Chuyên đề Phân tích biến động tỷ lệ nợ quá hạn của tín dụng doanh nghiệp so với tổng dư nợ tại các ngân hàng thương mại qua 2 năm 2007 – 2008

TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI Ngân hàng ra đời và phát triển gắn liền với sự ra đời và phát triển của nền kinh tế hàng hoá nhằm giải quyết nhu cầu luân chuyển vốn, nhu cầu thanh toán của nền kinh tế. Thông qua việc cung cấp vốn cho các cá nhân cũng như các tổ chức kinh doanh, có thể nói hoạt động ngân hàng đã đóng góp một phần quan trọng trong việc khơi thông các nguồn lực và thúc đẩy nền kinh tế phát triển mạnh mẽ. Chính vì vai trò quan trọng của mình mà các hoạt động ngân hàng được xem là hết sức nhạy cảm, nó ảnh hưởng trực tiếp cũng như gián tiếp đến tất cả mọi hoạt động trong nền kinh tế. Tuy nhiên nó lại chứa đựng rất nhiều rủi ro tiềm ẩn, có thể là rủi ro về lãi suất, rủi ro về tỷ giá, rủi ro thanh khoản, rủi ro tín dụng, Trong số tất cả các loại rủi ro kể trên thì rủi ro trong hoạt động tín dụng được xem là rủi ro lớn nhất và phức tạp nhất, đặc biệt trong bối cảnh khủng hoảng hiện nay thì loại rủi ro này đang diễn ra ở mức đáng báo động, đòi hỏi sự quan tâm của mọi ngân hàng. Rủi ro tín dụng phát sinh trong trường hợp ngân hàng không thu được đầy đủ cả gốc và lãi của khoản cho vay hoặc là việc thanh toán nợ gốc và lãi không đúng kỳ hạn. Biểu hiện đầu tiên và dễ nhận thấy nhất của rủi ro này đó chính là tỷ lệ nợ quá hạn. Theo Quyết định 493/2005 của NHNN: Nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi đã quá hạn. Theo đó, nợ quá hạn bao gồm các khoản nợ từ nhóm 2 (nợ cần chú ý) đến nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn). Tỷ lệ nợ quá hạn càng cao thì rủi ro của ngân hàng càng lớn. Căn cứ trên tỷ lệ nợ quá hạn, các ngân hàng sẽ thấy được rủi ro mà ngân hàng mình sẽ phải đối mặt, từ đó nhanh chóng đưa ra các giải pháp khắc phục, điều chỉnh lại cơ cấu nợ nhằm ngăn chặn rủi ro tín dụng. Nếu không ngăn chặn được loại rủi ro này thì rất dễ sẽ dẫn đến rủi ro thanh khoản, khi đó ngân hàng sẽ không thể chủ động trong các hoạt động kinh doanh của mình và có thể bị rơi vào tình trạng kiểm soát đặc biệt. Tín dụng vốn được coi là hoạt động sơ khai, truyền thống trong nghề kinh doanh ngân hàng. Cùng với thời gian thì đối tượng tín dụng của ngân hàng cũng được mở rộng, đa dạng và phong phú hơn: Từ các cá nhân, hộ gia đình đến các doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp lớn, từ các doanh nghiệp tư nhân, cổ phần đến các doanh nghiệp nhà nước Đặc biệt với nền kinh tế thị trường, số lượng các doanh nghiệp trong nền kinh tế gia tăng như vũ bảo cả về số lượng lẫn chất lượng thì nhu cầu vay vốn ngân hàng ngày càng cao. Theo điều tra thì trên 40% nguồn tài trợ cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là từ việc vay vốn ngân hàng. Đồng thời các khoản phí và lãi thu được từ các khoản vay của doanh nghiệp đã đem lại thu nhập không nhỏ cho các ngân hàng. Do đó có thể thấy được tầm quan trọng của ngân hàng đối với các doanh nghiệp trong nền kinh tế cũng như sự ảnh hưởng của doanh nghiệp đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Tuy nhiên không phải khoản vay nào cũng doanh nghiệp cũng đều tốt và mang lại lợi nhuận cho ngân hàng. Chính vì vậy mà rủi ro tín dụng doanh nghiệp luôn là vấn đề được quan tâm trong công tác quản lý rủi ro chung của ngân hàng. Do hạn chế về thời gian nên nhóm chỉ nghiên cứu một khía cạnh trong rủi ro tín dụng chung, đó là rủi ro về tín dụng doanh nghiệp mà biểu hiện rõ nét nhất của nó là tỷ lệ nợ quá hạn doanh nghiệp thông qua đề tài: “Phân tích biến động tỷ lệ nợ quá hạn của tín dụng doanh nghiệp so với tổng dư nợ tại các NHTM qua 2 năm 2007 – 2008 ”. 1. DIỄN BIẾN CỦA NỢ QUÁ HẠN: 1.1. Phân nhóm NHTM: Hiện nay theo thống kê của NHNN Việt Nam có các loại hình ngân hàng như sau: + 3 Ngân hàng TMNN: Agribank, BIDV, MHB, Vietin ( trước tháng 12/ 2008) + 43 Ngân hàng TMCP trong đó đứng đầu là những ngân hàng như: Vietcombank, ACB, STB + 6 Ngân hàng 100% vốn nước ngoài + 5 ngân hàng liên doanh + 1 ngân hàng chính sách +1 ngân hàng phát triển + Và hơn 45 chi nhánh ngân hàng nước ngoài.

