giới tự bản thân chúng đã là những đoạn phim quảng cáo có tác dụng cao về sự cần thiết của bảo hiểm cháy nổ. + Thuận lợi từ những lợi ích mà Nghị định 130/2006/NĐ-CP đưa lại cho nhà nước, doanh nghiệp bảo hiểm và đối tượng tham gia bảo hiểm cháy nổ bắt buộc (như đã trình bày). Không những thế nghị định cũng có sự ảnh hưởng rộng rãi tới những đối tượng không thuộc phạm vi điều chỉnh của nghị định, đối tượng được lựa chọn tự nguyện tham gia hoặc không. Hoạt động khai thác của chuyên viên đối với bảo hiểm tự nguyện vì thế sẽ thuận lợi hơn, có thể giảm chi phí khai thác nhưng số đơn và giá trị hợp đồng cấp ra sẽ tăng nhiều lần. 2.3.3.2 Khó khăn: + Tốc độ phát triển của Việt Nam mặc dù cao nhưng giá trị 1% tăng trưởng so với các nước trong khu vực như Singapore, Malaysia, Thái Lan và những nước trên thế giới như Mỹ, Nhật Bản, Pháp, Anh....còn rất nhỏ bé.Việt Nam cho đến nay vẫn là nước kém phát triển. Thu nhập bình quân đầu người dù đã tăng nhưng chỉ với 720 USD mỗi năm, lại phải đối mặt với lạm phát, người dân Việt Nam vẫn là những người rất nghèo. Với khoản thu nhập nhỏ, nhưng phải phục vụ cho nhiều nhu cầu và mục đích khác nhau, người dân Việt Nam hầu như không có khoản chi phí giành cho bảo hiểm. Tổ chức, doanh nghiệp luôn có nhu cầu đổi mới máy móc, giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm...luôn quan niệm chi phí cho các khoản bảo hiểm là lãng phí. Hơn nữa, đa số cá nhân, tổ chức và doanh nghiệp do khả năng tài chính hạn hẹp cũng không có điều kiện sở hữu tài sản có giá trị cao. Do những lý do trên, nhu cầu bảo hiểm nói chung, bảo hiểm cháy nổ nói riêng còn hạn chế. + Mức sống dân cư được cải thiện nhưng về cơ bản Việt Nam vẫn là quốc gia nông nghiệp, tư duy và ý thức của người dân về cộng đồng, xã hội, về những ngành mới mẻ như bảo hiểm, ngân hàng, chứng khoán...còn nhiều hạn chế. Trong khi đó, việc tuyên truyền, giảng dạy, phổ biến kiến thức, tạo điều kiện để người dân tiếp cận với thông tin về các lĩnh vực trên được tiến hành không hệ thống, không thống nhất, đứt quãng...Do vậy kết quả thu được không những không như mong đợi của các cơ quan ban ngành có liên quan mà còn gây ra tác động trái ngược. Người dân từ chỗ ít hiểu biết trở thành hiểu không rõ, hiểu sai. Phát triển bảo hiểm vì thế trở lên khó khăn hơn. + Địa bàn mà BHDK Tây Bắc đảm nhận bên cạnh các tỉnh có tốc độ công nghiệp hoá diễn ra mạnh mẽ vẫn có những tỉnh nghèo, lạc hậu, kinh tế phát triển chậm chạp. Trong cơ cấu các ngành kinh tế, sản xuất nông nghiệp là chính. Nhu cầu về bảo hiểm cháy nổ vì thế còn rất thấp. Giao thông, liên lạc khó khăn cũng gây ra trở ngại trong hoạt động khai thác của các chuyên viên, trong tạo dựng và phát triển mạng lưới đại lý chuyên nghiệp. + Khó khăn trong cạnh tranh. Cạnh tranh lành mạnh là yếu tố không thể thiếu để các doanh nghiệp phát triển. Số lượng doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động trên địa bàn BHDK Tây Bắc đảm nhận không nhiều, nhưng sự cạnh tranh tại đây diễn ra khá gay gắt. Khu vực này có khá nhiều tỉnh giáp ranh với Hà Nội, việc các công ty bảo hiểm khác vươn sức ảnh hưởng đến các địa bàn này là tất yếu. Do vậy BHDK Tây Bắc không chỉ cạnh