Chuyên đề Phát triển dịch vụ bao thanh toán xuất khẩu tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Tây Hà Nội

Hướng tới mục tiêu đa dạng hóa sản phẩm nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng là mục tiêu của các ngân hàng thương mại nói chung và của NHNo&PTNT Tây Hà Nội nói riêng. Hơn nữa, hưởng ứng định hướng xuất khẩu của Chính phủ Việt Nam về hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu ra nước ngoài còn là trách nhiệm của mỗi đơn vị. Dù đã có nhiều sản phẩm và dịch vụ phục vụ khối khách hàng doanh nghiệp, đặc biệt là khối doanh nghiệp xuất khẩu song còn chưa đáp ứng được nhiều mặt nhu cầu đa dạng của các doanh nghiệp này. Nhận thấy bao thanh toán xuất khẩu là một dịch vụ mới với rất nhiều lợi ích và đang tạo nên một xu hướng mới trên thế giới, đề tài xin đưa ra một số đề xuất nhằm phát triển dịch vụ này tại NHNo & PTNT Tây Hà Nội: Về giải pháp: Ngân hàng cần tiến hành đào tạo, bồi dưỡng thêm kiến thức về bao thanh toán xuất khẩu cho đội ngũ cán bộ; đưa ra một quy trình thực hiện bao thanh toán xuất khẩu phù hợp; xây dựng những chiến lược marketing cụ thể và hợp lý trong việc quảng bá cũng như đưa dịch vụ mới này vào thực hiện hiệu quả. Về kiến nghị: Hội sở NHNo & PTNT Việt Nam cần có những bước đi tiên phong trong việc phát triển dịch vụ này, song song đó phải có kế hoạch cụ thể chuẩn bị để gia nhập tổ chức bao thanh toán quốc tế; ngân hàng Nhà nước cần hoàn thiện hơn nữa các cơ chế chính sách liên quan đến bao thanh toán và sớm thông qua đề án thành lập tổ chức bảo hiểm tín dụng xuất khẩu. Với giải pháp và kiến nghị trên đối với các bên liên quan, hy vọng đề tài sẽ góp phần đưa dịch vụ bao thanh toán xuất khẩu vào thực hiện tại NHNo & PTNT Tây Hà Nội, tạo ra một dịch vụ tiện ích hỗ trợ đắc lực cho sự phát triển của các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam, nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng trong giai đoạn nền tài chính đang phát triển với nhiều ngân hàng nước ngoài tham gia vào thị trường trong nước.

doc72 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1737 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Phát triển dịch vụ bao thanh toán xuất khẩu tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Tây Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thống NHNo&PTNT Việt Nam đưa thêm dịch vụ bao thanh toán vào kinh doanh và ứng dụng các phần mềm chuyên dụng cho hoạt động bao thanh toán như Factoring Softwear, Factoring Casestudy,… Nhanh chóng đổi mới công nghệ tiên tiến giúp NHNo&PTNT Tây Hà Nội nói riêng và cả hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam nói chung tăng sức cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng, tài chính. 2.2.2.Điều kiện thuận lợi bên ngoài 2.2.2.1.Hoạt động xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian qua tăng trưởng đều Những thành tựu kinh tế - xã hội gặt hái được trong những năm gần đây đã đánh dấu sự trưởng thành của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là sự kiện Việt Nam gia nhập WTO tháng 1 năm 2007. Tăng trưởng kinh tế hàng năm luôn ở mức cao trong khu vực và thế giới từ 7-8%/năm. Các doanh nghiệp Việt Nam đã mạnh dạn hơn trong việc vươn ra thị trường thế giới. Điều đó được thể hiện với kim ngạch xuất khẩu liên tục tăng, năm sau cao hơn năm trước. Năm 2007, kim ngạch xuất khẩu đạt mức cao nhất từ trước tới nay đạt 48 tỷ USD, tăng 20,5% so với năm 2006, vượt 3,1% so với kế hoạch Chính phủ đặt ra là 17,4% (tương đương 46,76 tỷ USD). Với kết quả này, quy mô xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam bằng 68,1% tổng sản phầm quốc nội (GDP) năm 2007. Kim ngạch của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 56,9% kim ngạch xuất khẩu của cả nước, đạt 27,3% tỷ USD, tăng 18,6% so với năm 2006; của khu vực doanh nghiệp 100% vốn trong nước tăng 23,1% so với năm 2006. Về giá trị, kim ngạch xuất khẩu năm 2007 tăng 8,2% tỷ USD. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng nông, lâm, thủy sản tăng 1,7% tỷ USD, nhóm nhiên liệu, khoáng sản tăng 0,2% tỷ USD, nhóm công nghiệp và thủ công mỹ nghệ tăng 3,7% tỷ USD và nhóm hàng khác tăng 2,6 tỷ USD. Về mặt hàng xuất khẩu, 10 mặt hàng và nhóm hàng có kim ngạch trên 1 tỷ USD là thủy sản, gạo, cà phê, cao su, dầu thô, dệt may, giầy dép, điện tử và linh kiện máy tính, sản phẩm gỗ và nhóm sản phẩm cơ khí. Trong đó, ngoài 4 mặt hàng lớn truyền thống là dầu thô, dệt may, giày dép và thủy sản kim ngạch mỗi mặt hàng đạt trên 3 tỷ USD, thì 2 mặt hàng điện tử và sản phẩm gỗ cũng đã đạt trên 2 tỷ USD. Một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực có khối lượng giảm so với năm 2006 như: Dầu thô đạt 15,2 triệu tấn, thấp hơn cùng kỳ 7,4%; Hạt tiêu ước đạt 100 ngàn tấn, thấp hơn cùng kỳ 14,3%; Gạo ước đạt 4,5 triệu tấn, thấp hơn cùng kỳ 3,1%. Những mặt hàng chủ lực có lượng xuất khẩu tăng khá so với năm 2006 gồm: Gạo tăng 16%; Cà phê tăng 50%; Hạt tiêu tăng 73%; Nhân điều (30,8%); Hàng Dệt may (32%); Điện tử và linh kiện máy tính (28,8%); Sản phẩm gỗ 21,1%; Sản phẩm nhựa 45,8%; Dây điện và cáp điện tăng 27,7%... Một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực do giá thế giới tăng mạnh nên về mặt trị giá tăng khá so với năm 2006 như: Cà phê tăng 50% mặc dù lượng xuất khẩu tăng 22,3%; Hạt tiêu tăng 73,3% trong khi lượng giảm 14,7%... Nhóm sản phẩm cơ khí đạt tốc độ tăng trưởng cao trên 120% so với năm 2006, đem lại kim ngạch trên 2,2tỷ USD năm 2007. 2.2.2.2.Nhu cầu hỗ trợ xuất khẩu cho các doanh nghiệp Việt Nam lớn Hoạt động xuất khẩu những năm vừa qua tuy đã có những bước phát triển song còn nhiều hạn chế. Thực tế, doanh nghiệp Việt Nam còn gặp rất nhiều trở ngại khi tham gia vào hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng xuất khẩu, nhất là đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Theo một điều tra được thực hiện năm 2005 của bộ Thương mại (nay là bộ Công thương) ta thấy nhu cầu về thông tin thị trường xuất khẩu, đối tác là khó khăn lớn nhất của các doanh nghiệp Việt Nam, chiếm 38%. Phần lớn những thông tin và doanh nghiệp có được đều thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, không mang tính thống. Trong khi đó, các công ty chuyên cung cấp thông tin về thị trường nước ngoài còn ít và hoạt động còn nhỏ lẻ. Thiếu thông tin khiến các doanh nghiệp Việt Nam khó đánh giá đầy đủ về bạn hàng của mình. Thông tin cần phải tin cậy, chính xác mới đảm bảo cho doanh nghiệp yên tâm hơn khi thực hiện xuất khẩu, tránh được rủi