doc14 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1884 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chuyên đề Phân tích biến động tỷ lệ nợ quá hạn của tín dụng doanh nghiệp so với tổng dư nợ tại các ngân hàng thương mại qua 2 năm 2007 – 2008, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI Ngân hàng ra đời và phát triển gắn liền với sự ra đời và phát triển của nền kinh tế hàng hoá nhằm giải quyết nhu cầu luân chuyển vốn, nhu cầu thanh toán của nền kinh tế. Thông qua việc cung cấp vốn cho các cá nhân cũng như các tổ chức kinh doanh, có thể nói hoạt động ngân hàng đã đóng góp một phần quan trọng trong việc khơi thông các nguồn lực và thúc đẩy nền kinh tế phát triển mạnh mẽ. Chính vì vai trò quan trọng của mình mà các hoạt động ngân hàng được xem là hết sức nhạy cảm, nó ảnh hưởng trực tiếp cũng như gián tiếp đến tất cả mọi hoạt động trong nền kinh tế. Tuy nhiên nó lại chứa đựng rất nhiều rủi ro tiềm ẩn, có thể là rủi ro về lãi suất, rủi ro về tỷ giá, rủi ro thanh khoản, rủi ro tín dụng,… Trong số tất cả các loại rủi ro kể trên thì rủi ro trong hoạt động tín dụng được xem là rủi ro lớn nhất và phức tạp nhất, đặc biệt trong bối cảnh khủng hoảng hiện nay thì loại rủi ro này đang diễn ra ở mức đáng báo động, đòi hỏi sự quan tâm của mọi ngân hàng. Rủi ro tín dụng phát sinh trong trường hợp ngân hàng không thu được đầy đủ cả gốc và lãi của khoản cho vay hoặc là việc thanh toán nợ gốc và lãi không đúng kỳ hạn. Biểu hiện đầu tiên và dễ nhận thấy nhất của rủi ro này đó chính là tỷ lệ nợ quá hạn. Theo Quyết định 493/2005 của NHNN: Nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi đã quá hạn. Theo đó, nợ quá hạn bao gồm các khoản nợ từ nhóm 2 (nợ cần chú ý) đến nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn). Tỷ lệ nợ quá hạn càng cao thì rủi ro của ngân hàng càng lớn. Căn cứ trên tỷ lệ nợ quá hạn, các ngân hàng sẽ thấy được rủi ro mà ngân hàng mình sẽ phải đối mặt, từ đó nhanh chóng đưa ra các giải pháp khắc phục, điều chỉnh lại cơ cấu nợ… nhằm ngăn chặn rủi ro tín dụng. Nếu không ngăn chặn được loại rủi ro này thì rất dễ sẽ dẫn đến rủi ro thanh khoản, khi đó ngân hàng sẽ không thể chủ động trong các hoạt động kinh doanh của mình và có thể bị rơi vào tình trạng kiểm soát đặc biệt. Tín dụng vốn được coi là hoạt động sơ khai, truyền thống trong nghề kinh doanh ngân hàng. Cùng với thời gian thì đối tượng tín dụng của ngân hàng cũng được mở rộng, đa dạng và phong phú hơn: Từ các cá nhân, hộ gia đình đến các doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp lớn, từ các doanh nghiệp tư nhân, cổ phần đến các doanh nghiệp nhà nước…Đặc biệt với nền kinh tế thị trường, số lượng các doanh nghiệp trong nền kinh tế gia tăng như vũ bảo cả về số lượng lẫn chất lượng thì nhu cầu vay vốn ngân hàng ngày càng cao. Theo điều tra thì trên 40% nguồn tài trợ cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là từ việc vay vốn ngân hàng. Đồng thời các khoản phí và lãi thu được từ các khoản vay của doanh nghiệp đã đem lại thu nhập không nhỏ cho các ngân hàng. Do đó có thể thấy được tầm quan trọng của ngân hàng đối với các doanh nghiệp trong nền kinh tế cũng như sự ảnh hưởng của doanh nghiệp đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Tuy nhiên không phải khoản vay nào cũng doanh nghiệp cũng đều tốt và mang lại lợi nhuận cho ngân hàng. Chính vì vậy mà rủi ro tín dụng doanh nghiệp luôn là vấn đề được quan tâm trong công tác quản lý rủi ro chung của ngân hàng. Do hạn chế về thời gian nên nhóm chỉ nghiên cứu một khía cạnh trong rủi ro tín dụng chung, đó là rủi ro về tín dụng doanh nghiệp mà biểu hiện rõ nét nhất của nó là tỷ lệ nợ quá hạn doanh nghiệp thông qua đề tài: “Phân tích biến động tỷ lệ nợ quá hạn của tín dụng doanh nghiệp so với tổng dư nợ tại các NHTM qua 2 năm 2007 – 2008 ”. 1. DIỄN BIẾN CỦA NỢ QUÁ HẠN: 1.1. Phân nhóm NHTM: Hiện nay theo thống kê của NHNN Việt Nam có các loại hình ngân hàng như sau: + 3 Ngân hàng TMNN: Agribank, BIDV, MHB, Vietin ( trước tháng 12/ 2008) + 43 Ngân hàng TMCP trong đó đứng đầu là những ngân hàng như: Vietcombank, ACB, STB … + 6 Ngân hàng 100% vốn nước ngoài + 5 ngân hàng liên doanh + 1 ngân hàng chính sách +1 ngân hàng phát triển + Và hơn 45 chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Nhưng nếu xét theo quy mô tổng tài sản, ta có thể chia nhóm các ngân hàng Việt Nam hiện nay như sau: Nhóm 1: Nhóm các NHTMNN Tên ngân hàng Tổng tài sản ( tỷ đồng) Agribank 400,485 BIDV 246,494 MHB 35,241 Nhóm 2: Nhóm các NHTM cỡ lớn, bao gồm một số các Ngân hàng sau ( tổng tài sản trên 30.000tỷ đồng) Tên ngân hàng Tổng tài sản ( tỷ đồng) VCB 219,91 ACB 105,306 STB 68,439 Techcombank 59,069 EIB 45,248 SCB 38,597 EAB 37,713 VIB 34,719 Nhóm 3: Nhóm các