Chuyên đề Phát triển hoạt động cho vay doang nghiệp nhỏ và vừa tại chi nhánh Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm

Một trong những hạn chế lớn nhất của các DNNVV khi tiếp cận nguồn vốn của ngân hàng là việc báo cáo tài chính không minh bạch, sơ sài, thiếu trung thực, do không chấp hành đúng các chế độ qui định kế toán do bộ tài chính ban hành. Vì thế các doanh nghiệp nên chấp hành đầy đủ các yêu cầu của luật kế toán, thực hiện quá trình quản lý, xử lý, ghi chép sổ kế toán chặt chẽ, đầy đủ, rõ ràng một mặt nữa là các doanh nghiệp không nên sử dụng hai loại báo cáo tài chính, có như vậy quá trình xét duyệt cho vay sẽ nhanh chóng hơn, lấy được sự tin tưởng của ngân hàng.  Mỗi DNNVV nên tham gia vào ít nhất một hội doanh nghiệp để có được sự hỗ trợ nhất định từ hội, chẳng hạn như hiệp hội các doanh nghiệp trẻ hầu như tỉnh nào cũng có. Trong trường hợp doanh nghiệp muốn xin vay vốn nhưng không đủ tài sản đảm bảo thì hiệp hội doanh nghiệp có thể dùng uy tín của mình để bảo lãnh cho doanh nghiệp đó.  Các doanh nghiệp nên tăng cường giao dịch qua ngân hàng, việc thanh toán công nợ mua bán, trả lương nhân viên chủ yếu là chuyển khoản qua ngân hàng. Việc giao dịch qua ngân hàng càng nhiều sẽ có nhiều lợi thế hơn so với ít giao dịch qua ngân hàng khi đi vay vốn vì khi tăng cường giao dịch qua ngân hàng luồng tiền đi ra và đi vào tài khoản thanh toán tại ngân hàng sẽ giúp cho ngân hàng đánh giá đúng giá trị cũng như tình hình sử dụng tài chính của doanh nghiệp xin vay vốn.

doc82 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1452 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Phát triển hoạt động cho vay doang nghiệp nhỏ và vừa tại chi nhánh Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
5 tỷ trọng cho vay DNNVV chiếm 20% so với doanh số cho vay cảy chi nhánh, năm2006 tỷ trọng này giảm còn 18,3% giảm 1,7% so với năm 2005; nhưng đến năm 2007 với nhu cầu đầu tư trong điều kiện kinh tế hội nhập chi nhánh đã đẩy mạnh hoạt động cho vay DNNVV đạt 19,2% . Biểu đồ 1: Doanh số cho vay của NHCT Hoàn Kiếm qua các năm Ghi chú: DS CN : Doanh số cho vay của Chi nhánh DS DNNVV: Doanh số cho vay DNNNV Dư nợ cho vay DNNVV Bảng 6: Dư nợ cho vay DNNVV tại NHCT Hoàn Kiếm Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Tổng dư nợ cho vay 1.100.000 1.070.000 1.100.000 Dư nợ cho vay DNNVV 100.000 95.000 110.000 Tỷ trọng dư nợ 9,1% 8,9% 10% Biểu đồ 2: Dư nợ cho vay của NHCT Hoàn Kiếm qua các năm Chúng ta có thể thấy dư nợ cho vay DNNVV đang càng ngày được chú trọng phát triển tại chi nhánh, Năm 2005 dư nợ cho vay DNNVV là 100 tỷ đồng chiếm 9,1% so với tổng dư nợ, năm 2006 là 95 tỷ đồng nhưng đến năm 2007 tỷ trọng nó đã là 10% tăng 16% so với năm 2006. Điều đó thể hiện được hướng phát triển của chi nhánh, tuy nhiên tỷ trọng của nó vẫn chưa thực sự cao đòi hỏi ngân hàng cần có những giải pháp cụ thể hơn để thúc đẩy hoạt động cho vay DNNVV. Cơ cấu dư nợ cho vay DNNVV Việc phát triển hoạt động cho vay DNNVV không chỉ về mặt qui mô mà còn thể hiện ở hướng phát triển cơ cấu cho vay của ngân hàng. Tùy theo từng điều kiện cụ thể và chính sách phát triển của mình mà ngân hàng có những cơ cấu dư nợ thích hợp. Sau đây là cơ cấu dư nợ cho vay DNNVV của NHCT Hoàn Kiếm trong 3 năm vừa qua. Trong dư nợ cho vay DNNVV phân theo thời gian : Bao gồm cho vay ngắn hạn và cho vay trung dài hạn, thì tỷ trọng cho vay trung và dài hạn vẫn đang chiếm một tỷ lệ rất nhỏ. Bảng 7: Dư nợ cho vay phân theo thời gian Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Dư nợ ngắn hạn 62.000 80.000 90.000 Dư nợ trung dài hạn 38.000 15.000 20.000 Tổng dư nợ 100.000 95.000 110.000 Biểu đồ 3: Dư nợ cho vay tại NHCT Hoàn Kiếm phân theo thời gian Ta thấy tỷ trọng cho vay ngắn hạn vẫn chiếm tỷ trọng cao trong hoạt động cho vay của NHCT Hoàn Kiếm. Trong năm 2005 tỷ trọng cho vay ngắn hạn chiếm tỷ trọng 62% với tổng dư nợ đối với DNNVV; năm 2006 tỷ trọng này 84,2%; và đến năm 2007 tỷ trọng này vẫn rất cao chiếm 81,8%. Nhu cầu vay ngắn hạn của các DNNVV để bổ sung vốn lưu động phục vụ vào quá trình sản xuất là những khoản có tính chất quay vòng nhanh, rủi ro ít, do đó ngân hàng chủ yếu mở rộng cho vay ở khoản mục này. Bên cạnh đó ta thấy rằng tỷ trọng của khoản mục cho vay trung và dài hạn chiếm một tỷ trọng khá nhỏ. Tỷ trọng cho vay trung dài hạn năm 2005 chiếm 38% nhưng đến năm 2007 giảm xuống chỉ còn 18% so với tổng dư nợ đối với DNNVV. Điều này cho ta thấy rằng khả năng tiếp cận nguồn vốn trung dài hạn của các DNNVV để đầu tư chiều sâu, phát triển nhà xưởng, thay đổi trang thiết bị vẫn còn khó khăn. Dư nợ cho vay phân theo loại tiền Bảng 8: Dư nợ phân theo loại tiền Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu 2005 2006 2007 Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng Dư nợ nội tệ 94.000 94% 88.300 93% 90.000 82% Dư nợ ngoại tệ 6.000 6% 6.700 7% 20.000 18% Tổng dư nợ 100.000 100% 95.000 100% 110.000 100% Biểu đồ 4: Dư nợ cho vay phân theo loại tiền NHCT Hoàn Kiếm chủ yếu cho DNNVV vay bằng đồng nội tệ, tỷ trọng chiếm trung bình hằng năm chiếm tới 90% so với tổng dư nợ; tỷ trọng cho vay ngoại tệ vẫn còn chiếm tỷ trọng khá nhỏ. Tuy nhiên năm 2007 đã có những kết quả đang nghi nhận, ngân hàng đã mở rộng cho vay ngoại tệ năng tỷ trọng dư nợ cho vay bằng ngoại tệ lên 18% so với tổng dư nợ cho vay DNNVV. Đây là hướng phát triển đúng dắn, kịp thời của NHCT hoàn Kiếm bởi đây là năm đầu tiên chúng ta là thành viên của tổ chức thương mại thế giới, nhu cầu đầu tư xuất nhập khẩu tăng, bên cạnh đó là sự thâm nhập của nhiều doanh nghiệp nước ngoài. Với xu hướng phát triển kinh tế hội nhập đòi hỏi ngân hàng cần mở rộng hơn cho vay bằng ngoại tệ đối với DNNVV. Dư nợ cho vay theo thành phần kinh tế Bảng 9: Dư nợ cho vay theo thành phần kinh tế Đơn vị: Trỉệu đồng Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng DNNN 880.000 80% 778.000 73% 800.000 73% DNNQD 220.000 20% 292.000 27% 300.000 27% Tổng 1.100.000 100% 1.070.000 100% 1.100.000 100% Biểu đồ 5: Dư nợ cho vay phân theo thành phần kinh tế Thực tế chung của hệ thống ngân hàng của Việt Nam bây giờ vẫn còn khá ưu tiên cho các DNNN trong hoạt động cho vay. Ở số liệu từ NHCT Hoàn Kiếm cho ta thấy rằng tỷ trọng cho vay DNNN vẫn còn khá cao, hằng năm chiếm khoảng 75% so với tổng dư nợ của cả ngân hàng. Tuy tỷ trọng cho vay DNNQD vẫn còn khá nhỏ nhưng trong những năm vừa qua ngân hàng cũng đã mở rộng cho vay đối với thành phần kinh tế này. Trong năm 2005 tỷ trọng cho vay DNNQD chỉ chiếm 20% nhưng sang năm 2006, 2007 tỷ trọng này đã được tăng lên 27%. Điều này chứng tỏ là ngân hàng đã có cái nhìn thông thoáng hơn đối với các DNNQD. Chúng ta biết rằng có tới hơn 90% DNNVV là các DNNQD. Vì thế việc phát triển, mở rộng cho vay đối với thành phần kinh tế này chính là phát triển cho vay đối với DNNVV. Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn Bảng 10: Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn cho vay DNNVV Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Nợ quá hạn (triệu đồng) 30 5 0 Tỷ lệ nợ quá hạn(%) 5,7% 0,5% 0% Tình hình nợ quá hạn trong thời gian tại chi nhánh khá thấp, và tỷ lệ nợ quá hạn luôn đảm bảo an toàn cho phép. Năm 2005 nợ quá hạn của hoạt động cho vay DNNVV là 30 triệu đồng, chiếm 5,7% so với tổng dư nợ. Đây là một tỷ lệ khá thấp so với hệ thống ngân hàng Việt Nam. Bằng những biện pháp kiên quyết, kịp thời NHCT Hoàn Kiếm đã rút dần dư nợ đối khách hàng có biểu hiện yếu kém về tài chính và hoạt động kém hiệu quả. Chính vì vậy sang năm 2006 dư nợ quá hạn chỉ còn 5 triệu đồng, tỷ lệ nợ quá hạn giảm xuống 0,5% và cho đến cuối năm 2007 thì cả chi nhánh cũng như phòng khách hàng DNNVV đã không còn nợ quá hạn, trong năm không phải trích dự phòng rủi ro do chất lượng tín dụng. Ta thấy rằng chất lượng của các hoản tín dụng của các DNNVV ngày càng được nâng cao, ít rủi ro, mang nhiều lợi nhuận cho ngân hàng, chính vì vậy cần phải phát triển hơn nữa hoạt động cho vay đối với các DNNVV. 2.2.2 Đánh giá thực trạng hoạt động cho vay DNNVV tại NHCT Hoàn Kiếm 2.2.2.1 Những kết quả đạt được Trong thời kỳ nền kinh tế đang chuyển đổi và hội nhập đã tạo cho hệ thống ngân hàng nói chung và NHCT Hoàn Kiếm nói riêng những cơ hội cũng như thách thức mới. Đứng trước bối cảnh đó NHCT Hoàn Kiếm cũng đã không ngừng đổi mới để có thể có thể tồn tại, phát triển và đã đạt được những thành tựu nhất định trong hoạt động kinh doanh của mình. Hoạt động cho vay DNNVV của NHVT Hoàn Kiếm trong những năm vừa qua không những tăng trưởng về qui mô mà còn phát triển cả về chất lượng. Biểu hiện đầu tiên đó là qui mô cho vay đối với các DNNVV không ngừng được mở rộng. Doanh số cho vay và dư nợ cho vay đối với DNNVV chiếm một tỷ lệ không nhỏ trong hoạt động tín dụng của toàn chi nhánh và là mục tiêu phát triển trong thời gian tới .Số lượng khách hàng DNNVV có quan hệ với khách hàng năm nay đã tăng lên hơn 100 doanh nghiệp. Chất lượng tín dụng: trong năm vừa qua của chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm được đảm bảo thông qua phương châm “ Minh bạch hóa chất lượng tín dụng và nâng cao chất lượng tăng trưởng tín dụng”, nó được thể hiện một cách tổng quát trong quản lý, tác nghiệp, lãi suất và chất lượng tín dụng. Chi nhánh thường xuyên thực hiện rà soát; sàng lọc khách hàng, tăng cường và không ngừng nâng cao chất lượng thẩm định khách hàng, thực hiện nghiêm túc quy trình nghiệp vụ đảm bảo vốn tín dụng đầu tư đúng đối tượng, an toàn và hiệu quả…Chính vì vậy mà khách hàng quan hệ tín dụng tại chi nhánh hầu hết có hoạt động kinh doanh tốt, tình hình tài chính lành mạnh; tỷ lệ nợ quá hạn tong những năm qua đã được giảm xuống cho đến cuối năm thì không còn nợ quá hạn. Về cơ cấu cho vay, trong những năm qua NHCT Hoàn Kiếm đã có sự chú trọng hơn vào cho vay trung dài hạn đáp ứng phần nào nhu cầu đầu tư chiều sâu của các doanh nghiệp, bên cạnh đó tỷ trọng cho vay ngắn hạn cũng không ngừng tăng cao thể hiện được những kết quả đáng ghi nhận trong việc phát triển cho vay của ngân hàng. Ngân hàng đã có những đổi mới trong cơ cấu dư nợ cho vay đối với các DNNVV. Hiện nay ngoài cho vay các DNNN, ngân hàng cũng đã mở rộng cho vay đối với các DNNQD, chính vì vậy tỷ trọng cho vay DNNN đã giảm từ 80% xuống 72%. Với những định hướng chiến lược rõ ràng, dưới sự chỉ đạo của ban giám đốc các phòng khách hành đã phối hợp, chủ động tiếp thị khách hàng nhằm đa dạng hóa đội ngũ khách hàng, làm tiền đề phát triển các sản phẩm dịch vụ, gắn kết sản phẩm tín dụng với những sản phẩm dịch vụ ngân hàng phục vụ trọn gói. Những kết quả đáng ghi nhận của NHCT Hoàn Kiếm trong thời gian vừa qua cho thấy hoạt động cho vay DNNVV đã không ngừng phát triển kể cả qui mô, cơ cấu lẫn chất lượng của các khoản vay. 2.2.2.2 Những hạn chế còn tồn tại Mặc dù những năm qua hoạt động kinh doanh của ngân hàng đã đạt được những thành tích nhất định song hiện nay vẫn còn có những khó khăn và hạn chế cần khắc phục. Hiện nay nguồn vốn của chi nhánh tập trung vào một số khách hàng lớn với giá rẻ tiếp tục bị cạnh tranh với sự phát triển mạnh mẽ của những ngân hàng khác, sự ra đời hàng loạt các định chế phi ngân hàng…tạo sự cạnh tranh trong công tác huy động vốn. Các hình thức cho vay tại chi nhánh vẫn chỉ mới tập trung vào một số phương thức truyền thống như: cho vay từng lần, cho vay hạn mức, cho vay theo dự án,…còn nhiều hình thức tín dụng còn chưa thực hiện hay thực hiện ở mức độ thấp, hạn chế trong việc cung cấp những sản phẩm mang tính khép kín, trọn gói đối với từng đối tượng khách hàng, thiếu sản phẩm ngân hàng hiện đại. Hoạt động tín dụng là hoạt động cốt lõi của ngân hàng tuy nhiên số lượng khách hàng vẫn chưa nhiều, chưa đa dạng về loại hình, chất lượng mạng lưới khách hàng chưa đồng đều. Chính vì vậy đòi hỏi ngân hàng phải đa dạng hóa khách hàng và các sản phẩm dịch vụ hơn để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường. Tuy những năm qua NHCT Hoàn Kiếm đã điều chỉnh cơ cấu dư nợ hợp lý hơn nhưng dư nợ cho vay trung và dài hạn đối với DNNVV vẫn còn chiếm tỷ lệ thấp so với tổng dư nợ, trong khi đó nhu cầu về đầu tư chiều sâu, thay đổi trang thiết bị công nghệ của các doanh nghiệp hiện nay là rất cao. Tỷ lệ cho vay bằng đồng ngoại tệ tuy đã có tăng nhưng vẫn chưa thực sự tương xứng với tiềm năng của thị trường trong điều kiện hội nhập như hiện nay. 2.2.2.3 Nguyên nhân của những hạn chế Trong quá trình phát triển của mình NHCT Hoàn Kiếm vẫn còn những hạn chế cần khắc phục. Nguyên nhân từ phía ngân hàng Về khả năng nuồn vốn của ngân hàng, tuy nguồn vốn vừa qua đã giữ trên 5000 tỷ đồng nhưng vẫn chưa đáp ứng được trong điều kiện hội nhập hiện nay. Ngân hàng sẽ bị cạnh tranh bởi các ngân hàng nước ngoài năng lực tài chính tốt hơn, công nghệ tốt hơn, hệ thống sản phẩm đa dạng, có chất lượng cao, có thể đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng. Bên cạnh đó nguồn vốn trung và dài hạn của ngân hàng còn hạn chế, vì thế sẽ hạn chế trong việc mở rộng cho vay, nâng cao tỷ trọng cho vay trung và ngắn hạn. Do đặc trưng của các DNNVV nên nhu cầu vốn của các doanh nghiệp nhỏ và vừa không lớn nên hiện nay ngân hàng cũng chỉ mới dừng lại ở một số dịch vụ cho vay truyền thống, mới chỉ đủ đáp ứng nhu cầu của thị trường. Các DNNVV là