ro từ phía đối tác, đảm bảo thu nợ từ phía nhà nhập khẩu. Bảng 2.5: Điều tra nhu cầu các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam Đơn vị: Doanh nghiệp STT Các nhu cầu hỗ trợ xuất khẩu doanh nghiệp quan tâm Số doanh nghiệp Tỷ trọng (%) Cung cấp thông tin về thị trường xuất khẩu và uy tín của các đối tác thương mại 384 38.0 Đơn giản hóa thủ tục xuất khẩu 176 17.4 Cung cấp tín dụng xuất khẩu và thành lập một hệ thống bảo hiểm thương mại 110 11 Tăng cường tính minh bạch về thuế xuất khẩu 30 3.0 Hoàn thiện cơ quan kiểm hóa hàng xuất khẩu 47 4.5 Đào tạo kiến thức về chuẩn mực quốc tế đối với công nghệ 32 3.2 Cung cấp dịch vụ tư vấn xuất khẩu 49 4.8 Tăng khả năng cạnh tranh trong hoạt động xuất khẩu 100 10 Thành lập các trung tâm đầu mối để cung cấp các dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu 78 7.7 Các biện pháp khác 5 0.4 Tổng 1011 100 (Nguồn: Bộ Công thương) Từ bảng thống kê trên, ta thấy nhu cầu về vốn hoạt động đứng thứ 3 trong các nhu cầu doanh nghiệp cần được hỗ trợ. Trước đây, các doanh nghiệp thường thu hút vốn từ các kênh: thu hút vốn trên thị trường chứng khoán, vốn ngân hàng thương mại, các quỹ hỗ trợ xuất khẩu, Ngân hàng Phát triển Việt Nam (trước đây là Quỹ hỗ trợ phát triển),… và được hưởng các chính sách trợ cấp xuất khẩu khác của chính phủ dành cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Tuy nhiên, từ khi gia nhập WTO, các chính sách trợ cấp xuất khẩu của Việt Nam như thưởng thành tích xuất khẩu, thưởng vượt kim ngạch xuất khẩu, trợ cấp thay thế nhập khẩu hay chính sách tín dụng ngắn hạn hỗ trợ xuất khẩu do Quỹ Hỗ trợ phát triển (nay là Ngân hàng Phát triển Việt Nam) thực hiện từ năm 2001 dưới hình thức cho vay lãi suất ưu đãi, theo quy định của WTO, đã không còn được thực hiện. Để phù hợp với các cam kết khi gia nhập WTO, Chính phủ đã tiến hành đổi mới cơ chế hỗ trợ tín dụng cho các doanh nghiệp theo hướng tham khảo và áp dụng các cơ chế hỗ trợ tín dụng cho xuất khẩu của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) được WTO công nhận Các cơ chế và chính sách hỗ trợ xuất khẩu hiện đang được áp dụng là: hỗ trợ về xúc tiến thương mại, hỗ trợ về xây dựng thương hiệu, hỗ trợ đào tạo cho doanh nghiệp và hỗ trợ tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu. Chính phủ đã ban hành Nghị định số 151/2006/NĐ-CP ngày 20/12/2006 về tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước. Các biện pháp hỗ trợ tín dụng này tập trung vào các công cụ cho vay đầu tư, bảo lãnh tín dụng đầu tư, hỗ trợ sau đầu tư; cho vay xuất khẩu (cho nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu vay), bảo lãnh tín dụng xuất khẩu, bảo lãnh dự thầu và bảo lãnh thực hiện hợp đồng. Tuy nhiên những hỗ trợ này được đánh giá là chưa đáp ứng yêu cầu, nhu cầu của doanh nghiệp. Trong khi đó, các ngân hàng thương mại đóng một vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Từ sau khi gia nhập WTO, thị trường tài chính – tiền tệ Việt Nam đã đón nhận thêm rất nhiều ngân hàng thương mại mới thành lập và các ngân hàng thương mại nước ngoài đến hoạt động kinh doanh. Tính đến nay có 4 ngân hàng thương mại quốc doanh, hơn 40 ngân hàng thương mại cổ phần, gần 50 Chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên doanh với nước ngoài. Các ngân hàng thương mại không chỉ là bạn hàng mà còn là người đỡ đầu cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Dù có nhiều cải tiến song hoạt động tài trợ xuất khẩu của khối các ngân hàng thương mại còn đơn điệu. Nghiệp vụ tài trợ xuất khẩu của khối các ngân hàng thương mại còn mang hình thức cổ điển, các hình thức tiên tiến khác còn ít được áp dụng hoặc áp dụng nhưng kết quả không đáng kể. Hoạt động tài trợ tín dụng chủ yếu là thanh toán L/C, phát hành bảo lãnh, hối phiếu đi kèm bộ chứng từ nhờ thu… Dịch vụ chiết khấu chứng từ mới chỉ dừng lại ở chiết khấu có truy đòi. Như vây, có thể kết luận rằng nhu cầu vốn của các doanh nghiệp xuất khẩu là rất lớn và vẫn chưa được đáp ứng. 2.2.2.3.Ngân hàng mẹ có quan hệ tốt với các tổ chức ngân hàng thương mại khác trên thế giới Với thời gian hoạt động 20 năm, NHNo&PTNT Việt Nam đã tạo dựng được một hệ thống ngân hàng đại lý rộng khắp và uy tín với hơn 900 ngân hàng đại lý tại 110 quốc gia và vùng lãnh thổ. Mối quan hệ này thường xuyên được củng cố và phát triển về mặt số lượng cũng như chất lượng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các mảng dịch vụ khác phát triển. Trong các ngân hàng đó có rất nhiều ngân hàng đã có kinh nghiệm trong thực hiện dịch vụ bao thanh toán xuất khẩu như: HSBC Bank, Deutsche Bank Trust Company Americans, Fortis Bank Hongkong,… Như vậy, nếu phát triển dịch vụ bao thanh toán xuất khẩu, NHNo&PTNT Tây Hà Nội sẽ có cơ hội học hỏi nhiều với sự hỗ trợ của các ngân hàng đại lý này. Mối quan hệ này thường xuyên được củng cố và phát triển về mặt số lượng cũng như chất lượng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các mảng dịch vụ khác phát triển. Trong hoạt động bao thanh toán xuất khẩu với đặc thù của bao thanh toán là chi trả một khoản ứng trước cho khách hàng nên việc thu nợ quyết định rất lớn đến sự thành bại của một hợp đồng bao thanh toán. Việc thu nợ này lại phụ thuộc lớn vào uy tín, độ tin cậy không những của khách hàng mà quan trọng hơn là của người mua hàng. Để giải quyết vấn đề này, một mối quan hệ tốt với ngân hàng đại lý bên nước người nhập khẩu cực kỳ quan trọng. Ngân hàng đại lý sẽ cung cấp một lượng thông tin khá lớn về khách hàng và người mua hàng mà nếu độc lập tìm kiếm một cách riêng lẻ thì cực kỳ khó khăn cho NHNo&PTNT Tây Hà Nội. Họ sẽ giúp NHNo&PTNT Tây Hà Nội trong việc đánh giá khả năng tài chính cũng như hỗ trợ quản lý thu nợ từ các nhà nhập khẩu. Làm tốt ở khâu thẩm định sẽ giúp ngân hàng bao thanh toán xuất khẩu giảm thiểu rủi ro khi bắt đầu tham gia thực hiện dịch vụ này. 2.3.Phân tích các điều kiện khó khăn phát triển hoạt động bao thanh toán tại NHNo&PTNT Tây Hà Nội Những phân tích ở trên cho thấy ngân hàng NHNo&PTNT Tây Hà Nội đã hội tụ khá nhiều điều kiện thuận lợi cho phép phát triển dịch vụ bao thanh toán xuất khẩu. Tuy nhiên NHNo&PTNT Tây Hà Nội vẫn còn một số điểm còn hạn chế cần khắc phục và hoàn thiện. 2.3.1.