NHTM trung và vừa, bao gồm một số các Ngân hàng sau Tên ngân hàng Tổng tài sản ( tỷ đồng) Nhà Hà Nội 23,607 Hàng hải 21,999 Phương Nam 20,762 VP bank 18,587 SHB 14,381 Đại Dương 14,091 AB bank 13,391 Phương Đông 10,095 HD bank 9,558 Miền Tây 5,891 1.2. Bức tranh chung về tín dụng doanh nghiệp và tỷ lệ nợ quá hạn doanh nghiệp trong những năm gần đây: Tính đến cuối tháng 12/2008 Việt Nam có khoảng gần 300,000 doanh nghiệp với tổng dư nợ cho vay đạt khoảng 357,000 tỷ đồng, chiếm 27.3% tổng dư nợ cho vay nền kinh tế và tăng khoảng 16.65% so với năm trước. Trong đó nợ quá hạn gần 44,000 tỷ đồng chiếm 3.5% tổng dư nợ. Nhìn chung, năm 2008 tỷ lệ nợ quá hạn tại các ngân hàng đã tăng so với các năm trước. Điều này một phần là do tác động từ cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới nói chung và từ những chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương Việt Nam nói riêng, trong đó nguyên nhân nổi cộm chính là từ các khoản cho vay chứng khoán và bất động sản. Sau thời gian hoàng kim của chứng khoán vào năm 2006, năm 2007 được xem là năm “sốt” bất động sản, điều này đã tạo ra một thị trường mua đi bán lại sôi động nhất từ trước đến giờ. Tuy nhiên chính điều đó lại tiềm ẩn nhiều rủi ro mà ngân hàng khi cho vay đã không lường trước được. Đến năm 2008, khi chứng khoán tuột dốc không phanh và bất động sản đóng băng hoàn toàn đã làm cho hai thị trường này không những không phát triển mà còn ngưng trệ giao dịch một cách kinh khủng. Hệ lụy tất yếu của nó là các nhà đầu tư không thể trả được khoản nợ đã vay trước đó tại các ngân hàng và làm cho nợ quá hạn của các ngân hàng tăng lên một cách đáng kể trong năm 2008. Để tìm hiểu kỹ hơn về vấn đề này chúng ta sẽ xem xét tỷ lệ nợ quá hạn của các NHTM NN cũng như các ngân hàng TMCP lớn nhỏ trong nền kinh tế. + Khối NHTMNN: Tên ngân hàng Tổng tài sản (tỷ dồng) Tổng dư nợ ( Triệu đồng) Tỷ lệ nợ quá hạn DN (%) 2007 2008 2007 2008 Agribank 400,485 246,188,000 284,617,000 1.7 2 BIDV 246,494 6,709,000 11,090,000 0.75 0.14 MHB  35,241 13,924,999 30,110,884 2.28 3.5 + Khối NHTMCP lớn: Tên ngân hàng Tổng tài sản (tỷ dồng) Tổng dư nợ ( Triệu đồng) Tỷ lệ nợ quá hạn DN(%) 2007 2008 2007 2008 VCB 219,91 97,512,000 112,793,000 3.65 4.6 ACB 105,306 31,810,857 34,832,700 0.19 1.5 STB 68,439 35,378,147 35,008,871 0.38 0.34 Techcombank 59,069 18,215,400 26,022,000 2.43 2.89 EIB 45,248 18,452,151 21,232,198 0.88 3.53 SCB 38,597 19,477,605 23,278,256 0.15 0.45 EAB 37,713 19,637,692 25,529,000 0.35 0.91 VIB 34,719 16,611,000 19,513,000 1.21 1.3 + Khối NHTMCP vừa và nhỏ : Tên ngân hàng Tổng tài sản (tỷ dồng) Tổng dư nợ ( Triệu đồng) Tỷ lệ nợ quá hạn DN(%) 2007 2008 2007 2008 Nhà Hà Nội 23,607 9,419,378 10,515,947 1.99 3.06 Hàng hải 21,999 6,528,000 11,438,000 1.73 3.5 Phương Nam 20,762 5,828,236 9,539,821 4.04 2.6 VP bank 18,587 13,323,113 12,973,622 0.47 3.4 SHB 14,381 4,183,502 6,252,699 0.34 2.36 Đại Dương 14,091 4,713,442 5,938,559 0.95 1.52 AB bank 13,391 6,810,735 6,538,980 1.67 5 Phương Đông 10,095 7,557,438 8,597,488 1.34 2.56 HD bank 9,558 8,912,366 6,175,405 0.18 0.39 Miền Tây 5,891 628,415 1,364,529 0.8 0.45 1.2.1. Tình hình tỷ lệ nợ quá hạn DN trong khối NHTMNN Từ biểu đồ trên ta có thể thấy được tình hình biến động nợ quá hạn doanh nghiệp của khối NHNN trong hai năm trở lại đây với tỷ lệ cao khá cao. Cụ thể, tỷ lệ nợ quá hạn của ngân hàng MHB từ 2.28% năm 2007 tăng lên 3.5% năm 2008 (với dư nợ quá hạn tăng tương ứng từ 318,020 triệu đồng lên 1,053,880 triệu đồng ). Tiếp theo là Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông Thôn Việt Nam với 2% (tăng 0.3% so với năm 2007, tương ứng với số tuyêt đối khoảng 4,185,196 triệu đồng). Và thấp nhất trong khối NHNN là Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam với tỷ lệ nợ quá hạn chỉ khoảng 0.75% năm 2007 (dư nợ quá hạn 50,428 triệu đồng) đến năm 2008 giảm xuống chỉ còn 0.14% tương đương với 15,912 triệu đồng. Nhìn chung, khối ngân hàng TMNN có tỷ lệ nợ quá hạn doanh nghiệp bình quân chiếm khoảng 12.26% (trong tổng số 21 NH thống kê ở trên). Thống kê cho thấy, con số này là đã giảm so với khoảng 3-5 năm trước khi mà các NHTMNN còn chịu chi phối rất lớn của NHNN. Có thể thấy các ngân hàng nhà nước cho vay chủ yếu tập trung vào các doanh nghiệp hay tập đoàn nhà nước lớn vốn vẫn được nhà nước bảo trợ, và khi không trả được nợ thì được nhà nước đứng ra “chịu sào”, bảo lãnh hay trả thay. Tình trạng đó gây ra tâm lý ỷ lại cho cả ngân hàng lẫn khách hàng, làm cho nợ quá hạn và nợ xấu của nhóm các NHTMNN thường xuyên vượt mức quy định của NHNN. Tuy nhiên trong hai năm vừa qua, do áp lực cạnh tranh gay gắt từ phía các ngân hàng TMCP, cũng như các yếu tố khách quan từ thị trường tiền tệ, các NHTMNN đã buộc phải chỉnh đốn hoạt động của mình, đưa ra các chính sách, chiến lược hoạt động hiệu quả hơn, phần nào tạo được thế đứng vững chắc trong lòng khách hàng cũng như sự tin tưởng của giới chuyên môn. Đây là một dấu hiệu đáng mừng cho khối Ngân hàng này. 1.2.2 Tình hình tỷ lệ nợ quá hạn DN trong khối NHTMCP lớn Năm 2008, hầu như tất cả các ngân hàng trong khối NHTMCP lớn đều có tỷ lệ nợ quá hạn doanh nghiệp tăng lên so với năm 2007. Theo quy định chung thì nợ quá hạn không được vượt quá 1% tổng dư nợ cho vay nhưng trên thực tế đã có nhiều ngân hàng vi phạm điều này. Điển hình là EIB tăng đột biến từ 0.88% lên 3.53%. Tiếp theo phải kể đến là ACB với 0.19% năm 2007 và tăng lên 1.5% vào năm 2008. Đứng thứ ba trong khối NHTMCP lớn có tỷ lệ nợ này lớn là VCB với tỷ lệ tăng từ 3.65% năm 2007 lên 4.6% năm 2008. Theo như thống kê từ khối ngân hàng TMCP lớn trên thì VCB đang dẫn đầu về tỷ lệ nợ quá hạn doanh nghiệp năm 2008. Tiếp theo phải kể đến là. còn lại các ngân hàng như Techcombank, SCB, VIB, … thì chênh lệch tỷ lệ này giữa 2 năm là không đáng kể. Tuy nhiên, với tình hình khó khăn của năm 2008, có vẻ như Sacombank đã quản lý khá tốt dư nợ của các khoản cho vay nên đã không những không tăng tỷ lệ nợ quá hạn doanh nghiệp mà còn giảm được 0.04%, một tỷ lệ không phải là nhỏ trên tổng dư nợ (35,008,871 triệu đồng) của Sacombank. 1.2.3 Tình hình tỷ lệ nợ quá hạn doanh nghiệp trong khối NHTMCP vừa và nhỏ Nhìn trên biểu đồ trên ta nhận thấy trong năm 2008 vừa qua tuy có nhiều rủi ro về nợ quá hạn với các NHTMCP vừa và nhỏ nhưng cũng có những ngân hàng đã quản lý các khoản nợ khá tốt, cụ thể như: Tỷ lệ nợ quá hạn của ngân hàng Phương Nam đã giảm từ 4.04% năm 2007 xuống chỉ còn 2.6% vào năm 2008, hay như ngân hàng Miền tây giảm từ 0.8% xuống còn 0.45%. Tuy nhiên số lượng ngân hàng làm được điều này là rất ít. Trong số các ngân hàng có tỷ lệ nợ quá hạn doanh nghiệp tăng thì dẫn đầu là An Bình bank với tỷ lệ 5% vào năm 2008, tăng 3.33% so với năm 2007 (1.67%). Đứng thứ 2 là Ngân hàng TMCP Hàng Hải với tỷ lệ 3.5% năm 2008, so với năm 2007 thì tăng 1.77%. Kế đến là VP Bank 0.47% năm 2007 đã tăng lên 3.4% năm 2008 (tăng 2.93% so với năm 2007), tiếp theo là một số ngân hàng như SHB, Phương Đông, Habu bank, … cũng có tỷ lệ này tăng hơn so với năm 2007. Tuy nhiên, chúng ta có thể thấy, đối với những ngân hàng ở tốp này thì dư nợ tín dụng thường thấp hơn và cũng là khối ngân hàng chịu rủi ro tín dụng cao hơn. Đây là vấn đề do sự phân khúc thị trường gây ra, các ngân hàng vừa và nhỏ thường chấp nhận rủi ro cao hơn với một lãi suất cho vay cũng cao hơn. 1.3 Nhận xét chung: Theo thống kê dựa trên số liệu thu thập được của 21 NHTM ta thấy, tỷ lệ nợ quá hạn doanh nghiệp bình quân ở khối NHTMCP vừa và nhỏ là chiếm tỷ lệ cao nhất với 54% và đứng đầu là ngân hàng TMCP AN Bình với tỷ lệ nợ quá hạn doanh nghiệp vào khoảng 5%. Kế đến về tỷ lệ nợ quá hạn doanh nghiệp bình quân là những ngân hàng thuộc khối NHTMCP lớn (hàng đầu) với 33.74%, đứng đầu là VCB với 4.6% và thấp nhất là khối NHTMNN với 12.26%, trong đó MHB với tỷ lệ nợ quá hạn doanh nghiệp cao nhất 3.5%. Phần tiếp theo sẽ phân tích, lý giải những nguyên nhân khách quan, chủ quan cho vấn đề tại sao tỷ lệ nợ quá hạn lại tăng trên toàn hệ thống, mà nhóm NHTMCP cỡ nhỏ có tỷ lệ nợ quá hạn cao nhất, và tại sao NHTMCP An Bình lại có mức độ rủi ro cao nhất trong nhóm này như đã nêu trên. 2. PHÂN TÍCH 2.1 Nguyên nhân cho cả hệ thống ngân hàng nói riêng và nhóm NHTM nhỏ nói chung: 2.1.1. Nguyên nhân khách quan: Năm 2007, nền kinh tế thế giới bắt đầu có những dấu hiệu của sự suy giảm, tốc độ tăng trưởng giảm từ 5,4% năm 2006 xuống còn 5,2%. Trong năm này, mặc dù các nền kinh tế lớn như EU, Nhật Bản vẫn tăng trưởng khá nhưng “cây đại thụ” của nền kinh tế thế giới là Mỹ lại suy giảm một cách đáng kể. Mà đây lại là thị trường lớn nhất của Việt Nam nên các doanh nghiệp nước ta cũng đã chịu khá nhiều ảnh hưởng, chẳng hạn như chi phí đầu vào tăng cao, thị trường xuất khẩu bị thu hẹp một cách đáng kể...Sang đến năm 2008, khủng hoảng thị trường tài chính Mỹ bắt đầu lan rộng, hoành hành trên phạm vi toàn thế giới, do mức độ hội nhập chưa sâu nên Việt Nam không bị ảnh hưởng trực tiếp từ cuộc khủng hoảng này. Nhưng rõ ràng các doanh nghiệp Việt Nam “chạy trời không khỏi nắng” với những ảnh hưởng của suy thoái đã có dấu hiệu mầm móng từ năm 2007. Chính điều đó đã làm cho các DN thêm bội phần khó khăn, tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh giảm sút một cách nghiêm trọng, các khoản nợ chồng chất đến hạn không trả được… Đây được xem là một trong những nguyên nhân chính làm tăng nợ quá hạn DN trong tổng dư nợ chung của các Ngân hàng. Bên cạnh lý do từ kinh tế thế