Chuyên đề Những giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh xuất nhập khẩu của Công ty Hoá chất -Vật liệu điện và Vật tư Khoa học kỹ thuật với thị trường Trung quốc

Qua nghiên cứu lý luận và thực tiễn kinh doanh XNK với thị trường Trung Quốc của Công ty Hoá chất - Vật liệu điện và Vật tư khoa học kỹ thuật, ta thấy Công ty tuy là một doanh nghiệp Nhà nước mới chính thức hoạt động (1/1/1999) với số vốn hạn chế nhưng đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Công ty đã tự mình vượt qua những thử thách, khó khăn của giai đoạn đầu sát nhập, sử dụng vốn có hiệu quả, kinh doanh có lãi, góp phần cải thiện đời sống của cán bộ công nhân viên, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước. Ngoài ra, hoạt động buôn bán biên giới Việt - Trung của Công ty còn là cầu nối giữa thị trường trong nước và thị trường Trung Quốc, tận dụng mọi ưu thế của hai nước láng giềng trong quan hệ ngoại thương, giải quyết nhu cầu về hoá chất, vật liệu điện, các vật tư khoa học kỹ thuật cho sản xuất và nghiên cứu, góp phần xuất khẩu các mặt hàng mà Việt Nam có thể cung cấp. Tuy nhiên, hoạt động này còn có nhiều vấn đề phải quan tâm, xem xét. Đó là việc xuất khẩu mới chỉ chiếm một trị giá nhỏ so với nhập khẩu, kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu chưa tương xứng với quy mô và nhu cầu của thị trường hai nước. Bên cạnh đó, khó khăn không phải ít trong việc lựa chọn hình thức XNK, phương thức thanh toán. sao cho phù hợp nhất với từng thương vụ và việc thực hiện chúng luôn tuân theo những quy định cuả Nhà nước trong buôn bán biên giới. Phân tích thực trạng và tình hình kinh tế hiện nay, chúng ta khẳng định sự tồn tại và phát triển của Công ty là hết sức quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của cả nước. Trong thời gian tới, Công ty sẽ có nhiều cơ hội thuận lợi hơn nữa trong việc củng cố, mở rộng hoạt động XNK qua biên giới Việt Trung nếu Công ty biết phát huy thế mạnh của mình, khắc phục điểm yếu và chớp đúng thời cơ kinh doanh. Muốn vậy, trước mắt Công ty cần chủ động nắm bắt cung cầu trên thị trường, đa dạng hoá mặt hàng XNK, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tổ chức khai thác vốn từ những nguồn khác nhau, có chiến lược kinh doanh có hiệu quả và kết hợp sức mạnh đoàn kết của cán bộ công nhân viên. Đồng thời đề xuất lên bộ và các cơ quan quản lý cấp trên những chính sách hỗ trợ phát triển cho hoạt động XNK hàng hóa qua biên giới Việt Trung. Với trình độ còn hạn chế, hy vọng luận văn sẽ góp phần thúc đẩy hoạt động XNK của Công ty Hoá chất - Vật liệu điện và Vật tư khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển thịnh vượng.

doc74 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1538 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Những giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh xuất nhập khẩu của Công ty Hoá chất -Vật liệu điện và Vật tư Khoa học kỹ thuật với thị trường Trung quốc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
điện và Công ty Vật tư khoa học kỹ thuật. Khởi đầu Công ty gặp nhiều khó khăn do môi trường kinh doanh , do biến động tình hình chính trị - kinh tế - xã hội tác động, do nguồn vốn eo hẹp... Song Công ty luôn cố gắng vượt qua và phát huy mọi ưu thế của mình, trong đó hoạt động kinh doanh XNK qua biên giới Việt - Trung luôn được củng cố và phát triển , đồng thời thu được một số kết quả đáng khích lệ. Hoạt động này luôn được bảo đảm hoàn thành kế họach, đem lại lợi nhuận, cải thiện đời sống cán bộ công nhân viên, thực hiện nghĩa vụ đối với ngân sách Nhà nước . Các mặt hàng luôn đáp ứng được nhu cầu về chất lượng, quy cách, giá cả,... cả trong xuất khẩu và nhập khẩu góp phần làm tăng uy tín của Công ty. Công ty đã tạo lập được mối quan hệ với khách hàng trong nước và Trung Quốc cũng như quan hệ tốt với ngân hàng và Chính phủ. Đội ngũ cán bộ đoàn kết, tận tâm với công việc luôn cố gắng hết mình và trau dồi kiến thức, kinh nghiệm. Trên đây là một vài điểm mạnh trong hoạt động buôn bán biên giới Việt Trung của Công ty, song cũng phải kể đến những khó khăn như: Công ty chưa có cán bộ giỏi am hiểu thị trường Trung Quốc và trong nước, chưa có chiến lược về thị trường, hoạt động Marketing còn yếu nên thị trường chưa được mở rộng và chưa được khai thác tối đa. Tình hình vốn khó khăn ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh và lợi nhuận của Công ty . Việc chọn lựa phương thức thanh toán trong buôn bán biên giới còn thụ động, chưa linh hoạt trong một số thương vụ. Chưa vận dụng linh hoạt các hình thức XNK chính ngạch và tiểu ngạch. Hoạt động chuyển khẩu, tạm nhập tái xuất còn chưa được phát huy. Xuất khẩu chưa được đẩy mạnh, chưa tương xứng với nhập khẩu. Dù vậy, ta cũng phải nhìn nhận khách quan rằng hoạt động XNK qua biên giới Việt - Trung của Công ty đang ngày càng được phát triển và góp phần không nhỏ vào tình hình kinh doanh của Công ty . Chương III: Một số giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu của CEMACO với thị trường Trung Quốc I. Phương hướng và nhiệm vụ của Công ty trong những năm tới: Trước mắt Công ty Hoá chất- Vật liệu điện và Vật tư Khoa học kỹ thuật (CEMACO) có một số thách thức và cơ hội lớn. Những khó khăn và thách thức phải kể đến là nguy cơ thị trường bị thu hẹp do có nhiều đối thủ cạnh tranh, yêu cầu về chất lượng hàng hoá ngày càng cao và đa dạng, trình độ của nhiều cán bộ còn chưa tương xứng với tình hình mới, chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra, vốn lại ít, cơ sở vật chất kỹ thuật còn phân tán...đồng thời là ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ trong khu vực đã làm giảm đầu tư, thu hẹp sản xuất của nhiều doanh nghiệp, do đó mối quan hệ kinh doanh của Công ty cũng có phần bị chững lại. Bên cạnh đó,Công ty cũng có những thuận lợi nhất định. Đó là một tập thể đoàn kết nhất trí, đội ngũ cán bộ công nhân viên cần cù, có kinh nghiệm, gắn bó với đơn vị, cùng những thành tích đã đạt được trong những năm đầu thành lập đã tạo tiền đề tốt cho sự phát triển nhanh mạnh, vững chắc. Ngoài ra, đó còn là những bạn hàng truyền thống từ trước khi sáng lập Công ty, việc mở rộng thương mại quốc tế, hợp tác đầu tư, chuyển giao công nghệ mà Công ty đang thực hiện khu vực Châu á-Thái bình dương, các nước ASEAN đang trên đà phát triển với tốc độ tăng trưởng cao hơn các khu vực khác và những cơ chế, chính sách mới của Nhà nước như luật Thương mại, Nghị định về chống trốn thuế, buôn lậu và gian lận thương mại...