tranh với các công ty có trụ sở đặt tại địa bàn mà còn phải cạnh tranh trực tiếp với tất cả công ty bảo hiểm hoạt động tại Hà Nội. Trong khi đó, trong bảo hiểm xuất hiện ngày càng nhiều phương thức cạnh tranh. Cạnh tranh bằng các hình thức lôi kéo khách hàng như: mở rộng phạm vi bảo hiểm, tăng tỷ lệ hoa hồng, áp dụng giảm phí, tăng chi phí phục vụ khách hàng, quan hệ khách hàng, lôi kéo một số cán bộ trong các cơ quan hành chính sự nghiệp đoàn thể dùng sức ép, buộc nhân viên dưới quyền tham gia bảo hiểm...Trong các biện pháp trên, phổ biến là hình thức giảm phí. Nó tạo ra cuộc chạy đua trong các công ty bảo hiểm, giảm phí đến tối đa có thể. Hậu quả là dự phòng phí bị giảm theo, hiệu quả kinh doanh giảm sút. + Bên cạnh số lãnh đạo doanh nghiệp, cơ sở đã nhận thức được tầm quan trọng của bảo hiểm cháy nổ còn phổ biến các lãnh đạo doanh nghiệp đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước mang tư tưởng bao cấp, không tìm hiểu hoặc không nhận thức được vấn đề. Tạo ra khó khăn tỏng khai thác cho doanh nghiệp. + Đối tượng khách hàng của BHDK Tây Bắc hiện nay đa phần là các doanh nghiệp tư nhân, trách nhiệm hữu hạn.... đối tượng này gía trị tài sản, công xưởng không lớn. Trong khi đó, khi tham gia bảo hiểm mang tư tưởng “tham gia vì mục đich vay vốn ngân hàng” do đây là điều kiện bắt buộc trong các hợp đồng vay vốn, hoặc tham gia vì các mối quan hệ. + Nghiệp vụ bảo hiểm cháy là một nghiệp vụ rất phức tạp trong tất cả các khâu, từ khai thác đến bồi thường. Đòi hỏi cán bộ khai thác, giám định bồi thường...phải có trình độ chuyên môn cao, phẩm chất đạo đức tốt. Hiểu biết rộng về nhiều lĩnh vực khác nhau như vật liệu xây dựng, kết cấu công trình, chất nổ, nguyên liệu cháy...Nhưng hiện nay tại BHDK Tây Bắc chưa có chuyên gia giỏi về lĩnh vực này. Tỷ lệ phí được áp dụng chủ yếu dựa vào cảm tính, hoặc dựa trên các đơn bảo hiểm cấp trước đó mà không phải dựa trên đánh giá chính xác đối tượng đựơc bảo hiểm. Do vậy nguy cơ tính phí không sát, không chính xác rất cao.... + Phân mức trách nhiệm mà BHDK Tây Bắc hiện đảm nhận so với giá trị bảo hiểm, STBH mà những khách hàng lớn lựa chọn không tương thích...Với sự phát triển của BHDK Tây Bắc, nhiều dự án công ty đã có thể đảm nhận, nhưng do vướng mắc từ hạn mức trách nhiệm, công ty phải chuyển lên tổng công ty. Hậu quả là thời gian phục vụ khách hàng bị kéo dài, chi phí gia tăng...nên hiệu quả kinh doanh thấp. + Qui định bắt buộc bảo hiểm cháy nổ bắt buộc thực hiện dưới sự giám sát của cơ quan PCCC, mà cụ thể là cán bộ PCCC tại các tỉnh, thành phố...nguy cơ lạm dụng chức quyền để thay đổi kết quả kiểm tra, kiểm soát đối với công tác PCCC ở cấp cơ sở là rất cao. Do đó, việc BHDK Tây Bắc phải bảo hiểm cho những công trình không đủ điều kiện an toàn PCCC là tất yếu. Kết quả là hiệu quả kinh doanh bảo hiểm chays nổ không cao. + Qui định bắt buộc trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới ban ngành năm 2003 đã từng gây dư luận không đồng tình trong nhân dân do khâu tổ chức triển khai nghiệp vụ này của các công ty bảo hiểm tiến hành có nhiều bất cập. Do vậy, hình thức bảo hiểm cháy nổ bắt buộc có thể chịu gánh chịu phản ứng tiêu cực từ phía