Chuyên đề Nghiệp vụ bảo lãnh xuất nhập khẩu: Thực trạng và giải pháp phát triển tại Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội

Hội nhập kinh tế quốc tế khiến cho các hoạt động kinh tế diễn ra hết sức phong phú và đa dạng nhưng cũng vô cùng phức tạp. Cuộc cách mạng CNTT đã tác động tích cực tới hầu hết các lĩnh vực kinh tế xã hội với đặc trưng chủ yếu là giúp cho các giao dịch kinh tế được thực hiện một cách thuận tiện hơn, dễ dàng hơn và thời gian thực hiện được rút ngắn đi rất nhiều. Điều này đặt các nhà hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô trước những cơ hội và nhiều thách thức. Đó là: Thông tin nhanh, kịp thời, chính xác là cơ sở để đưa ra những quyết sách chính xác, hiệu quả. Nhưng nó cũng đặt ra cho những quyết định về chính sách phải hết sức nhanh chóng, linh hoạt để có thể ứng phó kịp thời với những diễn biến mới của nền kinh tế. Trong lĩnh vực ngân hàng, CNTT và hội nhập kinh tế quốc tế đã dẫn đến sự bùng nổ về các loại hình dịch vụ và có ảnh hưởng đáng kể đến việc thực thi chính sách tiền tệ. Ngoài việc góp phần giảm tỉ trọng tiền mặt trong lưu thông, các hình thức dịch vụ mới như thẻ tín dụng, máy rút tiền mặt ATM. đã làm cho cầu tiền phản ứng một cách nhanh hơn trước các diễn biến của lãi suất, tức là đã làm tăng độ co dãn của cầu tiền đối với lãi suất. Một cách tổng quát hơn, việc đổi mới công nghệ ngân hàng trên cơ sở ứng dụng CNTT đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của thị trường tài chính, đồng thời đẩy nhanh tốc độ chu chuyển của các luồng vốn, làm cho cung cầu tiền tệ trở nên khó dự báo hơn, cơ chế truyển tải chính sách tiền tệ nhạy cảm hơn. Trong việc hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, CNTT có thể được ứng dụng ở tất cả các khâu, từ thống kê số liệu, phân tích, đánh giá tình hình, dự báo xu hướng trong thời gian tới, ra quyết định đến thực thi quyết định, và trở thành một công cụ không thể thiếu đối với các nhà hoạch định chính sách. Là một ngân hàng hoạt động trong lĩnh vực ngoại thương, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam nói chung và chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội nói riêng đã và đang áp dụng những ứng dụng của CNTT trong hoạt động của mình. CNTT không những giúp Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội hoạt động có hiệu quả hơn mà còn giúp Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội có thể cạnh tranh được với các ngân hàng khác. Ứng dụng CNTT trong hoạt đọng bảo lãnh xuất nhập khẩu trong thời gian sắp tới hứa hẹn sẽ mang lại hiệu quả cao. Trên đây là một số giải pháp mà Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội nên áp dụng để nâng cao hiệu quả kinh doanh trong lĩnh vực bảo lãnh xuất nhập khẩu, nhằm đạt được các chỉ tiêu kế hoạch đã đặt ra. Tuy nhiên, Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội vẫn cần phải có sự hỗ trợ từ Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam và bản thân khách hàng yêu cầu bảo lãnh để nghiệp vụ bảo lãnh xuất nhập khẩu được tiến hành có hiệu quả.

doc123 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1716 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Nghiệp vụ bảo lãnh xuất nhập khẩu: Thực trạng và giải pháp phát triển tại Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dư bảo lãnh cho một khách hàng không vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng cũng đã hạn chế phạm vi và quy mô bảo lãnh của Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội trong thời gian vừa qua. Thực trạng hoạt động bảo lãnh xuất nhập khẩu ở Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội giai đoạn 2006 – 2008 cho ta thấy Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội mới chỉ đáp ứng được nhu cầu của một số doanh nghiệp quốc doanh. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam hiện nay tương đối nhiều nhưng Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội lại chưa thể triển khai dịch vụ đối với đối tượng này. Ngoài nguyên nhân do sự phức tạp trong việc xác định tài sản bảo đảm, còn do nguyên nhân là Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội không đủ vốn điều lệ để thực hiện bảo lãnh vì giá trị bảo lãnh đối với các hợp đồng này tương đối lớn. Mất cân đối các loại hình bảo lãnh Tại Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội, các loại hình bảo lãnh như bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh tham gia đấu thầu phát triển hơn nhiều so với các loại hình bảo lãnh khác. Các loại bảo lãnh khác có phát sinh nhưng doanh số ít. Bảo lãnh nước ngoài trước đây đạt doanh số cao nhưng trong 3 năm trở lại đây đã có sự sụt giảm và bảo lãnh bằng L/C trả chậm vẫn là hình thức bảo lãnh chủ yếu. (Theo mục 2.2.5) Số lượng bảo lãnh phát sinh có xu hướng tăng nhưng không đều giữa các thành phần kinh tế. Chủ yếu các loại bảo lãnh phát sinh được ngân hàng chấp nhận bảo lãnh đều từ các doanh nghiệp cổ phần nhà nước. Quy mô và phạm vi bảo lãnh còn hẹp Mặc dù doanh số bảo lãnh tăng qua các năm nhưng vẫn ở mức thấp so với các loại hình dịch vụ khác, nhất là so với tỷ trọng hoạt động tín dụng của ngân hàng. Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội chủ yếu thực hiện bảo lãnh cho các đơn vị thuộc khu vực của mình, mặc dù có mở rộng sang khu vực khác nhưng chưa nhiều, chưa tương xứng với nhu cầu bảo lãnh của các khách hàng và nhiệm vụ mà VCBTW giao. Nhìn chung, so với các ngân hàng khác trong khối thương mại, quy mô bảo lãnh của Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội khá cao nhưng vẫn thấp hơn rất nhiều so với các ngân hàng khác trên thế giới. Bảo lãnh quá hạn vẫn còn tương đối cao Do sự biến động và ảnh hưởng không ngừng của các cuộc khủng hoảng kinh tế trong những năm gần đây, giống như các NHTM khác, tình trạng tồn tại bảo lãnh quá hạn tại Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội vẫn còn tương đối nhiều. Mặc dù bảo lãnh chưa đến hạn giải toả chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ nhưng dư nợ bảo lãnh trong năm 2008 đã tăng lên đến 35.5% sơ với số dư cuối kỳ năm 2007. Nguyên nhân là do trong năm 2007 và năm 2008 có sự biến động lãi suất VNĐ tương đối lớn trên thị trường liên ngân hàng. Có thời điểm lãi suất lên đến 15%. Tại Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội, tháng 11/2007 mức lãi suất cho vay áp dụng đối với VNĐ lên tới 13.5% và năm 2008 có thời kì là 14%. Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội nói riêng và NHTM nói chung trong giai đoạn này đều liên tục tăng lãi suất cho vay VNĐ nhằm thu hút nội tệ. Các doanh nghiệp xuất nhập khẩu một mặt phải đối đầu với việc lãi suất cho vay không ngừng gia tăng, mặt khác phải đối mặt với tình hình kinh doanh gặp nhiều khó khăn bởi ảnh hưởng từ các cuộc khủng hoảng cuối năm 2007 và năm 2008. Điều này khiến cho các doanh nghiệp chậm thanh toán cho ngân hàng làm cho các khoản bảo lãnh quá hạn tăng. Trong khi tình hình giải toả bảo lãnh trong năm 2007 lại giảm so với năm 2006. Số lượng bảo lãnh quá hạn tăng cộng với các khoản bảo lãnh chưa đến hạn giải toả nhưng có xu hướng chậm được thanh toán khiến cho dư nợ bảo lãnh năm 2008 tăng so với năm 2007. b. Nguyên nhân của hạn chế * Nguyên nhân khách quan Môi trường pháp lý về hoạt động bảo lãnh chưa hoàn chỉnh và đồng bộ - Nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng nói chung và nghiệp vụ bảo lãnh xuất nhập khẩu nói riêng hiện nay chưa có một hệ thống luật chung mà chỉ hoạt động theo luật quốc gia và tập quán ngân hàng. Tại Việt Nam, nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng thường được thực hiện thông qua các văn bản pháp lý do Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước ban hành. Hiện nay, Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội đang áp dụng Quy chế số 26/2006 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; Quyết định số 22/2008 của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam về nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng và một số văn bản pháp lý khác có liên quan đến bảo lãnh ngân hàng. Tuy nhiên, các văn bản pháp lý này chưa thật sự đầy đủ và đồng bộ, lại hay thay đổi nên gây khó khăn cho Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội trong quá trình thực hiện nghiệp vụ. - Điều kiện về tài sản bảo đảm bảo lãnh (ký quỹ, thế chấp, tín chấp) còn nhiều khắt khe và việc định giá tài sản thế chấp còn gặp nhiều khó khăn. Nếu theo quy định, để được ngân hàng đồng ý bảo lãnh, khách hàng phải ký quỹ 100% giá trị bảo lãnh, thế chấp tài sản hoặc phải chứng minh năng lực tài chính trong trường hợp bảo lãnh tín chấp. Nhưng khi ký quỹ tức là khách hàng đã mất đi một khoản vốn để đầu tư sản xuất kinh doanh; thế chấp tài sản thì lại gây rủi ro cho ngân hàng trong trường hợp lạm phát, giá trị tài sản biến đổi, khó khăn trong việc phát mại tài sản. Còn tín chấp thì không phải khách hàng nào cũng có thể đáp ứng được điều kiện mà ngân hàng đưa ra đó là phải có vốn điều lệ tối đa 20 tỷ đồng và sử dụng tối đa 500 lao động. Như vậy, nếu mà thoả mãn được đầy đủ các điều kiện bảo lãnh thì rất ít các doanh nghiệp có thể bảo đảm được. Do vậy, số lượng các doanh nghiệp được Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội áp dụng dịch vụ bảo lãnh không nhiều, thậm chí doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cho tới nay vẫn chưa được Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội chấp nhận bảo lãnh. Mặt khác, việc định giá tài sản bảo đảm bảo lãnh cũng gây cho ngân hàng rất nhiều khó khăn bởi tài sản của các doanh nghiệp quốc doanh đa phần là đã khẩu hao gần hết. Các tài sản của doanh nghiệp tư nhân thì lại không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hay đăng ký tài sản,….Nếu ngân hàng từ chối bảo lãnh thì sẽ làm mất cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp, đồng thời cũng mất đi một nguồn thu cho bản thân ngân hàng. Nhưng nếu đứng ra bảo lãnh, ngân hàng sẽ gặp nhiều rủi ro trong trường hợp khách hàng vi phạm hợp đồng, ngân hàng phải thanh toán bảo lãnh mà khách hàng lại không đủ khả năng tài chính để hoàn trả cho ngân hàng. Kể cả khi ngân hàng thực hiện phát mại tài sản thì cũng gặp rất nhiều rủi ro do sự biến động của tỷ giá. Hơn nữa, để phát mại được tài sản, ngân hàng phải tự mình đến các cơ quan luật pháp để tổ chức phát mại và bán đầu giá tài sản. - Bên cạnh đó, các thủ tục giải quyết các tranh chấp, phát mại tài sản chưa đầy đủ, còn quá nhiều vướng mắc gây khó khăn cho ngân hàng trong việc thu lại các khoản bồi hoản, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp nhà nước - đối tượng bảo lãnh chính của Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội. Các văn bản pháp luật chưa quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan thực hiện công tác thấm định chất lượng, giá cả của hàng nhập khẩu. Vì vậy, khi xảy ra rủi ro do kết quả thẩm định đem lại thì các cơ quan này chỉ phải chịu trách nhiệm nhỏ, toàn bộ rủi ro là do ngân hàng gánh chịu. Môi trường kinh tế chính trị có nhiều bất ổn Tình hình kinh tế - chính trị thời gian vừa qua với quá nhiều sự bất ổn cũng đã ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh dịch vụ bảo lãnh xuất nhập khẩu của Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội. Mặc dù điều kiện kinh tế càng bất ổn, nhu cầu phát sinh bảo lãnh càng nhiều nhưng không vì thế mà hiệu quả hoạt động của ngân hàng tăng lên bởi chính trong điều kiện kinh tế không ổn định, ngân hàng càng phải thận trọng hơn trong việc lựa chọn khách hàng. Theo các kết quả phân tích ở trên ta thấy thực trạng giải toả bảo lãnh của Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội ba năm gần đây có xu hướng giảm. Điều này hoàn toàn phù hợp với thực tiễn của nền kinh tế khi mà các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong việc thực hiện hợp đồng bảo lãnh. Sự ra đời của một loạt các ngân hàng liên doanh và các công ty bảo hiểm bảo lãnh Thời gian vừa qua, đã xuất hiện sự bùng nổ các ngân hàng ở Việt Nam, đặc biệt là sự ra đời của các ngân hàng liên doanh như ngân hàng xuất nhập khẩu (Eximbank), ngân hàng quốc tế (VIBBank), ngân hàng ANZ Việt Nam,….đã làm gia tăng thêm sự cạnh tranh trên thị trường ngân hàng và gây khó khăn không nhỏ cho Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội trong lĩnh vực thương mại. Các ngân hàng này hầu hết đều triển khai dịch vụ bảo lãnh xuất nhập khẩu. Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội nói riêng và Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam nói chung, từ trước đến nay vốn chiếm lĩnh thị trường đối với loại dịch vụ này thì khi có sự ra đời của khối các ngân hàng liên doanh, thị phần đã bị giảm sút. Bên cạnh đó, các NHTM tại Việt Nam (trong đó có Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội) đang phải cạnh tranh với một số các công ty bảo hiểm bảo lãnh của nước ngoài mới vào Việt Nam như SGIC - công ty bảo hiểm chuyên về bảo hiểm bảo lãnh và bảo hiểm tín dụng của Hàn Quốc và sự ra đời các sản phẩm bảo lãnh tín dụng của các tập đoàn bảo hiểm như AIA, Prudential, Bảo Việt,…Dịch vụ bảo lãnh của các công ty này ra đời nhằm bảo lãnh cho các doanh nghiệp, cá nhân không đủ năng lực thế chấp tài sản như quy định của các ngân hàng. Ở thời điểm hiện tại, Việt Nam đang được coi là thị trường rất giàu tiềm năng đối với các công ty bảo hiểm bảo lãnh mà cụ thể trong lĩnh vực như xây dựng, đóng tàu... với các loại hình bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh tạm ứng, bảo lãnh bảo hành... Sự cạnh tranh thiếu lành mạnh giữa một số ngân hàng Trong điều kiện kinh tế gặp nhiều khó khăn, để thu hút khách hàng một số ngân hàng đã mạo hiểm thực hiện biện pháp nới lỏng các điều kiện về bảo lãnh. Nhiều doanh nghiệp mặc dù không đủ năng lực tài chính, thậm chí kinh doanh không lành mạnh vẫn được các ngân hàng nhận bảo lãnh. Trước tình hình đó, Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội lại phải đối mặt với một sự cạnh tranh thiếu lành mạnh. Nguyên nhân từ doanh nghiệp Theo thống kê của Bộ tài chính, hiện nay các doanh nghiệp hoạt động chủ yếu bằng nguồn vốn vay từ các ngân hàng. Và trong số các doanh nghiệp được Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội bảo lãnh thì có đến 60% các doanh nghiệp đang vay vốn của Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội. Ngoài nguyên nhân do sự chuyển đổi nền kinh tế trong nước, sự chuyển biến của môi trường tài chính, sự phát