Chuyên đề Phân tích những ảnh hưởng gây ra sự đi xuống của thị trường chứng khoán Việt Nam đầu năm 2008 dựa trên phân tích nền kinh tế

LỜI MỞ ĐẦU Tính cấp thiết của đề tài Thị trường chứng khoán là một hệ thống huy động vốn nhanh, mạnh phục vụ cực tốt cho tái đầu tư sản xuất, cũng là một trong những nền tảng quan trọng để đưa VN hội nhập sâu, rộng với thế giới. Sự phát triển của TTCK một cách ổn định là tác nhân quan trọng không chỉ cho sự phát triển của thị trường tài chính nói riêng mà đối với cả nền kinh tế nói chung. Thị trường chứng khoán ngày càng phát huy vai trò trọng yếu trong nền kinh tế, ngày càng thu hút sự quan tâm của nhiều người. Tuy nhiên, thời gian vừa qua (cuối năm 2006 và đầu năm 2007) đã có lúc ồn ào sôi động thông tin từ thị trường chứng khoán, nhưng từ giữa năm 2007 đến nay TTCK Việt Nam đã trải qua một đợt suy giảm rất mạnh. Trong khi đó Việt Nam đã trở thành thành viên tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), điều này đặt TTCK Việt Nam trước những khó khăn và thách thức lớn đòi hỏi một thị trường lớn mạnh để có thể đứng vững trước những biến động của thế giới. 3 tháng đầu năm 2008 này là đợt giảm sút kéo dài nhất trong 2 năm 2006 và 2007, do vậy tháng 3 vừa rồi Chính phủ đã họp bàn với UBCKNN đề ra mục tiêu ổn định tình hình TTCK trong thời gian trước mắt. Để có thể tìm ra phương hướng vực thị trường dậy trong bối cảnh hiện nay, theo em, trước hết phải thấy được những nguyên nhân gây ảnh hưởng đến TTCK Việt Nam từ đó xây dựng biện pháp chính sách “giải cứu” thị trường. Song do kiến thức còn hạn hẹp nên phạm vi nghiên cứu của em chỉ bó hẹp trong việc phân tích các nhân tố tác động của nền kinh tế tới TTCK. Do vậy em chọn đề tài “ Phân tích những ảnh hưởng gây ra sự đi xuống của thị trường chứng khoán Việt Nam đầu năm 2008 dựa trên phân tích nền kinh tế ” Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới cô giáo Nguyễn Phương Luyến cùng các anh chị hướng dẫn của công ty chứng khoán VNDirect đã nhiệt tình giúp đỡ em hoàn thành bài báo cáo này. Tuy nhiên, do thời gian nghiên cứu còn hạn hẹp, nhận thức còn hạn chế, vì thế bài chuyên đề không tránh khỏi những thiếu sót, khiếm khuyết. Em rất mong nhận được sự giúp đỡ, hướng dẫn của các thầy, cô để em có thể hoàn thiện hơn nữa chuyên đề này. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu thực trạng nền kinh tế trong nước, nền kinh tế thế giới cũng như TTCK thế giới hiện nay trong mối quan hệ với TTCK trong nước, từ đó rút ra các nguyên nhân gây nên sự sụt giảm của thị trường. Qua việc phân tích các yếu tố ảnh hưởng đó ta có thể đề xuất những giải pháp, kiến nghị cho TTCK, cơ quan quản lý Nhà nước về chứng khoán và nền kinh tế nhằm tháo gỡ cho tình hình thị trường hiện nay cũng như lâu dài. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Chuyên đề tập trung tìm hiểu phân tích các nhân tố trong nền kinh tế trong và ngoài nước ảnh hưởng đến sự suy giảm của thị trường chứng khoán Việt Nam từ đầu năm 2008 đến nay. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu chuyên đề có sử dụng một số phương pháp như: Phương pháp biện chứng, phương pháp thống kê, phương pháp logic, phương pháp so sánh, . Kết cấu Chuyên đề nghiên cứu gồm các nội dung chính và được trình bày như sau: Chương I : Những vấn đề cơ bản về Phân tích thị trường chứng khoán Chương II : Phân tích các nhân tố vĩ mô ảnh hưởng tới thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay Chương III : Giải pháp khắc phục tình hình thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay MỤC LỤC Lời mở đầu .1 Chương I : Những vấn đề cơ bản về Phân tích thị trường chứng khoán 1.1. Tổng quan về thị trường chứng khoán .3 1.1.1. Khái niệm 3 1.1.2. Chức năng cơ bản của thị trường chứng khoán .3 1.1.3. Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán .3 1.1.4. Các nguyên tắc hoạt động cơ bản của thị trường chứng khoán .4 1.1.5. Cấu trức và phân loại cơ bản của thị trường chứng khoán 4 1.2. Phân tích thị trường .5 1.2.1. Phân tích tình hình kinh tế thế giới 5 1.2.2. Phân tích tình hình kinh tế trong nước 6 Chương II : Phân tích các nhân tố vĩ mô ảnh hưởng tới thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay 2.1. Thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam 7 2.1.1. Tổng hợp thị trường niêm yết 7 2.1.2. Tổng hợp thị trường OTC 12 2.2. Phân tích thị trường .13 2.2.1. Kinh tế thế giới và sự ảnh hưởng đến TTCK Việt Nam 13 2.2.1.1. Kinh tế thế giới 13 2.2.1.2. Thị trường chứng khoán thế giới .15 2.2.1.3. Tác động tới nền kinh tế và TTCK Việt Nam .16 2.2.2. Kinh tế Việt Nam và sự ảnh hưởng tới TTCK Việt Nam 18 2.2.2.1. Kinh tế Việt Nam từ những thách thức tăng trưởng 18 2.2.2.2. Những chỉ tiêu vĩ mô của nền kinh tế Việt Nam .21 2.2.2.3. Tác động tới TTCK Việt Nam .25 2.2.3. Các yếu tố nội tại của TTCK Việt Nam 26 2.2.3.1. Cổ phần hoá và cách thức tiến hành IPO .26 2.2.3.2. Các chính sách tác động đến TTCK 30 2.2.3.3. Giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài 31 2.3. Dự báo xu hướng TTCK Việt Nam trong thời gian tới .33 Chương III : Giải pháp khắc phục tình hình thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay 3.1. Giải pháp phát triển TTCK 36 3.2.1. Đối với việc phát triển nền kinh tế 36 3.1.1. Đối với việc cổ phần hoá và cách thức tiến hành IPO .38 3.1.2. Đối với các chính sách áp dụng cho TTCK .39 3.1.3. Đối với môi trường cho nhà đầu tư nước ngoài 40 3.2. Một số khuyến nghị đối với nhà đầu tư .40 Kết luận 41 Lời cam đoan 42 Danh mục các hình, bảng 43 Danh sách tài liệu tham khảo .44

docx46 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1598 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Phân tích những ảnh hưởng gây ra sự đi xuống của thị trường chứng khoán Việt Nam đầu năm 2008 dựa trên phân tích nền kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rong các quyết sách đảm bảo sự tăng trưởng dài hạn của nền kinh tế cũng như của TTCKVN. 2.2.2.2. Những chỉ tiêu vĩ mô của nền kinh tế Việt Nam Lạm phát tăng cao Duy trì một môi trường kinh tế vĩ mô lành mạnh luôn là điều kiện trọng yếu thu hút vốn đầu tư trực tiếp cũng như gián tiếp, tạo môi trường lành mạnh để phát triển kinh tế. Tuy nhiên sự yếu kém trong dự báo và hành xử thời gian qua cho thấy Việt Nam còn nhiều lúng túng trong xử lý tình thế. Lạm phát Q1 năm 2008 đã lên tới mức kỷ lục kể từ năm 2000 và đang có chiều hướng tiếp diễn. Gần đây có nhiều tổ chức lên tiếng cảnh báo về lạm phát bùng nổ tại Việt Nam. Giá tiêu dùng bình quân 3 tháng đầu năm 2008 so với 3 tháng đầu năm 2007 theo tổng cục thống kê đã lên tới 16,38%. ADB dự báo tốc độ tăng giá tiêu dùng cả năm sẽ ở mức 15,6%. Có nhiều nguyên nhân dẫn tới việc tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) như: lạm phát chi phí đẩy do tăng giá dầu và một số nguyên liệu sản xuất trên thị trường thế giới tăng mạnh, lạm phát do xuất, nhập khẩu, do cơ cấu và do tiền tệ, do thiên tai, dịch bệnh…. Tuy nhiên, cũng cùng thời điểm năm 2007, các quốc gia cùng khu vực như Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia… lạm phát lại thấp hơn một cách đáng