người tham gia ngay từ khi nghị định được ban hành, đi vào triển khai thời gian đầu. Định hướng của công ty BHDK Tây Bắc trong nắm bắt cơ hội thị trường BH cháy thời gian tới. BHDK Tây Bắc đề ra các mục tiêu sau đối với nghiệp vụ bảo hiểm cháy: + Doanh thu bảo hiểm cháy nổ trong năm 2007 tăng gấp 2 tốc độ tăng năm 2006. Đạt mức:22.500 tỷ đồng. + Gia tăng số đơn bảo hiểm cấp ra tại các tỉnh như Lạng Sơn, Bắc Giang, Yên Bái... + Tăng cưòng dịch vụ khách hàng, làm khách hàng hài lòng không chỉ với mức phí hợp lý mà còn với dịch vụ bảo hiểm tốt nhất. + Chiếm lĩnh thị phần cao nhất về bảo hiểm cháy nổ tại khu vực thị trường đảm nhận. CHƯƠNG 3 : MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM TRIỂN KHAI TỐT NHẤT NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM CHÁY TẠI CÔNG TY BẢO HIỂM DẦU KHÍ KHU VỰC TÂY BẮC SAU NGHỊ ĐỊNH SỐ 130/2006/NĐ-CP CỦA CHÍNH PHỦ ĐỐI VỚI NHÀ NƯỚC: - Tăng cường kiểm tra giám sát từ nhiều phía: Theo nghị định 130, các bộ ngành liên quan gồm Bộ Công An, Bộ Xây dựng, Bộ Tài Chính và đại diện hiệp hội bảo hiểm (cơ quan thống nhất ý kiến từ các công ty bảo hiểm trên thị trường bảo hiểmViệt Nam) lập ra một chuẩn mực về qui trình, nội dung kiểm tra giám sát về an toàn phòng cháy chữa cháy. Kết quả kiểm tra từ bất cứ thành viên nào trong các bộ ngành trên đều được thông báo tới các bên. - Hoàn thiện khung pháp lý qui định chê độ bảo hiểm cháy nổ bắt buộc. Trước mắt là ban hành văn bản chính thức gồm Thông tư hướng dẫn thực hiện qui định bảo hiểm cháy nổ bắt buộc và Qui tắc, biểu phí bảo hiểm cháy nổ bắt buộc. Sau đó, các bên liên quan cùng thảo luận các hình thức chế tài áp dựng trong trường hợp xử lý sai phạm của đối tượng tham gia. - Gia tăng mức phạt: Gia tăng mức phạt đối với các cơ sở không thực hiện đúng yêu cầu an toàn PCCC, và mức phạt đối với đối tượng không tham gia bảo hiểm cháy nổ bắt buộc. Mức phạt phải có sức răn đe đối với đối tượng, không được thấp hơn mức chi phí giành cho xây dựng, trang bị phương tiện PCCC... hoặc thấp hơn mức phí bảo hiểm cháy nổ đáng lý phải bỏ ra. - Xây dựng khung hình phạt cụ thể đối với các trường hợp cán bộ cơ quan PCCC vì lợi dụng chức quyền, tắc trách trong công việc cấp giấy chứng nhận an toàn PCCC cho các đối tượng không đạt yêu cầu. - Tạo điều kiện hơn nữa cho DNBH trong cấp đơn bảo hiểm. Trường hợp DNBH phát hiện có sai phạm trong khâu cấp chứng nhận an toàn PCCC của cơ quan PCCC, cho phép DNBH được từ chối bảo hiểm. - Các cơ quan ban ngành liên quan kết hợp cùng xây dựng các chương trình tuyên truyền về ích lợi của bảo hiểm cháy nổ bắt buộc, tránh trường hợp nhân dân hiểu sai lệch đường lối chỉ đạo của nhà nước đối với ngành bảo hiểm nói chung và bảo hiểm cháy nổ nói riêng. - Minh bạch các khoản chi phí liên quan đến tài khoản tạm giữ của bộ công an tại Kho bạc nhà nước, tài khoản được sử dụng để bổ sung kinh phí cho hoạt động PCCC hàng năm. - Hiện nay, pháp luật nghiêm cấm quảng cáo khuyến mại đối với hình thức bảo hiểm bắt buộc. Tuy nhiên do trong kinh tế thị trường, yếu tố cạnh tranh là không thể tránh khỏi. Và cạnh tranh bằng quảng cáo là một hình thức có cả mặt tốt và không tốt của nó. Do vậy, để bảo hiểm