các doanh nghiệp có quá trình phát triển ngắn, ít tên tuổi trên thị trường do đó phần nào hạn chế khả năng tiếp cận thông tin về khách hàng. Do đó thông tin của ngân hàng vẫn chưa đầy đủ, chưa chính xác có thể làm cho ngân hàng nhận định chưa đúng về khách hàng, cho vay đối với những khách hàng kinh doanh không hiệu quả nhưng lại bỏ sót những khách hàng có khả năng. Vì thế đã ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng và tiếp cận với những khách hàng mới. Một trong những tồn tại không chỉ đối với NHCT Hoàn Kiếm mà còn cả hệ thống NHTM nói chung đó là hoạt động marketing vẫn còn khá nghèo nàn, thiếu tính hấp dẫn, chưa mang tính hiện đại và hội nhập. Vì thế nên khách hàng biết rất ít thông tin về ngân hàng như thủ tục tín dụng, cơ chế, các dịch vụ hiện có,…Hạn chế đó là do ngân hàng chưa quan tâm đúng mức đến công tác này như chưa đầu tư đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên sâu marketing, chi phí phục vụ hoạt động này chưa cao, một mặt do hạn chế qui định của bộ tài chính qui định chi phí hoạt động marketing phải trong giới hạn chi phí tiếp thị là quá thấp so với thông lệ quốc tế. Hoạt động marketing của ngân hàng chỉ mới mang tính chất quan hệ báo chí chưa thực sự là hoạt động kinh doanh có hiệu quả. Đội ngũ cán bộ tín dụng đã đáp ứng được nhu cầu công việc, có chuyên môn, tuy nhiên chưa phát huy hết tính sáng tạo, đôi khi còn thụ động trong công việc. Vì vậy đã hạn chế phần nào quá trình phát triển, mở rộng hoạt động cho vay của chi nhánh, đòi hỏi ngân hàng cần có những chính sách để đào tạo thêm về nghiệp vụ, quan tâm hơn đến đời sống tinh thần của cán bộ. Mặt khác, quận Hoàn Kiếm là một quận trung tâm của những dịch vụ thương mại, nhưng là nơi đất chật người đông, tập trung nhiều ngân hàng lớn vì vậy khả năng để mở rộng trụ sở rất khó khăn vì thiếu mặt bằng, cũng như khả năng bị cạnh tranh rất lớn. Hiện tại trụ sở làm việc của chi nhánh còn khá chật hẹp, còn phải thuê rất nhiều nơi để làm việc nên rất bị động, lúng túng. Nguyên nhân từ phía các DNNVV Những hạn chế còn tồn tại trong hoạt động cho vay DNNVV tại NHCT Hoàn Kiếm còn xuất phát từ những hạn chế của các DNNVV. Đặc điểm của các DNNVV tại Việt Nam hiện nay đó là qui mô nhỏ, năng lực tài chính chưa tốt, thường không có tài sản đảm bảo tương ứng với giá trị của khoản vay. Một mặt các DNNVV còn thiếu các dự án khả thi nên rất khó thuyết phục các ngân hàng cho vay vốn. Hầu hết các DNNVV còn kinh doanh tự doanh, chưa có những chính sách, chiến lược kinh doanh cụ thể, thiếu thông tin thị trường nên khó tiếp cận các dự án đầu tư, một mặt kinh nghiệm và trình độ quản lý của các chủ doanh nghiệp cũng như của các nhân viên tài chính nên việc lập các dự án còn yếu, thông tin tài chính mang ra chưa minh bạch, chưa phản ánh được tình hình tài chính cúa doanh nghiệp, không đáp ứng được những yêu cầu của ngân hàng. Những hạn chế tồn tại tự thân các DNNVV như trình độ tay nghề công nhân, công nghệ lạc hậu, sản phẩm còn kém cạnh tranh khó tiêu thụ nên hàm chứa rất nhiều rủi ro trong khi cho vay. Ngyên nhân từ phía Nhà nước Hệ thống pháp luật về hoạt động của các tổ chức tín dụng vẫn còn nhiều bất cập, chồng chéo, chưa cụ thể, thường xuyên thay đổi gây khó khăn cho cả ngân hàng lẫn doanh nghiệp trong việc áp dụng. Một rào cản đối với các DNNVV đó là tài sản đảm bảo. Đối với mức cho vay theo tài sản đảm bảo theo qui định của nhà nước và của NHCT Việt Nam thì ngân hàng chi nhánh chỉ được cho vay tối đa 70% giá trị tài sản đảm bảo đã được xác định và ghi trên hợp đồng tín dụng và/ hoặc hợp đồng bảo đảm tiền vay; nhưng đối với tài sản đảm bảo là máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất, phương tiện vận tải đã qua sử dụng thì không được quá 50% giá trị tài sản được xác định. Trong khi đó chính sách bão lãnh vay vốn cho các DNNVV của Nhà nước vẫn chỉ mới có trên bản dự thảo chưa được áp dụng trên thực tế. Ngoài ra các thủ tục hành chính Nhà nước liên quan đến tài sản đảm bảo còn nhiều rắc rối gây phiền hà cho các DNNVV nên ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận vốn của các DNNVV. Công tác quản lý đối với các DNNVV còn nhiều sơ hở, lơi lỏng trong việc đăng ký kinh doanh, thành lập khiến cho các DNNVV hoạt động tràn lan không hiệu quả, bên cạnh đó việc quản lý quá trình hoạt động kinh doanh của các cơ quan có thẩm quyền còn yếu kém gây khó khăn cho các ngân hàng trong việc thẩm định, thu thập thông tin về doanh nghiệp. Bên cạnh đó những qui định về ưu tiên trong việc phát mại xử lý tài sản đảm bảo, cũng như những qui định về sát nhập, hay giải thể,.. các DNNVVchưa rõ ràng khiến cho các ngân hàng khó thu hồi nợ. CHƯƠNG III GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI DNNVV TẠI CHI NHÁNH NHCT HOÀN KIẾM 3.1 Định hướng, mục tiêu hoạt động của NHCT Hoàn Kiếm trong thời gian tới Trong điều kiện nền kinh tế đang chuyển đổi và hội nhập như hiện nay đã khẳng định vị trí của các DNNVV, phát triển các DNNVV là một nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Đảng và Nhà nước ta cũng đang không ngừng khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các DNNVV phát huy hết tính chủ động sáng tạo, phát triển công nghệ và nguồn lực, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và năng lực cạnh tranh, tạo giải quyết việc làm cho người lao động. Hòa chung với sự phát triển của xã hội và để giữ vững uy tín, vì thế trên thị trường đồng thời ngày càng phát triển hơn nữa, quán triệt chỉ đạo của ban lãnh đạo của ban lãnh đạo NHCT Việt Nam, chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm đã đặt ra chỉ tiêu phấn đấu và phương hướng hành động cụ thể cho đến năm 2010 như sau: Mục tiêu: Nguồn vốn huy động bình quân : 5.500 tỷ đồng Dư nợ cho vay : 1.400 tỷ đồng/năm Tỷ lệ nợ xấu(nhóm 3, 4, 5) : 0%-1%/năm Cho vay DNNN : 65%/năm Cho vay trung dài hạn : 40%/năm Cho vay có bảo đảm : 70% Chỉ tiêu thu hồi nợ đã XLRR : 500 triệu đồng Thu dịch vụ : 3,5 tỷ đồng/năm Lợi nhuận : 75 tỷ đồng/năm Để tồn tại, phát triển, hội nhập, chiến lược phát triển đến năm 2010 của NHCT Hoàn Kiếm xác định phải chủ động đẩy mạnh quá trình cải cách, tiếp tục đổi mới triệt để và toàn diện hơn nhằm đạt được mục tiêu: 1) Xây dựng NHCT Hoàn Kiếm trở thành một ngân hàng hiện đại, hoạt động đa năng, phát triển bền vững, có năng lực tài chính lành mạnh, trình độ về kỹ thuật công nghệ, nguồn nhân lực và quản trị ngân hàng đạt mức tiên tiến; 2) Nâng cao năng lực quản trị kinh doanh, hiệu quả và năng lực cạnh tranh, điều chỉnh cơ cấu đầu tư tín dụng, đầu tư tài chính, phát triển dịch vụ; 3) Cung cấp nhiều sản phẩm nghiệp vụ, dịch vụ ngân hàng