kể so với Việt Nam. Nguyên nhân của chính lạm phát ở Việt Nam chủ yếu xuất phát từ cung tiền quá lớn trong khi hiệu suất của nền kinh tế còn rất thấp. Lạm phát và lãi suất: Tháng 2/2008 đã diễn ra cuộc đua lãi suất huy động vốn, có ngân hàng lên tới 14%/năm. Nguyên nhân trực tiếp có thể từ quyết định của NHNN yêu cầu các NHTM mua 20.300 tỉ tín phiếu bắt buộc gây ảnh hưởng tới tính thanh khoản của hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên trong thị trường Tài chính tiền tệ, lãi suất thực được coi là “giá” của tiền, một mặt hàng đặc biệt, nó làm cân bằng giữa cung và cầu tiền. Thị trường tiền tệ chỉ có thể tồn tại bền vững nếu như giá của tiền là dương (tương đương với lãi suất tiền gửi lớn hơn lạm phát). Vì vậy để thu hút được tiền gửi trong dân, các ngân hàng cần đảm bảo lãi suất thực dương. Trong điều kiện lạm phát tăng cao, để thu hút người dân gửi tiền thay vì các kênh hàng hóa, vàng, ngân hàng phải đưa lãi suất huy động vốn lên mức cao hơn hoặc tương đương lạm phát. Tuy nhiên lãi suất huy động tăng cao sẽ làm lãi suất cho vay tăng cao. Điều này làm chi phí tiếp cận vốn của doanh nghiệp tăng đột biến dẫn tới hoạt động của doanh nghiệp thiếu vốn sản xuất kinh doanh, từ đó làm giảm sức sản xuất xã hội và tiếp tục góp phần hạn chế cung hàng thúc đẩy lạm phát. Bài toán vòng tròn này sẽ chỉ tìm được lời giải khi Việt Nam giải quyết được những vấn đề bản chất về hiệu quả sử dụng vốn của nền kinh tế. Bên cạnh đó, chống lạm phát có thể hiểu là chống mất giá trị của đồng tiền hay nói cách khác là duy trì sức mua ổn định của đồng tiền. Hai vấn đề này liên quan mật thiết đến nhau do vậy chống lạm phát bằng các chính sách khác không thể hiệu quả nếu như giá của tiền là âm. Bất động sản - bong bóng đang phình to Theo báo cáo về chỉ số minh bạch thị trường bất động sản (RETI - Real Estate Transparency Index) năm 2006 của tập đoàn đứng đầu thế giới về quản lý tiền tệ và dịch vụ bất động sản Jones Lang LaSalle đối với 56 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, Việt Nam có điểm số minh bạch thị trường bất động sản thấp nhất với số điểm 4,69 (vùng xám cấp 5) là nhóm có độ minh bạch thấp nhấp và tham nhũng cao nhất. Cấp 4 có Trung Quốc, Macao và Indonesia. Các nước Úc, New Zealand, Hong Kong và Singapore theo thứ tự đều nằm trong nhóm cấp 1, nhóm có mức độ minh bạch cao nhất.Giá đất vẫn tiếp tục tăng rất nhanh trong năm 2007, giá đất hiện nay được coi là vượt quá khả năng chi trả củangười dân. Nguyên nhân trực tiếp nhất của hiện tượng này là việc tăng cung tiền, tăng cung tín dụng đầu tư bất động sản, kiều hối, tiền tham nhũng và thất thoát trong đầu tư xây dựng cơ bản v.v… dẫn đến nguồn tiền trong nền kinh tế quá dồi dào trong khi đó lợi nhuận từ đầu cơ đất đai hấp dẫn hơn nhiều lĩnh vực sản xuất khác. Vì vậy, một phần lớn nguồn lực của nền kinh tế bị chuyển sang mục đích có tính đầu cơ và không tạo ra giá trị gia tăng cho nền kinh tế. Trong khi cả nhu cầu thực, và đặc biệt, nhu cầu đầu cơ tăng mạnh thì nguồn cung nhà và đất lại hạn chế. Bong bóng Bất động sản tiềm ẩn nhiều nguy cơ nghiêm trọng đối với nền kinh tế. Năm 2007 chứng kiến rất nhiều doanh nghiệp Nhà nước và tư nhân Việt Nam đa dạng hóa ngành nghề sang Bất động sản, từ đó làm phân tán hoạt động kinh doanh nòng cốt. Năm 2007, các ngân hàng thương mại của Việt Nam cho các nhà đầu cơ và phát triển bất động sản vay dựa trên tài sản thế chấp là đất với giá đã được nâng cao quá mức thì tồn tại một nguy cơ là khi giá đất giảm, những người đi vay này sẽ mất khả năng trả nợ. Mặc dù khi ấy ngân hàng vẫn nắm giữ các khoản thế chấp bằng đất, nhưng với giá trị chỉ bằng một phần giá trị của khoản đã cho vay. Thâm hụt thương mại ở mức kỷ lục Qúy I/2008 chứng kiến sự tăng cao kỷ lục về giá trị nhập siêu, tăng 62,5% quá cao so với tốc độ tăng xuất khẩu là 22,7%, giá trị hàng hóa nhập siêu quí I/2008 chiếm 56,5% giá trị xuất khẩu hàng hóa đạt 7,4 tỷ USD, tăng gấp 3,5 lần so với mức nhập siêu của quý I/2007. Máy móc thiết bị và lượng nhập khẩu của một số vật tư, nguyên liệu tăng cao điển hình là một số mặt hàng như xăng dầu tăng 21,8%, sắt thép tăng 110,7%; phân bón tăng 18,2%.v.v... Thâm hụt ngân sách của Việt Nam đã lên tới 5 % GDP năm 2006 và xấp xỉ mức này trong năm 2007, trong khi theo kinh nghiệm quốc tế, ở điều kiện bình thường, thâm hụt ngân sách 3% được coi là đáng lo ngại, còn 5% thì bị coi là đáng báo động. Không những thế, những khoản chi ngoài ngân sách trong mấy năm gần đây lên tới 20 - 25% tổng ngân sách, một tỷ lệ quá cao. Những khoản thâm hụt báo động này nếu không sớm được điều chỉnh và bù đắp tất yếu dẫn tới mất cân đối kinh tế, tạo sức ép lên cán cân thanh toán và đặt nền kinh tế vào một vị thế nhạy cảm trước những biến động của kinh tế thế giới. Trước những biến động của thị trường thế giới, giá nguyên vật liệu tăng nhanh dẫn đến chi phí đầu vào tăng cao hơn giá bán đầu ra. Các doanh nghiệp xuất khẩu nhưng lại phụ thuộc nặng nề vào nhập khẩu. Hàng giày dép, dệt may, gia công điện tử chiếm tỉ lệ cao trong kim ngạch xuất khẩu QI/2008 lại đòi hỏi nguyên phụ liệu chủ yếu là nhập khẩu. Trong tổng nguồn hàng nhập khẩu QI/2008, cơ cấu nhập khẩu chủ yếu nhóm hàng máy móc, thiết bị, phụ tùng khoảng 26,3%; nhóm nguyên nhiên vật liệu cho sản xuất vẫn còn lớn khoảng 66,2% và nhóm hàng tiêu dùng khoảng 7,5%. Nhìn vào cơ cấu xuất nhập khẩu này, về cơ bản, nguyên nhân dẫn đến nhập siêu tăng chủ yếu do nền kinh tế vẫn phụ thuộc phần lớn vào bên ngoài do tỷ trọng nhập khẩu máy móc, nguyên vật liệu vẫn chiếm áp đảo. Mức nhập siêu kỷ lục, trong đó chiếm đến 2/3 là nhập khẩu nguyên vật liệu phục vụ sản xuất đang cho thấy các ngành công nghiệp phụ trợ trong nước còn chậm phát triển và chưa nắm bắt được cơ hội để tạo ra giá trị gia tăng cho hàng hoá trong nước. Lượng hàng tiêu dùng nhập khẩu tuy chỉ chiếm 3% trong tổng kim ngạch NK hàng hoá (khoảng 2 tỉ USD) nhưng cũng báo động sức cạnh tranh của nhiều hàng hoá trong nước đã sản xuất được vẫn chưa thể thay thế hoàn toàn NK. Cơ cấu xuất khẩu tuy có chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng nhóm hàng chế biến, chế tạo, có hàm lượng công nghệ và chất xám cao nhưng quy mô xuất khẩu còn nhỏ bé, dễ tổn thương bởi các biến động bên ngoài như giá cả, cạnh tranh... nên càng tăng XK thì tỉ trọng nhập siêu do nhập nguyên phụ liệu, thiết bị càng lớn. Dự trữ ngoại hối chưa đảm bảo an toàn Trong nền kinh tế mở, dự trữ ngoại hối đóng vai trò chống đỡ những thay đổi bất thường trong thương mại quốc tế như giá hàng XNK thay đổi, mất thị trường xuất khẩu. Dự trữ ngoại hối còn giúp điều hòa những biến động của các dòng lưu chuyển vốn. Hiện nay khi Việt Nam đang đối diện với tình trạng thâm hụt thương mại tăng cao thì việc dữ trữ ngoại hối đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Hơn nữa, ước tính thâm hụt thương mại của Việt Nam trong năm 2008 cao hơn năm 2007, ước đạt 16,9 tỷ USD. Điều này có nghĩa là để cân bằng được tài khoản vãng lai thì trong năm 2008 Việt Nam phải thu hút được 17 tỷ USD từ nguồn vốn bên ngoài. Nếu nhập khẩu được thực hiện theo đúng kế hoạch