cháy nổ đưa lại kết quả cao nhất nhà nước cần có những điều chỉnh hợp lý về vấn đề quảng cáo đối với bảo hiểm bắt buộc nói chung và bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc nói riêng. Theo đó ban hành văn bản về vấn đề quảng cáo trong lĩnh vực này, nêu rõ những trường hợp nào là vi phạm và trường hợp nào được phép tiến hành. Kèm theo là hình phạt khi có sự vi phạm. - Hợp đồng bảo hiểm hiện nay được Bộ Tài chính qui định chuẩn, nhưng vì chiến lược kinh doanh của mỗi công ty họ có thể coi các điều khoản trong hợp đồng như lợi thế cạnh tranh. Tuy nhiên Bộ Tài chính cũng qui định rằng, nếu 2 bên, bảo hiểm và tham gia bảo hiểm thoả thuận được với nhau, những gì được Bộ Tài chính qui định có thể thay đổi. Trong rất nhiều trường hợp, vì các lợi ích nào đó, các bên tham gia ký kết hoàn toàn có thể tìm được tiếng nói chung để vi phạm pháp luật, lách luật va làm ảnh hưởng đến lợi ích của các bên khác. Do vậy để tránh trường hợp này, Bộ Tài chính cần chỉ rõ sự thay đổi có thể xảy ra ở mục nào, và mức tối đa tối thiểu của sự thay đổi là như thế nào. - Bộ Tài chính nên thường xuyên cập nhật qua Website những qui định của Chính phủ, của Bộ có liên quan đến lĩnh vực bảo hiểm. Số liệu liên quan đến thị trường bảo hiểm như doanh thu phí, chi phí bồi thường, số vụ bồi thường lớn và điển hình...không chỉ được cung cấp riêng tới các doanh nghiệp bảo hiểm mà Bộ nên coi đây là thông tin chung của tất cả những đối tượng có quan tâm đến hoạt động của thị trường bảo hiểm . - Có thể thực hiện bảo hiểm trách nhiệm dân sự đối với người thứ ba hoặc với cộng đồng xã hội kèm theo Nghị định 130/2006/NĐ-CP. Vì cháy, ko khi nào thiệt hại chỉ xảy ra với riêng đối tượng được bảo hiểm. Hậu quả của cháy không chỉ xảy ra riêng đối với đối tượng được bảo hiểm vì kèm theo cháy còn có hiện tượng khói đen, đổ nhà cửa, cơ sở...Những tác nhân có thế làm môi trường ô nhiễm, người và tài sản xung quanh bị thiệt hại. Do vậy, thực hiện bảo hiểm thêm các hình thức bảo hiểm đã nêu càng tăng phần đảm bảo an toàn cho xã hội. -Ban hành những mã hiệu cho DN thực hiện tốt PCCC và BH cháy. Học tập ngành môi trường ở một số quốc gia ấy, nếu DN hoặc hãng nào trong quá trình sản xuất thực hiện tốt công tác bảo vệ vệ môi trường, xử lý rác thải đúng quy trình, bảo vệ môi trường xanh sạch...trên bao bì sản phẩm, logo quảng cáo đều có chữ (R)- dấu hiệu khẳng định những thông tin trên , và ai cũng biết. Vậy, ở VN để thực hiện tốt PCCC cũng nên học tập. Vì những DN thực sự có trách nhiệm đối với an toàn xã hội, lợi ích cộng đồng khi thực hiện tốt công tác PCCC và tham gia bảo hiểm cháy đã phải bỏ ra một khoản chi phí không nhỏ. Điều này làm giảm lợi nhuận ròng, giảm mức đầu tư trở lại hoạt động sản xuất...sức cạnh tranh vì thế giảm so với các đối thủ khác. Nếu không có hình thức nào đó để trân trọng những việc làm, thực chất là tốt cho họ, song gián tiếp có ích với xã hội...thì nhanh chóng những đối tượng này sẽ né tránh, thực hiện qua loa, hoặc ko thực hiện....Gắn một ký hiệu, ví dụ (F) lên bao bì, mẫu mã sản phẩm...là một sự tôn vinh về công tác PCCC, tham gia bảo hiểm cháy tại công ty đó...Việc này phải song song kết hợp với giáo dục ý