Điều kiện bên trong 2.3.1.1.Hiểu biêt của đội ngũ cán bộ về bao thanh toán còn chưa chuyên sâu Mặc dù có đội ngũ cán bộ trẻ, nhanh nhạy, nắm vững các nghiệp vụ liên quan đến bao thanh toán như thẩm định hay tín dụng nhưng hiểu biết của các cán bộ này về bao thanh toán đều mới chỉ ở mức độ nhất định. Những cán bộ được đào tạo chuyên sâu về bao thanh toán còn rất hiếm và kiến thức cơ bản về bao thanh toán cũng rất ít được cán bộ nhân viên trong NHNo&PTNT Tây Hà Nội tìm hiểu. Bản chất của bao thanh toán là tổng hợp của nhiều nghiệp vụ ngân hàng, nó không khó nhưng phức tạp hơn các nghiệp vụ ngân hàng khác. Cán bộ bao thanh toán không những chỉ cần nắm chắc nghiệp vụ tín dụng mà còn cần được trang bị những kiến thức liên quan đến xuất nhập khẩu, các tập quán quốc tế, có khả năng phân tích tốt. Cách đây 2 năm, một số ngân hàng khác ở Việt Nam như Vietcombank, Habubank, Incombank đã quan tâm và đầu tư cho việc triển khai thực hiện bao thanh toán bằng các công tác về nhân lực hay những hành động cụ thể như mời chuyên gia về bao thanh toán từ những trường đại học nước ngòai hợp tác để đào tạo cho cán bộ nhân viên và bước đầu đã thực hiện một số hợp đồng bao thanh toán xuất khẩu. Để không bị tụt lùi quá xa so với ngân hàng và tổ chức tín dụng khác, NHNo&PTNT Việt Nam cũng như NHNo&PTNT Tây Hà Nội cần phải xác định những hành động cụ thể tiến hành triển khai bao thanh toán xuất khẩu. Với đội ngũ cán bộ được đào tạo chuyên sâu về nghiệp vụ ngân hàng và có bề dày kinh nghiệm của mình, việc khắc phục hạn chế này chỉ là vấn đề thời gian. 2.3.1.2.Chưa có một quy trình thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán xuất khẩu Hiện nay tuy hội sở chính ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển đã có chủ trương phát triển nghiệp vụ này nhưng vẫn chưa ban hành quy trình thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán xuất khẩu. Hệ thống ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam hiện đã đưa ra các quy trình thực hiện nghiệp vụ cho những bộ phận như bộ phận thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại tệ, tín dụng…, và cũng đã có văn bản quy định mối quan hệ giữa các phòng ban. Song một quy trình cụ thể cho nghiệp vụ bao thanh toán xuất khẩu vẫn chưa được hoàn thành. Điều này sẽ gây khó khăn cho ngân hàng vì nếu chưa có một quy trình thống nhất, việc thực hiện bao thanh toán xuất khẩu của cán bộ ngân hàng đối với từng hợp đồng, ở từng chi nhánh khác nhau sẽ thiếu nhất quán, và không có chuẩn mực để đánh giá chất lượng của từng thương vụ. 2.3.1.3.NHNo&PTNT Tây Hà Nội chưa chú trọng quảng bá thương hiệu Trong khi các ngân hàng thương mại cổ phần khác không ngừng quảng cáo, nâng cao hình ảnh thương hiệu của mình trong lòng dân chúng thì hoạt động này ở NHNo&PTNT Tây Hà Nội nói chung và NHNo&PTNT Việt Nam chưa được coi trọng. Các quảng cáo trên truyền hình và đài phát thanh – những kênh thông tin phổ biến nhất tại Việt Nam- thực sự rất hiếm. Các chiến dịch marketing còn lẻ tẻ và chưa được đầu tư đúng mức so với tầm vóc của ngân hàng hiện nay, một ngân hàng có số vốn điều lệ lớn nhất trong các ngân hàng thương mại và tổ chức tài chính Việt Nam. Các đợt huy động vốn không được thông tin đến khách hàng và hầu như chỉ gói gọn trong khuôn viên của trụ sở.Trang thông tin của ngân hàng NHNo&PTNT Việt Nam cũng như NHNo&PTNT Tây Hà Nội không được cập nhật thường xuyên trong khi hiện nay internet là một phương tiện phổ biến và hữu hiệu đối với khách hàng doanh nghiệp. Nguyên nhân của sự trì trệ này là do khâu Marketing của NHNo&PTNT Việt Nam chưa được lãnh đạo quan tâm đúng mức, thậm chí ở những chi nhánh cấp 1 như NHNo&PTNT Tây Hà Nội còn chưa có một phòng ban phụ trách riêng vấn đề này. 2.3.2.Điều kiện bên ngoài Trên lý thuyết, bao thanh toán là một nghiệp vụ đơn giản, nhưng điều kiện để nó thực sự đơn giản là được sự hỗ trợ bởi một hành lang pháp lý minh bạch, đầy đủ... Chính vì điều kiện thực tế ở Việt Nam hiện nay không đáp ứng những yêu cầu trên nên nghiệp vụ bao thanh toán mãi vẫn chưa được triển khai. Những khó khăn được nêu ra dưới đây mà các ngân hàng thương mại hoạt động tại Việt Nam gặp phải khi quyết định triển khai bao thanh toán: 2.3.2.1.Vấn đề công khai hóa hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp Bao thanh toán không chỉ tham gia vào công đoạn đầu là cho vay đối với người bán, mà còn đi sâu vào cả quá trình tiếp theo nhằm mục đích để cho đơn vị bao thanh toán có thể kiểm soát được cả bên mua bán và nhất là kiểm soát được mục đích sử dụng vốn vay của doanh nghiệp. Chính đặc điểm này đã tạo ra rào cản ngăn trở quá trình đơn vị bao thanh toán tiếp xúc với các doanh nghiệp. Tâm lý các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa muốn công khai tình hình hoạt động, càng không muốn một tổ chức bất kỳ nào can thiệp vào quá trình kinh doanh của họ do sợ lộ bí mật kinh doanh hay chỉ đơn giản là không muốn người khác biết doanh thu của doanh nghiệp mình. Vì vậy, các đơn vị bao thanh toán gặp nhiều khó khăn khi tiếp thị sản phẩm mới với khách hàng. Một vấn đề nữa là việc minh bạch và lành mạnh hóa các báo cáo kiểm toán. Dù xét về mặt lý thuyết, bao thanh toán khắc phục được tình trạng cho vay dựa trên thế chấp của tín dụng ngân hàng, nhưng thực tế ở Việt Nam thì chưa hẳn vậy. Các ngân hàng Việt Nam, và kể cả các ngân hàng nước ngoài, vẫn coi trọng tài sản đảm bảo. Về điều này cũng không thể trách các ngân hàng được vì đặc điểm thị trường Việt Nam đầy rủi ro không cho phép họ mạo hiểm. Các ngân hàng không thể xét duyệt hạn mức tín dụng đơn thuần sau khi nghe các doanh nghiệp chứng minh tình trạng tài chính của mình là lành mạnh trong khi những lý lẽ đó có được từ việc phân tích các báo cáo tài chính không thể tin tưởng được. 2.3.2.2. Tâm lý dè dặt trước sản phẩm mới của doanh nghiệp Các doanh nghiệp vẫn quen dùng các phương thức thanh toán truyền thống như chuyển tiền T/T, đặc biệt là L/C. Nhận thức của phần lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam cộng với môi trường kinh tế không ổn định khiến rất khó thuyết phục được họ nhận biết được những lợi ích mà bao thanh toán có thể đem lại về lâu dài qua các dịch vụ phong phú, đa dạng của nó như tư vấn về khách hàng, thu nợ hộ, quản lý các khoản phải thu của khách hàng, bảo hiểm rủi ro. Chính tâm lý dè đặt trước sản phẩm mới của doanh nghiệp cũng góp phần làm thui chột đi sự năng động, sáng tạo và tìm kiếm các sản phẩm dịch vụ mới của ngân hàng. 2.3.2.3. Chưa có quỹ dự phòng bù đắp rủi ro và bảo hiểm tín dụng cho các ngân hàng Bao thanh toán, cũng giống như các nghiệp vụ tín dụng khác, là loại hình kinh doanh có rủi ro. Nhưng mức rủi ro so với khả năng sinh lời ở tỷ lệ nào là chấp nhận được, đó mới là vấn đề quan trọng. Cho đến nay, Ngân hàng Nhà nước vẫn chưa có quỹ dự phòng bù đắp