giới, các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước ta cũng đã có những ảnh hưởng trực tiếp đáng kể tới hoạt động của hệ thống ngân hàng và của các doanh nghiệp, gây ra việc tăng tỷ lệ nợ quá hạn cho các ngân hàng. Vấn đề đầu tiên phải nhắc đến chính là cơn bão lạm phát kéo dài từ giữa tháng 7 cho đến cuối 2008, mà dư chấn của nó vẫn còn cho tới hiện tại. Từ sai lầm của NHNN trong việc tung tiền đồng để mua ngoại tệ, NHNN đã không thể kiểm soát được lượng cung tiền ra lưu thông, làm cho lạm phát có dấu hiệu tăng cao. Bên cạnh đó lạm phát diễn ra ở nhiều nơi trên thế giới làm cho giá cả tăng nhanh, chi phí đầu vào tăng theo đã gây khó khăn không nhỏ cho doanh nghiệp. Để chống đỡ với lạm phát, NHNN và Chính phủ đã tung ra hàng loạt các biện pháp như siết chặt chính sách tiền tệ, tăng lãi suất cơ bản, tăng dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường bắt buộc mua tín phiếu, đấu thầu giấy tờ có giá…nhằm hạn chế tín dụng, hi sinh tăng trưởng để cứu lạm phát. Ưu điểm của các chính sách này là đã tạm thời kiềm chế được cơn bão giá đang hoành hành gây khốn đốn cho đời sống của nhiều tầng lớp dân cư, nhưng hậu quả của nó thì chính các DN là những người hứng chịu đầu tiên. Với cuộc chạy đua lãi suất bắt đầu từ cuối 2007 đến khoảng tháng 5/2008, lãi suất đầu ra đã bị đẩy lên cao chưa từng có trong lịch sử. Các doanh nghiệp đặc biệt là vừa và nhỏ, không thể tiếp cận được nguồn vốn để có thể tiếp tục hoạt động kinh doanh trong tình hình khó khăn như thế. Không có vốn để luân chuyển sản xuất, hàng ngàn doanh nghiệp đã phải công bố phá sản hoặc thu hẹp sản xuất, hoạt động một cách cầm chừng chờ tình hình sáng sủa trở lại. Đa số các khoản vay từ năm 2007 có thời gian đáo hạn là qua năm 2008, và khi các doanh nghiệp không thể trả được các khoản nợ cũ đã làm cho nợ quá hạn cho các ngân hàng tăng lên đáng kể, những khoản vay ngắn hạn lãi suất cao cũng không nằm ngoài vòng luẩn quẩn của vay nợ - khất nợ. Hơn nữa, năm 2008 cũng là năm chứng kiến nhiều cuộc khai tử của các doanh nghiệp, đó là lí do mà nợ quá hạn của 2008 cao hơn của 2007 trên toàn hệ thống ngân hàng Còn phải xét đến một nguyên nhân nữa là quy định của NHNN về việc áp dụng lãi suất cho nợ quá hạn không được quá 150% lãi suất cho vay. Trong năm qua, có những lúc thị trường tiền tệ lên cơn sốt, lãi suất vay ngân hàng vọt lên cao gần gấp đôi so với mức lãi suất mà các doanh nghiệp đã vay trước đó, khiến cho nhiều doanh nghiệp đến hạn trả nợ nhưng lại nảy sinh tâm lý thà chịu phạt chứ ko trả nợ để khỏi vay lại với lãi suất cao hơn!!! Xét về khía cạnh khách quan thì ngoài 3 nguyên nhân trên còn có thể kể đến các rủi ro mà doanh nghiệp gặp phải sau khi vay vốn, như: thiên tai, dịch bệnh, hoả hoạn…Đây là các rủi ro mà doanh nghiệp khó phòng ngừa, gây ra tổn thất cho hoạt động, dẫn tới khả năng tài chính giảm sút, không trả được nợ. Tuy nhiên, nguyên nhân này không mấy đáng kể khi xét trên bình diện vi mô của toàn nền kinh tế. 2.1.2. Nguyên nhân chủ quan: 2.1.2.1. Từ phía ngân hàng. a. Việc xét duyệt, thẩm định tín dụng của nhân viên tín dụng không tuân thủ nghiêm ngặt các quy trình, quy định cho vay, chạy theo lợi ích riêng hoặc chạy theo chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng, dẫn tới có nhiều khoản vay có rủi ro cao nhưng vẫn cho vay. b. Đối tượng khách hàng cho vay: Cơ cấu cho vay theo loại hình doanh nghiệp: Với các NH quốc doanh thì đối tượng khách hàng chủ yếu là các tập đoàn, công ty nhà nước ( khoảng 50% tổng dư nợ ). Các ngân hàng này cho một số doanh nghiệp vay dưới sự chỉ đạo của nhà nước để thực hiện các dự án cho chính phủ. Chính vì thế cho nên có một số trường hợp ngân hàng bị bắt buộc phải cho vay nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp, nhà nước sẽ đứng ra bảo lãnh hoặc dùng ngân sách để hỗ trợ cho các khoản vay này. Tuy nhiên do sự chậm trễ trong các việc xét duyệt các khoản sử dụng ngân sách nên đây cũng là một nguyên nhân làm phát sinh nợ quá hạn của khối các ngân hàng thương mại nhà nước. Trong khi đó đối với khối các ngân hàng thương mại cổ phần, đối tượng khách hàng mục tiêu là các công ty cổ phần, các doanh nghiệp vừa và nhỏ…Đặc điểm của loại hình doanh nghiệp này là phải đối mặt với rất nhiều rủi ro trong hoạt động kinh doanh của mình. Năm 2006-2007, các ngân hàng này đẩy mạnh kênh tín dụng cho vay chứng khoán và bất động sản. Đến cuối năm 2007 đầu 2008, 2 thị trường này dường như đóng băng liên tục, không giao dịch, không sinh lời, các DN có những khoản vay này khó mà trả được nợ. Bên cạnh đó là trong cuộc chạy đua lãi suất, chính các Ngân hàng nhỏ là những ngân hàng phải chạy đua cật lực nhất để có thể tồn tại khi NHNN đưa ra mức trần lãi suất huy động và mức trần lãi suất cho vay. Các doanh nghiệp