thức người dân. Vì nếu đa phần đông dân chúng có sự ưu ái hơn đối với doanh nghiệp có kí hiệu (F), DN sẽ thuận lợi hơn trong kinh doanh... Đến một thời điểm nào đó, việc thực hiện PCCC và tham gia bảo hiểm cháy trở thành nhu cầu thực sự của doanh nghiệp mà không cần tới yếu tố bắt buộc của chính phủ. 3.2 ĐỐI VỚI HIỆP HỘI BẢO HIỂM. - Thống nhất ý kiến từ các hội viên để lập ra những thoả thuận nhất định liên quan đến cạnh tranh trong khai thác bảo hiểm. Thống nhất tối đa các hành động công ty bảo hiểm thuộc hiệp hội không được thực hiện. Tránh những kết quả không mong đợi như triển trai bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới đối với người thứ ba năm 2003 và những năm sau đó. Việc các DNBH mạnh ai người đó tiến đà làm thị trường bảo hiểm xe cơ giới lôn xộn, làm mất lòng tin ở người dân vào bảo hiểm, tạo tâm lý ức chế khi họ phải tham gia bảo hiểm bắt buộc... - Thống nhất khung phạt trong hiệp hội đối với trường hợp vi phạm thoả thuận đã ký kết.: Hiệp hội ở VN hiện nay không mạnh, sức ảnh hưởng không cao. Các thành viên đồng ý ký kết vào các loại thoả thuận, nhưng sau đó thì tuỳ từng trường hợp lại vi phạm...Tồn tại phổ biến tư duy sự vi phạm đó có lợi cho bản thân công ty là có thể thực hiện, còn quyền lợi của những công ty khác, đối tượng khác bị ảnh hưởng không nằm trong sự quan tâm của Công ty. Nếu có sự can thiệp của hiệp hội thì phán quyết của Hiệp hội cũng không có nhiều ý nghĩa. Do vậy hiệp hội cần phải thực hiện biện pháp nào đó để tăng vai trò của mình. Nhất là trong giai đoạn tới, bảo hiểm cháy nổ bắt buộc được chính thức áp dụng. Hành động của hiệp hội sẽ góp phần hạn chế các hình thức cạnh tranh không lành mạnh như: trường hợp tranh cướp khách hàng bằng giảm phí quá đáng hoặc chi hoa hồng quá lớn, trường hợp DNBH này đã ko chấp nhận bảo hiểm cho khách hàng vì những sai phạm hoặc thiếu sót trong an toàn PCCC, nhưng công ty khác lại chấp nhận bảo hiểm. - Tăng cường vai trò trung gian giữa các công ty bảo hiểm. Phát hiện có trục lợi bảo hiểm cháy nổ dưới hình thức bảo hiểm trùng, cần nhanh chóng thông báo để các công ty bảo hiểm có liên quan tiên hành xử lý giải quyết. Bảo hiểm trùng xảy ra rất phổ biến trong bảo hiểm cháy, nổ. Trong khi đó, tại thị trường bảo hiểm Việt Nam, các doanh nghiệp lại hạn chế cung cấp thông tin lẫn nhau về khách hàng với lý do bảo vệ bí mật trong kinh doanh. Vai trò trung gian của Hiệp hội vì thế cần được phát huy mạnh hơn bằng các ràng buộc giữa hiệp hội với các Công ty bảo hiểm hoặc giữa các Công ty với nhau. - Là đại diện của các công ty bảo hiểm trên thị trường kịp thời phản ánh những vướng mắc khi nghị định đi vào triển khai. Chắc chắn khi nghị định đi vào triển khai sẽ có rất nhiều trường hợp khác với những gì đã suy tính trong quá trình soạn thảo Nghị định 130/2006/NĐ-CP. Sẽ phát sinh rất nhiều tình huống ngoài sự kiến. Do quyền lợi của các bên có thể đối chọi nhau hoặc có thể nó phù hợp với địa bàn này nhưng lại không phù hợp với địa bàn khác. Có thể mức phí BTC đưa ra để các doanh nghiệp tham khảo theo thời gian không còn phù hợp với thực tế. Cũng có thể các cơ quan chức năng có liên quan không thực hiện đúng phận sự của