triển của thương mại quốc tế,…làm cho doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong sản xuất kinh doanh, dẫn đến chậm thanh toán các khoản bồi hoàn cho Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội, thì còn tồn tại một số nguyên nhân xuất phát từ bản thân các doanh nghiệp có ảnh hưởng đến kết quả hoạt động bảo lãnh của Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội đó là: + Doanh nghiệp không thực hiện chế độ kế toán, thống kê kịp thời, gây khó khăn cho ngân hàng trong việc xem xét, thẩm định tài chính của doanh nghiệp trước khi quyết định bảo lãnh và trong suốt quá trình giám sát sau khi phát hành bảo lãnh. Mặc dù Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội chưa phải trả thay cho bất kỳ một khách hàng nào nhưng đã có doanh nghiệp cố tình dùng một hồ sơ thế chấp ở nhiều ngân hàng. Nhờ nghiệp vụ chuyên môn giỏi mà Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội đã phát hiện kịp thời và khắc phục được sự cố. + Một số doanh nghiệp có năng lực quản lý và trình độ chuyên môn chưa cao, chưa tính toán chặt chẽ được nhu cầu cung - cầu hàng hoá, sự biến động giá cả hàng hoá. Do đó, các dự án kinh doanh không có tính khả thi cao, hàng hoá nhập về bị ứ đọng làm cho doanh nghiệp mất khả năng thanh toán hoặc chậm thanh toán cho ngân hàng. * Nguyên nhân chủ quan Ngoài các nguyên nhân khách quan, còn có nhiều nguyên nhân xuất phát từ bản thân Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội như: Vốn chủ sỡ hữu thấp Vốn chủ sử hữu của Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội tính đến 31/12/2008 đạt 7.553 tỷ đồng. Như vậy, nếu theo đúng quy định tại Khoản 1- Điều 7 Quy chế bảo lãnh ngân hàng số 26/2006 thì Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội chỉ có thể bảo lãnh cho một dự án hay một khách hàng tối đa khoảng 1130 tỷ đồng. Trong khi thực tế, khách hàng yêu cầu Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội bảo lãnh cho những dự án có giá trị lớn hơn rất nhiều. Với các dự án như vậy, một mình Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội không thể đáp ứng được. Tuy nhiên, hình thức đồng bảo lãnh lại chưa được áp dụng tại ngân hàng, nên khách hàng mất đi nhiều khách hàng lớn. Trình độ thẩm định dự án chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường Thẩm định là một khâu vô cùng quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến việc ra quyết định có chấp nhận bảo lãnh hay không. Tuy nhiên, hiện nay trình độ thẩm định tại Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội chưa thật sự cao, chưa đáp ứng được yêu cầu của nghiệp vụ bởi cán bộ trực tiếp làm công tác bảo lãnh tại Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội mới chỉ có hai người. Bộ phận thẩm định cũng chưa tới năm người. Điều này gây nên nhiều hạn chế trong việc thẩm định những dự án có quy mô lớn, tính chất kỹ thuật phức tạp. Theo kế hoạch và dự báo xu hướng tăng quy mô bảo lãnh trong thời gian sắp tới đối với nhiều ngành nghề kinh tế kỹ thuật đa dạng và phức tạp, trình độ chuyên môn của các cán bộ bảo lãnh, đặc biệt là trình độ thẩm định dự án sẽ là một thách thức lớn đối với Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội. Cơ chế hoạt động bảo lãnh còn phức tạp Quy trình nghiệp vụ bảo lãnh mà Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội đang áp dụng vẫn chưa thật sự đem lại sự hài lòng cho khách hàng. Khách hàng muốn được bảo lãnh phải trải qua quá nhiều khâu rườm rà và mất nhiều thời gian. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả hoạt động của các dự án kinh doanh của khách hàng. Trong trường hợp bảo lãnh ngắn hạn với số tiền không lớn lắm mà phải trải qua nhiều thủ tục như vậy sẽ khó tránh khỏi việc bỏ lỡ cơ hội kinh doanh của khách hàng. Như vậy, khách hàng sẽ thấy ngại khi sử dụng dịch vụ bảo lãnh và sẽ chuyển sang các hình thức bảo đảm hợp đồng khác hoặc lựa chọn dịch vụ bảo lãnh của ngân hàng khác ít phức tạp hơn. Chính cơ chế hoạt động rườm rà này sẽ làm giảm sức cạnh tranh của Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội, lảm giảm doanh thu và mất khách hàng tiềm năng. Thông tin khách hàng còn nhiều hạn chế Khi thực hiện nghiệp vụ, tất cả các thông tin chủ yếu đều do khách hàng cung cấp cho ngân hàng. Ngân hàng chưa có bộ phận theo dõi, tổ chức thông tin về khách hàng. Vì vậy, tất cả các khâu của quá trình thực hiện bảo lãnh đều gặp rất nhiều khó khăn. Hầu như các khách hàng sử dụng dịch vụ bảo lãnh của Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội đều là khách hàng truyền thống của ngân hàng, đã sử dụng nhiều dịch vụ của ngân hàng. Tuy nhiên, ngân hàng chưa có một kênh truyền dẫn thông tin về khách hàng trong nội bộ để việc xử lý và cập nhật thông tin đem lại hiệu quả tốt. Do vậy, việc tìm kiếm và kiếm tra thông tin về khách hàng không thật sự hiệu quả. Công tác quản lý và xử lý rủi ro còn nhiều bất cập Mặc dù đã có riêng một Hội đồng xử lý rủi ro, nhưng vì quyền hạn và trách nhiệm của các bên liên quan khi rủi ro bảo lãnh xảy ra chưa được quy định cụ thể bằng văn bản pháp luật cho nên khi rủi ro xảy ra rất khó để xác định trách nhiệm và ngân hàng thường chịu rủi ro nhiều nhất. Do vậy, mặc dù bảo lãnh hiện nay được đánh giá là loại hình kinh doanh khá an toàn tại Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội nhưng ngân hàng vẫn rất thận trọng. Vì vậy, nhiều doanh nghiệp đã không được ngân hàng bảo lãnh do ngân hàng sợ rủi ro. Chưa có sự phối hợp chặt chẽ với các ngân hàng khác Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội là một chi nhánh ngân hàng thuộc Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, đã có nhiều mối quan hệ với các ngân hàng khác trên địa bàn và khu vực lân cận. Tuy nhiên, chưa có sự phối hợp chặt chẽ với các ngân hàng thuộc các tỉnh thành khác trong cả nước. Vì vậy, khi không đủ vốn chủ sở hữu để tiến hành bảo lãnh, ngân hàng vẫn chưa thể nhận được nhiều sự giúp đỡ từ các ngân hàng khác. Hơn nữa hiện nay, Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội chưa triển khai nghiệp vụ đồng bảo lãnh với các ngân hàng nước ngoài, kể cả ngân hàng thương mại trong nước. Sở dĩ như vậy là do tính phức tạp của hình thức bảo lãnh này bởi khi tiến hành đồng bảo lãnh, các ngân hàng cần phải xác định rõ mức phí bảo lãnh, tỷ lệ lãi suất, tài sản thế chấp….