rủi ro, chưa có quy định cụ thể về tỷ lệ bù đắp rủi ro cho từng loại nghiệp vụ ngân hàng và việc trích lập quỹ rủi ro như thế nào vẫn đang là vấn đề tranh cãi. Mặc dù trong 5 năm qua, xuất khẩu VN ngày càng khẳng định vai trò hết sức quan trọng trong việc phát triển kinh tế quốc gia, chiếm từ 50%-70% GDP/năm với tốc độ tăng trưởng 20%/năm nhưng việc bảo hiểm xuất khẩu chưa được xem trọng. Các DN chỉ mới triển khai bảo hiểm hàng hóa xuất khẩu ở mức từ 3%-5% tổng giá trị hàng xuất, một tỉ lệ hết sức khiêm tốn so với nhiều nước khác. Theo Vụ Bảo hiểm, Bộ Tài chính, doanh thu phí bảo hiểm tín dụng xuất khẩu cả nước năm 2007 chỉ có 3 triệu đô la Mỹ, trong khi tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 45,8 tỉ đô la Mỹ, một tỉ lệ quá thấp. Riêng bảo hiểm tín dụng xuất khẩu thì tại VN vẫn chưa có, trong khi tại châu Âu, bảo hiểm tín dụng xuất khẩu đang phát triển rất nhanh, chiếm 80% thị phần trên toàn thế giới; tại nhiều nước châu Á như Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ,... cũng đã triển khai từ lâu. 2.3.2.4.Môi trường thông tin của nền kinh tế trong nước chưa được minh bạch hóa Cơ sở thông tin dữ liệu về khách hàng đã có nhưng vẫn còn thiếu, yếu và chưa được tập trung. Hiện nay, mới chỉ có Trung tâm thông tin tín dụng CIC của NHNN là đầu mối tập trung thông tin nhiều nhất phục vụ cho hoạt động tín dụng của các ngân hàng. Tuy nhiên, thông tin từ CIC vì một số lý do khách quan vẫn chưa phản ánh đúng mức độ an toàn tín dụng của khách hàng. 2.4.Nguyên nhân 2.4.1.Nguyên nhân chủ quan Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những khó khăn cho việc phát triển dịch vụ bao thanh toán xuất khẩu tại NHNo&PTNT Tây Hà Nội. Các nguyên nhân đó có thể đến từ phía ngân hàng và từ môi trường bên ngoài. 2.4.1.1.NHNo&PTNT Tây Hà Nội chưa quan tâm việc tập huấn cho nhân viên những dịch vụ mới Ngoài lý do dịch vụ bao thanh toán xuất khẩu còn khá mới mẻ đối với Việt Nam dẫn đến cán bộ ngân hàng chưa hiểu rõ về dịch vụ này thì còn vì một nguyên nhân khác là do ngân hàng cũng chưa quan tâm đến việc tập huấn, giới thiệu cho nhân viên những nghiệp vụ mới. Tuy chưa đưa vào triển khai nhưng việc có những buổi giới thiệu cho cán bộ về dịch vụ mới là vô cùng quan trọng. Ở NHNo&PTNT Tây Hà Nội điều này vẫn chưa được thực hiện. Vấn đề này sẽ gây khó khăn và tốn kém thời gian khi ngân hàng tiến hành phát triển dịch vụ này. 2.4.1.2.NHNo&PTNT Tây Hà Nội chưa có sự quan tâm đúng mức đến việc cung cấp dịch vụ bao thanh toán xuất khẩu Ngay bản thân ngân hàng cũng chưa quan tâm đúng mức đến việc cung cấp dịch vụ này. Ngân hàng NHNo&PTNT Tây Hà Nội, và có lẽ nhiều ngân hàng khác cũng đang trong tình trạng thiếu thông tin về tình hình tài chính của khách hàng, đặc biệt là nhà nhập khẩu nước ngoài. Do đó, ngân hàng cho rằng đây là một dịch vụ có mức độ rủi ro cao, nếu thực hiện ngân hàng sẽ phải gánh chịu hoặc nếu được bù đắp bởi mức phí thì mức phí đó lại quá cao, không hấp dẫn được khách hàng. 2.4.1.3.NHNo&PTNT Tây Hà Nội chưa xúc tiến giới thiệu dần dịch vụ này cho các doanh nghiệp xuất khẩu Các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ từ trước đến nay vẫn có thói quen sử dụng L/C để thanh toán trong các giao dịch kinh doanh quốc tế. Để thay đổi thói quen này của họ không phải là một việc có thể thực hiện một sớm một chiều mà cần một quá trình từ từ, lâu dài. Theo em được biết, hàng năm ngân hàng vẫn tổ chức hội nghị khách hàng để thông báo tình hình hoạt động của ngân hàng và giới thiệu các dịch vụ, sản phẩm mới. Tuy vậy, dịch vụ bao thanh toán vẫn còn khá mới mẻ, ngân hàng chưa có những chiến lược quảng bá cho dịch vụ này để thay đổi dần thói quen của các doanh nghiệp xuất khẩu trong việc sử dụng những hình thức tài trợ hiệu quả hơn. 2.4.2.Nguyên nhân khách quan Bên cạnh những lý do hạn chế đến từ phía ngân hàng, một số nguyên nhân khác đến từ môi trường nền kinh tế cũng tác động không nhỏ đến các khó khăn khi ngân hàng phát triển dịch vụ bao thanh toán xuất khẩu. 2.4.2.1.Doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam chưa hiểu biết nhiều về dịch vụ bao thanh toán xuất khẩu Mặc dù bao thanh toán đã nhen nhóm trong ngành tài chính – ngân hàng Việt Nam được hơn 2 năm nhưng hiểu biết của các doanh nghiệp xuất khẩu về lợi ích mà dịch vụ này đem lại so với các dịch vụ tín dụng xuất khẩu truyền thống còn quá hạn chế. Do chưa có sự hiểu biết thấu đáo về dịch vụ bao thanh toán xuất khẩu nên họ rất e ngại khi quyết định thay đổi thói quen cũ về sử dụng hình thức tài trợ và phương thức thanh toán. Một nguyên nhân khác nữa khiến các doanh nghiệp xuất khẩu chưa mặn mà với dịch vụ này còn vì chi phí cho dịch vụ này khá tốn kếm đối với nhà xuất khẩu. Chi phí gồm lãi và phí dịch vụ. Lãi suất của bao thanh toán xuất khẩu thường cao hơn lãi suất thông thường 1,5% đến 3%. Phí dịch vụ khoảng từ 0,75% đến 2,5% tùy thuộc vào tổng doanh số xuất khẩu, giá trị bình quân của mỗi hóa đơn, thời hạn thanh toán, uy tín của nhà nhập khẩu…Lãi suất và phí dịch vụ của dịch vụ bao thanh toán cao hơn dịch vụ tín dụng thông thường bởi nó là một dịch vụ trọn gói nên phí phát sinh từ rất nhiều hoạt động như thu nợ, tìm hiểu nhà nhập khẩu của tổ chức bao thanh toán tại nước nhập khẩu…mà nếu phải tự thực hiện các công việc trên, nhà xuất khẩu có lẽ sẽ còn phải chi một khoản tiền cao hơn thế. 2.4.2.2.Doanh nghiệp Việt Nam còn thiếu kinh nghiệm trong lĩnh vực xuất khẩu Hoạt động xuất khẩu của Việt Nam tuy đã có một thời gian phát triển hơn 10 năm nhưng các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn non trẻ và thiếu kinh nghiệm trên thị trường xuất khẩu. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ do hạn chế về vốn, hầu hết không am hiểu sâu sắc về thị trường quốc tế và các đối tác nước ngoài. Khả năng nắm bắt thông tin đối tác của các doanh nghiệp thấp, chủ yếu thông tin từ các phương tiện thông tin đại chúng, lác đác qua các hội chợ … Việc có thông tin từ các hìnhthức và phương tiện hiện đại còn hạn chế. Vì thế, các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam không dám mạo hiểm cho khách hàng “mua chịu” theo phương thức thanh toán trả chậm. Đây là tâm lý chung của rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam. Việc thiếu thông tin thị trường và đối tác là mối lo chính của nhà xuất khẩu khi quyết định bán hàng theo điều kiện trả chậm. 2.4.2.3.Doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam chưa nhân thức được rủi ro trong giao dịch quốc tế và tổ chức bảo hiểm ngại tham gia bảo hiểm tín dụng Lý giải về sự kém mặn mà của doanh nghiệp xuất khẩu trong nước đối với việc bảo hiểm là do bản thân các doanh nghiệp chưa nhận thức được rủi ro trong giao dịch quốc tế như khả năng tài chính của đối tác nhập khẩu, rủi ro thanh toán. Đặc biệt là nhận biết về rủi ro pháp lý quốc tế còn hạn chế, nhiều nhà xuất khẩu trong nước thậm chí không có khái niệm bảo hiểm xuất khẩu là một loại chi phí nên không đưa chi phí bảo hiểm vào giá thành. Bên cạnh đó, bảo hiểm xuất khẩu ở trong nước chưa phát triển là do áp lực chi phí, những cản trở khách quan về giá nguyên liệu đầu vào hay chênh lệch tỷ giá và thói quen kinh doanh, giao dịch dưới hình thức "mua CIF, bán FOB". Nói như thế không có nghĩa nhà xuất khẩu không có nhu cầu, mà ngay chính các công ty bảo hiểm cũng ngại tham gia thị trường này. Thông tin thiếu, luật pháp không đồng bộ, dịch vụ kiểm toán chưa đủ độ tin cậy, sổ sách của nhà xuất khẩu tính minh bạch chưa cao, thiếu công ty thu hồi nợ cũng làm nản lòng nhà bảo hiểm Ngoài ra, việc bảo hiểm tỉ giá hối đoái thông qua các ngân hàng thương mại rất khó thực hiện bởi chính các ngân hàng này cũng phụ thuộc vào việc định tỉ giá hối đoái của Ngân hàng Nhà nước. Tóm lại, bao thanh toán chỉ có thể nhanh chóng trở thành sản phẩm tài chính hiệu quả khi và chỉ khi các Bộ, ngành có liên quan phối hợp chặt chẽ với nhau và môi trường kinh tế phải thực sự thuận lợi. Hy vọng, trong tương lai, nghiệp vụ này sẽ thực sự được phát triển ở Việt Nam nhằm tạo ra nhiều sản phẩm tài chính cho các tổ chức tài chính Việt Nam cũng như tạo thêm công cụ cho các doanh nghiệp Việt Nam lựa chọn trong quá trình thực hiện kinh doanh của mình. CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ BAO THANH TOÁN TẠI NHNo&PTNT TÂY HÀ NỘI Phương thức thanh toán bằng L/C sẽ đảm bảo an toàn cho nhà xuất khẩu nhưng trong môi trường kinh doanh cạnh tranh hiện nay, các nhà nhập khẩu ưa chuộng phương thức T/T trả chậm hơn vì các thủ tục L/C khá phức tạp. Chính vì vậy, để tăng lợi thế cạnh tranh, nhà xuất khẩu có thể phải thay đổi phương thức thanh toán thuận lợi hơn cho nhà nhập khẩu (T/T trả chậm, D/A …). Do đó dịch vụ bao thanh toán ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn cho các doanh nghiệp và trở nên phổ biến trên thế giới hiện nay. 3.1.Định hướng phát triển dịch vụ bao thanh toán xuất khẩu tại NHNo&PTNT Tây Hà Nội trong thời gian tới 3.1.1.Định hướng phát triển chung Chiến lược phát triển của NHNo&PTNT Việt Nam phải tập trung xây dựng NHNo&PTNT Việt Nam thành một tập đoàn tài chính. Mục tiêu của ngân hàng trong 2 năm tới phải thực hiện bằng được những nội dung cơ bản theo tiến độ Đề án tái cơ cấu lại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông  thôn Việt Nam giai đoạn 2001-2010 đã được Chính phủ phê duyệt, chuẩn bị mọi điều kiện để thực hiện cổ phần hoá vào năm 2009; Tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng ở mức hợp lý, đảm bảo cân đối, an toàn và khả năng sinh lời; đáp ứng được yêu cầu chuyển dịch  cơ cấu sản xuất nông nghiệp, nông thôn, mở rộng và nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng đủ năng lực cạnh tranh; tập trung đầu tư, đào tạo nguồn nhân lực, đổi mới công nghệ ngân hàng theo hướng hiện đại hoá, đủ năng lực cạnh tranh và hội nhập. Nâng cao năng lực tài chính và phát triển giá trị thương hiệu trên cơ sở đẩy mạnh và kết hợp với văn hoá doanh nghiệp. Về hoạt động huy động vốn, NHNo&PTNT Tây Hà Nội phấn đấu tăng tổng nguồn vốn từ 25-28%/năm, tổng dư nợ từ 20-25 %/năm, trong đó tỷ trọng tín dụng trung dài hạn tối đa chiếm 45 % tổng dư nợ trên cơ sở cân đối nguồn vốn cho phép; nợ quá hạn dưới 1 % tổng dư nợ; lợi nhuận tối thiểu tăng 10%. Cùng với định hướng chung của hệ thống ngân hàng NHNo&PTNT Việt Nam, trong những năm tiếp theo, NHNo&PTNT Tây Hà Nội tiếp tục thực hiện định hướng kinh doanh đã lựa chọn, điều chỉnh chiến lược kinh doanh phù hợp với xu thế phát triển nền kinh tế, đảm bảo tăng trưởng đều và vững chắc. Chi nhánh sẽ tiếp tục mở rộng quy mô gắn với nâng cao chất lượng, hiệu quả kinh doanh, đa dạng các hình thức huy động vốn, từng bước nâng cao tỷ trọng nguồn vốn có tính ổn định, có mức lãi suất đầu vào hợp lý, thực hiện cho vay có chọn lọc trong phạm vi khả năng kiểm soát. Trong tình hình cạnh tranh giữa các ngân hàng hiện nay, chi nhánh tích cực đào tạo, nâng cao trình độ cán bộ để tạo ra ưu thế trong cạnh tranh, đảm bảo ổn định việc làm, thu nhập và nâng cao đời sống cán bộ, nhân viên trong toàn chi nhánh. Để định hướng đi vào chi tiết và cụ thể hơn, NHNo&PTNT Tây Hà Nội đưa ra các mục tiêu cụ thể về các phương diện như sau: Về huy động vốn: Nâng dần tỷ trọng nguồn vốn huy động từ dân cư, nhất là nguồn vốn trung dài hạn, tiến tới tự cân đối một cách vững chắc nguồn vốn để đầu tư. Về công tác cho vay: từng bước chuyển đổi cơ cấu đầu tư, đối tượng đầu tư, tập trung cho vay hộ kinh doanh và các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Công tác đào tạo: chú trọng công tác đào tạo và đào tạo lại cán bộ, không ngừng nâng cao trình độ nghiệp vụ để đáp ứng yêu cầu hoạt động kinh doanh. Từng bước hoàn thiện một cách cơ bản cơ sở vật chất cho Chi nhánh. 3.1.2.Định hướng phát triển bao thanh toán Là một ngân hàng hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn – một lĩnh vực chiếm phần đông dân số nước ta trong đó, trọng trách của hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam trong việc hỗ trợ phát triển ngành là vô cùng quan trọng. Từ năm 2006 bằng những giải pháp mang tính đột phá và cách làm mói NHNo&PTNT VN  (Agribank) thực sự khởi sắc. Đến cuối năm 2007, tổng tài sản đạt 325.802 tỷ đồng tương đương với 20 tỷ USD gấp gần 220 lần so với ngày đầu thành lập. Tổng dư nợ cho vay nền kinh tế đạt 242.102 tỷ đồng trong đó cho vay nông nghiệp nông thôn chiếm trên 70% với trên 10 triệu hộ gia đình, cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm trên 36% với gần 3 vạn doanh nghiệp dư nợ. Tổng nguồn vốn 295.048 tỷ đồng và gần như hoàn toàn là vốn huy động. Năm 2008 là năm ghi dấu chặng đường 20 năm xây dựng và trưởng thành của Agribank và cũng là năm có tính quyết định trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế theo chủ trương của Đảng, Chính phủ. Trong chiến lược phát triển của mình, Agribank sẽ trở thành một Tập đoàn tài chính đa nghành, đa sở hữu, hoạt động đa lĩnh vực. Trong quá trình đó, không ngừng phát triển, đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ tài chính, đặc biệt là các sản phẩm đáp ứng nhu cầu tín dụng để mở rộng sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp xuất khẩu là nhiệm vụ cần thiết. Bởi vậy, NHNo&PTNT Việt Nam nói chung, NHNo&PTNT Tây Hà Nội nói riêng đang có những nghiên cứu, chuẩn bị các điều kiện tiền đề để có thể sớm triển khai hoạt động bao thanh toán. Đây là một nghiệp vụ phù hợp với mô hình và chức năng của ngân hàng, một mặt đáp ứng được nhu cầu phát triển của tập đoàn tài chính mạnh, đa ngành, đa sở hữu như mục tiêu đã đề ra, mặt khác góp phần nâng cao sức cạnh tranh của ngân hàng trong quá trình hội nhập tài chính trong nước và quốc tế. 3.2. Giải pháp 3.2.1.