nhưng các dòng vốn nước ngoài lại suy giảm (hay tồi tệ hơn đảo chiều) thì việc quản lý nền vĩ mô sẽ trở nên hết sức khó khăn. Nguồn vốn FDI Thu hút vốn FDI : Trong quý vừa qua, theo tổng cục thống kê tổng vốn đăng ký của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài nước ngoài (gồm cả vốn cấp mới và tăng thêm) ước tính đạt khoảng 5,44 tỷ USD, tăng 31% so với cùng kỳ năm trước, gồm có vốn của dự án mới cấp phép đạt 5,156 tỷ USD, tăng 43%; vốn tăng thêm đạt 280,3 triệu USD. Cơ cấu vốn FDI : Trong số 5,156 tỷ USD vốn của các dự án mới cấp phép thì có tới 4,45 tỷ USD đầu tư vào văn phòng, căn hộ và khách sạn du lịch, chiếm khoảng trên 86% tống vốn đăng ký. Trong khi vốn dành cho công nghiệp chỉ khoảng 10% và dành cho nông-lâm-ngư chỉ khoảng 0,1%. Cơ cấu vốn FDI với sự đóng góp nhiều nhất của Hoa Kỳ với 1.314.955.000 USD, Malaysia với 1.268.308.594 USD, Nhật Bản với 736.518.000 USD,… Tốc độ giải ngân vốn FDI : Trong quý I vừa qua, vốn FDI mới chỉ giải ngân được khoảng 1,6 tỷ USD, tăng 20% so với cùng kỳ năm trước. Như vậy có thể thấy rằng tốc độ giải ngân so với tốc độ thu hút là vẫn còn rất khiêm tốn. 2.2.2.3. Tác động tới TTCK Việt Nam Trong suốt một thời gian dài vừa qua nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng khá cao, tốc độ đô thị hóa tăng nhanh và lượng khách du lịch cũng tăng khá mạnh. Chính vì vậy, nhu cầu về các sản phẩm Bất động sản như văn phòng, căn hộ và khách sạn đồng loạt tăng. Do vậy có thể thấy lĩnh vực Bất động sản trong thời gian vừa qua thực sự mang lại siêu lợi nhuận cho các nhà đầu tư. Dự tính tình trạng mất cân đối cung – cầu trong lĩnh vực Bất động sản sẽ còn tiếp tục trong một thời gian dài nữa. Việc dòng vốn FDI tập trung vào một lĩnh vực sinh lời cao như vậy cũng là điều khá dễ hiểu. Vốn đầu tư vào lĩnh vực sản xuất khiêm tốn như vậy thể hiện ở nhiều nguyên nhân cơ bản. Đầu tiên chúng ta đang xảy ra tình trạng thiếu hụt lao động có kỹ năng. Sau đó là điều kiện để phát triển công nghiệp và sản xuất là cơ sở hạ tầng, năng lượng đến nay hầu như chưa được cải thiện một cách đáng kể làm cho tiến độ và chi phí tăng lên rất cao. Tốc độ giải ngân vốn FDI trong quý I khá khiêm tốn. Điều này một mặt được giải thích bởi các lý do như trên, mặt khác theo cục đầu tư nước ngoài thì các vấn đề về đất đai, đền bù và giải phóng mặt bằng cũng đang gặp rất nhiều khó khăn. Đây là những lý do hoàn toàn mang tính chủ quan của chúng ta. Ngoài ra, theo kết quả khảo sát mới đây của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương về nguyên nhân làm chậm tiến độ thực hiện vốn đầu tư ở 140 doanh nghiệp FDI, có 20% doanh nghiệp cho là do phía Việt Nam thay đổi chính sách, 17% cho là khó khăn về giải quyết thủ tục đầu tư, 15% cho là do những thay đổi trong chiến lược kinh doanh của công ty mẹ và 17% cho là do môi trường đầu tư không thuận lợi như dự đoán ban đầu. Kinh tế Việt Nam đang đứng trước những thử thách to lớn nhằm duy trì tốc độ tăng trưởng cao trong dài hạn cũng như đảm bảo ổn định vĩ mô trong trước mắt. Tình thế hiện nay của Việt Nam khiến cho những lo ngại về khả năng Việt Nam bị tấn công về tiền tệ và rủi ro hệ thống ngày càng gia tăng. Thực tế cho thấy Việt Nam đang bị vướng vào vòng xoáy tăng trưởng nóng - lạm phát, lãi suất – thâm hụt thương mại - tỷ giá, dự trữ ngoại hối - hiệu quả sức sản xuất xã hội mà thực tế không dễ giải quyết và đòi hỏi những quyết sách có tầm chiến lược cao, nhanh nhạy và linh hoạt. Tuy bên cạnh rất nhiều thách thức, vẫn còn những cơ hội đầu tư tiềm năng, đặc biệt trong các lĩnh vực có mà thị trường 85 triệu dân Việt Nam đang mong chờ nhưng chưa được đáp ứng như nhà ở cho người có thu nhập trung bình, giáo dục chất lượng cao, dạy nghề & đào tạo theo nhu cầu của doanh nghiệp, các dự án thành phố vệ tinh nhằm giải tỏa sức ép cho Hà Nội, Sài Gòn, nâng cấp nền công nghiệp phụ trợ dựa trên chuỗi phân công lao động toàn cầu, y tế & dịch vụ nghỉ dưỡng, vật liệu mới, công nghệ sinh học… Đây sẽ là những lĩnh vực có tiềm năng phát triển đi cùng với giải quyết được các yêu cầu của tăng trưởng vững bền. Nằm trong bức tranh chung, TTCK chịu tác động nhiều mặt từ nền kinh tế vĩ mô. Rủi ro hệ thống luôn là rủi ro trọng yếu trong phân tích top-down đang được sử dụng rộng rãi. Trong ngắn hạn, TTCK có thể diễn biến bất thường nhưng về dài hạn luôn phản ánh bối cảnh của nền kinh tế. Sau hàng loạt các cảnh báo từ các tổ chức quốc tế như WB, ADB, IMF, Credit Suisse …, chúng tôi cho rằng sẽ có nhiều tổ chức cân nhắc lại kế hoạch giải ngân vào TTCK. Dòng vốn FII có thể có những biến động bất thường và tâm lý của đa phần các nhà đầu tư có tổ chức là quan sát cho tới khi có những tín hiệu tích cực từ giải pháp của Chính phủ và của nền kinh tế. 2.2.3. Các yếu tố nội tại của TTCK Việt Nam 2.2.3.1. Cổ phần hoá và cách thức tiến hành IPO Những đặc điểm chung của 6 lần IPO các doanh nghiệp lớn: Đạm Phú Mỹ, Bảo Việt, PVFC, Vietconbank, Sabeco và Habeco. Theo bản công bố thông tin của Bảo Việt thì cuối năm 2006, vốn chủ sở hữu của Bảo Việt là 1.895 tỷ nhưng khi tiến hành IPO thì Chính phủ quyết định tăng vốn điều lệ lên thành 6.800 tỷ. Tương tự như vậy trong Bản công bố thông tin của Vietcombank thì vào năm 2006, ngân hàng này có vốn điều lệ là 4.356 tỷ và vốn chủ sở hữu là 11.127 tỷ nhưng khi tiến hành IPO thì Chính phủ cũng đã quyết định tăng vốn điều lệ lên 15.000 tỷ. Như vậy có thể thấy rằng trong cả hai cuộc đấu giá của Bảo Việt và Vietcombank thì thực chất vốn điều lệ của các doanh nghiệp này đã tăng lên nhiều hơn so với vốn chủ sở hữu( vì vậy có thể nói rằng đây thực sự là mức vốn điều lệ “ảo”) của các doanh nghiệp đó vào thời điểm tiến hành IPO hay nói một cách khác Chính phủ đã phát hành ra một lượng cổ phiếu nhiều hơn lượng “thực có” của các doanh nghiệp đó để bán cho nhà đầu tư trong khi giá khởi điểm khá cao được tính trên biên bản xác định giá trước khi CPH. Trong bản công bố thông tin vốn điều lệ Sabeco năm 2007 là 2.187 tỷ và vốn chủ sở hữu ước thực hiện trong năm này là 6.412 tỷ nhưng khi tiến hành IPO thì toàn bộ phần vốn chủ sở hữu này của Sabeco được chuyển thàh vốn điều lệ. Như vậy trong cả 3 trường hợp IPO của Bảo Việt, Vietcombank và Sabeco thì giá trị mỗi cổ phiếu thực chất đã bị “pha loãng” làm giảm đi sự hấp dẫn của các cổ phiếu này. Hiện nay cách thức tiến hành IPO là chào bán ra ngoài công chúng trước rồi căn cứ trên giá trúng bình quân để đàm phán tiếp với các cổ đông chiến lược sao cho giá bán cho cổ đông chiến lược không thấp hơn giá trúng bình quân. Một trường hợp đặc biệt là IPO Vietcombank, Chính phủ đã định thay đổi hình thức này bằng việc đàm phán để bán cho các đối tác chiến lược trước rồi tiến hành IPO sau. Tuy nhiên việc đàm phán với các cổ đông chiến lược đã không thành công(theo nhiều nguồn tin từ báo chí thì mức giá mà ba đối tác chiến lược chấp nhận trả cho mỗi cổ phiếu Vietcombank chỉ từ 5 đến 7 lần mệnh giá). Chính vì vậy Chính phủ đã tiến hành IPO Vietcombank trước rồi sẽ đàm phán với các đối tác chiến lược. Mức giá khởi điểm được cho là tương đối cao của PVFC, Vietcombank, Sabeco và Habeco khiến cho