họ, hoặc gây khó dễ cho DNBH hoặc cá nhân cán bộ khai thác.... 3.3 ĐỐI VỚI CÔNG TY BẢO HIỂM. 3.3.1 Tổng Công ty CP Bảo hiểm Dầu khí Việt Nam. Tổng Công ty BHDK Việt Nam tiến hành đổi mới sản phẩm bảo hiểm, phân định rõ sự khác biệt giữa sản phẩm bảo hỉêm cháy nổ bắt buộc và sản phẩm bảo hiểm tự nguyện. Có thể có những ưu tiên nhất định trong hợp đồng bảo hiểm cháy nổ bắt buộc, phí thấp hơn, điều kiện mở rộng hơn (trong phạm vi cho phép của Bộ Tài chính và Hiệp hội bảo hiểm)... Tổ chức khoá đào tạo nâng cao nghiệp vụ bảo hiểm cháy nổ cho toàn bộ chuyên viên có tham gia vào quá trình triển khai sản phẩm bảo hiểm cháy nổ. Đào tạo không chỉ về nghiệp vụ bảo hiêm cháy nổ, kỹ năng khai thác, kỹ năng quan hệ khách hàng...mà cả kỹ năng phuc vụ khách hàng. Phục vụ tốt, tạo ấn tượng tốt để khách hàng luôn nghĩ đến công ty đầu tiên khi muốn tái tục hợp đồng bảo hiểm trong các năm sau. Khách hàng tham gia ký kết hợp đồng trong bảo hiểm cháy nổ bắt buộc hầu hết là những người có trọng trách tại các cơ sở, doanh nghiệp do vậy có hiểu biết về quan hệ hợp đồng, về hợp đồng, về các vấn đề liên quan...Do vậy cán bộ khai thác cần chuẩn bị kỹ kiến thức chuyên môn của mình. Không để xảy ra trường hợp khách hàng do có thắc mắc về các vấn đề về bảo hiểm, về qui định bắt buộc nhưng không giải đáp được. Năm 2007, có ý nghĩa rất quan trọng đối với khâu khai thác những năm sau. Nếu năm này chiếm được thị phần lớn, với nhiều nhất số đơn bảo hiểm và STBH bình quân mỗi đơn cao, những năm sau, do đặc tính tâm lý của người Việt Nam ngại thay đổi, họ sẽ tiếp tục tham gia tại Công ty. Tăng chi cho công tác đề phòng hạn chế tổn thất. Tạo thêm sự tự chủ cho các công ty thành viên trong khoản chi này. Chi đề phòng hạn chế tổn thất thực chất là khoản chi rất quan trọng, nó liên quan trực tiếp đến kết quả triển khai của nghiệp vụ. Chi cho bảo hiểm cháy trong thời gian tới chắc chắn sẽ phải lớn hơn thời gian trước. Chi đề phòng hạn chế tổn thất, trên lý thuyết gồm chi tuyên truyền quảng cáo, chi hội thảo hội nghị tuyên truyền ... nhưng thực tế các công ty bảo hiểm nói chung và BHDK nói riêng thực hiện chưa hiệu quả. Công tác quảng cáo thời gian tới, nếu có, Tổng Công ty phải thống nhất hình thức, nội dung quảng cáo, tránh trường hợp mỗi đơn vị thành viên lại tiến hành một phương thức, cung cấp nội dung không đầy đủ... Gây nhầm lẫn, gây khó hiểu đối với người tham gia...Lập quỹ riêng để thanh toán các chi phí liên quan trong trường hợp chuyên viên thực hiện thăm, tư vấn cho đối tượng tham gia bảo hiểm về quản trị rủi ro. Tăng hạn mức trách nhiệm của các đơn bảo hiểm cháy nổ cho các công ty thành viên. Sức mạnh của các công ty thành viên ngày càng tăng, nếu không kịp thời thay đổi hạn mức trách nhiệm sẽ dẫn tới lãng phí nguồn lực, lãng phí thời gian, và thậm chí mất khách hàng. Trong kế hoạch ký kết đầu năm của các thành viên trong TCT, chỉ phân chỉ tiêu tổng doanh thu, ko chỉ rõ nên có doanh thu trong mỗi lĩnh vực là bảo nhiêu. Không có hạn mức cụ thể tăng tính tự chủ cho Công ty thành viên ...tuy nhiên, do không có mức kế hoạch cụ thể, cán bộ khai thác không có mốc để phấn đấu. Như vậy, nếu cán bộ khai thác không có kiến thức thị