Đào tạo, nâng cao chuyên môn cho đội ngũ cán bộ về dịch vụ bao thanh toán xuất khẩu. Theo những phân tích và nguyên nhân trong phần thực trạng hoạt động của NHNo&PTNT Tây Hà Nội, điểm yếu của đội ngũ cán bộ của ngân hàng là chưa có kiến thức sâu về bao thanh toán xuất khẩu. Vì vậy, ngân hàng cần phải chú trọng hơn đến công tác đào tạo để kịp thời bổ sung kiến thức cho cán bộ. Đầu tiên cần phải phổ biến, đào tạo cho cán bộ ngân hàng về dịch vụ này. Thông qua việc tổ chức các lớp nói chuyện chuyên đề, mời chuyên gia sang để tập huấn cho đội ngũ cán bộ. NHNo&PTNT Tây Hà Nội cần tận dụng mối quan hệ hữu hảo với các ngân hàng lớn đã thực hiện nghiệp vụ này thành công, mời chuyên gia của họ sang giới thiệu và đào tạo về loại hình dịch vụ mới này. Ngân hàng cũng cần tham gia các cuộc hội thảo về hoạt động bao thanh toán tổ chức ở Việt Nam để mở rộng thêm hiểu biết về dịch vụ. Chi phí cho việc đào tạo ban đầu sẽ tương đối cao, nhưng hiệu quả của nó lại rất lớn. Chỉ có hiểu biết về dịch vụ một cách sâu sắc, cán bộ ngân hàng mới có thể thực hiện tốt nhất và đưa ra những lời tư vấn giúp ích cho khách hàng, làm cho dịch vụ bao thanh toán xuất khẩu dần trở nên quen thuộc với các doanh nghiệp. Ngoài việc đào tạo trực tiếp, lãnh đạo và cán bộ ngân hàng cũng cần tìm hiểu, tra cứu thông tin về dịch vụ bao thanh toán nói chung và bao thanh toán xuất khẩu nói riêng để nâng cao kiến thức, học hỏi thêm nhiều kinh nghiệm. Có rất nhiều kênh thông tin để tham khảo như qua báo chí, qua sách báo nước ngoài và qua mạng Internet – một kênh thông tin tiện lợi và bổ ích. Một số trang Web về bao thanh toán như: www.factors-chain.com (Hiệp hội bao thanh toán quốc tế FCI) www.ifgroup.com (International Factors Group) www.factorscan.com www.factorhelp.com và nhiều trang web hữu ích khác nữa. 3.2.2.Xây dựng quy trình thực hiện phù hợp Hoạt động bao thanh toán xuất khẩu còn khá mới mẻ với cán bộ ngân hàng nên việc xây dựng quy trình thực hiện phù hợp, chặt chẽ, đồng bộ là hết sức quan trọng. Cán bộ ngân hàng sẽ căn cứ vào quy trình này để thực hiện dịch vụ một cách đúng đắn, hạn chế tối đa rủi ro cho ngân hàng. Khi xây dựng quy trình này cần căn cứ vào quy trình chung và tình hình các hoạt động liên quan mật thiết như tín dụng, thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại hối,…để có được một quy trình thống nhất. Đồng thời, quy trình này cũng phải đảm bảo yêu cầu thuận tiện nhất cho khách hàng, tiết kiệm thời gian giao dịch mà vẫn đáp ứng được đòi hỏi về mức độ an toàn tín dụng cho ngân hàng. Ngân hàng nên tham khảo một số quy trình của tổ chức uy tín đã thực hiện và thành công. 3.2.3.Marketing dịch vụ bao thanh toán xuất khẩu của NHNo&PTNT Tây Hà Nội Ngay từ đầu, ngân hàng cần tăng cường việc tổ chức Marketing trong lĩnh vực bao thanh toán bằng các biện pháp như xây dựng chiến lược sản phẩm, có hình thức quảng cáo, tiếp thị…hợp lý. Một số biện pháp Marketing Ngân hàng thường gặp để phổ biến những tiện ích của bao thanh toán đến với khách hàng là in tờ rơi quảng cáo sản phẩm, phát những phần quà lưu niệm có tin thông tin về bao thanh toán xuất khẩu, tham gia hội chợ về dịch vụ ngân hàng – tài chính…. Đầu tiên, ngân hàng nên hướng vào các khách hàng truyền thống, những người đã có thời gian quan hệ lâu dài với NHNo&PTNT Tây Hà Nội và cũng đã tạo được những uy tín nhất định với ngân hàng. Bởi với đối tượng này, ngân hàng sẽ giảm được nhiều gánh nặng trong thẩm định, hạn chế được rủi ro. Một đối tượng khách hàng mục tiêu nữa mà ngân hàng nên nhắm đến là các doanh nghiệp vừa và nhỏ đamg tham gia hoạt động xuất khẩu của Việt Nam. Đối tượng này tạo ra một thị trường tiềm năng cho dịch vụ bao thanh toán xuất khẩu. Tuy vậy, ngân hàng cần xem xét kỹ đối tác, nhà nhập khẩu nước ngoài, thị trường nước nhập khẩu. Song song với việc đó, một chính sách lãi suất và mức phí linh hoạt và hợp lý cũng là một nhân tố quan trọng hấp dẫn khách hàng đến với dịch vụ này của NHNo&PTNT Tây Hà Nội. Theo kinh nghiệm của một số ngân hàng khác đã triển khai dịch vụ này, NHNo&PTNT Tây Hà Nội nên đưa ra một mức lãi suất chung cho dịch vụ bao thanh toán, lãi này đã bao gồm cả lãi thông thường và phí. Như vậy khách hàng sẽ không còn cảm thấy mình phải trả quá nhiều thứ phí phực tạp do đặc thù của bao thanh toán xuất khẩu là một dịch vụ phức tạp, liên quan đến hoạt động ngoại thương nên ngoài lãi suất phải trả cho khoản ứng trước, khách hàng còn phải trả thêm nhiều loại phí khác. Chính điều này làm chi phí sử dụng dịch vụ này tăng lên, gây tâm lý e ngại đối với các doanh nghiệp. Trong thời gian đầu tung ra dịch vụ, ngân hàng nên có các hình thức khuyến mãi hoặc ưu đãi để thu hút khách hàng. Việc làm này có thể ảnh hưởng đến lợi nhuận trước mắt của ngân hàng nhưng sẽ góp phần tạo sự hấp dẫn cho hoạt động bao thanh toán xuất khẩu của ngân hàng. Bao thanh toán xuất khẩu hiện nay còn chưa trở nên gần gũi với doanh nghiệp, NHNo&PTNT Tây Hà Nội nên tận dụng cơ hội này để quảng bá sản phẩm. Đồng thời không quên để lại ấn tượng cho khách hàng về tính chuyên nghiệp, chất lượng dịch vụ tốt, tiện lợi… ngay từ đầu. Có như thế mới tạo được lòng tin của khách hàng để họ tiếp tục sử dụng dịch vụ. 3.3.Kiến nghị 3.3.1.Kiến nghị Hội sở NHNo&PTNT Việt Nam Để tạo điều kiện thuận lợi cho các chi nhánh phát triển dịch vụ bao thanh toán xuất khẩu, Hội sở cần phải thực hiện trước, rút kinh nghiệm để các chi nhánh thực hiện hiệu quả hơn. Căn cứ vào quy định của Nhà nước, Hội sở cần có những nghiên cứu chi tiết để đưa ra những văn bản hướng dẫn cho các chi nhánh thực hiện. Các văn bản nên tập trung vào hướng dẫn xây dựng quy trình cũng như các vấn đề liên quan đảm bảo an toàn trong hoạt động này. NHNo&PTNT Việt Nam cần không ngừng củng cố mối quan hệ chặt chẽ với các ngân hàng đại lý và tiếp tục mở rộng mạng lưới này. Các ngân hàng đại lý này đóng một vai trò quan trọng trong việc