mức P/E của các công ty này cao hơn khá nhiều so với mức P/E của thị trường tại thời điểm tiến hành IPO cũng như khi so sánh với các doanh nghiệp cùng ngành trên Thị trường niêm yết. Trong hai cuộc đấu giá và chào bán cho cổ đông chiến lược của Vietcombank và Bảo Việt, Nhà nước quyết định giữ lại một phần lớn thặng dư thu được. Bảng 9: Thống kê kết quả đấu giá DPM BV PVFC VCB SABECO HABECO Ngày IPO 21/04/07 31/05/07 19/10/07 26/12/07 28/01/08 27/03/08 KL phát hành 128.626.600 59.440.000 59.638.900 97.500.000 128.257.000 34.770.000 KL đăng kí 139.087.400 388.136.300 162.034.500 121.978.100 78.373.000 4.377.900 KLĐK/KLPH 108 % 653 % 272 % 125 % 61 % 13 % Giá khởi điểm 50.000 30.500 51.000 100.000 70.000 50.000 Giá trúng BQ 54.403 73.910 69.974 107.860 70.003 50.015 Giá ngày 04.04.08 50.000 41.000 36.000 58.000 48.000 50.000 NĐTNN mua 24.582.787 13.600.000 529.200 28.734.834 7.283.100 409.000 Vốn điều lệ (tỷ đồng) 3.800 6.800 5.000 15.000 6.412 2.318 Dựa vào thống kê trên chúng ta có thể thấy rằng khối lượng đặt mua trên khối lượng cổ phần được chào bán qua các đợt IPO giảm mạnh kể từ đợt IPO Bảo Việt. Điều này cho thấy sự quan tâm và mức độ hấp dẫn của các đợt IPO này đang giảm dần. Mức giá hiện nay trên thị trường OTC của các cổ phiếu trên cũng đã giảm một cách đáng kể so với mức giá trúng bình quân. Tác động của các đợt IPO tới Thị trường chứng khoán Sau khi IPO sáu công ty lớn này, kế hoạch và lộ trình niêm yết trên sàn không rõ ràng (cho đến bây giờ mới chỉ có Đạm Phú Mỹ là đã được niêm yết) đã khiến cho cổ phiếu của các công ty này bị giảm dần đi sự hấp dẫn và quan tâm của nhà đầu tư do tính thanh khoản trên thị trường OTC đang ngày càng kém đi. Do đó các nhà đầu tư sẽ cân nhắc kỹ khi lựa chọn quyết định có tham gia đợt IPO các doanh nghiệp lớn những lần tiếp theo hay sẽ mua cổ phiếu của các doanh nghiệp trên sàn với mức P/E hợp lý hơn mà lại đảm bảo được tính thanh khoản tốt hơn. Các đợt IPO Sabeco và Habeco(thậm chí cả đợt IPO được mong chờ và kỳ vọng nhất trong năm 2007 của ngân hàng uy tín nhất Việt Nam là Vietcombank) có thể nói là không thực sự thành công khi khối lượng cổ phiếu đăng ký mua ít hơn khá nhiều so với khối lượng cổ phiếu chào bán(trong trường hợp IPO Vietcombank, khối lượng đăng ký mua chỉ bằng 125% khối lượng chào bán). Chính việc IPO không thực sự thành công này của các công ty lớn đã có những tác động không tích cực đến thị trường niêm yết cũng như toàn bộ TTCK nói chung. Thông thường thì sự thành công của đợt IPO một doanh nghiệp lớn sẽ tạo nên một tiếng vang lớn và một hiệu ứng lạc quan của giới đầu tư về TTCK. Mặt khác, sau khi IPO giá của các doanh nghiệp lớn này tại thời điểm hiện nay thường giảm khá nhiều so với mức giá trúng bình quân. Chính hiện tượng này sẽ làm giảm đi sự quan tâm trong thời gian sắp tới đối với các đợt IPO tiếp theo của một bộ phận lớn nhà đầu tư có quy mô vốn vừa và nhỏ. Cho đến thời điểm hiện nay Vietcombank vẫn chưa công bố cổ đông chiến lược cũng như bất kỳ thông tin nào liên quan đến vấn đề này. Điều này có thể tạo ra sự nghi ngại cho các nhà đầu tư về thành công của việc lựa chọn cổ đông chiến lược. Nếu không tìm được các cổ đông chiến lược để cùng tham gia hoạch định, thúc đẩy doanh nghiệp phát triển thì tiến trình CPH doanh nghiệp đó thực chất mới chỉ là việc thay đổi một phần nhỏ cơ cấu sở hữu công ty chứ chưa làm cho công ty đó thay đổi một cách thực chất. Điều gì sẽ xảy ra nếu như phần sở hữu của nhà nước vẫn còn quá lớn cũng như đội ngũ ban lãnh đạo và cung cách làm việc của công ty gần như không được thay đổi. Rõ ràng việc CPH các doanh nghiệp thực chất sẽ là một kiểu CPH nửa vời theo lối “bình mới rượu cũ” mà không mang lại nhiều giá trị thiết thực cho các doanh nghiệp đó. Việc IPO một khối lượng lớn ra ngoài với mức giá khởi điểm cao mà không cân nhắc kỹ đến sức cầu của TTCK làm cho lượng vốn đối ứng trên TTCK giảm sút một cách rõ rệt. Chúng ta biết rằng lượng tiền thu được từ các đợt IPO này sẽ không ngay lập tức quay trở lại TTCK . Một phần sẽ được nhà nước thu về, một phần khác sẽ nằm ở các công ty phát hành. Có một đặc điểm mà chúng ta cần nhận rõ là mặc dù TTCK có vốn hóa khá lớn nhưng lượng tiền mặt đối ứng thì lại ít hơn rất nhiều. Điều gì sẽ xảy ra nếu lượng tiền mặt đối ứng này bị hút đi một cách đáng kể? Cũng cần lưu ý rằng trong năm 2007(tính cả IPO Vietcombank), lượng tiền thu được từ các đợt IPO qua hai trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội và Hồ Chí Minh lên tới gần 3 tỷ đô la Mỹ (thống kê dựa trên số liệu của UBCK, chưa tính tới lượng trái phiếu). Đây là một lượng tiền khá lớn đối với quy mô của TTCK hiện nay. 2.2.3.2. Các chính sách tác động đến TTCK Các chính sách chính tác động đến TTCK Chỉ thị 03 tác dụng đến ngày 28/01/2008. Từ ngày 29/01, Chỉ thị 03 được thay thế bằng Quyết định 03 với nội dung chính là việc mỗi ngân hàng chỉ được phép cho vay đầu tư Chứng khoán không quá 20% Vốn điều lệ(thông tin này được Thị trường phản ánh tại điểm (1) trên biểu đồ). Hình 4: Biến động thị trường chứng khoán với các chính sách Ngày 05/03, Thủ tướng chỉ đạo UBCK và Bộ tài chính lên lộ trình cụ thể cho Tổng công ty kinh doanh vốn nhà nước SCIC tham gia mua vào cổ phiếu để vực dậy TTCK(được Thị trường phản ánh tại điểm (2) trên biểu đồ). Từ ngày 27/03, UBCK cho phép Sở giao dịch chứng khoán HOSE thay đổi biên độ dao động giá cổ phiếu và chứng chỉ quỹ đầu tư từ 5% xuống 1% và Trung tâm giao dịch chứng khoán HASTC thay đổi biên độ dao động giá cổ phiếu từ 10% xuống 2%. Đồng thời Chính phủ chỉ đạo các ngân hàng Quốc doanh và vận động các ngân hàng thương mại cổ phần ngừng giải chấp cổ phiếu( Thị trường phản ánh tại điểm (3) trên biểu đồ). Nhà nước sẽ đánh thuế thu nhập Chứng khoán bắt đầu từ đầu năm 2009. Tác động của các chính sách Việc thực hiện Chỉ thị 03 là một quyết định khá đúng đắn của Chính phủ nhằm hạn chế tối đa những rủi ro cho hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên việc thay đổi Chỉ thị 03 như trên là khiên cưỡng và không cơ bản trong việc hạn chế rủi ro của hệ thống ngân hàng. Dường như đây chỉ là một quyết định để hạn chế hơn lượng cho vay đối với đầu tư Chứng khoán. Điều đáng ngạc nhiên là thị trường lại có phản ứng tích cực đối với thông tin này khi hy vọng sức cầu sẽ được tăng thêm. Nhìn vào biểu đồ trên và diễn biến của VN-index chúng ta thấy rằng TTCK đã có những phản ứng khá nhậy và tích cực sau những chính sách của các nhà tạo lập Thị trường. Tuy nhiên tác động của các chính sách này tại điểm (1) và (2) chỉ diễn ra trong một thời gian ngắn rồi TTCK lại tiếp tục giảm mạnh khi rơi đến điểm (3). Đến lúc này Chính phủ đã buộc phải sử dụng những biện pháp can thiệp mang nặng tính hành chính vào thị trường bằng cách giảm biên độ giao dịch xuống. Cũng như hai lần trước TTCK đã có những phản ứng khá tích cực với quyết định này. Như vậy có thể thấy rằng các tác động trong ngắn hạn của chính sách đã phát huy tác dụng khá tốt nhưng Chính phủ chưa có những chính sách ổn định thị trường mang tính dài hơi hơn. Một mặt việc điều chỉnh giảm của thị trường trong thời gian