được áp dụng là bao nhiêu. Mà việc xác định này không hề đơn giản. Vì vậy, mặc dù có phát sinh nhu cầu bảo lãnh khi các doanh nghiệp nước ngoài yêu cầu nhưng Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội buộc phải từ chối. Hi vọng, trong thời gian tới Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội sẽ có thể triển khai được nghiệp vụ này nhằm tăng thêm vị thế trên trường quốc tế. CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ BẢO LÃNH XUẤT NHẬP KHẨU TẠI NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG HÀ NỘI 3.1. Phương hướng phát triển nghiệp vụ bảo lãnh xuất nhập khẩu tại Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội trong thời gian tới Quán triệt đường lối, chủ trương, định hướng phát triển của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam và phương hướng hoạt động năm 2009, Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội cũng đã có những phương hướng phát triển cụ thể đối với nghiệp vụ bảo lãnh nói chung và nghiệp vụ bảo lãnh xuất nhập khẩu nói riêng như sau: Hoàn thiện các loại hình bảo lãnh truyền thống như bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh tiền ứng trước,…tiếp tục phát triển và mở rộng các loại hình bảo lãnh khác, đặc biệt là triển khai bảo lãnh cho doanh nghiệp vay vốn các NHTM. Tăng doanh số phát sinh bảo lãnh và tỷ trọng các loại hình bảo lãnh; giảm dư nợ bảo lãnh; tăng nguồn phí thu bảo lãnh cho ngân hàng. Củng cố quan hệ với khách hàng truyền thống, đồng thời mở rộng đối tượng khách hàng, nhất là những khách hàng tiềm năng nhưng phải có sự chọn lọc. Mở rộng phạm vi bảo lãnh sang các quận khác trên địa bàn Hà Nội. Hiện đại hoá cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động bảo lãnh. Duy trì mức độ an toàn của nghiệp vụ bảo lãnh như hiện nay. Với các phương hướng đặt ra, trong năm 2009, Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội đặt ra một số mục tiêu phát triển cụ thể đối với hoạt động bảo lãnh xuất nhập khẩu như sau: Bảng 3.1: Doanh số bảo lãnh xuất nhập khẩu năm 2009 (Đơn vị: tỷ đồng) 2008 2009 PS có trong năm PS nợ trong năm PS có trong năm PS nợ trong năm Thanh toán 52.67 38.62 55.44 53.82 Thực hiện HĐ 90.98 62.11 163.06 157.45 Dự thầu 40.27 40.3 50.28 49.13 Bảo lãnh khác 189.03 178.44 186.68 183.05 Tổng 372.96 319.47 455.46 443.45 Nguồn: Kế hoạch bảo lãnh xuất nhập khẩu của Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội trong năm 2009 (Phòng thanh toán xuất nhập khẩu) Trong năm 2009, Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội đặt ra mục tiêu tăng doanh số phát sinh bảo lãnh lên 22% so với năm 2008, đạt 455.46 tỷ đồng. Doanh số giải toả đạt 443.45 tỷ đồng, tăng 39% so với năm 2008. Dư nợ bảo lãnh đạt 184,4 tỷ đồng. Các hình thức bảo lãnh chủ yếu vẫn là các loại bảo lãnh trong nước. Để đạt được những mục tiêu trong năm 2009 và hoàn thành phương hướng hoạt động đã đặt ra, bản thân Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội cùng với Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, các ban ngành có liên quan cần phải có những giải pháp thích hợp nhằm hoàn chỉnh và phát triển nghiệp vụ bảo lãnh xuất nhập khẩu tại Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội nói riêng và hệ thống các NHTM nói chung. Sau một thời gian nghiên cứu tình hình hoạt động bảo lãnh xuất nhập khẩu tại Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội, em xin mạnh dạn đề xuất một số giải pháp sau đây. 3.2. Giải pháp phát triển nghiệp vụ bảo lãnh xuất nhập khẩu tại Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội 3.2.1. Về phía Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội Xây dựng kế hoạch phát triển nghiệp vụ bảo lãnh thích hợp trong từng thời kỳ Căn cứ vào đường lối, chủ trương phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước trong từng thời kỳ. Dựa trên cơ sở những định hướng và phướng hướng phát triển của Ngân hàng Nhà nước,dựa vào mục tiêu kế hoạch mà Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam giao cho, Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội cần xây dựng kế hoạch phát triển nghiệp vụ bảo lãnh xuất nhập khẩu thích hợp trong dài hạn, đồng thời cần đặt ra các chỉ tiêu cụ thể trong ngắn hạn. Việc xác định tư tưởng, quan điểm trong phương hướng phát triển nghiệp vụ bảo lãnh xuất nhập khẩu là vô cùng quan trọng bởi từ phương hướng hoạt động, ngân hàng sẽ nhận thấy tầm quan trọng của nghiệp vụ bảo lãnh và sẽ xây dựng được các kế hoạch phát triển có tính khả thi cao. Kế hoạch phát triển cần chỉ rõ các chỉ tiêu phải đạt được, tăng hay giảm bao nhiêu so với thời kỳ trước. Đồng thời cũng cần đưa ra các giải pháp nhằm thực hiện các mục tiêu đã đặt ra. Các chỉ tiêu kế hoạch và các giải pháp đưa ra phải phù hợp với thực tiễn nền kinh tế đất nước, phù hợp với khả năng của ngân hàng về tài chính, nhân sự,… Để xây dựng được các kế hoạch phát triển khả thi, Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội cần có sự kết hợp giữa nghiên cứu chủ trương, chính sách của Nhà nước, của các ngân hàng cấp trên với việc nghiên cứu thị trường để có thể đưa ra các chiến lược phát triển lâu dài cho hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động bảo lãnh xuất nhập khẩu nói riêng. Đẩy mạnh công tác tổ chức đào tạo cán bộ Trong bất kỳ một hoạt động kinh tế nào, yếu tố con người cũng luôn là yếu tố trung tâm, giữ vai trò quyết định đến mọi hoạt động kinh doanh. Trong lĩnh vực ngân hàng, yếu tố con người lại càng giữ vai trò quan trọng hơn, ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng, chất lượng dịch vụ của ngân hàng và ảnh hưởng rất lớn đến uy tín của ngân hàng. Sở dĩ như vậy là do các cán bộ ngân hàng, đặc biệt là nhân viên ngân hàng là những người trực tiếp giao dịch với khách hàng. Mọi tác phong, hành vi của nhân viên đều thể hiện hình ảnh của ngân hàng trong con mắt của khách hàng. Bước đầu làm việc với ngân hàng, khách hàng luôn luôn chú ý đến tác phong và hành vi của các nhân viên. Một đội ngũ nhân viên với chuyên môn giỏi, tác phong nhanh nhẹn, tận tình với khách hàng sẽ góp phần làm tăng hình ảnh của ngân hàng và tăng sự trung thành của khách hàng đối với ngân hàng. Dịch vụ bảo lãnh xuất nhập khẩu cũng là một loại hình dịch vụ kinh doanh của Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội. Bởi vậy, việc đẩy mạnh đào tạo cán bộ, nhân viên làm công tác là vô cùng cần thiết. - Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội cần tiếp tục đổi mới phong cách giao dịch, thực hiện “văn minh giao tiếp” đối với toàn thể cán bộ công nhân viên. - Thường xuyên mở các khoá đào tạo về nghiệp vụ bảo lãnh xuất nhập khẩu nhằm cập nhật và phổ biến các quy định mới về nghiệp vụ bảo lãnh cho các cán bộ, nhân viên làm công tác bảo lãnh. - Thực hiện chiến lược đa dạng hoá loại hình đào tạo. Có thể đào tạo cán bộ bảo lãnh xuất nhập khẩu nói riêng và cán bộ ngân hàng nói chung thông qua các lớp đào tạo trong và ngoài nước. Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội có thể chọn một số cán bộ tuổi đời còn trẻ, có triển vọng gửi đi đào tạo ở nước ngoài; hoặc có thể tranh thủ sự tài trợ của các ngân hàng nước ngoài, tổ chức cho các đoàn cán bộ đi khảo sát, thực tập tại các ngân hàng nước ngoài. Đa dạng hoá các loại hình đào tạo như vậy sẽ nâng cao và phát huy được nội lực của mỗi cán bộ công nhân viên. - Với xu hướng phát triển của nền kinh tế trong điều kiện hội nhập, xu hướng phát triển của thương mại quốc tế và đầu tư quốc tế như hiện nay, thì nhu cầu bảo lãnh của các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nước ngoài đối với hình thức bảo lãnh phát hành L/C ngày càng tăng làm cho nhu cầu về cán bộ bảo lãnh giỏi ngoại ngữ cũng tăng cao. Vì thế, Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội cần tích cực nâng cao trình độ ngoại ngữ cho cán bộ bảo lãnh, đồng thời cũng chú trọng hơn nữa trong công tác tuyển chọn cán bộ bảo lãnh giỏi nghiệp vụ và ngoại ngữ. Nâng cao chất lượng thẩm định các yêu cầu bảo lãnh và quản lý bảo lãnh Đối với nghiệp vụ bảo lãnh xuất nhập khẩu, thẩm định các yêu cầu bảo lãnh của khách hàng là một khâu vô cùng quan trọng