đến vay ở đây thường là các DN nhỏ hoặc có tình hình tài chính không đảm bảo nên không thể vay được ở những ngân hàng lớn, có thương hiệu, do đó mới phải tìm tới các Ngân hàng nhỏ để có được nguồn vốn trang trải cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Ngược lại, các ngân hàng thì chạy đua tăng trưởng tín dụng, nên mở rộng các điều kiện tín dụng của ngân hàng mình, mà chủ yếu là các khoản vay ngắn hạn. Tuy nhiên bởi lẽ vì nhiều nguyên nhân nên các DN mặc dù có tiền nhưng vẫn không thể duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh được, dẫn đến nguồn thu giảm sút nghiêm trọng, mất tiềm lực tài chính, không thể trả được nợ. Đây chính là nguyên nhân cơ bản nhất và quan trọng nhất dẫn tới việc nợ quá hạn DN ở các ngân hàng TMCP vừa và nhỏ chiếm tỷ lệ cao nhất trong toàn hệ thống. c. Ngành nghề, sản phẩm cho vay: Cơ cấu cho vay theo loại hình sản phẩm ( Đvt: %) Agribank Á châu Đông Á Việt Á Xây dựng 6.2 5.4 7.52 4.25 Sản xuất, gia công, chế biến 28.6 26.4 32.2 22.4 Nông lâm nghiệp 12 1.2 0.9 1.1 Thương mại 43.5 46 50.4 55.1 Kho bãi, giao thông vận tải 2.1 4.1 3.2 3.6 Khác 7.6 16.9 5.78 13.55 Ngành nghề cho vay của các ngân hàng thương mại chủ yếu là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng, thương mại, sản xuất gia công chế biến…Đây là các lĩnh vực kinh doanh chịu ảnh hưởng trực tiếp và nặng nề khi nền kinh tế có sự biến động. Nhất là trong năm 2008, nền kinh tế thế giới rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng đã làm cho việc xuất nhập khẩu gặp nhiều khó khăn, bên cạnh đó thị trường trong nước lao đao với sự sụt giảm của nhà đất và chứng khoán đã tác động tiêu cực đến hoạt động của các doanh nghiệp, làm cho nợ quá hạn của hầu hết các ngân hàng trong năm 2008 tăng lên một cách đáng kể, nhất là những ngân hàng có tỷ trọng cho vay cao đối với các nhóm ngành kể trên. d. Quy mô nhỏ cho vay với lãi suất cao hơn bù lại mức độ rủi ro cao hơn: Lãi suất cho vay của các ngân hàng trong năm 2008 (Đvt: %/ tháng) 04-2008 10-2007 Ngân hàng TMNN BIDV 1.25-1.4 0.8 AGRIBANK 1.4-1.5 0.85 MHBANK 1.4-1.45 0.85 Ngân hàng TMCP lớn VIETINBANK 1.4 0.85 VIETCOMBANK 1.7 0.95 EXIMBANK 1.7 1.0 ACB 1.64 0.95 SACOMBANK 1.55-1.85 0.93 Ngân hàng TMCP trung SCB 1.5-2.0 1.7 ABBANK 1.8 1.05 DONGABANK 1.7 1.05 VP BANK 1.65-1.75 1.0 SEA BANK 1.3-1.45 0.9 Ngân hàng TMCP nhỏ SOUTHERNBANK 1.8 1.1 HDBANK 1.6-1.8 1.05 NAMABANK 1.7 1.1 VIETABANK 2.0 1.11 VIB 1.67 1.05 Dựa vào bảng biểu lãi suất cho vay của các ngân hàng tại hai thời điểm năm 2007 và 2008, có thể thấy được rằng mức lãi suất cho vay của các NHTMNN luôn ở mức cao hơn hơn so với nhóm các NHTMCP và mức lãi suất cho vay này có sự phân cấp giữa các nhóm ngân hàng. Lý do là các NHTMNN và NHTMCP lớn, vốn đã có thương hiệu và uy tín nên thường huy động được nguồn vốn với mức lãi suất thấp hơn. Trong khi đó các NHTMCP vừa và nhỏ muốn lôi kéo được khách thì thường phải nâng lãi suất huy động lên cao hơn một chút. Do đó có sự chênh lệch trong lãi suất cho vay giữa NHTMCP vừa và nhỏ với nhóm các NHTMNN và nhóm NHTMCP lớn, đó có thể xem là phần bù cho rủi ro mà các ngân hàng vừa và nhỏ chấp nhận đối với các khoản vay của mình, sẵn sàng chấp nhận rủi ro cao để thu được lợi nhuận cao. Đây cũng là lý do khiến cho tỷ lệ nợ quá hạn của các NHTMCP vừa và nhỏ cao hơn so với các nhóm ngân hàng khác. 2.1.2.2. Nguyên nhân từ phía doanh nghiệp: Như trên đã phân tích, trong tình hình lạm phát và khủng hoảng kinh tế lan rộng, các DN gặp khó khăn rất lớn trong việc tiếp cận với nguồn vốn để tiếp tục hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt với các doanh nghiệp nhỏ thì điều này lại càng rõ ràng. Riêng trong năm 2008, với các DN thuộc ngành xuất nhập khẩu thì khó khăn còn tăng gấp bội do bị thu hẹp thị trường xuất khẩu và chịu nhiều tác động trực tiếp từ sự biến động của thị trường thế giới. Có thể vì những lý do khách quan ( khủng hoảng, lạm phát…) nhưng cũng có thể vì những lý do chủ quan (sự yếu kém của chính bản thân các doanh nghiệp như: quản lý chi phí không tốt, sản phẩm không đạt chất lượng, ban giám đốc không thích ứng được với môi trường thay đổi….) nhưng nhìn chung thì kết quả hoạt động của hầu hết các DN trong năm 2008 giảm sút hẳn so với các năm trước, nhiều doanh nghiệp không có lợi nhuận hoặc có lợi nhuận âm. Và một khi đã đứng bên bờ vực phá sản thì việc trả nợ đúng hạn, đối với nhiều DN là điều dường như chỉ có thể ở trong mơ !!! Bên cạnh đó cũng còn phải kể tới ý thức trả nợ của nhiều DN. Lợi dụng tình hình khó khăn chung như trên, có những doanh nghiệp mặc dù có khả năng trả nợ nhưng vẫn cố tình dây dưa không trả, giữ vốn, thà chịu bị phạt lãi suất ngắn hạn còn hơn là trả nợ cũ để vay nợ mới với lãi suất cao hơn. Điều này góp phần gây ra không ít khó khăn cho việc thu hồi nợ đúng hạn của các ngân hàng. 2.2. Xét nguyên nhân của AnBinhBank: ABBank là một NHTMCP thuộc loại nhỏ, có xuất thân là một NHTMCP nông thôn, sau đó được tập đoàn EVN đầu tư mua cổ phần, nâng cấp thành NHTMCP đô thị An Bình với vốn điều lệ là 2,706 tỷ đồng, tổng tài sản là 13,391 tỷ đồng. Đối tác chiến lược của ABBank là tập đoàn điện lực EVN, Maybank và Agribank. Số liệu về tình hình nợ quá hạn của các thành phần kinh tế tại ABBank: CHỈ TIÊU 2006 2007 2008 Số tiền Tỉ trọng Số tiền Tỉ trọng Số tiền Tỉ trọng 1. DNNN . . 