được ban hành đã tạo động lực mới cho các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong môi trường lành mạnh hơn, thuận lợi hơn. Đứng trước những thuận lợi và khó khăn đó, để khẳng định vị trí của mình trên thương trường, trong thời gian tới, Công ty phấn đấu thực hiện kinh doanh theo hướng cơ bản sau: 1. Phương hướng mục tiêu kinh doanh. Khuyến khích kinh doanh tổng hợp, tập trung và đầu tư cho những phương án kinh doanh có khối lượng lớn, ổn định, hiệu quả khả thi. Mở rộng thị trường nội địa-nhất là doanh nghiệp quốc doanh lớn trong các nghành thuỷ tinh, chất tẩy rửa, bao bì xuất khẩu, các công trình xây dựng, các trương trình nghiên cứu phục vụ sự nghiệp khoa học và giáo giục để phát triển kinh doanh các mặt hàng mới. Tham gia đấu thầu với cơ chế và biện pháp tài chính cụ thể và vốn đầu tư, tiền lương với điều kiện thu hồi được vốn trong thời gian quy định và có hiệu quả . Đẩy mạnh và mở rộng công tác xuất nhập khẩu hàng hoá theo ngành hàng Công ty có lợi thế lấy hiệu quả kinh tế làm mục tiêu lựa chọn cho các thương vụ xuất nhập khẩu. Là một doanh nghiệp chuyên kinh doanh xuất nhập khẩu các ngành hàng hoá về hoá chất, vật liệu điện và vật tư khoa học kỹ thuật, Công ty xác định công tác xuất khẩu của mình là hết sức quan trọng, vừa đem lại nguồn ngoại tệ tạo nguồn vốn cho Công ty nhập khẩu, vừa tạo thuận lợi mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá, ổn định và nâng cao năng lực sản xuất cho lĩnh vực mình đảm nhiệm. Với công tác nhập khẩu, nó là nguồn cung cấp đầu vào cho ngành thuỷ tinh, chất tẩy rửa, bao bì,các công trình xây dựng ...đồng thời hỗ trợ cho các công trình nghiên cứu phục vụ sự nghiệp khoa học và giáo dục. Công ty lấy ngành hàng hoá chất và vật liệu điện làm lòng cốt để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu. Còn các đơn vị trong toàn Công ty có trách nhiệm tham gia trong các khâu tìm đối tác thị trường, tạo nguồn thu gom hàng ... Bên cạnh đó, từng bước mở rộng mặt hàng nhập khẩu, tích cực tìm hiểu nhu cầu để mở rộng thị trường, tăng thu ngoại tệ phục vụ cho công tác nhập khẩu và kinh doanh. Trong khi thực hiện các thương vụ xuất nhập khẩu, cần lấy hiệu quả kinh tế làm mục tiêu hàng đầu. Bởi một lẽ trong cơ chế thị trường, nếu kinh doanh không hiệu quả thì không thể tồn tại được. Với khả năng về mọi mặt còn hạn hẹp, vốn ngoại tệ khôngcó, Công ty cần cân nhắc và lựa chọn, các phương án kinh doanh có tính kinh tế cao nhất. ấn định và giữ vững các thị trường truyền thống, từng bước thâm nhập vào các thị trường khác. Muốn vậy tổ chức hoạt động sản xuất và xuất nhập khẩu phải xuất phát từ nhu cầu thị trường trong nước và thế giới. Chỉ có mở rộng thị trường, mở rộng chủng loại hàng hoá thì Công ty mới có điều kiện tăng kim ngạch xuất nhập khẩu giảm rủi ro trong kinh doanh quốc tế . Từng bước đưa cơ sở vật chất kỹ thuật vào tham gia kinh doanh trên cơ sở qui hoá sử dụng của từng khuvực để có phương án khai thác sử dụng có hiệu quả, ổn định và lâu dài. Hoàn thiện bộ máy hoạt động của Công ty tiến tới tính giảm nhẹ và làm việc có hiệu quả. Bố trí sắp xếp, đào tạo cán bộ sao cho trong vài năm tới đội ngũ cán bộ chủ chốt của Công ty có đủ điều kiện hoạt động trong thương trường . Hoàn thiện cơ chế kinh doanh cho phù hợp với điều kiện hiện nay và xu hướng trong thời gian tới, tiến tới cải tạo và nâng cấp các cửa hàng, kho, trạm, đảm bảo tuyệt đối cho kho tàng, hàng hoá trong mọi tình huống . Đảm bảo thu nhập ổn định, tạo việc làm và cải thiện đời sống cho cán bộ trong toàn Công ty. Đảm bảo quyền lợi cho cán bộ công nhân viên và đoàn kết trong toàn đơn vị. Hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường của Công ty phải đảm bảo được ba mục tiêu sau: Thứ nhất, kinh doanh phải đảm bảo có lợi nhuận. Đối với bất kỳ đơn vị kinh doanh nào hoạt động trong cơ chế thị trường hiện nay, lợi nhuận cũng đều được coi là mục tiêu hàng đầu quan trọng nhất. Chỉ khi có lợi nhuận, Công ty mới có thể mở rộng và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh. Lợi nhuận càng cao Công ty càng có điều kiện bổ xung vốn tăng cường các điều kiện vật chất kỹ thuật, tăng quỹ nghiên cứu thị trường, quảng cáo, duy trì và nâng cao đời sống cán bộ công nhân viên cũng như thực hiện các nghĩa vụ tài chính với nhà nước ... Như vậy, mục tiêu lâu dài và cũng là mục tiêu trước mắt quan trọng nhất của Công ty là kinh doanh có lãi và nguồn lãi đó phải chính đáng . Thứ hai, kinh doanh phải an toàn. Kinh doanh trong cơ chế thị trường thường đem lại cho Công ty không ít rủi ro ít, nếu chạy theo những khoản lợi nhuận lớn mà không lường trước những rủi ro, bất trắc có thể xảy ra thì rất dễ đưa Công ty đến chỗ phá sản. Hoạt động kinh doanh của Công ty diễn ra trên phạm vi quốc tế nên nguy cơ rủi ro lại càng lớn, do đó ngoài mục tiêu lợi nhuận, ban lãnh đạo Công ty phải lưu ý đến mục tiêu an toàn trong kinh doanh. Nhờ đó, bảo đảm cho Công ty tránh được những rủi ro bất ngờ có thể xẩy ra, tránh được những khoản thiệt hại lớn vượt quá khả năng thanh toán của Công ty. Kinh doanh càng thận trọng thì Công ty càng tồn tại vững chắc. Thứ ba là tăng cường uy tín của Công ty. Thế lực là tài sản vô hình quý giá đối với Công ty vì thế mục tiêu này ngày càng được Công ty quan tâm hơn. Công ty luôn cố gắng tạo cho mình một uy tín tốt, một hình ảnh đáng tin cậy đối với cả người bán lẫn người mua, đối với cả khách trong và ngoài nước. Để thực hiện được điều đó, Công ty xác định kinh doanh phải nghiêm túc, đúng luật pháp, đồng thời luôn thoả mãn những yêu cầu hợp lý của khách hàng, tạo dựng niềm tin với khách hàng và giữ vững quan hệ hợp tác lâu dài cả hai cùng có lợi. 2. Các quan điểm cơ bản khi xây dựng các giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty (CEMACO): a. Quan điểm về kinh tế xã hội: Đối với các doanh nghiệp kinh doanh trong nền kinh tế thị trường hiện nay, vấn đề hiệu quả kinh tế đang rất được quan tâm. Hiệu quả kinh tế chính là hiệu quả thu được từ hoạt động xuất nhập khẩu, biểu hiện chung bằng lợi nhuận mà doanh nghiệp đạt được. Hoạt động kinh doanh có hiệu quả tức là có lợi nhuận thì mới duy trì được sự tồn tại của doanh nghiệp, phát triển sản xuất mở rộng doanh nghiệp, tạo tiềm năng cho người lao động, đó cũng chính là tiềm năng cho xã hội, thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Như vậy, khi đánh giá hiệu quả kinh doanh phải đứng trên quan điểm kinh tế. Các doanh nghiệp làm ăn mà không có hiệu quả kinh tế thì sẽ nhanh chóng dẫn tới phá sản, giải thể. Tuy nhiên, cần phải kết hợp lợi ích của Công ty với lợi ích của toàn xã hội, đặt sự phát triển của doanh nghiệp gắn với sự phát triển chung của toàn xã hội. Đó là sự đóng góp vào nền kinh tế quốc gia, tạo việc làm và thu nhập ổn định cho các hộ gia đình ở nông thôn, khuyến khích sản xuất trong nước phát triển theo đúng hướng công nghiệp hoá và hiện đại hoá. b.Quan điểm về con người: Con người là nguồn lực quan trọng nhất của mỗi Công ty và của mỗi quốc gia, trực tiếp tạo ra mọi khoản lợi nhuận cho doanh nghiệp. (Nghĩa là) con người nâng cao hiệu quả kinh doanh và ngược lại, con người là nhân tố trung tâm của xã hội, nâng cao đời sống xã hội cũng chính là để phục vụ tốt hơn nhu cầu của con người. Hiệu quả kinh doanh sẽ tạo ra cơ hội để làm tăng khả năng đáp ứng tốt hơn nhu cầu vật chất, tinh thần của con người và việc nâng cao hiệu quả kinh tế cũng đồng nghĩa với việc nâng cao đời sống của con người. Hai vấn đề này có quan hệ mật thiết với nhau, chúng có những tác động qua lại. Tóm lại, khi xây dựng các biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh cần đứng trên quan điểm kết hợp hiệu quả kinh tế xã hội với hiệu quả kinh tế của Công ty và lấy mục tiêu phục vụ con người làm yêú tố quyết định. II. Phương hướng và triển vọng phát triển buôn bán biên giới Việt -Trung trong thời gian tới . 