có chất lượng cao, góp phần tạo nên các giá trị mới và sự thịnh vượng của NHCT, cán bộ nhân viên NHCT, khách hàng và xã hội; 4) Tiếp tục giữ vững vị trí, vai trò là một trong những chi nhánh hoạt động tốt nhất của ngân hàng thương mại hàng đầu trên thị trường dịch vụ ngân hàng bán buôn, có thị phần lớn trên thị trường dịch vụ ngân hàng bán lẻ và thị trường tín dụng, hướng tới đối tượng khách hàng và sản phẩm, phát triển dịch vụ ngân hàng cho công ty. Phương hướng hành động: Để đạt được những mục tiêu đặt ra cho ngân hàng trong thời gian tới, NHCT Hoàn Kiếm đã có phương hướng hành động cụ thể. Triển khai những chiến lược phát triển đã đặt ra để mở rộng mạng lưới khách hàng, đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ. Phân tích thị trường, tìm kiếm khách hàng có tiềm năng về vốn, linh hoạt gắn kết các hoạt động dịch vụ với khai thác vốn của mọi đối tượng khách hàng. Đẩy mạnh công tác chăm sóc, tiếp thị khách hàng giữ vững nguồn vốn theo hướng đổi mới, cải tiến dịch vụ, thủ tục và phong cách giao dịch tạo dựng niềm tin cho khách hàng Đa dạng hóa các hình thức huy động vốn có cơ cấu và lãi suất hợp lý; quan tâm khai thác các nguồn vốn có lãi suất thấp từ các tổ chức từ các nguồn vốn thanh toán, nhằm nâng cao hiệu quả công tác huy động vốn Tích cực tăng trưởng tín dụng, phát triển dư nợ tín dụng mới và khách hàng mới với phương châm “Tiếp tục minh bạch hóa chất lượng tín dụng và nâng cao chất lượng tăng trưởng tín dụng”. Tăng cường và nâng cao chất lượng thẩm định khách hàng đảm bảo tín dụng tốt, an toàn, hiệu quả, bền vững. Nâng cao hiệu quả quản lý, kiểm soát của cán bộ tín dụng, của các phòng khách hàng, nâng cao hiệu lực quản lý điều hành công tác tín dụng, đảm bảo kinh doanh ngân hàng phát triển bền vững. Thực hiện cho vay theo nguyên tắc thương mại và thị trường. Cho vay phải đảm bảo chất lượng, hiệu quả và bền vững. Chú trọng công tác tiếp thị nhằm mở rộng và đa dạng hóa mạng lưới khách hàng trên cơ sở nghiên cứu và triển khai đồng bộ các chính sách khách hàng của chi nhánh. Gắn công tác phát triển dịch vụ ngân hàng các loại với hoạt động tín dụng là nhiệm vụ trọng tâm. Tích cực triển khai chủ trương của Chính phủ về thanh toán tiền lương qua thẻ, phát triển cơ sở chấp nhận thẻ. Tăng cường các cán bộ có năng lực nghiệp vụ bổ sung cho các phòng kinh doanh, kinh doanh đối ngoại, kiểm soát. Phát huy phong trào học tập nâng cao trình độ đối với cán bộ công nhân viên, có chính sách khuyến học thích đáng, công bằng và có hiệu quả. Xây dựng đội ngũ cán bộ có phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp, ý thức tổ chức kỷ luật và tinh thần cao, có đủ bản lĩnh và năng lực chuyên môn. Mở rộng đầu tư có hiệu quả các thành phần kinh tế, đặc biệt quan tâm đầu tư, đảm bảo nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp sản xuất kinh doanh xuất khẩu, các DNNVV. Phát triển dịch vụ ngân hàng theo 2 hướng: nâng cao chất lượng các sản phẩm hiện có và mở rộng khai thác các sản phẩm tiện ích hiện đại với mục tiêu cụ thể: +Nâng cao doanh số, số lượng sản phẩm. +Nâng cao hình ảnh văn hóa đặc trưng của Chin nhánh NHCT Hoàn Kiếm. +Nâng cao thu nhập từ dịch vụ, chuyển dịch cơ cấu thu nhập sang tỷ trọng thu nhập từ dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn. Tăng cường công tác quản trị điều hành, tập trung cải cách hành chính, phát huy sức mạnh tập thể, lề lối làm việc đảm bảo kỷ cương, kỷ luật. 3.2 Giải pháp phát triển hoạt động cho vay DNNVV tại chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm Qua gần 20 năm xây dựng và trưởng thành NHCT Hoàn Kiếm đã vượt qua nhiều khó khăn, thử thách, đổi mới tổ chức và hoạt động kinh doanh phù hợp với cơ chế thị trường. Hoạt động kinh doanh của NHCT Hoàn Kiếm không ngừng tăng trưởng, đặc biệt trong 3 năm vừa qua. Tuy nhiên bên cạnh những yếu tố thuận lợi và thành tựu đã đạt được, NHCT Hoàn Kiếm vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế cần khắc phục trong hoạt động cho vay DNNVV. Chính vì vậy em mạnh dạn đưa ra một số giải pháp để phát triển hoạt động cho vay DNNVV tại chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm sau: 3.2.1 Gia tăng nguồn vốn tự có và nguồn vốn huy động Vốn tự có của ngân hàng có ba chức năng chính đó là bảo vệ, hoạt động và điều chỉnh. Chức năng bảo vệ:  Trong hoạt đông kinh doanh có rất nhiều rủi ro, những rủi ro này khi xảy ra sẽ gây ra những thiệt hại lớn cho ngân hàng, đôi khi nó có thể dẫn ngân hàng đến chỗ phá sản. Khi đó vốn tự có sẽ giúp ngân hàng bù đắp được những thiệt hại phát sinh và đảm bảo cho ngân hàng tránh khỏi nguy cơ trên. Trong một số trường hợp ngân hàng mất khả năng chi trả thì vốn tự có sẽ được sử dụng để hoàn trả cho khách hàng. Ngoài ra, do mối quan hệ hỗ tương giữa ngân hàng với khách hàng, vốn tự có còn có chức năng bảo vệ cho khách hàng không bị mất vốn khi gửi tiền tại ngân hàng.  Chức năng hoạt động: Thể hiện ở chỗ vốn tự có có thể được sử dụng để cho vay, hùn vốn hoặc đầu tư chứng khoán nhằm mang lại lợi nhuận cho ngân hàng. Tuy nhiên, do vốn tự có chiếm tỷ trọng không lớn trong tổng nguồn vốn kinh doanh nên lợi nhuận mà nó mang lại cũng chưa cao. Chức năng điều chỉnh: Vốn tự có là đối tượng mà các cơ quan quản lý ngân hàng thường hướng vào đó để ban hành những quy định nhằm điều chỉnh hoạt động của các ngân hàng, là tiêu chuẩn để xác định tính an toàn (ví dụ như các ngân hàng không được đầu tư vào tài sản cố định vượt quá 50% vốn của ngân hàng). Vốn tự có còn là căn cứ để xác định và điều chỉnh các giới hạn hoạt động nhằm đảm bảo ngân hàng an toàn trong kinh doanh.  Như vậy gia tăng nguồn vốn tự có của ngân hàng sẽ gia tăng các chức năng này của ngân hàng. Để gia tăng nguồn vốn tự có ngân hàng có thể phát hành cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi. Đối với nguồn bên trong, ngân hàng có thể gia tăng lợi nhuận giữ lại đây là lợi nhuận ngân hàng đạt được trong năm nhưng không chí cho các cổ đông mà giữu lại để tăng vốn. Để gia tăng nuồn vốn huy động NHCT Hoàn Kiếm cần đa dạng hóa các hình thức huy động. Mở rộng các hình thức huy động vốn hiện có kết hợp với các chương trình khuyến khích thu hút khách hàng như tiết kiệm dự thưởng, nâng cao chất lượng các dịch vụ,…bên cạnh đó phát triển các hình thức huy động mới . 