35,654 22.05% 30,978 6% 2. DN khác 63,446 100% 78,310 48.42% 301,995 61% 3.Cá nhân 47,758 29.53% 159,758 32% Tổng 63,446 100% 161,722 100.00% 492,731 100% ( Nguồn: Báo cáo thẩm định KQKD của ngân hàng năm 2007 -2008) Xem xét tỷ trọng nợ quá hạn theo từng thành phần kinh tế như bảng trên, ta thấy đóng góp lớn nhất trong nợ quá hạn của ABBank chính là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh mà đa số là các công ty cổ phần và công ty TNHH. Nguyên nhân chủ yếu cũng chính là do năm 2008, các DN làm ăn không có lãi, thua lỗ, cho nên việc hoàn trả nợ cho ngân hàng trở nên hết sức khó khăn. Tuy nhiên có một nguyên nhân khiến tỷ lệ nợ quá hạn của ABB cao hơn hẳn là do cơ cấu cho vay, theo đó các khoản vay trung và dài hạn chiếm một tỷ lệ không nhỏ (khoảng 69% tổng dư nợ cho vay doanh nghiệp), mà đặc điểm của các khoản vay này là giải ngân theo tiến độ công trình. Các khoản vay được ký kết vào những năm trước đó, ngân hàng đã duyệt giải ngân nhưng tới năm 2008 khi căng thẳng thanh khoản, ngân hàng không thể giải ngân được, mà DN đã đi vào dự án, dẫn tới dự án không thể hoạt động, thì nợ cũ cũng khó lòng được thanh toán. Năm 2007, tỷ trọng này đã khá cao, nhưng qua 2008, ngân hàng vẫn không hạn chế đối với đối tượng cho vay này. Điều này phần nào đã bộc lộ những vấn đề cần xem xét trong việc quản lý rủi ro tín dụng của ABBank. 3. CÁC DỰ BÁO VÀ GIẢI PHÁP CHO VẤN ĐỀ NỢ QUÁ HẠN: Dự báo nợ quá hạn cho thời gian tới qua các động thái từ đầu năm tới nay: Với mục tiêu phục hồi nền kinh tế, tín dụng của các ngân hàng Việt Nam hiện nay đang ở trong giai đoạn tình thế, nợ quá hạn ở mức bình quân của ngành ngân hàng hiện nay là 5%, một mức có thể xem là khá cao. Do áp lực bởi các gói kích cầu mà tất cả các điều kiện tín dụng cũng như các yếu tố đảm bảo tính an toàn của hệ thống ngân hàng đều có sự châm chước. Hầu như các kênh tín dụng cho doanh nghiệp vào thời điểm cuối năm 2008 đều được mở ra với sự nới lỏng hơn về điều kiện vay và mới đây vào đầu năm 2009 là được nhà nước bù lãi suất 4%. Đây là vấn đề rất lớn, giúp các doanh nghiệp khơi thông sản xuất kinh doanh, nhưng nếu không được kiểm soát chặt chẽ và theo dõi đến cùng dòng tiền đi vào đâu, có hiệu quả hay không, có bị chia chác, thất thoát hay không, có bị lợi dung hay không thì khả năng nợ xấu, nợ quá hạn của ngân hàng sẽ tăng lên rất nhanh, và rủi ro sẽ dồn cho ngân hàng rất lớn. Do đó việc kiểm soát tín dụng hiện nay cần được tăng cường hơn bao giờ hết. Đến thời điểm này, hoạt động của các ngân hàng đã phần nào dễ thở hơn so với năm trước. Tuy nhiên, rủi ro lớn nhất của ngành ngân hàng hiện nay chính là rủi ro về tỷ giá. Khi khách hàng có nhu cầu vốn bằng USD, nếu biến động tỷ giá sẽ khó khăn trong việc trả nợ và rủi ro thuộc về ngân hàng. Trong khi đó, chính sách điều hành tỷ giá hiện nay lại chưa minh bạch, chưa phản ánh đúng giá thị trường, phần lớn các doanh nghiệp phải đi vay USD với giá ngân hàng công bố. Vì thế, trong lúc này, việc kiểm tra, kiểm soát, giám sát cho vay đúng chuẩn, vận dụng tất cả yếu tố một cách linh hoạt, không thể chạy theo các chỉ tiêu mà bỏ quên chất lượng tín dụng là quan trọng nhất. Tốc độ tăng trưởng tín dụng trong năm 2009 được cho là phục hồi sau một thời gian chững lại và được dự báo sẽ tăng trưởng khoảng 25% so với năm 2008. Nhưng đi đôi với sự tăng trưởng thì rủi ro trong phát triển tín dụng năm nay là khó tránh khỏi, nợ quá hạn trong năm 2009 nhiều khả năng sẽ tăng. Qua các năm trước đây tỷ lệ dư nợ quá hạn, dư nợ xấu tăng lên năm sau so với năm trước rất hạn chế. Tuy nhiên hiện nay, nguy cơ nợ quá hạn và kể cả nợ xấu sẽ gia tăng sau khủng hoảng là điều tất yếu, đó cũng là kinh nghiệm từ những quốc gia đã từng rơi vào tình trạng khủng hoảng những năm về trước. Do đó các khoản vay được hỗ trợ cần phải được tập trung xử lý qua công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động cho vay như thế nào cho đúng địa chỉ và kịp thời. Mặc khác mỗi ngân hàng cũng cần phải tăng cường những biện pháp kiểm soát chặt chẽ nợ quá hạn cũng như nợ xấu trong những năm sắp tới. 3.2 Những biện pháp kiểm soát đối với nợ quá hạn: Mặc dù thực trạng nợ quá hạn của