thẩm định nhà nhập khẩu, xem xét khả năng thanh toán cũng như tình hình nước nhập khẩu để có những đánh giá đúng đắn trong việc cấp tín dụng. Nhằm có được sự giúp đỡ và hỗ trợ, NHNo&PTNT Việt Nam nên tham gia vào tổ chức bao thanh toán quốc tế (FCI) mà NHNo&PTNT Việt Nam là thành viên của tổ chức này. Việc trở thành thành viên của tổ chức này giúp cho hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam có những lợi ích thiết thực như được truyền đạt kinh nghiệm, sự hiểu biết về dịch vụ và thị trường thế giới, có được sự hỗ trợ của hệ thống ngân hàng đại lý trong tổ chức ở 65 quốc gia, có cơ hội được đào tạo cho cán bộ quản lý và nhân viên, chuẩn hóa về quy trình thực hiện, khi xảy ra xung đột giữa các ngân hàng đại lý với nhau cũng có được trung gian giải quyết… Tuy nhiên điều kiện để được tham gia vào tổ chức này đòi hỏi ngân hàng phải có vốn tối thiểu 2 triệu USD, có chất lượng quản lý tốt, nộp phí thành viên,…Nhìn chung, NHNo&PTNT Việt Nam đều có thể đạt được những điều kiện trên. Nếu thành công trong việc gia nhập tổ chức này, việc phát triển bao thanh toán xuất khẩu của NHNo&PTNT Việt Nam sẽ được hỗ trợ nhiều và đạt được hiệu quả cao. 3.3.2.Kiến nghị ngân hàng Nhà nước Việt Nam Trước cam kết phải mở cửa hơn nữa khi gia nhập WTO của nước ta, Ngân hàng Nhà nước cần phải tích cực hơn nữa trong việc hoàn thiện hệ thống pháp lý liên quan đến thương mại, ngân hàng, tài chính, tín dụng,…tạo hành lang pháp lý đầy đủ cho ngân hàng thực hiện hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động bao thanh toán xuất khẩu nói riêng. Ngân hàng Nhà nước cũng nên xem xét việc thành lập một Hiệp hội bao thanh toán với sự tham gia của các ngân hàng và tổ chức tín dụng thực hiện dịch vụ này. Đây là việc làm cần thiết bởi hiện nay đã có khá nhiều ngân hàng ở Việt Nam phát triển dịch vụ này. Và trên thế giới, tại các nước đều có hiệp hội riêng cho các tổ chức bao thanh toán. Hiệp hội này được thành lập với mục đích cung cấp thông tin, hỗ trợ công nghệ, định hướng hoạt động cho phù hợp với tình hình xuất khẩu. 3.3.3.Kiến nghị chính phủ thành lập Tổ chức Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu Hiện nền kinh tế Việt Nam hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, nhu cầu mở rộng thị trường xuất khẩu đối với các doanh nghiệp là tất yếu và phải cạnh tranh khốc liệt hơn với các doanh nghiệp nước ngoài. Do vậy, nhu cầu về hình thức bảo hiểm tín dụng xuất khẩu là cần thiết cho doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng. Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu sẽ tạo ra nhiều cơ hội hơn cho các doanh nghiệp trong việc tiếp cận các nguồn vốn tín dụng, phát triển mặt hàng và thị trường xuất khẩu, yên tâm hơn khi thâm nhập các thị trường xuất khẩu nhiều rủi ro Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu là dịch vụ bảo vệ và bồi thường cho người xuất khẩu khi họ cấp tín dụng thương mại (bán trả chậm) hoặc bảo vệ và bồi thường cho các ngân hàng khi ngân hàng cho vay trung - dài hạn. Phạm vi bảo hiểm này bao gồm các khiếu nại tổn thất do không thanh toán những khoản phải thu, phát sinh từ hoạt động buôn bán hoặc những khoản cho vay trung - dài hạn vì lý do chính trị, thương mại. Nó được triển khai nhằm cải thiện cán cân thanh toán, tạo thêm việc làm, phát triển kỹ năng tài chính của người xuất khẩu, nâng cao nhận thức của các ngân hàng về tín dụng xuất khẩu, hỗ trợ hoạt động xuất khẩu vì lợi ích quốc gia cũng như tăng cường hoạt động hối đoái nhờ có sự hỗ trợ của các khoản đầu tư nước ngoài. Theo kinh nghiệm ở nước bạn Trung Quốc, bảo hiểm tín dụng xuất khẩu chịu sự điều chỉnh của một cơ quan trực thuộc chính phủ quản lý, đồng thời các hoạt động ngân hàng và giao dịch chứng khoán giống như mô hình tại phần lớn các nước thuộc EU. Hiện nay, Bộ Công Thương và Bộ Tài chính đang có kế hoạch trình đề án cho Chính phủ về việc thành lập một tổ chức chuyên cung cấp sản phẩm bảo hiểm tín dụng cho DN với mục tiêu phi lợi nhuận bởi trên thế giới đang có xu hướng thay thế các thanh toán L/C (tín dụng thư) bằng tín dụng mở, do đó rủi ro tín dụng của DN xuất khẩu VN sẽ ngày càng cao. Muốn xuất khẩu VN phát triển mạnh, không gì hơn là phải có một đầu mối thay DN đứng ra chịu trách nhiệm trước Chính phủ về việc biến động tỉ giá hối đoái, về rủi ro trong thanh toán ngoại thương,... Chính phủ và cụ thể là Bộ Tài chính nên tiếp tục cử các chuyên gia khảo sát một số quốc gia có thị trường bảo hiểm tín dụng xuất khẩu phát triển mạnh, để giúp Chính phủ hoàn tất đề án phát triển thị trường bảo hiểm tín dụng ở Việt Nam, còn Bộ Tài chính thì thành lập công ty bảo hiểm tín dụng xuất khẩu. Bên cạnh đó, Chính phủ Việt Nam nên có định chế riêng về bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, song hành với hỗ trợ để doanh nghiệp mua bảo hiểm tín dụng xuất khẩu. Ta có thể học hỏi kinh nghiệm của các nước bạn như một chương trình khá thành công của Chính phủ Singapore đó là trợ cấp 1 phần phí bảo hiểm tín dụng xuất khẩu cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. 3.3.3.Kiến nghị các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam Các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam cần chủ động hơn nữa trong việc tìm hiểu, nắm bắt một dịch vụ mới và tiện ích như bao thanh toán xuất khẩu. Các doanh nghiệp không nên đắn đo vì lý do chi phí của dịch vụ này quá cao. Thực chất đây là một dịch vụ trọn gói rất tiện ích với nhà xuất khẩu, chi phí cao bởi nó gồm chi phí của nhiều dịch vụ tổng hợp lại. Các doanh nghiệp cũng nên tạo uy tín với ngân hàng bằng việc vay trả đúng hạn và đủ. Có như vậy ngân hàng mới sẵn sàng cung ứng vốn và những dịch vụ hỗ trợ cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, doanh nghiệp nên đa dạng hóa thị trường, không nên quá phụ thuộc vào một thị trường hoặc một loại ngoại tệ. Doanh nghiệp cần tìm thêm những thị trường mới, tiềm năng, ổn định, có hiệu quả với những phương án xuất khẩu chất lượng cao. KẾT LUẬN Hướng tới mục tiêu đa dạng hóa sản phẩm nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng là mục tiêu của các ngân hàng thương mại nói chung và của NHNo&PTNT Tây Hà Nội nói riêng. Hơn nữa, hưởng ứng định hướng xuất khẩu của Chính phủ Việt Nam về hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu ra nước ngoài còn là trách nhiệm của mỗi đơn vị. Dù đã có nhiều sản phẩm và dịch vụ phục vụ khối khách hàng doanh nghiệp, đặc biệt là khối doanh nghiệp xuất khẩu song còn chưa đáp ứng được nhiều mặt nhu cầu đa dạng của