3.2.2 Mở rộng điều kiện cho vay đối với DNNVV Điều kiện về tài sản đảm bảo: Mặc dù điều kiện về tài sản đảm bảo được xem là nguồn trả nợ thứ 2 khi ngân hàng quyết định cho vay khi nguồn thứ nhất là thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh không có khả năng trả nợ. Nhưng thực tế ở các NHTM và NHCT Hoàn Kiếm vẫn xem điều kiện về tài sản đảm bảo là điều kiện tiên quyết để quyết định cho vay. Đặc điểm của các DNNVV lại là những doanh nghiệp có qui mô nhỏ, hoạt động kinh doanh nhỏ lẻ, mà khi vay vốn các ngân hàng lại thường yêu cầu giá trị tài sản đảm bảo có giá trị lớn hơn giá trị các khoản vay, vì thế nó đã ngăn cản khả năng tiếp cận nguồn vốn từ các ngân hàng của các DNNVV. Có thể thấy trong thời gian qua NHCT Hoàn Kiếm đã phát triển cho vay không có đảm bảo nhưng số lượng các DNNVV có thể vay không có tài sản đảm bảo là rất ít, trong năm vừa qua chỉ có khoảng 3-4 DNNVV có thể vay tín chấp. Còn lại các doanh nghiệp có thể vay theo hình thức này chủ yếu là những khách hàng truyền thống, các DNNN hoạt động khing doanh có uy tín, hiệu quả cao trên thị trường. Để các doanh nghiệp cận dễ hơn với nguồn vốn ngân hàng thì hình thức tín chấp được áp dụng rất phổ biến hiện nay. Hình thức cho vay tín chấp là hình thức ngân hàng chấp nhận cho doanh nghiệp vay dựa trên sự bảo lãnh của một đơn vị hay cá nhân nào đó có uy tín hay có vị thế quan trọng. Việc mở rộng cho vay tín chấp sẽ tăng lượng khách hàng cho NHCT Hoàn Kiếm do đó cũng tăng lợi nhuận cho ngân hàng. Tuy nhiên bên cạnh đó các doanh nghiệp cũng cần có những điều kiện như: tình hình tài chính lành mạnh, dự án sản xuất kinh doanh khả thi, phải có thời gian hoạt động ít nhất là 5 năm, phải có lãi ít nhất là 3 năm gần nhất và lãi phải tăng dần ít nhất 25% mỗi năm,…Việc hình thành quỹ bảo lãnh tín dụng cho các DNNVV chính là cơ sở để NHCT Hoàn Kiếm phát triển hơn nữa hình thức cho vay tín chấp, từ đó mở rộng cho vay đối với DNNVV. Điều kiện về phương thức cho vay: Theo quyết định số 072/QĐ-HĐQT-NHCT35 thì NHCT Hoàn Kiếm có những phương thức cho vay đó là: cho vay từng lần, cho vay theo hạn mức, cho vay theo dự án đầu tư, cho vay trả góp, cho vay hợp vốn, cho vay theo hạn mức thấu chi, và một số phương thức khác. Tuy nhiên hiện nay ngân hàng mới chỉ áp dụng một số hình thức chủ yếu như: cho vay từng lần, cho hạn mức, cho vay theo dự án, điều này đã hạn chế khả năng phát triển hoạt động cho vay của ngân hàng đối với các DNNVV. Do đó ngân hàng cần có những chiến lược phát triển cụ thể, lâu dài để phát triển các phương thức cho vay khác. Điều kiện về đối tượng cho vay: Theo qui định của NHCT Việt Nam thì đối tượng cho vay của ngân hàng cho vay thì trụ sở giao dịch chính của khách hàng cùng địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi Ngân hàng cho vay đóng trụ sở. Trường hợp khác, chi nhánh giải trình rõ nguyên nhân trình Tổng giám đốc xem xét, quyết định. Theo đó thì các doanh nghiệp có trụ sở tại các tỉnh khác nhưng có chi nhánh hoạt động tại Hà Nội muốn được vay vốn tại NHCT Hoàn Kiếm phải thông qua rất nhiều thủ tục và cấp xét duyệt. Điều này đã hạn chế khả năng tiếp cận nguồn vốn của các doanh nghiệp đồng thời cũng hạn chế sự phát triển của hoạt động cho vay DNNVV của chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm. Điều này đòi hỏi NHCT Việt Nam nói chung cũng như NHCT Hoàn Kiếm nói riêng cần có những qui định hợp lý hơn về đối tượng cho vay, có thể cho vay đối với các doanh nghiệp chỉ cần có chi nhánh tại Hà Nội nhưng đáp ứng đầy đủ các điều kiện vay vốn khác. 3.2.3 Nâng cao chất lượng cho vay Nâng cao chất lượng quá trình thẩm định khách hàng và thẩm định dự án Thẩm định là quá trình thu thập và phân tích thông tin nhằm xác định uy tín, tư cách pháp lý, sức mạnh tài chính và khả năng thanh toán của người vay,…trong quá khứ, hiện tại, tương lai, hiệu quả của dự án,…quá trình thẩm định sẽ quyết định khả năng rủi ro cũng như sinh lời của khoản cho vay, chính vì vậy ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng cho vay. Nâng cao quá trình thẩm định nhằm rút ngắn quá trình thẩm định và nâng cao chất lượng thẩm định. Có như vậy qui trình cho vay sẽ nhanh chóng, chính xác hơn, đáp ứng nhu cầu cho khách hàng nhanh hơn, đồng thời hạn chế rủi ro cho ngân hàng. Hiện nay việc thẩm định cho vay do cán bộ và lãnh đạo phòng kinh doanh dịch vụ, phòng khách hàng, phòng giao dịch, điểm giao dịch thực hiện. Và những người thẩm định phải đảm bảo tính độc lập, khách quan, chịu trách nhiệm về nội dung thẩm định và ý kiến đề xuất của mình. Vì vậy chất lượng thẩm định phụ thuộc phần lớn vào khả năng chuyên môn của cán bộ tín dụng, nên để nâng cao khả năng thẩm định cho cán bộ NHCT Hoàn Kiếm cần đẩy mạnh hơn nữa công tác đào tạo, huấn luyện khả năng thu thập, phân tích và đánh giá thông tin cho cán bộ. Bên cạnh đó nội dung thẩm định và ý kiến của cán bộ tín dụng là cơ sở chính để quyết định cho vay do đó nó phụ thuộc vào đạo đức nghề nghiệp của cán bộ tín dụng. Có thể cán bộ tín dụng sẽ thông đồng với doanh nghiệp để giúp doanh nghiệp có thể đáp ứng đử điều kiện vay vốn, cho vay những khoản tín dụng không đảm bảo, có thể gây rủi ro cho ngân hàng. Vì thế bên cạnh đào tạo chuyên môn, ngân hàng cần có những cán bộ có đạo đức nghề nghiệp, phẩm chất tốt, tâm huyết trong công việc. Và điều quyết định đến hiệu quả của quá trình phân tích chính là thông tin, yếu tố đầu vào của qui trình. Để nâng cao chất lượng của quá trình thẩm định ngân hàng cần có một hệ thống thông tin đầy đủ, chính xác kịp thời về khách hàng. Ngân hàng phải thường xuyên theo dõi những thông tin được cung cấp từ hệ thống thông tin tín dụng từ CIC của Ngân hàng Nhà nước và Trung tâm phòng ngừa rủi ro của NHCT Việt Nam. Bên cạnh đó ngân hàng cần thiết lập một hệ thống thông tin nội bộ chặt chẽ để thu thập và lưu giữ thông tin về khách hàng, giúp cán bộ tín dụng có cái nhìn bao quát hơn về khách hàng, rút ngắn thời gian thẩm định. Nâng cao khả năng huy động vốn trung và dài hạn để hoàn thiện cơ cấu cho vay hợp lý. Như chúng ta đã biết về tình hình hoạt động vốn của NHCT Hoàn Kiếm thì nguồn vốn trung và dài hạn còn chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong các năm. Mà hiện nay ngân hàng đang đi theo hướng phát triển cơ cấu cho vay hợp lý, tăng tỷ trọng cho vay trung dài hạn. Trong nguyên tắc quản trị thì có sự cân bằng về thời hạn giữa nguồn huy động và nguồn sử dụng; nguồn ngắn hạn để cho vay ngắn hạn, nguồn trung dài hạn để cho vay trung dài hạn và cấp tín dụng dưới hình thức thuê mua; tùy theo từng điều kiện cụ thể có thể sử dụng nguồn ngắn hạn để cho vay trung dài hạn nhưng tỷ lệ này bị Ngân hàng Nhà Nước qui định rất chặt chẽ mà cũng chứa đựng nhiều rủi ro. Do vậy việc tăng cường huy động vốn trung và dài hạn sẽ góp phần giảm thiểu rủi ro tín dụng nâng cao chất lượng cho vay trung dài hạn từ đó nâng cao chất lượng cho vay của ngân hàng. Vì vậy ngân hàng cần có những biện pháp thu hút hơn nữa nguồn huy động vốn trung dài hạn như: có những chính sách lãi suất linh hoạt, hấp dẫn; tạo tính lỏng hơn cho tiền gửi ngân hàng; từ đó khách hàng có thể gửi tiền dài hạn nhưng lúc cần tiền mặt vẫn có thể dễ dàng rút ra;… Bên cạnh đó chi nhánh cần mở thêm nhiều điểm giao dịch trên cơ sở gọn nhẹ tiết kiệm chi phí để tiếp cận dễ dàng hơn với khách hàng, chủ động tìm kiếm nguồn trung dài hạn từ các doanh nghiệp, duy trì nguồn tiền gửi thanh toán lâu dài. Cải tiến thủ tục, qui trình cho vay đối với DNNVV Hiện nay sự cạnh tranh của các ngân hàng được quyết định bởi chất lượng phục vụ dịch vụ như thế nào.