1. Phương hướng phát triển . Phương hướng phát triển đối với buôn bán chính ngạch qua đường biên giới sẽ nằm trong phương hướng phát triển chung đối với buôn bán với Trung Quốc theo tập quán quốc tế và các hiệp định song phương. Hàng hoá đi qua các cửa khẩu Quốc tế và quốc gia trên đường biển, đường bộ, đường sắt, đường hàng không. Còn thanh toán theo tập quán và các thoả thuận giữa ngân hàng trung ương hai nước. Đây chính là hình thức buôn bán giữa các doanh nghiệp có giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu do Bộ thương mại cấp theo nghị định 33/CP. Việt nam và Trung Quốc đã ký kết nhiều hiệp định, trong đó có Hiệp định thương mại, Hiệp định quá cảnh, Hiệp định vận tải đường sắt, Hiệp định bảo đảm chất lượng...tạo khuôn khổ pháp lý cho việc phát triển quan hệ buôn bán và thực hiện các dịch vụ thương mại theo phương thức này. Trong chính sách của ta, cơ chế quản lý xuất nhập khẩu (theo thông lệ quốc tế) phải ngày càng thông thoáng tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp có giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu hoạt động, đặc biệt là xuất khẩu. Đồng thời có chính sách thúc đẩy những hoạt động tạm nhập tái xuất, quá cảnh, chuyển khẩu... Còn phương thức buôn bán biên giới (tiểu ngạch và dân gian) tuy có mang lại nhiều lợi ích về mặt kinh tế xã hội, nhất là đối với khu vực miền núi phía Bắc nhưng trong tình hình hiện nay nó đã phát triển quá mức, lộn xộn, quản lý không tốt kéo theo đó là một loạt những hệ quả tiêu cực có tác hại lâu dài. Vì vậy cần có chính sách và cơ chế quản lý được thể hiện qua hai quy chế “Quy chế buôn bán biên giới đường biên Việt Nam-Trung Quốc và quy chế tạm thời về quản lý chợ biên giới, làm cho buôn bán biên giới phát triển lành mạnh trong trật tự kỷ cương, bảo đảm an ninh quốc gia, an ninh chính trị, trật tự xã hội và đảm bảo lợi ích của ta . “Quy chế buôn bán đường bộ Việt Nam -Trung Quốc “ điều chỉnh các hoạt động buôn bán biên giới qua các cửa khẩu đường bộ (qua biên giới bộ ) giữa Việt Nam và Trung Quốc. Trong quy chế này đối tượng tham gia có các doanh nghiệp nhà nước, tư nhân, các công ty, hợp tác xã, chi nhánh của doanh nghiệp Trung ương và địa phương khác có trụ sở đăng ký kinh doanh tại các tỉnh biên giới được buôn bán biên giới Việt Trung theo giấy phép kinh doanh XNK do bộ thương mại cấp theo nghị định 33/CP hoặc giấy phép “buôn bán biên giới Việt Trung”do sở thương mại tỉnh biên giới cấp. Các hộ thương nhân ở các tỉnh biên giới vởi Trung Quốc cũng được phép buôn bán biên giới theo “sổ buôn bán biên giới Việt-Trung” các mặt hàng thuộc phạm vi kinh doanh ghi trong sổ với doanh số mua và bán tính chung không quá 100 triệu VNĐ/tháng. Ngoài ra các doanh nghiệp quốc doanh và các xí nghiệp sản xuất thuộc các thành phần kinh tế không có trụ sở và đăng ký kinh doanh tại các tỉnh biên giới với Trung Quốc cũng được tham gia buôn bán biên giới theo từng hợp đồng đăng ký tại Sở thương mại tỉnh. Các doanh nghiệp và xí nghiệp này được kinh doanh các mặt hàng phù hợp với đăng ký kinh doanh theo nguyên tắc cơ bản có mua, doanh số bán phải cao hơn hoặc bằng doanh số mua và phải có hợp đồng với các đối tác Trung Quốc. Hợp đồng phải đăng ký với Sở thương mại tỉnh biên giới mới được phép đưa hàng hoá qua cửa khẩu . Còn “Quy chế tạm thời về tổ chức và quản lý chợ trong khu vực biên giới Việt Trung” đưa ra các điều kiện mà theo đó thương nhân Trung Quốc ở khu vực biên giới được đưa vào bán ở tại chợ cửa khẩu nước ta. Họ sẽ được Sở thương mại cấp sổ kinh doanh tại chợ cửa khẩu Việt -Nam, được đưa hàng qua cửa khẩu và mua bán tại chợ cửa khẩu với doanh số không quá 100 triệu VNĐ/tháng và khi doanh số vượt quá 50 triệu VNĐ /tháng thì doanh số hàng bán bằng doanh số hàng mua (tỷ lệ 50/50). Phương thức buôn bán trong chợ biên giới và chợ cửa khẩu thực hiện theo hướng dẫn của ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Bám sát phương hướng phát triển buôn bán biên giới trong thời gian tới, nhiều mục tiêu cụ thể được đưa ra, trong đó có yêu cầu khai thác tốt khả năng của nước ta và thị trường Trung Quốc, mở rộng trao đổi hàng hoá, đưa dần mọi hoạt động mua bán qua biên giới dưới sự chỉ đạo của Nhà nước. Phấn đấu đến năm 2003 đưa nhịp độ xuất nhập khẩu tăng bình quân 25-30%, kim ngạch xuất nhập khẩu lên 2500 triệu USD, trong đó xuất khẩu phấn đấu đạt 1300 triệu USD tăng tỷ trọng hàng hoá nguyên liệu đã qua chế biến, giảm tối đa xuất khẩu nguyên liệu thô. Phát triển mạnh các hình thức tạm nhập tái xuất và chuyển khẩu để tận dụng hết lợi thế vị trí địa lý của nước ta trong quan hệ với Trung Quốc. Nhập khẩu những thiết bị và nguyên liệu mà Trung Quốc có thế mạnh, những hàng hoá trong nước còn thiếu và hàng hoá có chất lượng tốt. Tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng ở thị trường biên giới, quy hoạch và xây dựng mạng lưới chợ ở biên giới khang trang và hiện đại. Thiết lập thị trường ở biên giới Việt -Trung phát triển lành mạnh, ngăn chặt và hạn chế nạn buôn lậu qua biên giới, bảo đảm an ninh trật tự xã hội vùng biên giới. 2.Triển vọng phát triển biên giới Việt Trung . Buôn bán biên giới Việt Trung hiện nay mặc dù còn tồn tại một số hạn chế nhưng trong thời gian tới, triển vọng phát triển là tốt đẹp, không chỉ trong phạm vi trao đổi hàng hoá mà còn trong cả lĩnh vực đầu tư và hợp tác kỹ thuật. Ta có thể khẳng định được điều đó do những lý do sau: Thứ nhất, Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng “núi liền núi, sông liền sông “, giao thông thuỷ bộ và đường biển tương đối thuận tiện. Nhân dân hai nước lại có truyền thống hữu nghị lâu đời, mở cửa biên giới tăng cường giao lưu buôn bán đã đáp ứng được nguyện vọng lâu dài của nhân dân hai nước. Đồng thời nhờ mở cửa, đời sống nhân dân được cải thiện, nhân dân chú tâm làm ăn nhằm nâng cao mức sống của mình và xây dựng quê hương. Điều này chỉ thực hiện được khi môi trường an ninh xã hội trật tự và ổn định. Do đó, nhân dân càng tích cực tham gia bảo vệ biên cương, giữ vững chủ quyền, thiết lập môi trường đảm bảo trong khu vực biên giới. Thực tế cho