trong quy trình thực hiện nghiệp vụ. Chất lượng của công tác thẩm định có ảnh hưởng trực tiếp tới quyết định bảo lãnh của ngân hàng. Để nâng cao chất lượng thẩm định bảo lãnh, trước hết Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội cần xây dựng một đội ngũ cán bộ bảo lãnh giỏi, một tổ thẩm định có chuyên môn cao. Trong quá trình thẩm định các yêu cầu bảo lãnh, các cán bộ bảo lãnh cần xem xét thận trọng các chỉ tiêu như: + Tư cách pháp nhân của khách hàng. + Năng lực tài chính và tính pháp lý của tài sản thế chấp. + Tình hình hoạt động sản xuất – kinh doanh của khách hàng. + Hiệu quả của phương án sản xuất – kinh doanh. Xem xét kỹ lưỡng các thông tin về khách hàng sẽ hạn chế được rủi ro cho ngân hàng và giúp ngân hàng có quyết định bảo lãnh thích hợp nhất. Tổ thẩm định bảo lãnh cần kết hợp chặt chẽ với Hội đồng quản lý rủi ro nhằm đề ra các phương pháp giải quyết nếu có rủi ro bảo lãnh xảy ra và kiểm tra, kiểm soát các thông tin về khách hàng tốt hơn. Sau khi phát hành bảo lãnh cho khách hàng, các cán bộ bảo lãnh phải thường xuyên kiểm tra, giám sát tình hình thực hiện hợp đồng bảo lãnh của khách hàng để có các biện pháp đôn đốc kịp thời và tránh được rủi ro cho bản thân ngân hàng. Không chỉ kiểm tra, kiểm soát khách hàng, ngân hàng cần phải thực hiện kiểm tra, giám sát bộ phận làm công tác bảo lãnh về việc thực hiện quy trình bảo lãnh và công tác sau khi phát hành bảo lãnh. Nếu có sai sót thì phải khắc phục ngay. Tăng vốn điều lệ của ngân hàng Theo Quy chế về bảo lãnh ngân hàng số 26/2006 thì Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội chỉ được phép bảo lãnh cho khách hàng với giá trị bảo lãnh không vượt quá 15% vốn tự có. Nhưng trên thực tế, giá trị hợp đồng bảo lãnh lớn hơn rất nhiều, nhất là với các hợp đồng kinh doanh với đối tác nước ngoài. Để có thể bảo lãnh cho khách hàng, Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội buộc phải liên kết với các ngân hàng khác để tiến hành đồng bảo lãnh. Tuy nhiên, điều này hết sức phức tạp. Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội chỉ là một chi nhánh thuộc Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam nên việc liên kết sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Vì vậy, Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội cần phải tăng vốn điều lệ để có thể tự mình bảo lãnh cho các giá trị hợp đồng bảo lãnh lớn. Để có thể tăng được vốn điều lệ, Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội cần đẩy mạnh công tác huy động vốn từ các tổ chức kinh tế, khu vực dân cư, tổ chức tín dụng nước ngoài và từ Kho bạc Nhà nước. Đặc biệt, Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội cần áp dụng một số biện pháp điều hành kinh doanh, đa dạng hóa các hình thức, các công cụ huy động vốn từ Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam như: tiết kiệm lĩnh lãi định kỳ, công cụ tỷ giá, phát triển các sản phẩm ngân hàng hiện đại, tích hợp nhiều tiện ích, mở rộng mạng lưới giao dịch, áp dụng chính sách lãi suất linh hoạt hấp dẫn, kết hợp các nghiệp vụ phái sinh,… để cung cấp các sản phẩm huy động vốn ngày càng đa dạng và hiện đại hơn đến khách hàng. Ứng dụng marketing vào hoạt động bảo lãnh xuất nhập khẩu nhằm đa dạng hoá thị trường, đa dạng hoá loại hình bảo lãnh xuất nhập khẩu. Giống như các NHTM khác, Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội cũng có các chiến lược marketing nhằm quảng bá hình ảnh ngân hàng và giới thiệu các dịch vụ ngân hàng tới các khách hàng. Để ứng dụng được các chiến lược marketing trong hoạt động bảo lãnh xuất nhập khẩu, Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội bước đầu tiên cần thực hiện đó là “Nghiên cứu thị trường”. Nghiên cứu thị trường ở đây tức là nghiên cứu động cơ và nhu cầu của khách hàng khi lựa chọn ngân hàng bảo lãnh. Ngân hàng cần tiến hành thu thập thông tin về khách hàng một cách có hệ thống, tập trung vào hồ sơ bảo lãnh và hồ sơ tín dụng để có thể cập nhật thông tin khách hàng cũng như các phản hồi từ khách hàng một cách nhanh chóng và hiệu quả nhất. Việc nghiên cứu thị trường cũng cần phải được triển khai nghiên cứu về các ngân hàng cạnh tranh – các ngân hàng cùng thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh xuất nhập khẩu trên địa bàn thành phố. Có như vậy, Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội mới kịp thời có đề ra các chính sách phát triển phù hợp. Nhiệm vụ của marketing đối với hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động bảo lãnh xuất nhập khẩu nói riêng đó là kế hoạch hoá chiến lược khách hàng, chiến lược sản phẩm, chiến lược giá cả và chiến lược khuếch trương. + Chiến lược khách hàng (hay chính sách khách hàng) Củng cố quan hệ với nhóm khách hàng truyền thống và thiết lập quan hệ với các khách hàng mới là nội dung chủ yếu của chính sách khách hàng ở bất kỳ một ngân hàng nào. Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội phải luôn luôn coi khách hàng truyền thống là thị trường trọng yếu của ngân hàng. Đối với các khách hàng lớn (các doanh nghiệp lớn, công ty lớn) có quan hệ làm ăn lâu dài và có uy tín thì Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội nên ưu tiên xem xét phát hành bảo lãnh và thực hiện kết hợp các hình thức bảo đảm bảo lãnh. Không nên áp dụng một cách cứng nhắc theo quy định hiện hành. Đối với các khách hàng này, Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội cũng có thể linh hoạt trong việc áp dụng mức phí bảo lãnh và loại bỏ bớt các thủ tục rườm rà trong quy trình thực hiện bảo lãnh. Chiến lược thu hút khách hàng mới cũng là một mục tiêu quan trọng trong chính sách khách hàng của Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội. Trong thời gian tới, Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội cần tích cực hơn nữa trong việc tìm kiếm và thu hút các đối tượng khách hàng mới. Để thực hiện có hiệu quả chính sách khách hàng, Chi nhánh cần thực hiện một số các biện pháp như: thực hiện các biện pháp ưu đãi về lãi suất, mức phí bảo lãnh; tổ chức các buổi giao lưu với khách hàng nhằm lắng nghe ý kiến từ khách hàng và giúp đỡ khách hàng tháo gỡ những khó khăn; đặc biệt phải luôn luôn coi trọng khách hàng. + Chiến lược sản phẩm Đa dạng hoá các loại hình bảo lãnh là là nội dung trong chiến lược sản phẩm của Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội. Trong thời gian tới, Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội cần phát triển các loại hình bảo lãnh theo hướng: Tiếp tục nâng cao chất lượng của các loại bảo lãnh trong nước truyền thống như bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh tiền ứng trước, bảo lãnh dự thầu,…và bảo lãnh phát hành L/C trả chậm. Triển khai các loại bảo lãnh mới như bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh thuế xuất nhập khẩu, bảo lãnh hải quan. + Chiến lược giá cả Giá cả của hoạt động bảo lãnh chính là mức phí bảo lãnh. Hiện này, các ngân hàng cạnh tranh với nhau cũng là cạnh tranh về mức phí bảo lãnh áp dụng đối với từng nghiệp vụ bảo lãnh. Mức phí mà Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội đang áp dụng là tương đối ngang bằng với các ngân hàng khác. Tuy nhiên, trong thời gian tới, Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội cũng nên xem xét giảm mức phí thu bảo lãnh xuống nhằm thu hút thêm nhiều khách hàng hơn nữa, đồng thời củng cố thêm quan hệ làm ăn với các khách hàng truyền thống. + Chiến lược khuếch trương Nghiệp vụ bảo lãnh xuất nhập khẩu nói riêng và nghiệp vụ bảo lãnh nói chung không giống như các loại nghiệp vụ ngân hàng khác bởi bản chất của nghiệp vụ bảo lãnh là dùng uy tín của ngân hàng để đảm bảo cho các giao dịch. Uy tín và vị thế của ngân hàng có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả hoạt động kinh doanh loại hình dịch vụ bảo lãnh này. Khách hàng lựa chọn ngân hàng bảo lãnh cho mình dựa trên cách thức mà ngân hàng tiếp cận khách hàng. Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội cần tăng cường công tác quảng bá hình ảnh ngân hàng trên các phương tiện thông tin đại chúng nhằm giới thiệu dịch vụ đến khách hàng. Ngoài ra, Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội cũng cần nâng cao hiệu quả của công tác tư vấn khách hàng trong việc lựa chọn bạn hàng, đàm phán ký kết các hợp đồng xuất nhập khẩu hàng hoá, máy móc, thiết bị,… Hoàn thiện quy trình bảo lãnh Để hoạt động bảo lãnh xuất nhập khẩu đạt được các mục tiêu đã đề ra, quy trình thực hiện nghiệp vụ cần phải được sửa đổi và bổ sung cho hoàn thiện hơn nữa nhằm đem lại sự thuận lợi cho khách hàng và bản thân Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội khi thực hiện hợp đồng bảo lãnh. Với thời gian thẩm định dự án gần 20 ngày và thời gian đợi ngân hàng phát hành bảo lãnh là 30 ngày như hiện nay đã và đang ảnh hưởng không nhỏ đến các thương vụ của khách hàng khi mà những hợp đồng kinh doanh chỉ trong thời gian ngắn. Để tuân thủ các bước như trong quy trình hiện thời thì khách hàng rất dễ mất đi các cơ hội kinh doanh. Do vậy, Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội cần xem xét và chấn chỉnh lại các thủ tục thực hiện bảo lãnh cho gọn nhẹ, nhanh chóng. Điều này không chỉ giúp khách hàng mà còn giúp ngân hàng thực hiện cũng như giám sát được tốt hơn. Mở rộng quan hệ hợp tác vớicác ngân hàng khác Đáp ứng nhu cầu bảo lãnh của các doanh nghiệp trong và ngoài nước, Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội cần chủ động liên kết với các ngân hàng khác nhằm phân tán rủi ro và thực hiện đồng bảo lãnh cho các hợp đồng bảo lãnh có giá trị lớn, vượt quá khả năng bảo lãnh của Chi nhánh. Không chỉ liên kết với các ngân hàng trong nước, Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội cần tăng cường hơn nữa việc liên kết với các ngân hàng nước ngoài để có thể thực hiện vai trò của một ngân hàng thông bào, ngân hàng xác nhận,… Với mạng lưới hoạt động rộng khắp như vậy, chắc chắn hoạt động bảo lãnh xuất nhập khẩu nói riêng và hoạt động ngân hàng nói chung sẽ có những bước phát triển mạnh mẽ. Ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động bảo lãnh xuất nhập khẩu Hội nhập kinh tế quốc tế khiến cho các hoạt động kinh tế diễn ra hết sức phong phú và đa dạng nhưng cũng vô cùng phức tạp. Cuộc cách mạng CNTT đã tác động tích cực tới hầu hết các lĩnh vực kinh tế xã hội với đặc trưng chủ yếu là giúp cho các giao dịch kinh tế được thực hiện một cách thuận tiện hơn, dễ dàng hơn và thời gian thực hiện được rút ngắn đi rất nhiều. Điều này đặt các nhà hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô trước những cơ hội và nhiều thách thức. Đó là: Thông tin nhanh, kịp thời, chính xác là cơ sở để đưa ra những quyết sách chính xác, hiệu quả. Nhưng nó cũng đặt ra cho những quyết định về chính sách phải hết sức nhanh chóng, linh hoạt để có thể ứng phó kịp thời với những diễn biến mới của nền kinh tế. Trong lĩnh vực ngân hàng, CNTT và hội nhập kinh tế quốc tế đã dẫn đến sự bùng nổ về các loại hình dịch vụ và có ảnh hưởng đáng kể đến việc thực thi chính sách tiền tệ. Ngoài việc góp phần giảm tỉ trọng tiền mặt trong lưu thông, các hình thức dịch vụ mới như thẻ tín dụng, máy rút tiền mặt ATM... đã làm cho cầu tiền phản ứng một cách nhanh hơn trước các diễn biến của lãi suất, tức là đã làm tăng độ co dãn của cầu tiền đối với lãi suất. Một cách tổng quát hơn, việc đổi mới công nghệ ngân hàng trên cơ sở ứng dụng CNTT đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của thị trường tài chính, đồng thời đẩy nhanh tốc độ chu chuyển của các luồng vốn, làm cho cung cầu tiền tệ trở nên khó dự báo hơn, cơ chế truyển tải chính sách tiền tệ nhạy cảm hơn. Trong việc hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, CNTT có thể được ứng dụng ở tất cả các khâu, từ thống kê số liệu, phân tích, đánh giá tình hình, dự báo xu hướng trong thời gian tới, ra quyết định đến thực thi quyết định, và trở thành một công cụ không thể thiếu đối với các nhà hoạch định chính sách. Là một ngân hàng hoạt động trong lĩnh vực ngoại thương, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam nói chung và chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội nói riêng đã và đang áp dụng những ứng dụng của CNTT trong hoạt động của mình. CNTT không những giúp Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội hoạt động có hiệu quả hơn mà còn giúp Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội có thể cạnh tranh được với các ngân hàng khác. Ứng dụng CNTT trong hoạt đọng bảo lãnh xuất nhập khẩu trong thời gian sắp tới hứa hẹn sẽ mang lại hiệu quả cao. Trên đây là một số giải pháp mà Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội nên áp dụng để nâng cao hiệu quả kinh doanh trong lĩnh vực bảo lãnh xuất nhập khẩu, nhằm đạt được các chỉ tiêu kế hoạch đã đặt ra. Tuy nhiên, Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội vẫn cần phải có sự hỗ trợ từ Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam và bản thân khách hàng yêu cầu bảo lãnh để nghiệp vụ bảo lãnh xuất nhập khẩu được tiến hành có hiệu quả. 3.2.2. Một số kiến nghị 3.2.2.1. Đối với Chính phủ Bảo lãnh ngân hàng nói chung và bảo lãnh xuất nhập khẩu nói riêng tại Việt Nam cho tới nay vẫn chưa có một nguồn luật cụ thể để dẫn chiếu. Các hoạt động bảo lãnh mới chỉ được thực hiện thông qua các văn bản dưới luật như các quy chế, quy định, các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ. Hệ thống nguồn luật này lại thường xuyên thay đổi và quá chặt chẽ làm cho các ngân hàng (trong đó có Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội) gặp rất nhiều khó khăn khi thực hiện. Nếu tuân thủ một cách cứng nhắc các quy định hiện hành, tất cả các ngân hàng khó mà nâng cao doanh số bảo lãnh của mình. Do vậy, nhiều trường hợp Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội buộc phải “mạo hiểm” bảo lãnh cho khách hàng trong khi khách hàng không đủ các điều bảo đảm bảo lãnh. Đôi khi, Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội cũng đã phải từ chối bảo lãnh cho khách hàng do quy định nghiệp vụ quá chặt chẽ. Vì thế, ban hành Luật về bảo lãnh ngân hàng tại Việt Nam là vô cùng cần thiết. Luật bảo lãnh ngân hàng sẽ tạo hành lang pháp lý cho bảo lãnh trong nước, đồng thời cũng sẽ là căn cứ dẫn chiếu thống nhất khi các ngân hàng thực hiện bảo lãnh với bên nước ngoài. Công ước của Liên hợp quốc về bảo lãnh độc lập và Thư tín dụng dự phòng đang được Chính phủ Việt Nam nghiên cứu để áp dụng trong nghiệp vụ thanh