Để có thể nâng cao chất lượng hoạt động cho vay NHCT Hoàn Kiếm cần hoàn thiện qui trình cho vay cũng như cải tiến thủ tục cho vay để qua trình cho vay diễn ra nhanh chóng, chính xác và thuận tiện cho khách hàng nhất. Hiện nay theo qui định của NHCTViệt Nam, thời gian quyết định cho vay vốn của cho vay ngắn hạn không quá 4 ngày, 6 ngày nếu phải đánh giá rủi ro, 10 ngày nếu phải có hội đồng tín dụng quyết định; còn cho vay trung dài hạn thì không quá 15 ngày làm việc, trường hợp phải đánh giá rủi ro là 20 ngày, do hội đồng tín dụng xem xét là 25 ngày. Do đó chi nhánh cần rút ngắn hơn thời gian quyết định cho vay vốn để đáp ứng nhu cầu cho các doanh nghiệp, có thể giải quyết hồ sơ ngay trong ngày nếu khách hàng nộp đầy đủ, hợp lệ các giấy tờ, chi nhánh cần hoàn thiện hơn hệ thống thông tin tư vấn cho khách hành trước khi đi vay vốn, hướng dẫn cụ thể các giấy tờ cần có, các qui trình sẽ phải thực hiện để khách hành có thể tiếp cận nhanh chóng những yêu cầu của chi nhánh. Xây dựng một qui trình cho vay hợp lý, đơn giản cho khách hàng và hoàn thiện hệ thống giao dịch một cửa, với mỗi khách hàng chỉ cần tiếp xúc với một cán bộ tín dụng. Hoàn thiện hệ thống tính điểm tín dụng cho khách hàng DNNVV Hiện nay chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm đã sử dụng bảng tính điểm tín dụng cho khách hàng trong đó có khách hàng DNNVV. Việc xây dựng hệ thống tính điểm tín dụng sẽ giúp cho việc xét duyệt và thẩm định cho vay vốn ít công sức, thời gian và chi phí của ngân hàng cũng như khách hàng. Hệ thống tính điểm là tập hợp các tiêu thức khác nhau liên quan đến từng đối tượng khách hàng vay vốn. Mỗi tiêu thức có điểm số khác nhau và tỷ trọng khác nhau tùy theo tính chất, tầm quan trọng và kinh nghiệm thực tiễn. hệ thống tính điểm cho vay các DNNVV được phân theo các ngành nghề các nhau như: nông lâm, xây dựng, vận tải,… và được chia làm 2 chỉ tiêu với những tiêu thức khác nhau đó là: chỉ tiêu tài chính và chỉ tiêu phi tài chính. Điểm tín dụng của khách hàng là một căn cứ quan trọng để ngân hàng quyết định cho vay. Vì thế để quá trình cho vay được nhanh chóng, ít rủi ro, nhằm mang nâng cao hiệu quả của phương pháp này, chi nhánh cần xây dựng một hệ thống tính điểm khoa học, phù hợp với những thay đổi của thực tế . Tăng cường công tác kiểm tra giám sát tình hình sử dụng vốn của doanh nghiệp sau khi vay Việc kiểm tra định kỳ khách hàng sau khi vay một cách khoa học là rất quan trọng, nó cho biết khách hàng có sử dụng vốn có đúng mục đích hay không, dự án kinh doanh có hiệu quả hay không, từ đó ngân hàng mới có những quyết định tiếp tục cho vay, gia hạn hay ngừng cho vay. Mặc dù hiện nay chi nhánh đã chú trọng hơn về công tác này đặc biệt đối với khách hàng là DNNVV tuy nhiên mới chỉ mang tính chất cho có, hình thức. Dó đó ngân hàng cần có những giải pháp tích cực để nâng cao hiệu quả của công tác này nhằm hạn chế rủi ro cho khoản vay. Nên phân công việc thẩm định, quyết định cho vay và công tác kiẻm tra tình hình sử dụng vốn vay cho hai nhân viên khác nhau. Tránh trường hợp nhân viên thẩm định cho vay làm luôn phương án sử dụng vốn vay cho khách hàng, trong khi khách hàng thì không sử dụng vốn vay như trong phương án đã trình bày, điều này làm sai qui tắc cho vay và hàm chứa những rủi ro khôn lường cho ngân hàng. Việc kiểm tra định kỳ sẽ làm rủi ro tín dụng cho ngân hàng, giảm tình trạng doanh nghiệp sử dụng vốn vay sai mục đích. Khi phát hiện có dấu hiệu sử dụng vốn vay sai mục đích ngân hàng sẽ thu hồi công nợ sớm, như vậy làm giảm các khoản nợ xấu. 3.2.4 Tăng cường công tác tiếp thị, giới thiệu sản phẩm cho vay đối với các DNNVV Không chỉ riêng chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm mà hầu như các NHTM hiện nay đều chưa thực sự chú trong đến công tác marketing, tiếp thị và giới thiệu các sản phẩm cho vay của mình đến khách hàng. Đa số khách hàng tự tìm đến ngân hàng để xin vay hay đăng ký sử dụng sản phẩm, điều này có thể dẫn đến nhiều rủi ro cho ngân hàng hơn. Việc chú trọng khâu tiếp thị, giới thiệu sản phẩm sẽ làm tăng thêm khách hàng cho chi nhánh, chi nhánh có thể chọn công ty để tiếp thị, do đó sẽ giảm rủi ro trong thanh toán nợ vay, đồng thời cũng sẽ giúp cho các DNNVV có thêm thông tin cũng như sự tư vấn để doanh nghiệp có thể ra quyết định vay vốn nếu họ cảm thấy có lợi. Hiện nay các doanh nghiệp, chủ yếu là các DNNVV muốn biết sản phẩm dịch vụ của ngân hàng thường phải đến ngân hàng để tìm hiểu, tuy nhiên, việc tìm hiểu này cũng rất khó khăn vì thiếu nhân viên hướng dẫn và giải thích một cách chu đáo; ngoài ra các doanh nghiệp có thể tham khảo trên các Website nhưng các thông tin lại chỉ nêu tóm tắt không đầy đủ, và hiện tại chi nhánh lại không có Website riêng của mình. Vì vậy chi nhánh nên tăng cường công tác tiếp thị bằng các thức như phát tờ rơi và có những nhân viên trực tiếp hoặc qua điện thoại trả lời đầy đủ và chi tiết về các sản phẩm dịch vụ mà khách hàng, đặc biệt là các DNNVV quan tâm. 3.2.5 Đẩy mạnh chính sách giao tiếp với khách hàng Cũng như các ngân hàng khác, NHCT Hoàn Kiếm hoạt động với phương châm luôn hướng về phía khách hàng, việc hoàn thiện chính sách giao tiếp với khách hàng sẽ góp một phần đáng kể vào việc làm hài lòng và thỏa mãn nhu cầu của khách hàng. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc thu hút khách hàng, góp phần tạo hình ảnh đẹp cho ngân hàng, một phương thức quảng cáo hiệu quả và tốn ít chi phí nhất. Khách hàng thường bị chi phối bởi ấn tượng ban đầu mà họ nhìn thấy trước sau đó mới đến quá trình tiếp xúc với nhân viên ngân hàng.Vì thế chi nhánh cần có đồng phục cho các nhân viên mới tạo được môi trường kinh doanh làm việc chuyên nghiệp, nghiêm túc, tự tin và xây dựng một cơ sở trang thiết bị khang trang, hiện đại sẽ làm cho khách hàng tin tưởng hơn về các dịch vụ khác của ngân hàng. Bên cạnh đó việc đồng phục cho cả ngân hàng sẽ tạo một môi trường làm việc hòa đồng, thoải mái nâng cao hiệu quả làm việc cho các nhân viên. Điều quan trọng nhất trong chính sách giao tiếp khách hàng đó chính là thái độ phục vụ và tác phong của nhân viên, đặc biệt là nhân viên tín dụng. Cần có những buổi học ngoại khóa cho nhân viên về tác phong giao tiếp, văn hóa kinh doanh cho các nhân viên. Một thái độ phục vụ tận tình chu đáo, tác phong nhanh chóng, chuyên nghiệp sẽ tạo được ấn tượng tốt đẹp cho khách hàng, nâng cao hình ảnh cho ngân hàng. 3.2.6 Cần quan tâm nhiều hơn nữa đối với công tác đào tạo, đào tạo lại, tuyển dụng, bổ nhiệm nhân viên tín dụng Có thể nói đội ngũ cán bộ tín dụng là lực lượng tín dụng đối với bất cứ một ngân hàng nào. Do đó việc đào tạo và tuyển dụng phải có một quy trình chặt chẽ để có một đội ngũ nhân viên tín dụng chất lượng. Do đó việc đào tạo và tuyển dụng phải có một quy trình chặt chẽ để có một đội ngũ nhân viên tín dụng chất lượng. Một nhân viên tín dụng cần có những kỹ năng cần thiết như: Sự hiểu biết về sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng Kỹ năng giao tiếp, ứng xử, thuyết trình Các kiến thức cần thiết cho việc thẩm định và đánh giá tín dụng; kiến thức về luật pháp; kiến thức về kế toán, tài chính; kiến thức về nền kinh tế, ngành nghề kinh doanh. Khả năng phát hiện và đề ra giải pháp, khả năng dự đoán các vấn đề kinh tế. Cần phải có đạo đức nghề nghiệp, trung thực và trách nhiệm đây là điều mà các ngân hàng ít chú trọng chính vì thế mà đã xảy ra không ít vụ lừa đảo, nhân viên tín dụng cấu kết với khách hàng để rút tiền ngân hàng. Hằng năm ngân hàng nên tổ chức các đợt tuyển dụng công khai, ngoài việc kiểm tra sự thông minh, kiến thức nghiệp vụ, khả năng tiếng anh, ngân hàng cần chú trọng kiểm tra các kiến thức kinh tế xã hội khác cũng như đạo đức nghề nghiệp. Khi tuyển dụng các ứng viên đã từng làm ở ngân hàng khác cần tìm hiểu kỹ lí do họ nghỉ việc chỗ cũ. Ngoài việc tuyển dụng theo hình thức đăng báo, ngân hàng nên tăng cường liên kết với các trường đại học như: đại học kinh tế, đại học ngân hàng học viện tài chính,… để lựa chọn sinh viên đến thực tập rồi bố trí công việc luôn. Như vậy sẽ đỡ thời gian thử việc sau này, đồng thời tiết kiệm chi phí quản lý nhân sự cho ngân hàng. Chi nhánh nên thường xuyên tổ chức kiểm tra, sát hạch đánh giá trình độ của cán bộ để có kế hoạch bồi dưỡng, đào tạo lại. Một mặt nâng cao trình độ chuyên môn đồng thời cung cấp những thông tin, kiến thức mới. Để thu hút những cán bộ giỏi và giữ chân được họ thì ngân hàng cần có những chế độ ưu đãi, quan tâm đến đời sống tinh thần, tạo môi trường làm việc cạnh tranh công bằng, chuyên nghiệp điều này sẽ tạo động lực cho các nhân viên làm việc. Phát triển công nghệ ngân hàng Hiện nay xu thế của các ngân hàng là triển khai các dịch vụ ngân hàng như ngân hàng trực tuyến, các dịch vụ thanh toán điện tử vì vậy NHCT Hoàn Kiếm nên đổi mới hệ thống công nghệ thông tin. Phát triển mạnh công nghệ thông tin, đặc biệt là chú trọng đẩy mạnh ứng dụng công nghệ mới, hiện đại trong lĩnh vực ngân hàng. Xác định công nghệ thông tin là lĩnh vực có tính then chốt, là cơ sở nền tảng cho các hoạt động kinh doanh, tăng năng suất, hiệu quả, nâng cao năng lực cạnh tranh và hiện đại hóa cho ngân hàng. Việc áp dụng công nghệ hiện đại giúp ngân hàng tổ chức lưu trữ, kiểm tra, xử lý và đánh giá thông tin về doanh nghiệp và dự án một cách nhanh chóng, chính xác hỗ trợ đắc lực cho công tác thẩm định trên cơ sở thúc đẩy phát triển hoạt động cho vay, đăc biệt là cho vay DNNVV. Một số kiến nghị 3.3.1 Kiến nghị đối với Nhà nước Nhà nước cần hoàn thiện hơn chính sách về thành lập, hoạt động của các quỹ bảo lãnh tín dụng hỗ trợ DNNVV Nhà nước ta đã có những chính sách về thành lập, hoạt động của các quỹ bảo lãnh tín dụng để hỗ trợ cho các DNNVV từ năm 2001, tuy nhiên, hiện nay việc thành lập các quỹ bảo lãnh này vẫn chưa được triển khai tốt, các doanh nghiệp hầu như cũng không biết về các quỹ bảo lãnh này. Việc qui định muốn thành lập quỹ thì cần phải có tối thiểu là 300 tỷ đồng đã gây khó khăn cho một số tỉnh trong việc thành lập quỹ vì không kiếm đâu ra tiền. Do vậy Nhà nước nên có những qui định mở hơn tùy vào điều kiện từng tỉnh mà có thể cho phép thành lập với mức vốn thấp hơn 300 tỷ đồng. nên có Website riêng nêu rõ các chính sách, điều kiện để được bảo lãnh, hỗ trợ, và có liên kết đến các tỉnh và thành phố đã lập quĩ. Bên cạnh đó nên có qui định cho phép DNNVV đăng ký vay vốn trước đối với Quỹ bảo lãnh tín dụng, căn cứ vào đơn xin phép, tình hình hoạt động cũng như tài sản thế chấp để cấp cho doanh nghiệp một hạn mức tín dụng. Khi doanh nghiệp có nhu cầu sẽ tiến hành thủ tục cho vay, điều này sẽ làm giảm thời gian xin vay của doanh nghiệp, đáp ứng được nhu cầu vay vốn nhanh và kịp thời cho doanh nghiệp. Hoàn thiện môi trường pháp lý và tạo môi trường kinh tế ổn định Hiện nay hệ thống các văn bản pháp luật và các văn bản liên quan như luật doanh nghiệp, luật kinh doanh, ngân hàng tài chính, luật cạnh tranh, nghị định, nghị quyết,…vẫn chưa được đồng bộ và hoàn chỉnh. Do đó Nhà nước cần có những sửa đổi và hoàn thiện để tạo hành lang pháp lý chung cho các doanh nghiệp và các ngân hàng hoạt động có hiệu quả. Bên cạnh đó một môi trường kinh tế phát triển ổn định sẽ là điều kiện thúc đẩy cho hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp, tăng tính an toàn cho các hoạt động cho vay của các ngân hàng. Nhà nước cần có những chính sách hỗ trợ DNNVV thiết thực hơn như: Hỗ trợ về đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động như mở các trung tâm dạy nghề tại các vùng nông thôn, huyện xã; cùng các cá nhân tổ chức mở các cơ sở đào tạo cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật nhằm cung cấp nguồn lao động có tay nghề cho các doanh nghiệp đặc biệt là các DNNVV. Nhà nước cần có những chính sách kịp thời để hoàn thiện hơn, nâng cao hiệu quả của của Trung tâm tín dụng CIC, hiện nay hầu như các thông tin của các ngân hàng đều lấy từ Trung tâm tín dụng CIC của Ngân hàng Nhà nước, tuy nhiên thông tin về các DNNVV còn rất sơ sài chưa phản ánh được lịch sử thanh toán và quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Đối với việc xử lý tài sản đảm bảo: qui trình xử lý tài sản cần được phối hợp với các cơ quan chức năng Nhà nước để thực hiện nhanh chóng tránh tổn thất cho ngân hàng. Việc xử lý tài sản thé chấp còn nhiều vướng mắc, như khi xảy ra vụ kiện ra tòa để phát mãi tài sản thế chấp còn quá chậm, thời gian kéo dài, khi bản án có hiệu lực thì khi thi hành cũng kéo dài gây thất thoát tài sản hoặc làm tài sản bị xuống cấp, hư hỏng gây thiệt hại cho ngân hàng. Bên cạnh đó cần có những chính sách để sớm giải quyết các vướng mắc liên quan đến quyền sử dụng đất. Hiện nay qui trình xử lý