thấy, những khu vực ven biên giới có kinh tế phát triển thì vấn đề xâm phạm chủ quyền, an ninh quốc gia hầu như không có . Thứ hai, Trung Quốc là một thị trường rộng lớn với hơn 1,2 tỷ người, sau 17 năm mở cửa đã có bước phát triển nhanh về kinh tế. Mức tăng trưởng những năm gần đây ổn định với nhịp độ cao từ 10-12%/năm. Trong kế hoạch 5 năm 1999-2003, định hướng phát triển ngoại thương tăng hàng năm trên 10% và năm 2003 phấn đấu đạt 400 tỷ USD .Việc Trung Quốc thu hồi Hồng Công (1.7.2000)và xắp tới sáp nhập Ma Cao vào Trung Quốc trên trường quốc tế. Trong thời gian tới, những mặt hàng Trung Quốc có thể cung cấp cho Việt Nam chủ yếu là các vật liệu công nghiệp và một số có chọn lọc các máy, thiết bị lẻ và nhà máy công suất vừa, có thể mua dễ dàng ở các tỉnh phía Nam, loại chất lượng cao hơn phải mua ở các tỉnh phía Đông và Đông Bắc. Các sản phẩm Trung Quốc có khả năng cung cấp cho Việt Nam là: Các sản phẩm thép Kim loại màu Hoá chất các loại ,thuốc nổ Phân bón Vật tư khoa học (thiết bị và dụng cụ thí nghiệm,đo đếm .. .) của Bắc kinh và Thượng Hải Amiăng Pyrít sắt Xi măng trắng Nhựa đường Một số vật liệu xây dựng khác (giấy dầu,gạch chịu lửa, kính màu) Cáp điện và dây điện Săm lốp ô tô :Của các tỉnh Đông và Đông Bắc, một phần có thể mua của Quý Châu và Vân Nam Vải cao cấp của Thượng Hải ,Hàng Châu Dược liệu và dược phẩm tên dược của các tỉnh Đông và Đông Bắc Giấy in các loại Sợi và sợi tổng hợp Một số hàng tiêu dùng như hoa quả, thực phẩm tinh chế. Thứ ba, buôn bán biên giới đem lại những lợi ích cho cả hai bên. Trước khi mở cửa biên giới, khu vực hai bên biên giới có trình độ kinh tế, xã hội và văn hoá thấp, lạc hậu so với các vùng khác. Nhưng chỉ sau mấy năm mở cửa, bộ mặt kinh tế -xã hội -văn hoá của khu vực này đã thay đổi nhiều. Đây chính là động lực bên trong duy trì và thúc đẩy sự phát triển mậu dịch biên giới. Thứ tư, Mối quan hệ chính trị giữa hai nước kể từ khi bình thường hoá đến nay ngày càng mật thiết đánh dấu bằng những chuyến đi thăm lẫn nhau diễn ra hàng năm giữa các nhà lãnh đạo cao cấp của hai nước. Theo ông Lý Gia Trung -Đại sứ quán trung Quốc tại Việt Nam -riêng năm 1999 có khoảng 100 đoàn đại biểu của hai nước qua lại, 60 đoàn trong cấp đó ở cấp thứ trưởng, còn nếu tính ở cấp cán bộ thì một ngày trung bình có 2,2 đoàn. Hiện nay, giữa hai nước vẫn còn tồn tại một số vấn đề về biên giới lãnh thổ nhưng hai bên đã nhất trí giải quyết thông qua thương lượng, hoà bình. Việc thắt chặt quan hệ chính trị này chính là tiền đề cho quan hệ kinh tế thương mại nói trung và buôn bán biên giới nói riêng. Thứ năm, nhằm thúc đẩy buôn bán biên giới Việt -Trung, đồng thời rút ngắn khoảng cách phát triển giữa các khu vực biên giới và các khu vực khác, Chính Phủ hai nước đang không ngừng cải thiện xây dựng cơ sở hạ tầng và xây dựng các chính sách ưu đãi. Qua tất cả những lý do trên từ điều kiện địa lý kinh tế xã hội, mối quan hệ chính trị giữa hai nước cho đến môi trường cho buôn bán biên giới gồm vấn đề cơ sở hạ tầng và các chính sách từ hai phía đối với mậu dịch biên giới trong thời gian tới, ta nhận thấy quan hệ buôn bán biên giới ngoài những điều kiện khách quan thuận lợi còn có sự quan tâm của Chính phủ, trong tương lai sẽ phát triển nhanh, mạnh mẽ và lành mạnh. Nó không chỉ còn đơn thuần là hoạt động thương mại thuần tuý mà từng bước tiến tới hợp tác kinh tế kỹ thuật và đầu tư tại khu vực biên giới. Có thể nói: quan hệ buôn bán biên giới Việt -Trung có một triển vọng sáng sủa và tốt đẹp ở phía trước. II. Những giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu của CEMACO với thị trường Trung Quốc . Làm thế nào để thực hiện các phương hướng mục tiêu mà Ban lãnh đạo Công ty đề ra cũng như để hoàn thành tốt nhiệm vụ kinh doanh xuất nhập khẩu nói chung, kinh doanh xuất nhập khẩu với thị trường Trung Quốc nói riêng là vấn đề hết sức quan trọng. Để nâng cao hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu với thị trường Trung Quốc, Công ty cần phải quán triệt quan điểm kinh tế, xã hội, con người ... đồng thời phải khẳng định vị trí hiện tại của mình, đánh giá những đIểm mạnh điểm yếu, tận dụng thời cơ để thực hiện kinh doanh thắng lợi. Tuy nhiên, việc nâng cao hiệu quả ấy chịu tác động của nhiều yếu tố ( cả yếu tố chủ quan lẫn khách quan ). Đứng về mặt Công ty, cần có những biện pháp nâng cao hiệu quả của từng khâu mua vào, bán ra, tổ chức các kênh bán hàng hợp lý, mở rộng thị trường và làm sao để kinh doanh có lãi. Sau đây tôi xin mạnh dạn đề xuất một số giải pháp cơ bản mà Công ty cần thực hiện: 1.Chủ động nắm bắt cung cầu trên thị trường. Hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường hiện nay đòi hỏi Công ty phải xuất phát từ nhu cầu trên thị trường, nghĩa là nghiên cứu tốt hay không sẽ ảnh hưởng quyết định đến sự thành bại của Công ty. Công ty phải làm chủ được thị trường và dự báo được sự biến động của thị trường, thị trường ở đây là cả thị trường mua và thị trường bán, cả thị trường trong nước và thị trường Trung Quốc. Có như vậy Công ty mới có khả năng hoàn thành được nhiệm vụ của mình, kinh doanh bù đắp được chi phí và có lãi, góp phần cải thiện đời sống cán bộ công nhân viên, thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với ngân sách Nhà nước. Mặt khác, Công ty cần thấy được mình đang nằm trong khâu lưu thông phân phối của quá trình tái sản xuất xã hội, do đó nếu không làm chủ được thị trường, dự báo được thị trường thì sẽ không đáp ứng được kịp thời nhu cầu và bỏ lỡ cơ hội kinh doanh thuận lợi. Thực tế, thời gian qua, thị trường Trung Quốc chưa có vị trí tương xứng với quy mô của nó trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty, hoạt động mua - bán tiến hành một cách thụ động. Nguyên nhân chính là do Công ty chưa có sự nghiên cứu thực sự về thị trường Trung Quốc cho từng mặt hàng, nhóm hàng nên không có một chiến lược rõ rệt trong tổ chức và chỉ đạo thực hiện. Để tạo thế chủ động hơn đối với việc nắm bắt và thâm nhập thị trường, Công ty cần thực hiện tốt một số vấn đề sau đây: 1.1. Tổ chức nghiên cứu thị trường, cung cấp và xử lý thông tin chính xác, kịp thời. Công ty cần có một bộ phận chuyên viên Marketing có trình độ, am hiểu thị trường Trung Quốc, có kinh nghiệm và đầu óc phán đoán chính xác. Thông tin thu nhận từ nhiều nguồn khác nhau ( sách- báo, phương tiện truyền thanh, hội chợ, triển lãm... ) sẽ được xử lý một cách khoa học, kịp thời đề xuất phương án kinh doanh, chớp lấy thời cơ kinh doanh. Đồng thời, phát hiện và khai thác nhu cầu của thị trường, phát hiện nguồn hàng... để tổ chức đưa hàng từ nơi này đến nơi khác cho hợp lý. Muốn vậy, Công ty cần đưa ra lời giải đáp hữu hiệu cho một số câu hỏi sau: Ai có nhu cầu về mặt hàng đó? Họ cần quy cách và chất lượng như thế nào? Tại sao họ cần? Họ dùng mặt hàng đó cho mục