trường, kiến thức thực tế tốt sẽ không thể nắm bắt tốt cơ hội. Chỉ tiêu doanh thu với mỗi lĩnh vực trên một góc độ nào đó có thể là nguồn tài liệu tham khảo cho nhân viên. Thông tin tới hiệp hội bảo hiểm các đơn bảo hiểm STBH lớn, có nghi ngờ trục lợi bảo hiểm bằng đơn bảo hiểm trùng. Thay đổi tư duy giữ kín thông tin khách hàng là giữ bí mật kinh doanh. Tổ chức công tác thống kê bảo hiểm theo chương trình phần mềm thống nhất. Xây dựng và phổ biến chương trình cạnh tranh trong triển khai nghiệp vụ bảo hiểm cháy nổ bắt buộc. Theo chất luợng dịch vụ cao đặt lên hàng đầu và không sử dụng phí như phương tiện duy nhất để cạnh tranh. 3.3.2 Công ty BHDK Tây Bắc. Thực hiện các bước trong triển khai nghiệp vụ bảo hiểm cháy nổ theo đúng quy trình Tổng Công ty chỉ đạo thực hiện. Kịp thời tiếp nhận và phản ánh những bất cập trong triển khai bảo hiểm cháy nổ bắt buộc. Trong quá trình triển khai nghiệp vụ sẽ xuất hiện những vấn đề nằm ngoài sự dự tính của các nhà làm luật khi soạn thảo Nghị định 130/2006/NĐ-CP. Trong khi đó, đội ngũ chuyên viên khai thác tại các Công ty tham gia và có vai trò rất quan trọng trong quá trình triển khai. Họ sẽ nhanh chóng phát hiện ra những thiếu sót của Nghị định 130/2006/NĐ-CP, khi đó cần có cơ chế phù hợp để tiếp nhận ý kiến và đề bạt lên Tổng Công ty hoặc các cơ quan có trách nhiệm khác. Tạo điều kiện để nhân viên tham gia đầy đủ các khoá đào tạo liên quan tới bảo hiểm cháy nổ bắt buộc do Tổng Công ty BHDK tiến hành. Tạo điều kiện về thời gian, về kinh phí để nhân viên hăng hái học tập. Khuyến khích chuyên viên tại các phòng tìm hiểu sâu về bảo hiểm cháy bằng nhiều con đường khác nhau như qua Internet, tạp chí chuyên ngành, tài liệu nước ngoài..Hiện tại, chuyên viên tại Công ty trình độ ngoại ngữ còn yếu, do vậy bên cạnh đào tạo về nghiệp vụ, về dịch vụ khách hàng...cần có khoá đào tạo về ngoại ngữ để phục vụ tốt hơn quá trình nghiên cứu tìm hiểu về bảo hiểm...Có thể khuyến khích hình thức làm việc theo nhóm (teamwork) hơn nữa, tạo cơ hội để người có kinh nghiệm truyền đạt kiến thức cho người trẻ. Thời gian tới, khối lượng công việc liên quan đến bảo hiểm cháy, nổ sẽ tăng mạnh, BHDK Tây Bắc cần nhanh chóng có kế hoạch đề nghị Tổng Công ty giúp đỡ và tạo điều kiện để tuyển đủ, tuyển đúng người có năng lực. Tạo dựng mạng lưới đại lý chuyên nghiệp tại các tỉnh thành mà doanh thu bảo hiểm cháy nổ còn thấp. Tạo điều kiện để đối tượng này nhanh chóng được đào tạo về bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc.. Bước đầu có thể để họ tham gia vào các khâu cơ bản của qui trình triển khai nghiệp vụ, như thông tin về yêu cầu bảo hiểm của khách hàng cho Công ty... Phối hợp với các tỉnh thành để thực hiện các chương trình phổ biến về Nghị định 130/2006/NĐ-CP và bảo hiểm cháy nổ bắt buộc. Tài trợ cho các dự án liên quan đến các hoạt động này tại các địa phương. Đây là bước chuẩn bị tốt nhất để tiếp cận đối tượng khách hàng thuộc khối quốc doanh, và các cơ sở ở tỉnh xa. Kết hợp với công an, cơ quan cảnh sát PCCC để nhận được kết quả kiểm tra định kỳ, đột xuất đối với đối tượng có nguy cơ cháy nổ cao, đối tượng đã tham gia bảo hiểm tại BHDK Tây Bắc Tạo điều kiện cho cán