qua được nhìn nhận một cách khách quan là do các yếu tố vĩ mô của nền kinh tế cũng như các chính sách tiền tệ của Chính phủ đã tác động lên một số thành phần tham gia TTCK như hệ thống các ngân hàng cho vay cầm cố bằng cổ phiếu. Việc tác động của Chính phủ nên theo hướng giải quyết những nguyên nhân chính gây ra việc suy giảm của thị trường nhưng thay vì như vậy, Chính phủ lại sử dụng những biện pháp mang tính hành chính để can thiệp dù với mục đích tốt là ổn định TTCK, một cách gián tiếp nhằm ổn định nền kinh tế. Tuy nhiên để TTCK ổn định và phát triển một cách lành mạnh thì rõ ràng Chính phủ cần phải đưa ra cho bằng được hệ thống các chính sách và thực hiện một cách nhất quán các chính sách này trong thời gian tới, tránh gây ra những cú sốc quá mạnh cho thị trường, nhằm tạo dựng niềm tin cho các Nhà đầu tư – đặc biệt là đối với các NĐTNN. Điều cần nhất là thị trường phát triển một cách ổn định và bền vững chứ không phải là những biến động tăng - giảm quá nhanh một cách thái quá. 2.2.3.3. Giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài Trong quý I vừa qua các NĐTNN mua thuần (mua - bán) tổng cộng trên 130 triệu USD giá trị cổ phiếu và chứng chỉ quỹ; 230 triệu USD giá trị trái phiếu ở sàn HOSE. Ngoài ra các NĐTNN cũng đã tiến hành khá nhiều vụ M&A (mua bán và sáp nhập), nổi bật nhất là các thương vụ mua lại một tỷ lệ rất lớn cổ phần của một số Công ty chứng khoán và Công ty quản lý quỹ để trở thành các cổ đông lớn của các công ty này. Như vậy trong quý I, giá trị giao dịch mua của khối NĐTNN đối với trái phiếu đã nhiều gần gấp đôi so với cổ phiếu, cho thấy chiến lược trong quý I của khối này đã chuyển dịch dần sang những khoản thu nhập ổn định nhưng chắc chắn thay vì đầu tư vào cổ phiếu(có thể mang lại lợi nhuận cao nhưng lại rủi ro hơn), mặc dù giá của hầu hết các cổ phiếu đã giảm khá nhiều trong thời gian vừa qua. Các sự kiện chính sau đây đã tác động đến chiến lược như trên của họ: - TTCK thế giới sụt giảm khá mạnh - Tỷ giá VND/USD có xu hướng giảm trong suốt quý I - Các yếu tố vĩ mô của nền kinh tế Việt Nam có những dấu hiệu không ổn định. Cũng cần phải lưu ý rằng thị trường trái phiếu của Việt Nam hiện nay vẫn còn khá nhỏ và tính thanh khoản chưa cao nên chắc chắn những NĐTNN tham gia mua trái phiếu trong thời gian vừa qua đã phải cân nhắc đến việc nắm giữ dài hạn hơn. Gần đây ông Dominic Scriven, giám đốc Công ty quản lý quỹ Dragon Capital cũng khuyên các NĐT nên tập trung nhiều hơn cho thị trường trái phiếu. Việc tiến hành khá nhiều vụ M&A đồng thời giảm việc giải ngân ở trên thị trường niêm yết trong thời gian vừa qua cho thấy NĐTNN đã dịch chuyển dần sang những khoản đầu tư dài hạn và thực chất hơn để tham gia sâu vào quản lý và phát triển các doanh nghiệp. Đặc biệt đó là việc Tổ hợp đầu tư Franklin Templeton đã công bố việc mua 49% cổ phần của Công ty Quản lý quỹ Vietcombank, Morgan Stanley (Singapore) mua lại gần 49% cổ phần của Công ty Chứng khoán Hướng Việt,.… Những hành động cụ thể này của các NĐTNN chứng tỏ sự quyết tâm và mong muốn được gia nhập và kinh doanh lâu dài ở Việt Nam của họ song đồng thời cũng tạo ra một áp lực cạnh tranh rất lớn đối với các tổ chức trong nước trong khi kinh nghiệm, trình độ quản lý, công nghệ và đặc biệt là quy mô vốn của NĐTNN có sự chênh lệch khá lớn so với chúng ta. Trong những ngày cuối quý I, đã xảy ra hiện tượng tỷ giá VND/USD tăng khá mạnh. Nếu điều này tiếp tục diễn ra (lý do thông thường nhất là do sự thiếu hụt USD trên thị trường) đồng thời những yếu tố vĩ mô của nền kinh tế Việt Nam như lạm phát, tăng trưởng GDP chậm lại,.. không được cải thiện trong thời gian tới thì có lẽ việc giải ngân vào trái phiếu cũng như cổ phiếu của NĐTNN sẽ không còn mạnh mẽ như trong thời gian qua nữa. Hơn thế nữa với những khó khăn của thị trường tài chính trên thế giới sẽ còn kéo dài thêm một thời gian nữa(theo các bản báo cáo của IMF, WB), việc giải ngân trên thị trường niêm yết của khối NĐTNN cũng sẽ giảm và nghiêng về xu hướng đầu tư thận trọng hơn như việc tham gia làm cổ đông chiến lược. Đặc biệt với sự xuất hiện và tham gia sâu của các định chế tài chính lớn ở Việt Nam, họ sẽ tập trung nguồn lực cho những đợt IPO của các tổng công ty và các tập đoàn trong thời gian tới. Việc ổn định lại các yếu tố vĩ mô của nền kinh tế cũng như việc nhất quán và rõ ràng trong chính sách như tiến độ CPH và lộ trình IPO các doanh nghiệp lớn,.. của Việt Nam sẽ đóng vai trò quan trọng nhất trong việc thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp của Nước ngoài trong thời gian tới(xem thêm phần CPH và tiến trình IPO). Ngoài ra việc sớm áp dụng các biện pháp quản lý nguồn vốn đầu tư gián tiếp (FII) cũng sẽ tác động tới giao dịch của NĐTNN. 2.3. Dự báo xu hướng thị trường trong thời gian tới Theo hướng phân tích TTCK VN sẽ bị tác động bởi ba nhóm các yếu tố bao gồm: - Nhóm các yếu tố liên quan đến nền kinh tế và TTCK trên thế giới (nhóm I); - Nhóm các yếu tố liên quan đến nội tại của nền kinh tế Việt Nam (nhóm II); - Nhóm các yếu tố liên quan đến nội tại của TTCK (nhóm III). Tác động của nhóm I tới nền kinh tế và TTCK VN: Trong giai đoạn vừa qua mối liên hệ giữa TTCK VN và TTCK TG là chưa rõ rệt. Tuy nhiên giờ đây một bộ phận lớn các NĐT trong nước đã quan tâm hơn tới TTCK TG đồng thời là việc tham gia với quy mô và mức độ ngày một lớn hơn của các NĐTNN vào TTCK VN cũng như việc nền kinh tế Việt Nam ngày một hội nhập sâu hơn và chịu ảnh hưởng một cách trực tiếp bởi nền kinh tế thế giới nên trong thời gian sắp tới mối liên hệ này sẽ ngày càng rõ rệt hơn. Dự báo của WB, IMF thì nền kinh tế thế giới, đặc biệt là nền kinh tế Mỹ, sẽ tiếp tục gặp khó khăn hơn trong quý II với các vấn đề như lạm phát tăng cao, tăng trưởng chậm lại, tỷ lệ thất nghiệp gia tăng, khủng hoảng tín dụng,.. và vì vậy TTCK TG sẽ tiếp tục gặp nhiều khó khăn trong thời gian tới. Như vậy các yếu tố trong nhóm I một cách trực tiếp và gián tiếp sẽ gây nhiều khó khăn tới nền kinh tế và TTCK VN cụ thể là các yếu tố như xuất khẩu gặp khó khăn, giá các mặt hàng nhập khẩu tăng cao, dòng vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp bị ảnh hưởng, kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp không tăng trưởng được như mong đợi. Tác động của nhóm II tới TTCK VN: Ở trên chúng ta thấy rằng các yếu tố ở nhóm I sẽ gây ra nhiều khó khăn cho nền kinh tế VN, tuy nhiên những khó khăn của nền kinh tế còn được gia tăng đáng kể vì chính những yếu tố nội tại của nền kinh tế của chúng ta. Cụ thể đó là các vấn đề về lạm phát, hiệu quả sản xuất kém, khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế thấp, nhập siêu quá lớn, mất cân đối trong cơ cấu tín dụng, bong bóng Bất động sản, mất cân đối trong cơ cấu dòng vốn FDI, cơ sở hạ tầng rất yếu kém, trình độ và năng suất của người lao động chưa cao, các yếu tố đầu vào tăng mạnh, thất thoát trong đầu tư công,.. Đó là những yếu tố khó thay đổi ngay được trong một thời gian ngắn (các yếu tố này tác động ngược trở lại làm cho lạm phát tăng cao hơn). Chính phủ hiện nay đang rất nỗ lực để khống chế và tiến tới việc giảm lạm phát xuống