đích gì? Họ có thể mua ( bán ) ở đâu? Khi nào họ cần mua ( bán )? Họ có thể mua ( bán ) ở mức giá nào? Sự nghiên cứu hệ thống câu hỏi trên chắc chắn sẽ giúp Công ty đáp ứng được yêu cầu của bạn hàng và đảm bảo có lãi. 1.2. Thiết lập kênh phân phối một cách hợp lý. Để thực hiện tốt nghiên cứu thị trường, Công ty nên xây dựng một hệ thống phân phối hoàn chỉnh phù hợp với khả năng của Công ty, vừa là đầu mối giao dịch mua bán hàng hoá, sản phẩm vừa là nơi cung cấp truyền tin thị trường một cách chính xác nhất, làm giảm đáng kể nhưng rủi ro thị trường có thể gây ra. Tổ chức tốt hệ thống kênh phân phối hợp lý tại Trung Quốc nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động xuất khẩu. Công ty nên thành lập văn phòng đại diện ở Trung Quốc. Đây là hình thức tương đối tốn kém nhưng mang lại nhiều cái lợi cho Công ty, đặc biệt trong khai thác thị trường đảm bảo cho Công ty kinh doanh an toàn và có lãi. Ngoài ra đó còn là nơi giao dịch, ký kết hợp đồng mua bán ngoại thương với doanh nghiệp Trung Quốc, giải quyết các tranh chấp, khiếu nại có thể xảy ra cũng như bảo vệ quyền lợi của Công ty Công ty cũng có thể chọn đại lý phân phối của mình ở Trung Quốc. Đây là giải pháp ít tốn kém hơn, đảm bảo cho Công ty có thể bán hàng tới tận tay người có nhu cầu, giảm bớt chi phí trung gian qua người nhập khẩu. Tuy nhiên, thời gian này, khi Công ty chưa đủ mạnh để tự tìm bạn hàng, đưa sản phẩm qua biên giới thì cũng cần phải tham gia kinh doanh để từng bước làm quen với thị trường và đưa sản phẩm vào thị trường. * Tổ chức hệ thống tiêu thụ hàng nhập khẩu từ Trung Quốc một cách nhanh nhất và có hiệu quả. Từ trước tới nay Công ty chủ yếu tiêu thụ hàng nhập khẩu qua hệ thống cửa hàng của Công ty. Trong điều kiện hiện nay, Công ty cần tổ chức một hệ thống phân phối mới bằng cách thiết lập quan hệ với các nhà sản xuất sử dụng hoá chất, vật liệu, máy móc, thiết bị thuộc lĩnh vực hoạt động của mình làm đầu vào, thiết lập quan hệ với hệ thống các cửa hàng tư nhân làm đầu mối tiêu thụ hàng nhập khẩu của Công ty. 2. Đa dạng hoá mặt hàng xuất nhập khẩu. Đa dạng hoá mặt hàng xuất nhập khẩu góp phần khai thác tối đa nhu cầu trong nước và nhu cầu trên thị trường Trung Quốc, tăng khả năng cạnh tranh, tăng khả năng kinh doanh và mở rộng thị trường. Nhu cầu về các mặt hàng ở các vùng là rất cao và phong phú. Mỗi nơi có tập quán và thị hiếu khác nhau. Khai thác điều đó sẽ tạo thêm hướng kinh doanh mới, hướng xuất khẩu có lợi cho Công ty. Cải tiến mẫu mã sản phẩm tạo tính đa dạng hấp dẫn khách hàng. Tuy nhiên, sự cải tiến nên chỉ thể hiện ở mẫu mã, quy cách, chất liệu hợp lý hơn mà không nên thay đổi đột ngột. 3. Chủ động nắm bắt nguồn hàng kinh doanh. Để chủ động trong kinh doanh, ngoài việc chủ động nắm bắt tình hình diễn biến trên thị trường, Công ty cần phải chủ động nắm bắt nguồn hàng trong kinh doanh tránh tình trạng lúc tìm được nơi để bán thì không có hàng, lúc có hàng lại không có chỗ bán. Để đảm bảo nguồn hàng xuất khẩu Công ty nên có quan hệ tốt với những doanh nghiệp có cùng lĩnh vực hoạt động kinh doanh, với những nhà sản xuất, chế biến trong nước để họ hỗ trợ mình khi cần thiết trên nguyên tắc bình đẳng, hai bên cùng có lợi. Bên cạnh đó, cần có mạng lưới thông tin chính xác, kịp thời về những địa chỉ có khả năng cung cấp mặt hàng mình cần, đảm bảo được quy cách, chất lượng thoả mãn nhu cầu của phía đối tác. Đồng thời Công ty cũng cần một hệ thống tập trung hàng có hiệu quả, góp phần đưa nguồn hàng về đúng nơi tập kết và đúng thời gian yêu cầu. Công ty có thể ký kết hợp đồng dài hạn với những nơi cung cấp có uy tín về những mặt hàng có nhu câù ổn định thường xuyên để khi cần thiết có thể đáp ứng ngay, tạo lòng tin cho khách hàng. Công ty cần đề ra các tiêu chuẩn nhất định về các mặt hàng xuất nhập khẩu để nâng cao chất lượng hàng hoá. Có như vậy, Công ty mới có khả năng cạnh tranh và tồn tại lâu dài. Đây là biện pháp rất quan trọng đối với cả mặt hàng hoá chất lẫn mặt hàng vật liệu điện - hai ngành hàng nhập khẩu quan trọng đòi hỏi độ chính xác và chất lượng cao. Ngoài ra, trong việc nắm bắt nguồn hàng kinh doanh, Công ty cần tiết kiệm các chi phí trung gian, chi phí giao dịch kinh doanh. Tổ chức tìm nguồn hàng xuất nhập khẩu không qua khâu trung gian - tức là thực kinh doanh theo phương châm “ mua tận gốc, bán tận ngọn “ - giúp Công ty giảm những chi phí trung gian không cần thiết, mà giá cả là theo thị trường nên có thể làm tăng lợi nhuận. Triệt để tiết kiệm các chi phí khác nhau như chi phí lưu kho, chi phí vận chuyển bốc dỡ, hạn chế tối đa những khoản bị phạt hợp đồng, giảm chi phí trả lãi tiền vay, chi phí điện tín... hạ thấp giá thành xuất khẩu, nhập khẩu, tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Trong công tác xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc, càng tiết kiệm chi phí trung gian thì càng hạ giá bán, càng có điều kiện bán được hàng và thu ngoại tệ. 4. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và tổ chức khai thác vốn từ những nguồn khác nhau. Công ty có thể nâng cao hiệu quả sử dụng vốn bằng cách ưu tiên cấp vốn cho những mặt hàng kinh doanh đem lại lợi nhuận cao như một số mặt hàng hoá chất ( xút, xôđa, PVC bột, PELD+HD, PP... ). Tăng vòng quay vốn lưu động cũng là giải pháp cần được chú trọng. Với số vốn lưu động hạn chế, Công ty càng đẩy mạnh vòng quay vốn lưu động thì càng có nhiều cơ hội thu lợi nhuận. Muốn vậy phải tổ chức tốt quá trình kinh doanh từ khai thác nguồn hàng, nắm bắt nhu cầu tiêu thụ hàng nhanh chóng, thu hồi vốn ngay... để chuẩn bị cho những vụ kinh doanh tiếp theo. Bên cạnh đó, để mở rộng kinh doanh,vốn lưu động lại mới đáp ứng được 60% nhu cầu kinh doanh , rõ ràng Công ty phải vay một số lượng vốn rất lớn, nhất là với những thương vụ kinh doanh có giá trị lớn. Nếu chỉ trông chờ vào các khoản vay ngân hàng thì phải chịu sức ép lớn về lãi xuất tiền vay ảnh hưởng đến lợi nhuận Công ty. Qua nghiên cứu thực tế, một số doanh nghiệp thương mại Nhà nước đã áp dụng một số biện pháp khai thác các nguồn vốn có hiệu quả mà Công ty này áp dụng, như: Khai thác nguồn vốn từ liên doanh liên kết. Với một số thương vụ lớn, Công ty có thể kêu gọi các doanh nghiệp thương mại, tổ chức khác cùng góp vốn tham gia kinh doanh . Đây là biện pháp tăng vốn rất nhanh. Công ty có thể liên doanh - liên kết với các đối tác trong nước và ngoài nước, với các đơn vị tư nhân hay các tổ chức, doanh nghiệp Nhà nước. Ngoài ra, Công ty cũng có thể liên kết với các tổ chức xuất nhập khẩu khác thuộc cùng lĩnh vực để tạo thành một tổ chức mang tính chất hiệp hội vừa bảo vệ lợi ích của mình vừa tạo điều kiện cho Công ty tiếp cận thị trường nước ngoài nói chung và thị trường Trung Quốc nói riêng một cách hiệu quả nhất. Huy động nguồn vốn từ đội ngũ công nhân viên trong Công