toán quốc tế. Nếu Việt Nam phê chuẩn và chấp thuận thì Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội nói riêng và hệ thống các NHTM nói chung nên tham khảo và dẫn chiếu trong việc thực hiện giao dịch bảo lãnh với các đối tác nước ngoài. Bên cạnh việc ban hành Luật bảo lãnh ngân hàng, Chính phủ Việt Nam cần quan tâm đến một số các công tác có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động bảo lãnh của các ngân hàng như: + Luật về sở hữu tài sản và tài sản thế chấp: Hiện nay, Chính phủ Việt Nam mới chỉ có quy định về sở hữu đất đai, nhà ở trong Luật đất đai và các quy định về cầm cố tài sản trong Bộ luật dân sự mà chưa có quy định riêng đối với việc sở hữu tài sản, thế chấp và cầm cố tài sản trong lĩnh vực bảo lãnh. Đồng thời cũng cấn có những quy định cụ thể hơn nữa trong việc xử lý tranh chấp, phát mại tài sản. + Thủ tục công chứng: thủ tục thực hiện công chứng hiện nay còn nhiều bất cập như thời gian xử lý chưa thật sự nhanh chóng, cán bộ tư pháp chưa tư vấn cụ thể cho các doanh nghiệp khi làm thủ tục công chứng về quyền sử hữu tài sản, thế chấp tài sản; lệ phí công chứng còn khá cao (Giá trị tài sản hoặc giá trị hợp đồng, giao dịch dưới 100.000.000 đồng: Thu 100.000 đồng/trường hợp; Giá trị tài sản hoặc giá trị hợp đồng, giao dịch từ 100.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng: thu 0,1% giá trị tài sản hoặc giá trị hợp đồng, giao dịch; Giá trị tài sản hoặc giá trị hợp đồng, giao dịch từ trên 1.000.000.000 đồng đến 5.000.000.000 đồng: Thu 1.000.000 + 0,07% của phần giá trị tài sản hoặc giá trị hợp đồng, giao dịch vượt quá 1.000.000.000 đồng; Giá trị tài sản hoặc giá trị hợp đồng, giao dịch trên 5.000.000.000 đồng: Thu 3.800.000 đồng + 0,05% của phần giá trị tài sản hoặc giá trị hợp đồng, giao dịch vượt quá 5.000.000.000 đồng (mức thu tối đa không quá 10.000.000 đồng một trường hợp); Công chứng hợp đồng bảo lãnh: 100.000 đồng) + Chính phủ cũng cần có các quy định chặt chẽ hơn nữa đối với việc thành lập và hoạt động của các doanh nghiệp nhằm hạn chế rủi ro cho ngân hàng khi tiến hành bảo lãnh. + Ngoài ra, Chính phủ cũng nên có các chính sách nhằm phát triển hoạt động kinh doanh thương mại, chính sách tỷ giá, chính sách lãi suất,…thích hợp hơn nữa để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp và ngân hàng, đảm bảo khả năng thanh toán của các doanh nghiệp, phòng ngừa và giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng. 3.2.2.2. Đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Bởi chưa có một nguồn Luật thống nhất dẫn chiếu cho hoạt động bảo lãnh ngân hàng nói chung và bảo lãnh xuất nhập khẩu nói riêng nên với phạm vi quyền hạn của mình, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần có những chỉnh sửa bổ sung trong Quy chế bảo lãnh nhằm tạo điều kiện cho tất cả các ngân hàng trong hệ thống. Một số điểm kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: + Giới hạn bảo lãnh: tăng mức giới hạn bảo lãnh lên khoảng 20% - 25% vốn tự có. + Quy định mức phí bảo lãnh chung cho tất cả các ngân hàng nhưng không vượt quá mức phí hiện hành nhằm tạo sự cạnh tranh lành mạnh giữa các ngân hàng. + Quy định thêm các điều kiện về xử lý vi phạm hợp đồng bảo lãnh, biện pháp thực hiện khi phải phát mại tài sản. + Triển khai hướng dẫn việc áp dụng thực hiện các loại bảo lãnh mới như bảo lãnh thuế xuất nhập khẩu, bảo lãnh hải quan,…cho các ngân hàng. 3.2.2.3. Đối với Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam Đóng vai trò là Ngân hàng Ngoại thương Trung ương, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cũng cần có những biện pháp cụ thể nhằm giúp đỡ Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội nói riêng và các chi nhánh ngân hàng khách trong hệ thống để có thể phát triển nghiệp vụ bảo lãnh xuất nhập khẩu trong thời gian sắp tới. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam nên uỷ quyền cho Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội thực hiện thêm các loại bảo lãnh như bảo lãnh vay vốn nước ngoài, bảo lãnh cho các doanh nghiệp vay vốn các NHTM trong nước để phục vụ sản xuất – kinh doanh nhằm đa dạng hoá các loại hình bảo lãnh và tăng doanh thu cho Chi nhánh. Bên cạnh đó, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cũng nên xem xét để giảm mức phí thu bảo lãnh đang áp dụng. Trong thời buổi kinh tế khó khăn như hiện nay, mức phí mà Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam chỉ đạo cho Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội thực hiện vẫn tương đối cao so với một số các ngân hàng khác. Giảm mức phí thu sẽ tạo điều kiện cho Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội tăng sức cạnh tranh. Ngoài ra, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cũng nên thường xuyên tổ chức các khoá huấn luyện cho toàn bộ hệ thống ngân hàng nhằm nâng cao năng lực chuyên môn cho các cán bộ làm công tác bảo lãnh xuất nhập khẩu và tạo điều kiện cho các chi nhánh trao đổi, học hỏi kinh nghiệm. Việc hỗ trợ kinh phí cho Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội trong công tác đào tạo cán bộ cũng là một giải pháp hay mà Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam nên thực hiện. Mặt khác, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cũng nên làm tốt hơn nữa vai trò của một đầu mối trong việc phối hợp, liên kết các Chi nhánh ngân hàng để có thể thực hiện đồng bảo lãnh, tái bảo lãnh. Tuy nhiên, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cũng cần thường xuyên kiểm tra, giám sát hoạt động bảo lãnh xuất nhập khẩu của Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội để có những biện pháp giúp đỡ kịp thời. Một giải pháp nữa nhằm giúp Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội hoàn thành tốt nghiệp vụ bảo lãnh xuất nhập khẩu nói riêng và các nghiệp vụ ngân hàng nói chung đó là Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cần hỗ trợ kinh phí để Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội tiến hành hiện đại hoá công nghệ nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động. 3.2.2.4. Đối với khách hàng Từ khi thành lập đến này, Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội luôn nỗ lực hết mình phục vụ nhu cầu của khách hàng với phương châm “ Sự tin tưởng của khách hàng là nguồn lực để Vietcombank Hà Nội không ngừng vươn xa”. Các dịch vụ của ngân hàng là những công cụ hỗ trợ đắc lực trong quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Dịch vụ bảo lãnh xuất nhập khẩu ra đời cũng đã và đang giúp các doanh nghiệp thực hiện tốt hơn các thương vụ kinh doanhh xuất nhập khẩu. Tuy nhiên, trong hoạt động bảo lãnh cũng phát sinh nhiều rủi ro mà người chịu thiệt nhiều nhất vẫn là các doanh nghiệp. Vì vậy, để hạn chế rủi ro và giúp cho Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội hoàn thành tốt các chỉ tiêu kế hoạch đặt ra, các doanh nghiệp cần: + Cung cấp thông tin trung thực về năng lực tài chính, tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mình để giúp ngân hàng thẩm định chính xác, ra quyết định bảo lãnh phù hợp và có những biện pháp giúp đỡ doanh nghiệp kịp thời. + Nâng cao trình độ nghiệp vụ của các cán bộ làm công tác kinh doanh xuất nhập khẩu để có thể lập các dự án