các doanh nghiệp này. Nhận thấy bao thanh toán xuất khẩu là một dịch vụ mới với rất nhiều lợi ích và đang tạo nên một xu hướng mới trên thế giới, đề tài xin đưa ra một số đề xuất nhằm phát triển dịch vụ này tại NHNo & PTNT Tây Hà Nội: Về giải pháp: Ngân hàng cần tiến hành đào tạo, bồi dưỡng thêm kiến thức về bao thanh toán xuất khẩu cho đội ngũ cán bộ; đưa ra một quy trình thực hiện bao thanh toán xuất khẩu phù hợp; xây dựng những chiến lược marketing cụ thể và hợp lý trong việc quảng bá cũng như đưa dịch vụ mới này vào thực hiện hiệu quả. Về kiến nghị: Hội sở NHNo & PTNT Việt Nam cần có những bước đi tiên phong trong việc phát triển dịch vụ này, song song đó phải có kế hoạch cụ thể chuẩn bị để gia nhập tổ chức bao thanh toán quốc tế; ngân hàng Nhà nước cần hoàn thiện hơn nữa các cơ chế chính sách liên quan đến bao thanh toán và sớm thông qua đề án thành lập tổ chức bảo hiểm tín dụng xuất khẩu. Với giải pháp và kiến nghị trên đối với các bên liên quan, hy vọng đề tài sẽ góp phần đưa dịch vụ bao thanh toán xuất khẩu vào thực hiện tại NHNo & PTNT Tây Hà Nội, tạo ra một dịch vụ tiện ích hỗ trợ đắc lực cho sự phát triển của các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam, nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng trong giai đoạn nền tài chính đang phát triển với nhiều ngân hàng nước ngoài tham gia vào thị trường trong nước. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.Bộ Công thương (2005) Điều tra nhu cầu doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam 2.Nguyễn Thị Hường (2001), Kinh doanh quốc tế tập 1+2, Nhà xuất bản Thống Kê. 3.Nguyễn Thị Hường (2004), Quản trị dự án và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, Nhà xuất bản Thống Kê. 4.Nguyễn Trung Lập (2007), Bao thanh toán và phương pháp hạch toán, www.kiemtoan.com.vn 5.Nguyễn Văn Tiến (2007), Giáo trình thanh toán quốc tế, Nhà xuất bản Thống Kê, Hà Nội. 4. Nguyễn Thị Thu Thảo, Phan Thu Hà , Giáo trình ngân hàng thương mại, Đại học Kinh tế Quốc dân. 5. Nguyễn Thị Thu Thảo (2004), Nghiệp vụ thanh toán quốc tế, Nhà xuất bản lao động xã hội. 6. Lê Văn Tư (2000), Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại tệ, nhà xuất bản thống kê. 7. Đinh Xuân Trình (2007), giáo trình thanh toán quốc tế, nhà xuất bản lao động xã hội. 8. Trần Hoàng Ngân (2007), Thanh toán quốc tế, nhà xuất bản thống kê. 9. Quyết định 1096/2004/QĐ – NHNN của Thống đốc NHNN về quy chế hoạt động bao thanh toán.  10. Quy chế hoạt động bao thanh toán của NHTM CP Á Châu.  Các trang Web: www.factors-chain.com (Hiệp hội bao thanh toán quốc tế FCI) www.ifgroup.com (International Factors Group) www.factorscan.com www.factorhelp.com www.mof.gov.vn www.sggp.org.vn www.vneconomy.vn MỤC LỤC KẾTLUẬN......................................................................................................61 DANH M ỤC HÌNH VÀ BẢNG Bảng 1.1. Phân biệt bao thanh toán trong nước và bao thanh toán quốc tế. 7 Bảng 2.1. Tình hình huy động vốn của chi nhánh giai đoạn 2003-2007. 26 Bảng 2.2. Tình hình sử dụng vốn của chi nhánh giai đoạn 2003-2007. Error! Bookmark not defined. Bảng 2.3. Doanh thu các phương thức thanh toán quốc tế giai đoạn 2003-2007. Error! Bookmark not defined. Bảng 2.4. Kết quả kinh doanh của chi nhánh giai đoạn 2003-2007 Error! Bookmark not defined. Bảng 2.5. Điều tra nhu cầu các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam 40 Hình 1.1: Quy trình bao thanh toán trong nước...............................................9 Hình 1.2: Quy trình bao thanh toán quốc tế ..................................................10 Hình 2.1: Cơ cấu tổ chức................................................................................25 Hình 2.2: Tổng thu, tổng chi và chênh lệch của chi nhánh giai đoạn 2003- 2007......................................................................................35 NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN ....................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................... Hà Nội, ngày. . . tháng. . . năm 2008. Giáo viên hướng dẫn DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TTQT Thanh toán quốc tế NHNo & PTNT Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn NH Ngân hàng L/C Thư tín dụng XK Xuất khẩu NK Nhập khẩu TCKT Tổ chức kinh tế TCTD Tổ chức tín dụng TPKT Thành phần kinh tế KD Kinh doanh HTX Hợp tác xã UTĐT Ưu tiên đầu tư WTO Tổ chức thương mại thế giới STT Số thứ tự ATM Máy rút tiền tự động Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Chi nhánh Tây Hà Nội Độc lập – Tự do – Hạnh phúc NHẬN XÉT CỦA CƠ QUAN THỰC TẬP Kính gửi: - Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế Trường Đại học Kinh tế quốc dân Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xác nhận đã tiếp nhận : Sinh viên : Nguyễn Thị Ngọc Mai, Lớp Kinh doanh quốc tế 46 A, Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế, Trường Đại học Kinh tế quốc dân Về thực tập tại phòng Thanh toán quốc tế của NHNo&PTNT Tây Hà Nội từ ngày 7/1/2008 – 28/4/2008. Trong thời gian thực tập tại Công ty, sinh viên Nguyễn Thị Ngọc Mai đã chấp hành tốt các quy định, nội quy của công ty và của phòng, có ý thức học tập tốt, chịu khó học hỏi, nghiên cứu, thu thập tài liệu, có thái độ khiêm tốn tiếp thu kinh nghiệm của cán bộ của công ty và xây dựng mối quan hệ tốt với mọi người trong công ty . Sinh viên Nguyễn Thị Ngọc Mai đã rất cố gắng thực hiện đề tài: “”. Đây là đề tài có nhiều ý nghĩa thực tiễn với hoạt động của các ngân hàng thương mại hiện nay. Chúng tôi mong rằng nhà trường và các thầy cô giáo tạo điều kiện tiếp tục hướng dẫn sinh viên Nguyễn Thị Ngọc Mai hoàn thành đề tài này một cách sâu hơn. NHNo&PTNT Tây Hà Nội LỜI CẢM ƠN Em xin gửi lời cảm ơn tới toàn bộ các thầy cô giáo trong khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế - Trường Đại học Kinh tế quốc dân đã tận tình giảng dạy cho em trong suốt quá trình học tập tại trường. Đặc biệt em xin gửi lời cảm ơn tới TS Bùi Huy Nhượng đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ và chỉ bảo em trong suốt quá trình hoàn thành bài chuyên đề thực tập tốt nghiệp. Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn Phòng Thanh toán quốc tế - NHNo&PTNT Tây Hà Nội đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ và đóng góp ý kiến để em hoàn thành bài chuyên đề thực tập tốt nghiệp. Em xin chân thành cảm ơn! Sinh viên Nguyễn Thị Ngọc Mai

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26446.doc
Tài liệu liên quan