ty. Công ty nên tổ chức vay vốn của cán bộ công nhân viên trong đơn vị với mức lãi suất cao hơn mức lãi suất tiền gửi ngân hàng và thấp hơn mức lãi suất tiền vay. Khi đó, cả hai phía (Công ty và người cho vay) đều có lợi. Người cho vay được hưởng lãi suất cao hơn, còn Công ty trả lãi ngân hàng ít hơn. Đây là hình thức vay vốn hết sức sáng tạo, linh hoạt: Hai bên có thể thoả thuận mức lãi suất thích hợp, tăng nguồn vốn cho Công ty, giảm chi phí kinh doanh (giảm lãi suất tiền vay), đồng thời gắn trách nhiệm của mỗi cá nhân với cá nhân trong Công ty chặt chẽ hơn. 5.Tìm hiểu các đối thủ cạnh tranh và các đối pháp cạnh tranh có hiệu quả Đối thủ cạnh tranh là những doanh nghiệp có lợi ích đối đầu với lợi ích của Công ty. Những đối thủ này gặp không phải ít trong khi xây dựng mối quan hệ xuất nhập khẩu qua biên giới với thị trường Trung Quốc. Chính vì họ mà kim ngạch xuất khẩu của Công ty vẫn chưa như mong muốn, vì họ mà việc thoả mãn nhu cầu nội địa bị chia xẻ (nhiều doanh nghiệp cũng kinh doanh trên thị trường trong nước), do đó nhu cầu nhập khẩu ít hơn. Nghiên cứu đối thủ cạnh tranh sẽ giúp Công ty tránh những thất bại trong bán hàng, giúp Công ty đánh giá cân đối được cung cầu trên thị trường nội địa, thị trường Trung Quốc, từ đó có những quyết định đúng đắn trong kinh doanh. Vì vậy, Công ty cần xác định vũ khí cạnh tranh sắc bén về mọi mặt ( mặt hàng, quy cách, chất lượng, mẫu mã, thời gian, tiến độ thực hiện hợp đồng, cách thức tiến hành phù hợp nhất...). Muốn vậy, cần phải có đầy đủ , chính xác những thông tin về đối thủ cạnh tranh, như: Khả năng tài chính của đối thủ cạnh tranh. Nghiên cứu xem đối thủ cạnh tranh đang kinh doanh những mặt hàng gì, có trùng mặt hàng của mình về chủng loại, thời gian hay không? Tìm hiểu kế hoạch kinh doanh của đối thủ cạnh tranh, chính sách giá cả của họ như thế nào ? Tìm hiểu mặt hàng của họ có những ưu điểm, nhược đIểm gì? Phương pháp kinh doanh như thế nào, khuếch trương quảng cáo ra sao? Phải luôn tìm hiểu những lợi thế yếu điểm của họ để từ đó đưa ra chiến lược kinh doanh đúng đắn nhằm chiến thắng đối thủ cạnh tranh. Bên cạnh đó Công ty cũng nên có những quan hệ tốt với đối thủ của mình để khi cần thiết có thể lựa chiều phân chia thị trường, nhằm khai thác triệt để mọi ưu thế của cả hai bên. Vì vậy, để làm ăn tốt, công tác này cần tạo ra mối quan hệ tốt đẹp của cán bộ công nhân viên trong Công ty với bên ngoài , lấy đó làm xuất phát để kết hợp hài hoà lợi ích giữa các bên trong quá trình kinh doanh. Để cạnh tranh được với các đối thủ khác Công ty cần tìm hiểu về mọi yêu cầu của đối tác để có thể thoả mãn được chúng nhiều nhất. Nhưng trước đó, Công ty cũng cần xem xét, lựa chọn đối tác một cách phù hợp. Nghiên cứu một cách kỹ càng các mặt lợi mà đối tác đó có thể mang lại cho Công ty như về nguồn hàng, giá cả, phương thức thanh toán... Trong cạnh tranh, giá cả là một trong những yếu tố mang tính ccạnh tranh nhất, là vũ khí cạnh tranh sắc bén nhất. Trong nhập khẩu giá hạ hơn thì hàng tiêu thụ cuả Công ty sẽ có khả năng bán với giá thấp hơn đối thủ, tạo khả năng cạnh tranh mạnh hơn. Trong xuất khẩu, thì ngược lại, giá bán ra được cao lại góp phần tăng lợi nhuận. Song giá cả lại chịu sự tác động của nhiều yếu tố như chi phí đầu vào, thuế, chi phí lưu thông, chi phí phân phối...Do đó Công ty phải hết sức chú ý, cẩn thận trong việc xác định giá cả, sao cho giá đó là tói ưu nhất, đem lại lợi ích cho cả đôi bên. Đồng thời, Công ty cũng cần dự đoán được diễn biến xu hướng của thị trường để từ đó có chính sách nâng giá hay hạ giá một cách phù hợp, tận dụng tối đa mọi khả năng đem lại lợi nhuận cao hơn. Ngoài giá cả ra cũng có nhiều yếu tố ảnh hưởng quyết định đến sự lựa chọn bạn hàng như: nguồn hàng, phương thức thanh toán... Nếu nguồn hàng có khả năng được đáp ứng lâu dài thì Công ty cũng có thể làm ăn lâu dài với họ và Công ty cũng có thể yên tâm trong việc tìm kiếm nguồn hàng, đỡ tốn thời gian, và tiền của. Đồng thời, Công ty cũng có sẽ nhận được sự giúp đỡ và ưu đãi của đối tác. Trong nhập khẩu, nếu Công ty thương lượng được với đối tác việc thanh toán chậm thì đó cũng là một lợi thế, càng thanh toán chậm càng có cơ hội sử dụng vốn của họ. 6. Không ngừng nâng cao uy tín của Công ty Để ngày càng nâng cao uy tín, thuận lợi cho việc thiết lập các quan hệ kinh doanh lâu dài, CEMACO cần thực hiện những biện pháp sau: 6.1. Nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy Công ty Mọi hoạt động kinh doanh đều do những cá nhân trong Công ty thực hiện dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ban lãnh đạo Công ty. Thời gian qua, mặc dù Công ty đã có những bước tiến đáng kể song kết quả vẫn chưa cao. Để nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty, trước hết, Bộ máy quản lý, lãnh đạo Công ty phải thực sự giỏi, có trình độ, có kinh nghiệm và rất linh hoạt trong việc ra quyết định. Với quyền lực của nhà lãnh đạo, Ban giám đốc Công ty cần thực hiện một số công việc tổ chức, sắp xếp lại cơ cấu, chức năng hoạt động của các phòng ban trong Công ty. Bên cạnh đó, cần biết các thành tựu của Công ty đạt được là thành quả của những nỗ lực phối hợp giữa từng cá nhân. Công ty để cho cán bộ công nhân viên quyền kiểm soát vận mệnh của họ, tức là nhân viên được tự chủ khi giao cho họ công việc cần đến trách nhiệm, phải giao quyền hạn tương ứng với chức vụ của họ nhưng phải lưu ý rằng mọi công việc được giao phải phù hợp với khả năng của từng người. Để cho từng cá nhân phát huy tốt nhất năng lực của mình, Công ty cần tổ chức bồi dưỡng, đào tạo và sắp xếp lại lao động một cách hợp lý. Việc đào tạo lại đó sẽ nâng cao tay nghề, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ Công nhân viên trong Công ty. Với hoạt đông buôn bán biên giới Việt-Trung rất phức tạp và đa dạng, các cán bộ xuất nhập khẩu cần am hiểu nghiệp vụ, am hiểu thị trường Trung Quốc , có nhiều kinh nghiệm, cần được bổ sung kiến thức, thông tin một cách cập nhật để tránh rủi ro trong kinh doanh và hiệu quả là cao nhất. 6.2. Tăng cường uy tín của Công ty nhờ hoạt động khuếch trương quảng cáo Tổ chức quảng cáo sẽ góp phần tao dựng hình ảnh Công ty trên thị trường trong nước và Trung Quốc, cung cấp cho khách hàng địa chỉ đáng tin cậy để họ tìm đối tác. Đối với thị trường trong nước, nên quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng như truyền thanh, truyền hình, báo chí. Với thị trường Trung Quốc như vậy sẽ tốn kém, Công ty có thể quảng cáo ngay trên bao bì hàng hoá (bằng cách đề nghị dập tên hay biểu tượng của Công ty lên bao bì). Ngoài ra, Công ty nên tham gia các hội chợ triển lãm trong và ngoài nước. Đây là cơ hội tốt để Công ty hoà nhập vào môi trường kinh doanh, xác định vị thế của Công ty, tìm kiếm bạn hàng và nâng cao uy tín. 7. Sử dụng linh hoạt các hoạt động xuất