kinh doanh khả thi, phân tích và lựa chọn đối tác tin cậy. + Cần tham khảo ý kiến, sự tư vấn của các cán bộ bảo lãnh trước khi quyết định lựa chọn bạn hàng và lựa chọn hình thức bảo lãnh. + Thực hiện nghiêm túc các cam kết với đối tác, với ngân hàng, các quy định về bảo lãnh của ngân hàng. Tôn trọng quyền lợi của đối tác, của ngân hàng và của bản thân doanh nghiệp mình. KẾT LUẬN Là một trong những chi nhánh hàng đầu của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, trong hơn 20 năm phát triển và trưởng thành, Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội đã khẳng định được vị thế quan trọng trong hoạt động kinh tến đối ngoại của Thủ đô, cung cấp các dịch vụ ngân hàng tài chính đa dạng và hiện đại đến mọi tổ chức kinh tế, cá nhân và các tổ chức tín dụng. Sau một thời gian nghiên cứu thực trạng hoạt động bảo lãnh xuất nhập khẩu tại Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội, em đã nhận thấy dịch vụ bảo lãnh xuất nhập khẩu nói riêng và dịch vụ bảo lãnh ngân hàng nói chung đã và đang khẳng định được vai trò to lớn của nó đối với sự phát triển kinh tế, nhất là trong lĩnh vực thương mại quốc tế và góp phần không nhỏ trong việc củng cố, nâng cao uy tín cho Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội trên trường quốc tế. Chuyên đề thực tập tốt nghiệp đã được hoàn thành với các kết quả đóng góp như sau: Khái quát những vấn đề cơ bản về bảo lãnh xuất nhập khẩu của các NHTM Việt Nam. Phân tích được tình hình hoạt động bảo lãnh xuất nhập khẩu của Chi nhánh trong giai đoạn 2006- 2008. Qua đó đánh giá sơ lược kết quả hoạt động của Chi nhánh, chỉ ra được những thành công và hạn chế trong hoạt động bảo lãnh xuất nhập khẩu tại chi nhánh. Nêu ra được phương hướng hoạt động bảo lãnh xuất nhập khẩu trong những năm tới và mục tiêu phát triển cụ thể trong 2009. Đưa ra các giải pháp cơ bản từ phía bản thân Chi nhánh nhằm phát triển hoạt động bảo lãnh xuất nhập khẩu theo phương hướng đề ra. Đồng thời đề xuất một số kiến nghị đối với Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam và khách hàng yêu cầu bảo lãnh nhằm hoàn thiện hơn hoạt động bảo lãnh xuất nhập khẩu tại Chi nhánh. Hy vọng rằng, với những kết quả nghiên cứu và những đóng góp của chuyên đề sẽ giúp ích cho Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội trong việc hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ bảo lãnh xuất nhập khẩu trong thời gian tới. PHỤ LỤC Phụ lục 1: Mức phí bảo lãnh áp dụng tại Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội DỊCH VỤ BẢO LÃNH STT DỊCH VỤ MỨC PHÍ 1 Phát hành bảo lãnh trực tiếp theo yêu cầu của khách hàng 1.1 Phát hành thư bảo lãnh : 1.1.1 Bảo lãnh được ký quỹ 100%, thời gian tính phí  kể từ ngày phát hành đến ngày hết hạn hiệu lực của  bảo lãnh : + Ký quỹ 100% bằng Tiền mặt  hoặc từ Tài khoản không kỳ hạn tại VCB 0,05%/tháng trên  trị giá bảo lãnh Tối thiểu  20 USD + Bảo đảm 100% bằng Tài khoản có Kỳ Hạn/Chứng chỉ tiền gửi/Kỳ phiếu của VCB. 0,06%/tháng trên  trị giá bảo lãnh Tối thiểu  30 USD 1.1.2 Bảo lãnh miễn ký quỹ hoặc  ký quỹ dưới 100%, thời gian tính phí  kể từ ngày phát hành đến ngày hết hạn hiệu lực của bảo lãnh : Tối thiểu 50 USD + Phần trị giá bảo lãnh được ký quỹ  bằng Tiền mặt hoặc từ Tài khoản không kỳ hạn tại VCB 0,05%/tháng trên phần trị giá bảo lãnh được ký quỹ + Phần trị giá bảo lãnh được bảo đảm  bằng Tài khoản có Kỳ Hạn/Chứng chỉ tiền gửi/Kỳ phiếu của VCB 0,06%/tháng trên phần trị giá bảo lãnh được bảo đảm + Phần trị giá bảo lãnh miễn ký quỹ hoặc được đảm bảo bằng hình thức khác (ngoài các hình thức nêu tại mục 1.1.1). 0,15%/tháng trên phần trị giá bảo lãnh miễn ký quỹ hoặc được đảm bảo bằng hình thức khác 1.2 Sửa đổi thư bảo lãnh: 1.2.1 Sửa đổi tăng trị giá và/hoặc gia hạn : thu bổ sung phần tăng thêm . Như mức phí phát hành thư bảo lãnh 1.2.2 Sửa đổi khác. 20 USD/lần 1.3 Huỷ thư bảo lãnh: 1.3.1 Hủy do bảo lãnh hết hiệu lực. Miễn phí 1.3.2 Huỷ do đề nghị của khách hàng. 20 USD/bảo lãnh 1.4 Thay đổi tài sản bảo đảm Thu bổ sung phần phí tăng hoặc thu theo thoả thuận. 1.5 Thanh toán bl Theo Biểu phí giao dịch chuyển tiền  tương ứng 2. Phát hành bảo lãnh trên cơ sở BLĐƯ của ngân hàng đại lý: 0,15%/tháng trên trị giá bảo lãnh Tối thiểu 50 USD 2.1 Sửa đổi tăng tiền và/ hoặc gia hạn ngày hiệu lực: thu bổ sung phần tăng thêm . Như mức phí phát hành bảo lãnh trên cơ sở BLĐƯ của NHĐL 2.2 Sửa đổi khác 20 USD/lần 3. Bảo lãnh do NHĐL phát hành trực tiếp cho người hưởng : 3.1 Thông báo thư bl 20 USD 3.2 Thông báo sửa đổi thư bl 20 USD 3.3 Thông báo hủy bl 20USD/lần 3.4 Thông báo điện theo yêu cầu của NHĐL 20 USD/lần 4. Đòi hộ khách hàng theo thư bảo lãnh của NH đại lý: 4.1 Nhận và xử lý yêu cầu của khách hàng 30 USD 4.2 Thanh toán kết quả đòi tiền 0,2% trị giá đòi tiền Tối thiểu 20 USD Tối đa 200 USD 5. Xác nhận thư bảo lãnh của NHĐL 0,15%/tháng trên trị giá xác nhận bảo lãnh Tối thiểu 50 USD 6. Phí xác nhận sửa đổi thư bảo lãnh của NHĐL: 6.1 Cho sửa đổi tăng tiền và/ hoặc gia hạn ngày hiệu lực :  thu phí trên số tiền tăng thêm và/hoặc trị giá bảo lãnh được kéo dài thời hạn hiệu lực Như phí xác nhận thư bảo lãnh của NHĐL 6.2 Cho các sửa đổi khác 20 USD 7. Kiểm tra xác nhận chữ kí hoặc chữ ký sửa đổi  thư bảo lãnh của nước ngoài theo yêu cầu của khách hàng trong nước 20 USD 8. Phát hành thư cam kết sẽ phát hành thư bl Theo thoả thuận Tối thiểu 30 USD/lần 9 Điện phí 9.1 Điện phí, Telex phí, Fax, Gửi bằng thư bảo đảm/ bằng hình thức chuyển phát nhanh Thu theo mức phí của Bưu điện hoặc của hãng chuyển phát nhanh. 9.2 SWIFT: 9.2.1 Trong nước: - Phát hành bl 15 USD - Điện khác 5 USD 9.2.2 Ngoài nước: - Phát hành bl 20 - 50  USD - Điện khác 10 USD 10 Dịch vụ khác 10.1 Phát hành thư xác nhận ký quỹ : 10.1.1 Xác nhận ký quỹ đảm bảo bằng Tài khoản Không kỳ hạn tại VCB 20 USD 10.1.2 Xác nhận ký quỹ đảm bảo bằng Tài khoản có kỳ hạn tại VCB 50 USD Phụ lục 2: Mẫu hợp đồng bảo lãnh của Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội (Trang bên) DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO - Nguyễn Văn Tiến (2008), Giáo trình thanh toán quốc tế, NXB Thống kê, Hà Nội. - Tô Xuân Dân (1998), Giáo trình Chính Sách Kinh Tế Đối Ngoại lý thuyết và kinh nghiệm thực tế, NXB Thống kê, Hà Nội. - Đinh Xuân Trình (1996), Giáo trình thanh toán quốc tế trong ngoại thương, NXB Giáo dục, Hà Nội. - Lê Văn Tư (1997), Nghiệp vụ Ngân hàng thương mại, NXB Thống kê, Hà Nội. - Lê Văn Tê (1998), Nghiệp vụ tín dụng và thanh toán quốc tế, NXB TP.HCM. - Company Profile Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội năm 2006, 2007, 2008. - Báo cáo tổng kết hoạt động của Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội các năm 2006, 2007, 2008. - Thông báo các chỉ tiêu kế hoạch năm 2009 của Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội. - Báo cáo tình hình hoạt động bảo lãnh xuất nhập khẩu – Phòng thanh toán xuất nhập khẩu các năm 2006, 2007, 2008. - Một số khoá luận tốt nghiệp trường Đại học Kinh tế quốc dân. - Website Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam : - Website Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội: http:// vcbhanoi.com.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21996.doc
Tài liệu liên quan