bộ khai thác có thể đi thăm đối tượng bảo hiểm, định kỳ hoặc đột xuất. Đánh giá rủi ro, tư vấn đề phòng tổn thất...Hiện nay, xảy ra tình trạng, cán bộ khai thác ký hợp đồng xong, trong thời hạn bảo hiểm không giám sát về sự thay đổi của đối tượng bảo hiểm. Do vậy xảy ra trường hợp mức độ rủi ro nâng lên cả về tần suất và tổn thất có thể có nhưng Công ty không biết. Điều này có thể xuất phát từ yếu tố chưa tạo điều kiện về thời gian, về vật chất đối với cán bộ khai thác. Vì vậy, kiến nghị Công ty cấp kinh phí, tạo điều kiện để cán bộ khai thác thực hiện công tác này. Hiện nay, BHDK Tây Bắc cũng như các công ty bảo hiểm khác sử dụng bảng đánh giá rủi ro do nước ngoài thiết kế, vì vậy có rất nhiều điểm do đặc thù của Việt Nam, không được đề cập trong bảng đánh giá nhưng lại có nguy cơ cháy nổ rất cao ..Vì vậy, BHDK Tây Bắc cần không chỉ căn cứ vào kê khai của khách hàng để tiến hành chấp nhận bảo hiểm mà cần có điều tra kỹ bằng thực tế quan sát đối tượng bảo hiểm. Công tác thống kê, lưu trữ hồ sơ: Thực hiện thống kê theo chuẩn mực nhất định trong toàn Công ty, tiến hành thống kê theo phần mềm giành riêng cho hoạt động này của ngành bảo hiểm. đào tạo nâng cao năng lực thống kê của chuyên viên. Khắc phục tình trạng công tác thống kê thực hiện riêng biệt từng phòng, không có chuẩn mực chung, không có bộ phận thống kê trong toàn công ty, các chỉ tiêu thống kê còn thiếu một số chỉ tiêu quan trọng như số đơn bảo hiểm, số tiền bảo hiểm mỗi đơn ...Thực hiện tốt công tác thống kê sẽ tạo điều kiện dễ dàng trong tra cứu thông tin khách hàng, và tính toán các chỉ tiêu có ý nghĩa quan trọng như chỉ số thời vụ, số tiền bảo hiểm bình quân một đơn... KẾT LUẬN Nghị định 130/2006/NĐ-CP là cơ hội giành cho tất cả các công ty bảo hiểm phi nhân thọ tại thị trường bảo hiểm Việt Nam: cơ hội để tăng doanh thu, cơ hội để tạo vị trí vững vàng hơn trước thời điểm 1/1/2008 khi cam kết WTO chính thức được dỡ bỏ. Hiện nay chỉ với 10% cơ sở và doanh nghiệp có nguy cơ cháy nổ tham gia bảo hiểm cháy thị trường bảo hiểm đối với nghiệp vụ này còn rất nhiều tiềm năng. Quy định bảo hiểm cháy nổ bắt buộc ra đời sẽ nhanh chóng đẩy cầu bảo hiểm cháy nổ lên cao. Tuy nhiên yếu tố bắt buộc cũng đưa lại nhiều thách thức cho các công ty bảo hểim trong hoạt động triển khai nghiệp vụ. Bởi kết quả triển khai không chỉ liên quan đến doanh thu của các công ty mà còn thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật Việt Nam. Công ty BHDK Tây Bắc là công ty thành viên của Tổng Công ty CP Bảo hiểm dầu khí Việt Nam, khu vực thị trường đảm nhận là là 13 tỉnh thành phía bắc nên có rất nhiều thuận lợi, về tốc độ phát triển kinh tế của đất nước, về cơ sở vật chất và trình độ khoa học kỹ thuật…. Bên cạnh đó là một số khó khăn nhất định liên quan đến cạnh tranh, và ý thức về sự cần thiết của bảo hiểm cháy cuả các chủ doanh nghiệp, cơ sở còn nhiều hạn chế… Đứng trước tình hình trên, để đạt được kết quả cao nhất, đòi hỏi Công ty BHDK Tây Bắc có kế hoạch phát huy yếu tố tích cực từ tác động của Nghị định 130/2006/NĐ-CP, và nhanh chóng triển khai các kế hoạch đó. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc31900.doc
Tài liệu liên quan