nhập khẩu Mỗi hình thức xuất nhập khẩu có những ưu điểm, nhược đIểm riêng, có những chế độ ưu đãi riêng về phía Nhà nước. Xuất nhập khẩu tiểu ngạch được Trung Quốc ưu tiên, xuất nhập khẩu chính ngạch Việt Nam lại thúc đẩy và đều thông qua ưu đãi về thuế. Vấn đề là Công ty cần xem xét, đánh giá tình hình thực tế, lựa chọn trong từng tình huống cụ thể hình thức XNK để đem lại lợi ích tối ưu. Ngoài ưu đãi về thuế, XNK tiểu ngạch có ưu điểm là thủ tục đỡ phiền hà còn XNK chính ngạch lại có ưu điểm là an toàn. Ngoài hai hình thức trên, Công ty cũng nên thúc đẩy, tăng cường các hoạt động tạm nhập tái xuất, chuyển khẩu và trên thực tế các hình thức này đã thu được những kết quả cao, góp phần tăng lợi nhuận của Công ty. 8. Lựa chọn có hiệu quả các phương thức thanh toán . Việc lựa chọn phương thức thanh toán trong hoạt động XNK là rất quan trọng nhất là trong tình hình phức tạp của vùng biên giới Việt Trung. Lựa chọn phương thức thanh toán phụ thuộc vào điều kiện giao hàng, quan hệ bạn hàng là lâu dài hay chỉ có thời gian ngắn, đồng tiền thanh toán, thời hạn thanh toán . Thanh toán trực tiếp hàng đổi hàng sẽ tiết kiệm được dòng vận động của ngoại tệ, giảm chi phí trung gian,(thanh toán, giao dịch...).Đặc biệt nó có thể giúp Công ty vừa nhận hàng mình cần vừa tăng khả năng xuất khẩu hàng hoá. Thanh toán bằng L/C. Đây là phương thức thanh toán rất an toàn đảm bảo quyền lợi cho Công ty cả trong xuất khẩu lẫn nhập khẩu . Thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt.Phương thức thanh toán này rất được ưa chuộng trong buôn bán biên giới Việt Trung .Nó rất có lợi trong trường hợp Công ty là người xuất khẩu. Nhưng nó lại rễ xảy ra rủi ro việc vận chuyển trực tiếp một khối lượng tiền lớn lên biên giới. IV. Những kiến nghị về phía Nhà nước. CEMACO là đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu, do đó hiệu quả kinh tế của Công ty không chỉ do những yếu tố thuộc bản thân Công ty quyết định mà còn chịu tác động rất lớn của cả yếu tố khách quan bên ngoài (kinh tế, chính trị, pháp luật...). Do vậy, để hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty nói chung và hoạt động xuất nhập khẩu qua biên giới Việt-Trung của Công ty nói riêng có hiệu quả, đồng thời cũng là tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu khác, Nhà nước nên có những quan tâm, những chính sách, biện pháp đúng lúc kịp thời, cụ thể hơn đối với hoạt động này. 1. Thiết lập tổ chức và cơ chế quản lý buôn bán biên giới hợp lý để có thể kết hợp được lợi ích của địa phương và lợi ích của trung ương. Cụ thể là nâng cao vai trò quản lý của Uỷ ban nhân dân Tỉnh- Sở thương mại và du lịch của tỉnh. Ta biết rằng các chính sách mà Chính phủ đưa ra dù có sát thực hay thích hợp như thế nào nếu không có sự chỉ đạo đúng đắn, sự giám sát kiểm tra kịp thời và thường xuyên của các chính quyền địa phương thì các chính sách này không thể có hiệu quả được. Vai trò của chính quyền các tỉnh biên giới được thể hiện ở việc quản lý đối tượng xuất nhập khẩu, hay việc chỉ đạo và tổ chức thu thuế. Nhà nước nên giao cho chính quyền các tỉnh biên giới cấp giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu qua biên giới cho các đối tượng đủ tiêu chuẩn đóng trên địa bàn tỉnh chứ không chỉ giới hạn là cư dân hay doanh nghiệp của tỉnh. Còn đối với công tác chỉ đạo và tổ chức thu thuế, Nhà nước nếu muốn địa phương tích cực trong công tác này thì phải có chính sách phân bổ ngân sách từ nguồn thuế thích hợp. Thực tế cho thấy, nguồn thu ngân sách tỉnh từ các khoản thuế xuất nhập khẩu qua biên giới (chủ yếu là xuất nhập khẩu tiểu ngạch) không nhỏ, từ nguồn thu này, nhiều tỉnh đã có tiền để cải tạo nâng cấp cơ sở hạ tầng, thực hiện các chính sách Y tế, giáo dục ... nhằm nâng cao đời sống nhân dân. Nếu Nhà nước không để lại một phần nguồn thu từ thuế xuất nhập khẩu qua biên giới cho các tỉnh với một tỷ lệ thích hợp thì dù có cố gắng đến đâu thì cũng không thể buộc chính quyền các địa phương biên giới “nhiệt tình” đôn đốc chỉ đạo công tác thu thuế. Như vậy, Nhà nước vừa thất thu thuế, đồng thời hàng hoá buôn lậu ngày càng nhiều, tình trạng buôn lậu không được kiểm soát chặt chẽ. Trực tiếp tham gia quản lý buôn bán biên giới còn có lực lượng Hải quan, biên phòng, công an, kiểm dịch... Để dẩy mạnh hiệu quả của công tác quản lý cần có sự phối hợp đồng bộ, chặt chẽ dưới sự chỉ đạo của chính quyền địa phương. Nhưng quyền hạn và trách nhiệm của mỗi lực lượng phải được phân biệt rạch ròi, tránh tình trạng chồng chéo, không những làm giảm hiệu quả mà còn tác động tiêu cực. Biên phòng phải là lực lượng nòng cốt chịu quản lý con người xuất nhập cảnh qua các cửa khẩu, quản lý đường biên mốc giới và mọi hoạt động của con người và phương tiện qua biên giới ngoài cửa khẩu xác định. Hải quan là lực lượng chịu trách nhiệm về việcquản lý mọi hoạt động của phương tiện xuất nhập cảnh trên các cửa khẩu đã xác định. Công an là lực lượng chịu trách nhiệm chính về hoạt động giữ gìn an ninh, chính trị, trật tự xã hội, an ninh kinh tế... Cấp uỷ, chính quyền phường xã chịu trách nhiệm toàn diện về quản lý lãnh thổ trên địa bàn phường xã. Để thực hiện được những biện pháp này, một mặt phải nâng cao điều kiện cơ sở vật chất làm việc cho các lực lượng quản lý như: xây dựng các trạm kiểm soát cửa khẩu, máy móc kiểm tra chất lương, cân đo đong đếm, phương tiện đi lại, thông tin liên lạc...(trên thực tế nhiều khi bọn buôn lậu có những phương tiện liên lạc hiện đại và hơn rất nhiều ). Mặt khác, cần có chính sách khen thưởng kịp thời đối với những đơn vị, cán bộ làm tốt nhiệm vụ, đồng thời phải xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm. 2. Xây dựng một chính sách đầy đủ và khả thi cho vùng biên giới về mặt hàng, thị trường, thuế, công tác thanh toán... Để có một chính sách thị trường và mặt hàng thích hợp trước hết cần tổ chức nghiên cứu tổng hợp về quản lý và khai thác kinh tế đối với toàn bộ vùng biên của nước ta với Trung Quốc để xác định tiềm năng của khu vực này. Các công ty lớn của Trung ương có mặt ở vùng biên giới, cùng các địa phương kết thành sức mạnh, để đi sâu vào thị trường Trung Quốc, tăng nhanh khối lượng hàng xuất của ta và mua đúng hàng hoá thiết yếu cho sản xuất và đời sống. Ngoài ra, cần tạo lập mọi liên kết giữa các tỉnh biên giới và các tỉnh tuyến sau nhằm phát triển nguồn hàng, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo sức mạnh và khả năng mới cho doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp ở các tỉnh biên giới xâm nhập sâu mở rộng thị trường bán hàng vào các tỉnh Quảng Tây, Vân Nam, Quế Châu, Tứ Xuyên và vùng Hoa Nam. Nếu thực hiện được theo phương hướng này ta còn có thể giải quyết được vấn đề nhập siêu trong buôn bán với Trung Quốc. Đối với vấn đề thanh toán trong tình hình hiện nay, thanh toán theo như