bằng chính sách thắt chặt tiền tệ khá quyết liệt trong đó điểm nổi bật nhất trong thời gian tới chính là việc hạn chế tối đa tăng trưởng tín dụng và đồng thời là việc rút dần hơn 52 nghìn tỷ tiền gửi của kho bạc nhà nước tại các NHTM về NHNN, dừng cấp vốn tiếp cho các dự án đầu tư công kém hiệu quả… Sự tác động của các yếu tố “tiêu cực” như trên trong dài hạn của nền kinh tế và “tích cực” của các chính sách của Chính phủ sẽ khiến cho việc dự báo tình hình lạm phát trong quý II trở nên khó hơn. Tuy nhiên theo đánh giá trong quý II tình hình về biến động giá cả hàng hóa sẽ có những dấu hiệu bước đầu lạc quan hơn. Trong quý I/2008, vấn đề lạm phát và chính sách thắt chặt tiền tệ chưa ảnh hưởng quá nhiều đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nên kết quả kinh doanh trong quý I sẽ chưa bị ảnh hưởng lớn. Tuy nhiên sang quý II thì các yếu tố ở nhóm II chắc chắn sẽ gây ra những khó khăn rất lớn đối với tình hình hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Tôi dự báo rằng kết quả kinh doanh trong quý II của các doanh nghiệp sẽ bị ảnh hưởng đáng kể. Chính sách thắt chặt tiền tệ cũng tác động mạnh đến nguồn vốn đối ứng dành cho TTCK. Sự khó khăn trong việc thu xếp vốn dành cho TTCK của NĐT ảnh hưởng rõ nét trong quý II. Chính vì vậy động lực đi lên của TTCK sẽ bị yếu đi một cách rõ rệt. Tác động của nhóm III tới TTCK: Chắc chắn rằng Chính phủ sẽ tiếp tục thực hiện và đưa ra các chính sách nhằm ổn định TTCK đồng thời góp phần vào ổn định vĩ mô nền kinh tế. Với những tiền lệ trong hơn 7 năm qua, sức mạnh các chính sách của Chính phủ hoàn toàn có thể ngăn chặn được sự suy giảm mạnh (nếu có) của TTCK. Với những khó khăn của nền kinh tế, TTCK VN cũng như của TTCK TG quá trình Cổ phần hóa và tiến trình IPO sẽ bị chậm lại. Nhiều khả năng trong quý II sẽ rất hạn chế những đợt IPO các doanh nghiệp lớn. Giao dịch của NĐTNN sẽ tiếp tục tập trung vào hoạt động M&A và giảm việc mua trái phiếu vì USD tăng giá so với VND. Trong ba năm tới, ảnh hưởng bởi quá trình CPH và cách thức tiến hành IPO của các doanh nghiệp lớn tới TTCK là rất lớn. Chúng ta sẽ đưa ra hai giả định chính sau đây: Giả định 1: Sẽ tiếp tục cách thức CPH và IPO như trong thời gian vừa qua đồng thời đẩy nhanh tiến độ CPH để kịp hoàn thành cơ bản vào cuối năm 2010. Trong trường hợp này nhiều khả năng TTCK sẽ tiếp tục có điều chỉnh giảm trong suốt thời gian này. Khi đó mỗi nhà đầu tư cần chuẩn bị cho mình một kế hoạch đầu tư mang tính phòng thủ và dài hơi hơn. Giả định 2: Chính phủ sẽ điều chỉnh cách thức CPH và IPO Trong trường hợp này làm cho TTCK VN sẽ phát triển ổn định và trở nên hấp dẫn hơn nhiều, đặc biệt là đối với các tổ chức lớn nước ngoài. Nếu tận dụng tốt, chúng ta sẽ có thể tận dụng được cơ hội hợp tác và nắm bắt công nghệ trong quản lý, sản xuất để có những doanh nghiệp thực sự lớn mạnh trong một tương lai không xa. Với sự ảnh hưởng của quá trình CPH và IPO như vậy TTCK sẽ khó có khả năng bùng nổ mạnh như trong giai đoạn cuối năm 2006, đầu năm 2007 do có sự chênh lệch nhất định đối với yếu tố cung – cầu. Những cơ hội trong ngắn hạn sẽ không xuất hiện nhiều và rõ ràng như trong giai đoạn trước đó nữa. Chiến lược trong giai đoạn này, Nhà đầu tư nên thu xếp nguồn vốn để tận dụng những cơ hội sở hữu cổ phiếu của các doanh nghiệp lớn còn chưa tiến hành CPH và IPO. Đây thực sự là giai đoạn tích lũy đồng thời cũng là một cơ hội rất tốt cho việc sở hữu các cổ phiếu tiềm năng! Tuy nhiên một điều đáng lo ngại rằng một lượng vốn không nhỏ với mục đích đầu cơ vào TTCK trong thời gian qua của NĐTNN có thể sẽ được rút ra trong thời gian tới. Ngoài ra vì nguồn vốn đối ứng của TTCK hiện nay không còn dồi dào cộng thêm với một lượng lớn cổ phiếu được tích lũy trong suốt giai đoạn suy giảm của quý I, việc đi lên của TTCK sẽ gặp rất nhiều cản trở. Từ sự tác động của ba nhóm các yếu tố nói trên, có thể thấy các yếu tố ủng hộ việc đi lên mạnh mẽ của TTCK là chưa có. Nhưng với sự hỗ trợ mang tính kỹ thuật của các chính sách thì TTCK cũng khó có khả năng giảm mạnh thêm. Dự báo VN-Index trong quý II sẽ dao động quanh mức 570 điểm. CHƯƠNG III : Giải pháp khắc phục tình hình thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay 3.1. Giải pháp khắc phục tình hình TTCK 3.1.1. Đối với việc phát triển nền kinh tế Kiểm soát lạm phát Bài toán tăng trưởng dựa vào đầu tư của Việt Nam đã đưa tới hậu quả tất yếu là lạm phát. Về trước mắt, NHNN nên tiếp tục chính sách thắt chặt tiền tệ linh hoạt, ngân hàng cần thu hồi các dòng vốn chảy vào, đồng thời bán các công cụ nợ bằng tiền Đồng để giảm lượng tiền trong lưu thông tuy nhiên vẫn đảm bảo hỗ trợ tiếp cận vốn một số doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu trọng điểm. Bên cạnh kiểm soát tốt các dòng vốn, Việt Nam cần sàng lọc các dự án đầu tư công chọn ra các dự án tạo ra tăng trưởng sản lượng cao nhất cho mỗi đơn vị vốn đầu tư. Hạn chế sự tăng trưởng quá nóng hoạt động tín dụng để hạn chế cung tiền cũng là biện pháp cần làm trước mắt để kiểm soát cung tiền. Giảm bong bóng Bất động sản Một là, giảm bong bóng Bất động sản một cách từ từ bằng cách nâng cao kiểm soát chất lượng tín dụng ngân hàng cho khu vực bất động sản để tránh tình trạng sụp đổ dây chuyền khi thị trường bất động sản suy giảm. Hai là, minh bạch hóa thị trường Bất động sản cùng với việc cải cách triệt để về quy hoạch vùng và các quy định liên quan đến quyền sử dụng đất cũng là những yêu cầu để phát triển thị trường Bất động sản ổn định. Chính phủ nên xem xét đánh thuế Bất động sản để hạn chế tình trạng đầu cơ, kiếm lời bất chính. Ba là, đồng thời thúc đẩy nguồn cung thông qua các dự án có chất lượng và được kiểm soát chặt chẽ với sự tham gian của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh nhằm cung cấp nhà ở, cơ sở hạ tầng cho người dân có thu nhập trung bình, thấp nhưng phải đảm bảo Bất động sản tới được với người có nhu cầu thực sự. Hạn chế thâm hụt Ngân sách Một là, để giảm nhập siêu, cần tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp tăng xuất khẩu, kiểm soát điều hành nhập khẩu phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế, đồng thời hạn chế các mặt hàng nhập khẩu cho tiêu dùng có tính chất xa xỉ, không cần thiết; hạn chế nhập khẩu những hàng hoá mà trong nước sản xuất được; nhanh chóng phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ. Hai là, giảm nhập khẩu bằng việc đẩy mạnh sản xuất hàng trong nước các loại nguyên liệu, các mặt hàng phụ trợ cho sản xuất tiêu dùng, nội địa hoá hàng xuất khẩu để giảm dần tiến tới thay thế nhập khẩu. Ngoài ra, một biện pháp khác cần xem xét là xây dựng rào cản kỹ thuật cần thiết áp dụng đối với các ngành, sản phẩm công nghiệp nhằm bảo vệ sản phẩm trong nước khỏi sự cạnh tranh không công bằng trên thị trường, phù hợp với các quy định trong khuôn khổ WTO, trước hết là đối với các mặt hàng có kim ngạch NK lớn, ảnh hưởng đến sản xuất, tiêu dùng và sức khoẻ cộng đồng. Ba là, Chính phủ cũng nên áp dụng các biện pháp kiểm soát chi tiêu, áp dụng chi tiêu thắt chặt và hạn chế vay nợ nước ngoài bù đắp cho thâm hụt ngân sách. Tăng dữ trữ ngoại hối Một là, Chính phủ nên xem xét các biện pháp tăng cường dự trữ ngoại hối trong thời điểm trước mắt để hạn chế những cú sốc bất thường về tỷ giá. Những nguy cơ bị tấn công tiền tệ như đã từng diễn ra trước đây tại Thái Lan, Malaysia, … trong cuộc khủng hoảng tài chính theo đánh giá của chúng tôi là đã bắt đầu hiện hữu trên thị trường tiền tệ Việt Nam. Do đó, cần đa dạng hóa rổ tiền tệ cũng là biện pháp cần xem xét để hạn chế sự mất giá của đồng USD. Hai là, về nguyên nhân sâu xa, chúng tôi cho rằng thâm hụt thương mại lớn sẽ trực tiếp ảnh hưởng tới nguồn dự trữ ngoại hối quốc gia. Chính phủ cũng nên xem xét các giải pháp toàn diện và bền vững nhằm cải thiện các yếu tố trong cán cân thanh toán. Đảm bảo nguồn vốn FDI Tình trạng mất cân đối trong cơ cấu vốn FDI và việc chậm trễ trong tiến độ giải ngân chỉ được cải thiện khi các điều kiện sau phải được cải tiến đáng kể: Cần cải thiện các vấn đề liên quan đến cơ sở hạ tầng, tình trạng cung cấp điện năng, vấn đề cung ứng lao động có kỹ năng hay nói rộng hơn là cải thiện chất lượng giáo dục (gồm giao dục dạy nghề cũng như đào tạo các kỹ sư có trình độ cao). Tuy nhiên trong thời gian vừa qua thì các vấn đề này gần như không được cải thiện một cách đáng kể. Chính vì vậy tiến độ chậm và mất cân đối trong cơ cấu vốn đầu tư FDI sẽ còn tiếp diễn trong một thời gian nữa đòi hỏi Chính phủ và các bộ ngành có liên quan cần nỗ lực rất nhiều. Song song với việc đó, ổn định vĩ mô nền kinh tế cũng đóng một vai trò then chốt trong việc duy trì cũng như đảm bảo sự tăng trưởng của dòng vốn này. Lưu ý rằng tăng trưởng GDP phụ thuộc rất nhiều vào khối doanh nghiệp FDI này cũng như việc gia tăng dù mạnh mẽ của dòng vốn FDI có thể bị dừng lại rất nhanh chóng nếu các yếu tố vĩ mô bị ảnh hưởng. 3.1.2. Đối với việc cổ phần hoá và cách thức tiến hành IPO Việt Nam đã ra nhập WTO chính thức được gần 15 tháng nhưng cho đến nay tiến trình CPH và IPO các tổng công ty, các tập đoàn lớn vẫn đang diễn ra quá chậm chạp. Trong đó lộ trình CPH được dự kiến sẽ hoàn thành cơ bản vào năm 2010. Chúng ta kêu gọi các dòng vốn đầu tư gián ntiếp vào Việt Nam với những lời cam kết và hứa hẹn đầy hấp dẫn nhưng những gì đã diễn ra gần như chưa tương xứng. Các nhà đầu tư, các định chế lớn sẽ làm thế nào khi đã thu xếp một lượng tiền rất lớn lên đến nhiều tỷ đô la Mỹ lại phải nằm im chờ đợi các đợt IPO lớn suốt một thời gian dài mà không thể giải ngân trong khi môi trường tài chính trên thế giới lại hết sức sôi động như hiện nay? Nhà nước có lẽ cũng cần hết sức cân nhắc mục đích của việc CPH và tiến trình IPO các tổng công ty, các tập đoàn lớn. Rõ ràng hiện tại đang có hai mục đích lớn sau: Thay đổi, cải cách một cách căn bản hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp thông qua việc tận dụng tối đa kinh nghiệm, công nghệ, trình độ quản lý và nguồn vốn của các đối tác chiến lược & Tối đa hóa lượng tiền có thể thu được từ các đợt IPO. Đáng tiếc, theo chúng tôi mặc dù cả hai mục đích này đều rất quan trọng, tuy nhiên dường như không thể đạt được đồng thời cùng một lúc nếu như cách thức IPO vẫn tiếp tục diễn ra như thời gian qua. Các định chế lớn sẽ thực sự phải cân nhắc khi họ phải mua với giá tối thiếu bằng mức giá trúng bình quân trong khi phải chịu rất nhiều cam kết như thời gian nắm giữ, trách nhiệm hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển,.. Cũng như đã phân tích ở trên việc IPO một giá trị lớn cổ phiếu ra thị trường trước khi bán cho đối tác chiến lược sẽ làm cho TTCK trở nên quá tải vì nguồn cung quá lớn. Chỉ sau hai đợt IPO VCB và Sabeco vừa qua đã làm cho lượng tiền mặt đối ứng của TTCK kém hẳn đi thể hiện ở tính thanh khoản trên hai sàn niêm yết thông qua khối lượng và giá trị giao dịch hàng ngày sụt giảm mạnh. Cũng như nhà đầu tư đã trở nên rất khó khăn trong việc thu xếp vốn đầu tư tiếp khi cánh cửa cho vay cầm cố tại các ngân hàng bị đóng lại. Chính việc lượng tiền đối ứng hạn hẹp đã làm cho Thị trường niêm yết bị suy giảm một cách rõ ràng. Việc này tiếp tục có tác động ngược trở lại với các đợt IPO tiếp theo, làm cho sự thành công có thể bị ảnh hưởng lớn. Do sự khó hài hòa giữa hai mục đích của việc CPH như đã nói ở trên, Nhà nước cần phải xem xét rõ ràng nên ưu tiên mục đích nào trước. Sự ra nhập WTO trong thời gian vừa qua cho thấy nền kinh tế chịu rất nhiều sức ép, đặc biệt là của nhóm các doanh nghiệp nhà nước có hiệu quả đầu tư kém mặc dù được ưu tiên rất nhiều về vốn dẫn đến rất nhiều vấn đề như chất lượng của tăng trưởng GDP, lạm phát, thâm hụt thương mại,.. Chính phủ nên xem xét việc đàm phán và bán cho các đối tác chiến lược trước với những cam kết rất cụ thể rõ ràng trong việc hỗ trợ doanh nghiệp cũng như thời gian nắm giữ (nhằm hạn chế những nhà đầu cơ tiềm năng). Việc IPO ra công chúng sẽ được tiến hành sau và nên lựa chọn vào những thời điểm hợp lý nhằm tránh những cú sốc gây biến động mạnh cân bằng cung – cầu trên thị trường. Đặc biệt Chính phủ cũng nên hạn chế tối đa tình trạng các định chế lớn bị đọng vốn quá lâu như trong thời gian vừa qua làm giảm niềm tin và sự kỳ vọng vào TTCK VN. Nhà nước cũng cần đa dạng hóa các cách thức định giá doanh nghiệp cũng như việc minh bạch hóa các thông tin về doanh nghiệp. 3.1.3. Đối với các chính sách áp dụng cho TTCK Các chính sách trong thời gian tới chắc chắn sẽ tiếp tục có những ảnh hưởng lớn và đóng vai trò chủ đạo tới sự biến động của TTCK. Tuy nhiên trong bối cảnh hiện nay, ưu tiên số1 trước mắt của Chính phủ là hạn chế lạm phát. Về TTCK, theo nhận định của chúng tôi, Chính phủ hướng tới hạn chế sự sụt giảm sâu tránh sự tác động mang tính dây chuyền. Vì vậy trong thời gian trước mắt, chúng tôi cho rằng Chính phủ có khả năng áp dụng một số biện pháp sau: - Tiếp tục áp dụng công cụ mang tính chất kỹ thuật như thay đổi biên độ giao dịch nhằm hạn chế sự giảm mạnh của thị trường. - Nhiều khả năng nhà nước sẽ tiến hành đánh thuế thu nhập Chứng khoán bắt đầu từ năm 2009. - Để đảm bảo ổn định trong cán cân thanh toán, nhà nước có thể sớm áp dụng các biện pháp quản lý dòng vốn đầu tư gián tiếp(FII). - Tiếp tục hạn chế tín dụng cho thị trường chứng khoán. 3.1.4. Đối với môi trường cho nhà đầu tư nước ngoài Mặc dù nhìn chung có nhiều tiến bộ, song vẫn còn tồn tại nhiều điểm chưa rõ về khung pháp lí điều tiết nhà đầu tư nước ngoài trong 2 lĩnh vực. Thứ nhất, đó là quy định về nhóm các công ty quản lý quỹ và công ty chứng khoán hiện diện tại Việt Nam thông qua hình thức văn phòng đại diện. Thứ hai, yêu cầu làm rõ về mứ độ điều chỉnh của hai Bộ Luật: Luật Doanh Nghiệp và Luật Đầu tư (2005) đối với phần sở hữu nước ngoài của các công ty niêm yết và công ty cổ phần. Trong khi vấn đề này rõ ràng là thuộc thẩm quyền Chính phủ. 3.2. Một số khuyến nghị đối với nhà đầu tư Trên cơ sở những thông tin về nền kinh tế vĩ mô, thông tin về tình hình hoạt động của các lĩnh vực kinh tế, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và những diễn biến trên thị trường tài chính chứng khoán, nhà đầu tư dành sự quan tâm tới những doanh nghiệp có đặc điểm sau đây trong danh mục đầu tư cổ phiếu của mình: 1) Hoạt động trong lĩnh vực ít chịu ảnh hưởng của lạm phát hoặc có lợi thế nhờ lạm phát như: Hoá chất chuyên dụng & hoá chất hàng hoá; Dầu khí; Hàng tiêu dùng thiết yếu. 2) Doanh nghiệp có vị thế tốt trên thị trường thể hiện ở thương hiệu trong lĩnh vực kinh doanh, quy mô doanh thu, quy mô tài sản. 3) Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực yêu cầu đòn bẩy hoạt động không cao, sử dụng đòn bẩy tài chính ở mức độ trung bình. 4) Doanh nghiệp sử dụng nguồn thặng dư vốn thông qua các đợt phát hành trong năm 2006 & 2007 tập trung vào nâng cao giá trị cốt lõi. 5) Kết quả từ hoạt động kinh doanh thông thường của doanh nghiệp là nguồn đóng góp chủ yếu cho lợi nhuận cuối cùng của doanh nghiệp trong giai đoạn vừa qua. 6) Các chỉ số tài chính cơ bản như ROA, ROIC, EPS… trong mối tương quan với chi phí sử dụng vốn của doanh nghiệp thể hiện được tính hiệu quả và tăng trưởng của doanh nghiệp. 