rủi ro đối với các loại hình doanh nghiệp vẫn đang có sự phân biệt. Ví như chỉ có DNNN khi xảy rủi ro mới được khoanh nợ, còn các DNNVV thì thuộc sở hữu tư nhân nên không được do đó Nhà nước cần có chính sách xử lý rủi ro công bằng để các ngân hàng không e ngại khi cho các DNNVV vay vốn. 3.3.2 Các kiến nghị đối với NHCT Việt Nam NHCT Việt Nam là cơ quan chỉ đạo trực tiếp của NHCT Hoàn Kiếm do đó để phát triển hoạt động cho vay của mình NHCT Hoàn Kiếm cần có những sự định hướng và giúp đỡ của NHCT Việt Nam. NHCT Việt Nam cần ban hành, hoàn thiện đồng bộ hoá các văn bản về hoạt động kinh doanh tín dụng của các chi nhánh trong hệ thống, tạo điều kiện cho chi nhánh được mở rộng, nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng với mọi khách hàng. Giúp đỡ chi nhánh tìm địa điểm kinh doanh thuận lợi để xây dựng trụ sở mới, nâng cấp cơ sở trang thiết bị, phù hợp với tầm vóc của một chi nhánh thương mại nằm ở trung tâm kinh tế Hà Nội. NHCT Việt Nam cần có những chính sách hỗ trợ cho chi nhánh về tài chính và xử lý nợ khó đòi đối với các DNNVV. NHCT cần có hệ thống thu thập thông tin về các thành phần kinh tế, đặc biệt là các DNNVV và các thông tin khác trên thị trường để cung cấp cho các chi nhánh, từ đó phân tích xu hướng phát triển của thị trường để có những chiến lược phát triển phù hợp với từng thời kỳ và từng chi nhánh. Trang thiết bị mạng lưới hệ thống thông tin nội bộ hiện đại toàn hệ thống NHCT. Kiến nghị đối với các DNNVV Như chúng ta đã biết các DNNVV khó tiếp cận với nguồn vốn ngân hàng một phần là do chính nội lực của các doanh nghiệp còn có nhiều hạn chế. Do đó để có thể tiếp cận dễ dàng hơn với nguồn vốn vay từ các ngân hàng phục vụ cho quá trình hoạt động kinh doanh các DNNVV cần có những chính sách, chiến lược kinh doanh cụ thể. Các DNNVV cần đào tạo cán bộ quản lý và nâng cao tay nghề cho người lao động Các DNNVV ít chú trọng vào công tác đào tạo nhân viên của mình, doanh nghiệp càng nhỏ thì càng ít quan tâm hơn. Hầu như các nhân viên trong các doanh nghiệp đều tự túc trong việc học tập nâng cao trình độ, và khi họ có kinh nghiệm và kiến thức tốt thì họ sẽ lại rời bỏ doanh nghiệp gây khó khăn cho DNNVV. Do đó các doanh nghiệp nên quan tâm đến việc đào tạo nhân viên và sẽ làm cam kết để nhân viên đó phục vụ lại cho doanh nghiệp trong một thời gian nhất định. Bên cạnh đó trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay việc nâng cao trình độ quản lý là điều cần thiết đối với các chủ doanh nghiệp, đặc biệt là nâng cao về trình độ quản trị kinh doanh, quản trị nhân sự. Hiện nay có khoảng 40% chủ doanh nghiệp có trình độ học vấn từ sơ cấp và phổ thông trở xuống, trong khi đó cơ hội và môi trường học tập ở Việt Nam là rất thuận lợi. Vì vậy các chủ doanh nghiệp nên tham gia học tập nâng cao trình độ quản lý cũng như chuyên môn của mình. Các DNNVV cần phải chấp hành nghiêm túc chế độ kế toán do Nhà nước ban hành Một trong những hạn chế lớn nhất của các DNNVV khi tiếp cận nguồn vốn của ngân hàng là việc báo cáo tài chính không minh bạch, sơ sài, thiếu trung thực, do không chấp hành đúng các chế độ qui định kế toán do bộ tài chính ban hành. Vì thế các doanh nghiệp nên chấp hành đầy đủ các yêu cầu của luật kế toán, thực hiện quá trình quản lý, xử lý, ghi chép sổ kế toán chặt chẽ, đầy đủ, rõ ràng một mặt nữa là các doanh nghiệp không nên sử dụng hai loại báo cáo tài chính, có như vậy quá trình xét duyệt cho vay sẽ nhanh chóng hơn, lấy được sự tin tưởng của ngân hàng. Mỗi DNNVV nên tham gia vào ít nhất một hội doanh nghiệp để có được sự hỗ trợ nhất định từ hội, chẳng hạn như hiệp hội các doanh nghiệp trẻ hầu như tỉnh nào cũng có. Trong trường hợp doanh nghiệp muốn xin vay vốn nhưng không đủ tài sản đảm bảo thì hiệp hội doanh nghiệp có thể dùng uy tín của mình để bảo lãnh cho doanh nghiệp đó. Các doanh nghiệp nên tăng cường giao dịch qua ngân hàng, việc thanh toán công nợ mua bán, trả lương nhân viên chủ yếu là chuyển khoản qua ngân hàng. Việc giao dịch qua ngân hàng càng nhiều sẽ có nhiều lợi thế hơn so với ít giao dịch qua ngân hàng khi đi vay vốn vì khi tăng cường giao dịch qua ngân hàng luồng tiền đi ra và đi vào tài khoản thanh toán tại ngân hàng sẽ giúp cho ngân hàng đánh giá đúng giá trị cũng như tình hình sử dụng tài chính của doanh nghiệp xin vay vốn. KẾT LUẬN Qua nghiên cứu đề tài ta thấy chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm đã có những định hướng phát triển tốt chính sách phát triển hoạt động cho vay DNNVV đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Tuy nhiên việc tiếp cận nguồn vốn vay tại ngân hàng đối với các DNNVV chưa thực sự hết khó khăn, và hạn chế. Do đó cần có sự hỗ trợ mở đường, định hướng của Nhà nước, từ NHCT Việt Nam và cả bản thân các DNNVV. Trong chuyên đề này tập trung phân tích tình hình hoạt động chung cũng như hoạt động cho vay DNNVV của chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm, từ đó tìm ra những hạn chế, tồn tại và đề ra những giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả trong việc giải quyết khó khăn, tháo gỡ rào cản trong việc phát triển cho vay DNNVV tại chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm. Đề tài của em được sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo PGS.TS Lê Đức Lữ và sự giúp đỡ của các cán bộ tín dụng phòng khách hàng DNNVV tại Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm. Do khả năng còn hạn chế nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp của thầy cô giáo để bài viết hoàn chỉnh hơn. Em xin chân thành cảm ơn! DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO TS. Phan Thu Hà (Chủ biên), 2004, Giáo trình Ngân hàng thương mại, NXB Thống kê. GS.TS Lưu Thị Hương (Chủ biên), 2004, Giáo trình Tài chính doanh nghiệp, NXB Thống kê Federic S.mishkin, 2001, Tiền tệ, Ngân hàng và thị trường tài chính, NXB Khoa học kỹ thuật Perter S.Rose, 2004, Quản trị ngân hàng thương mại, NXB Tài chính Luật doanh nghiệp, 2005 Luật các tổ chức tín dụng số 07/1997/QHX Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng, số 1627/2001/QĐ-NHNN Quy chế cho vay đối với khách hàng của Ngân hàng Công Thương Tạp chí ngân hàng các số 4/2005, số 1+2, 6/2006, số 21, 23/2007, số 1/2008 Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ, số 7, 10, 14/2007 Thời báo ngân hàng số 2, 3/2006 MỤC LỤC DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT DNNVV : Doanh nghiệp nhỏ và vừa DNNN : Doanh nghiệp Nhà nước DNNQD : Doanh nghiệp ngoài quốc doanh NHCT : Ngân hàng Công Thương NHTM : Ngân hàng Thương Mại

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28586.doc
Tài liệu liên quan