Hiệp định bảo đảm hợp tác và thanh toán giữa hai nước vẫn chưa thực hiện được. Lúc này việc áp dụng chính sách thí điểm thực hiện thanh toán bằng bản tệ ở khu vực Móng Cái là thích hợp. Vì vậy cần có sự chỉ đạo, theo dõi, kiểm tra, đôn đốc kịp thời của Ngân hàng Trung ương, kịp thời tổng kết, đánh giá để áp dụng cho các tỉnh khác. Nhanh chóng đưa công tác thanh toán vào nền nếp. 3. Để thúc đẩy buôn bán biên giới ngoài những biện pháp về cơ chế tổ chức quản lý, về chính sách như trên, Trung ương có thể cùng kết hợp với các địa phương thực hiện một số biện pháp để tạo ra một số điều kiện có tác động tích cực tới buôn bán biên giới như : -Chú trọng đầu tư thích đáng cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng, xây dựng các trung tâm kinh tế-thương mại-dịch vụ-du lịch, tạo ra các tiềm lực mới ở các tỉnh biên giới để từng bước thúc đẩy hợp tác không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà cả trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật tại khu vực biên giới , đồng thời hấp dẫn các nhà đầu tư vào khu vực này nhờ đó thúc đẩy sự phát triển của vùng biên giới Việt-Trung. -Về các thủ tục hành chính cần được đơn giản hoá xoá bỏ phiền hà tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhằm tạo môi trường thông thoáng. -Bộ giao thông vận tải cần cân nhắc việc cho phép các phương tiện vận tải đủ yêu cầu cũng có thể tham gia chuyên chở ở các tỉnh biên giới, tránh tình trạng phải qua khâu trung gian như hiện nay vừa tạo ra sự tiêu cực, kém hiệu quả, gây nên bất bình cho các doanh nghiệp trong nội địa. -Một hình thức gián tiếp nhằm thúc đẩy buôn bán biên giới mà Bộ Thương mại không thể bỏ qua, đó là việc chỉ đạo các cơ quan chức năng cần phải có biện pháp tổ chức và khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam tham dự các hội chợ triển lãm quốc tế một cách có hiệu quả nhất là các hội chợ triển lãm do ta hoặc do Trung Quốc tổ chức ở các tỉnh biên giới. Tiếp tục tạo điều kiện để các doanh nghiệp Việt Nam tham quan, khảo sát, tìm bạn hàng Trung Quốc và tìm cách đưa hành Việt Nam sang bán cho Trung Quốc ... Kết luận Qua nghiên cứu lý luận và thực tiễn kinh doanh XNK với thị trường Trung Quốc của Công ty Hoá chất - Vật liệu điện và Vật tư khoa học kỹ thuật, ta thấy Công ty tuy là một doanh nghiệp Nhà nước mới chính thức hoạt động (1/1/1999) với số vốn hạn chế nhưng đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Công ty đã tự mình vượt qua những thử thách, khó khăn của giai đoạn đầu sát nhập, sử dụng vốn có hiệu quả, kinh doanh có lãi, góp phần cải thiện đời sống của cán bộ công nhân viên, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước. Ngoài ra, hoạt động buôn bán biên giới Việt - Trung của Công ty còn là cầu nối giữa thị trường trong nước và thị trường Trung Quốc, tận dụng mọi ưu thế của hai nước láng giềng trong quan hệ ngoại thương, giải quyết nhu cầu về hoá chất, vật liệu điện, các vật tư khoa học kỹ thuật cho sản xuất và nghiên cứu, góp phần xuất khẩu các mặt hàng mà Việt Nam có thể cung cấp. Tuy nhiên, hoạt động này còn có nhiều vấn đề phải quan tâm, xem xét. Đó là việc xuất khẩu mới chỉ chiếm một trị giá nhỏ so với nhập khẩu, kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu chưa tương xứng với quy mô và nhu cầu của thị trường hai nước. Bên cạnh đó, khó khăn không phải ít trong việc lựa chọn hình thức XNK, phương thức thanh toán... sao cho phù hợp nhất với từng thương vụ và việc thực hiện chúng luôn tuân theo những quy định cuả Nhà nước trong buôn bán biên giới. Phân tích thực trạng và tình hình kinh tế hiện nay, chúng ta khẳng định sự tồn tại và phát triển của Công ty là hết sức quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của cả nước. Trong thời gian tới, Công ty sẽ có nhiều cơ hội thuận lợi hơn nữa trong việc củng cố, mở rộng hoạt động XNK qua biên giới Việt Trung nếu Công ty biết phát huy thế mạnh của mình, khắc phục điểm yếu và chớp đúng thời cơ kinh doanh. Muốn vậy, trước mắt Công ty cần chủ động nắm bắt cung cầu trên thị trường, đa dạng hoá mặt hàng XNK, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tổ chức khai thác vốn từ những nguồn khác nhau, có chiến lược kinh doanh có hiệu quả và kết hợp sức mạnh đoàn kết của cán bộ công nhân viên. Đồng thời đề xuất lên bộ và các cơ quan quản lý cấp trên những chính sách hỗ trợ phát triển cho hoạt động XNK hàng hóa qua biên giới Việt Trung. Với trình độ còn hạn chế, hy vọng luận văn sẽ góp phần thúc đẩy hoạt động XNK của Công ty Hoá chất - Vật liệu điện và Vật tư khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển thịnh vượng. Danh mục tài liệu tham khảo Đổi mới kinh tế Việt Nam và chính sách kinh tế đối ngoại. (Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia - Viện kinh tế thế giới NXB Khoa học xã hội - 1996 ). Giáo trình kinh tế quốc tế - Đại học kinh tế quốc dân Hà Nội - NXB Giáo dục - 1998. Giáo trình kinh tế ngoại thương - Đại học Ngoại Thương - XNB Giáo dục -1998. Giáo trình kinh tế vĩ mô - Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội - NXB Giáo dục - 1998. Lý luận và thực tiễn thương mại quốc tế - Trung tâm kinh tế Châu á - Thái Bình Dương - NXB Thống kê Hà Nội - 1997. Thời báo kinh tế Việt Nam. Báo doanh nghiệp Việt Nam. Tạp chí kinh tế và phát triển Đại học Kinh tế quốc dân. Tạp chí Ngoại thương. Các tài liệu của Công ty hoá chất- Vật liệu điện và vật tư khoa học kỹ thuật. Báo cáo về thị trường Trung Quốc năm 1998-1999. Vụ Châu á - Thái Bình Dương. Bộ thương mại. Dự thảo về quy chế buôn bán biên giới Việt-Trung _ Bộ thương mại. Nghị định 36/CP của chính phủ ngày 19/04/1997 về quản lý của nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu. Nghị định 110-HĐBT ngày 31/03/1995 quy định chi tiết về việc thi hành Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Nghị định 115-HĐBT ngày 09/04/1995 về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, tiểu ngạch biên giới. Chỉ thị 174-TTG ngày 16/12/1995 về những biện pháp cấp bách thực hiện hiệp định tạm thời về giải quyết công việc trên vùng biên giới Việt-Trung. Tạp chí nghiên cứu Trung Quốc. Đỗ Tiến Sâm - Mậu dịch biên giới Việt-Trung trong chiến lược mở cửa ven biên giới đất liền của Trung Quốc (số 1 năm 1998). - Buôn bán biên giới Việt- Trung: Tình hình và triển vọng. Số 6 năm 1998. Tạp chí kinh tế Châu á- Thái Bình Dương. Các hiệp định: - Hiệp định tạm thời về giải quyết các công việc trên vùng biên giới giữa hai nước (ký ngày 06/11/1994). - Hiệp định thương mại (ký ngày 07/11/1994). - Hiệp định hợp tác kinh tế (ký tháng 2/1995). - Hiệp định thanh toán và hợp tác (ký ngày 26/05/1996). - Hiệp định về bảo đảm chất lượng hàng hoá xuất nhập khẩu và công nhận lẫn nhau (ký tháng 11/1996).

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0553.doc
Tài liệu liên quan