7) Ưu tiên cho những cổ phiếu có hệ số PE_forward thấp hơn tốc độ tăng trưởng EPS tương lai. 8) Ưu tiên cho những cổ phiếu có P/BV nhỏ hơn 1. 9) Ưu tiên cho những doanh nghiệp có dòng tiền dương từ hoạt động sản xuất kinh doanh. KẾT LUẬN Diễn biến đi xuống của TTCK Việt Nam đặc biệt là từ đầu năm 2008 xét trong mối quan hệ với nền kinh tế đã chịu tác động lớn từ ba nhóm nhân tố: một là sự suy giảm của nền kinh tế toàn cầu, hai là những yếu kém trong nội tại nền kinh tế và ba là những điểm chưa hợp lý trong hoạt động của TTCK Việt Nam. Năm 2008 là năm bản lề thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2006 – 2010, UBCKNN cần phải nỗ lực hơn nữa để nâng cao chất lượng hoạt động của TTCK; tổ chức đánh giá và hoàn thiện thể chế; tăng cường hơn nữa hoạt động giám sát thị trường, đặc biệt quan tâm đến phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin ngành chứng khoán...giúp cho thị trường ngày càng phát triển, công khai minh bạch, đưa TTCK thực sự trở thành một kênh huy động vốn đầu tư có hiệu quả cho nền kinh tế, góp phần vào công cuộc đổi mới và phát triển đất nước. Tuy nhiên, quá trình hội nhập thị trường vốn phải đặt trong tổng thể quá trình hội nhập cũng như quá trình cải cách thị trường tài chính, hệ thống tài chính ngân hàng và cải cách nền kinh tế nói chung. Nếu thiếu sự gắn kết này, thị trường vốn khó lòng phát triển và đủ sức chống đỡ các bất ổn từ bên ngoài. Những nội dung đề cập trên đây chỉ mang tính khái quát, sơ lược về nghiệp vụ. Hy vọng rằng những ý kiến đóng góp của em sẽ góp phần cải thiện tình trạng của thị trường chứng khoán hiện nay. Để giải quyết vấn đề hiện tại của thị trường chứng khoán đòi hỏi nhiều thời gian nghiên cứu trong khi trình độ còn hạn chế nên chuyên đề có thể có nhiều sơ suất, thiếu sót, em rất mong được sự thông cảm và giúp đỡ của các thầy cô giáo. Một lần nữa, em xin chân thành cảm ơn! LỜI CAM ĐOAN Em xin cam đoan tất cả nội dung kiến thức, số liệu trong bài chuyên đề này là kết quả nghiên cứu của em. DANH MỤC CÁC HÌNH, BẢNG Bảng/Hình Nội dung Trang Bảng 1 Tổng quan thị trường chứng khoán 7 Bảng 2 Top 10 công ty niêm yết tại HOSE 8 Bảng 3 Khối lượng giao dịch 11 Bảng 4 Cung - Cầu chứng khoán 11 Bảng 5 Giao dịch chứng khoán của NĐTNN 11 Bảng 6 Tốc độ tăng trưởng GDP các nước 13 Bảng 7 Tỷ lệ lạm phát của các nước 14 Bảng 8 Chỉ số chứng khoán của các nước 16 Bảng 9 Thống kê kết quả đấu giá 28 Hình 1 Chỉ số VNIndex từ đầu năm 2007 đến nay 9 Hình 2 VNIndex QI/2008 10 Hình 3 Biến động VNIndex so với Nikkei và Dow Jones trong QI/2008 18 Hình 4 Biến động thị trường chứng khoán với các chính sách 30 DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình Thị trường chứng khoán, Học viện Ngân hàng 2. Giáo trình Những vấn đề cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán, Uỷ ban chứng khoán Nhà nước. 3.Các văn bản pháp luật có liên quan - Nghị định 144/2003/NĐ - CP của Chính phủ về Chứng khoán và thị trường chứng khoán. - Luật doanh nghiệp 2003 - Luật doanh nghiệp nhà nước 2004 4. Tạp chí: - Tạp chí Đầu tư chứng khoán - Tạp chí Chứng khoán Việt Nam - Tạp chí Thị trường Tài chính tiền tệ 5. Các trang web: - www.ssc.gov.vn - www.ssi.com.vn - www.bsc.com.vn - www.vse.org.vn - www.hastc.org.vn - www.tsc.com.vn - www.mof.org.vn 6. Một số tài liệu khác MỤC LỤC Lời mở đầu ……………………………………………………………………….............1 Chương I : Những vấn đề cơ bản về Phân tích thị trường chứng khoán 1.1. Tổng quan về thị trường chứng khoán……………………………………….3 1.1.1. Khái niệm ……………………………………………………………………3 1.1.2. Chức năng cơ bản của thị trường chứng khoán ……………………………...3 1.1.3. Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán ……………………………….3 1.1.4. Các nguyên tắc hoạt động cơ bản của thị trường chứng khoán ……………...4 1.1.5. Cấu trức và phân loại cơ bản của thị trường chứng khoán …………………..4 1.2. Phân tích thị trường ………………………………………………………….5 1.2.1. Phân tích tình hình kinh tế thế giới …………………………………………..5 1.2.2. Phân tích tình hình kinh tế trong nước ………………………………………6 Chương II : Phân tích các nhân tố vĩ mô ảnh hưởng tới thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay 2.1. Thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam ………………………………7 2.1.1. Tổng hợp thị trường niêm yết ………………………………………………..7 2.1.2. Tổng hợp thị trường OTC …………………………………………………..12 2.2. Phân tích thị trường ………………………………………………………...13 2.2.1. Kinh tế thế giới và sự ảnh hưởng đến TTCK Việt Nam …………………....13 2.2.1.1. Kinh tế thế giới ……………………………………………………………..13 2.2.1.2. Thị trường chứng khoán thế giới …………………………………………...15 2.2.1.3. Tác động tới nền kinh tế và TTCK Việt Nam ……………………………...16 2.2.2. Kinh tế Việt Nam và sự ảnh hưởng tới TTCK Việt Nam …………………..18 2.2.2.1. Kinh tế Việt Nam từ những thách thức tăng trưởng ………………………..18 2.2.2.2. Những chỉ tiêu vĩ mô của nền kinh tế Việt Nam …………………………...21 2.2.2.3. Tác động tới TTCK Việt Nam ……………………………………………...25 2.2.3. Các yếu tố nội tại của TTCK Việt Nam ……………………………………26 2.2.3.1. Cổ phần hoá và cách thức tiến hành IPO …………………………………...26 2.2.3.2. Các chính sách tác động đến TTCK ………………………………………..30 2.2.3.3. Giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài ………………………………………31 2.3. Dự báo xu hướng TTCK Việt Nam trong thời gian tới …………………….33 Chương III : Giải pháp khắc phục tình hình thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay 3.1. Giải pháp phát triển TTCK …………………………………………………36 3.2.1. Đối với việc phát triển nền kinh tế …………………………………………36 3.1.1. Đối với việc cổ phần hoá và cách thức tiến hành IPO ……………………...38 3.1.2. Đối với các chính sách áp dụng cho TTCK ………………………………...39 3.1.3. Đối với môi trường cho nhà đầu tư nước ngoài ……………………………40 3.2. Một số khuyến nghị đối với nhà đầu tư …………………………………….40 Kết luận …………………………………………………………………………………..41 Lời cam đoan ......................................................................................................................42 Danh mục các hình, bảng ..................................................................................................43 Danh sách tài liệu tham khảo …………………………………………………………...44

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxCK03.docx
Tài liệu liên quan