các ngân hàng ở Việt Nam hiện nay chưa đáng lo ngại, nhưng trong một nền kinh tế nhiều biến động và tiềm ẩn nhiều rủi ro, đặc biệt là trong giai đoạn khủng hoảng như hiện nay thì lường trước tình hình xấu là điều mỗi NH nên làm, vì sự an toàn của chính mình và của toàn hệ thống. Một số giải pháp nhằm hạn chế và kiểm soát nợ quá hạn của các ngân hàng VN hiện nay là: - Thực hiện đúng quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động kinh doanh; tăng cường kiểm soát nội bộ và kết hợp với các biện pháp khác để giám sát, kiểm soát chặt chẽ hoạt động tín dụng, tránh tình trạng xem nhẹ điều kiện tín dụng. - Tích cực thu nợ gốc và lãi vốn vay theo kỳ hạn; kiểm soát chặt chẽ việc điều chỉnh, gia hạn nợ của các chi nhánh, tránh tình trạng điều chỉnh kỳ hạn nợ và gia hạn nợ một cách tràn lan nhằm phản ảnh đúng chất lượng tín dụng, trích lập đúng và đủ dự phòng rủi ro. - Thận trọng hơn trong chiến lược phát triển tín dụng, cho dù nguồn thu đóng góp vào lợi nhuận NH được xác định chủ yếu là từ cho vay. Hiện nay, nhu cầu vốn của các DN đang gia tăng nên NH phải kiểm soát chặt chẽ chất lượng tín dụng để hạn chế tối đa rủi ro về nợ xấu. - Để giảm thiểu rủi ro thì phải phân loại được khách hàng, tuỳ theo đó mà cân nhắc có nên cho vay hay không, vay với tỷ lệ bao nhiều và điều kiện vay như thế nào. - Thường xuyên nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý rủi ro của NH, và cần phải có một bộ phận chuyên nhắc nhở khách hàng trước kỳ trả nợ. - Cần phải nghiêm túc trích lập dự phòng rủi ro tín dụng và thực hiện đảm bảo tiền vay theo đúng quy định. - Các đối tượng vay vốn đến thời hạn trả nợ nhưng cố tình dây dưa để nợ quá hạn thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà Ngân hàng nơi cho vay tiến hành khởi kiện để xử lý về trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật. - Tuỳ từng thời điểm nên hạn chế cho vay đối với những ngành chịu ảnh hưởng lớn bởi biến động giá của thị trường thế giới, đặc biệt là cho vay để nhập khẩu các lô hàng lớn, dự trữ dài ngày, những mặt hàng nhạy cảm, giá biến động lớn. - Tín dụng dài hạn cũng phải chặt chẽ hơn, cụ thể là hạn chế cho vay mới trung dài hạn, kể cả đồng tài trợ (đặc biệt không cho vay vốn để cơ cấu lại nợ nước ngoài); kiểm tra lại các dự án đã ký hợp đồng tín dụng nhưng chưa giải ngân, chưa triển khai thực hiện, nếu dự án nào các điều kiện thực thi và khả năng trả nợ thấp, cần có văn bản từ chối cho vay hoặc giảm bớt số tiền cam kết đầu tư. - Hướng dẫn cho khách vay biết và thực hiện theo quy định về chuyển nợ quá hạn. Ngân hàng chủ động đôn đốc khách vay trả nợ đúng hạn; thỏa thuận với khách vay định kì thu lãi phù hợp với chu kì sản phẩm cây trồng và vật nuôi và kì thu nhập của mình; hoặc có thể thỏa thuận ngay trong hợp đồng tín dụng để khách có thể trả lãi vay chậm hơn một số ngày, nếu họ không trả và không có văn bản đề nghị gia hạn nợ thì mới chuyển sang nợ quá hạn. - Giải pháp cuối cùng chính là mở rộng nghiệp vụ mua bán nợ, từ đó hình thành và phát triển một thị trường mua bán nợ. Thực tế thì tỷ lệ nợ xấu của các NHTM Việt Nam nói riêng và của cả nền kinh tế nói chung là rất lớn. Điều đó cho thấy thị trường nợ tồn đọng đang rất tiềm năng và việc xử lý nợ tồn đọng là yêu cầu cấp thiết của nền kinh tế. Mặc dù vậy, ở Việt Nam việc mua bán nợ chỉ mới bắt đầu hình thành, chưa phát triển mạnh thành một thị trường sôi động với nhiều thành phần tham gia do Việt Nam còn thiếu khung pháp lý hoàn thiện cũng như thiếu nhân lực để phát triển thị trường này. Đây là một trong những giải pháp giúp lành mạnh hóa tài chính cho các DN cũng như các NHTM KẾT LUẬN Như vậy có thể thấy trong năm 2007 – 2008, tình hình nợ quá hạn doanh nghiệp của hệ thống ngân hàng có những diễn biến khá phức tạp, mà nguyên nhân là từ cả hai phía: khách quan từ bên ngoài và chủ quan từ phía chính sách tín dụng của chính các ngân hàng. Vấn đề cần rút ra là NHNN cũng như các ngân hàng lẫn doanh nghiệp cần phải có cái nhìn đúng đắn hơn về nợ qúa hạn và ảnh hưởng nghiêm trọng của nó tới hoạt động của toàn hệ thống, từ đó có những biện pháp giám sát, kiểm soát khoa học, hiệu quả hơn, tránh những rủi ro lớn hơn cho hiện tại cũng như trong tương lai. Có thể hi vọng rằng, với việc đã có nhiều cảnh báo của giới chuyên môn và sự căng thẳng của thị trường tiền tệ đã tạm lắng xuống như hiện nay, vấn đề nợ quá hạn sẽ được hạn chế một cách tối đa và được kiểm soát chặt chẽ hơn. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT NHNN : Ngân hàng nhà nước NHTMNN : Ngân hàng Thương mại Nhà nước NHTMCP : Ngân hàng Thương mại Cổ phần NHTM : Ngân hàng Thương mại DN : Doanh nghiệp

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBAI HOAN CHINH CO CHINH SUA.doc
Tài liệu liên quan