Chuyên đề Phát triển lĩnh vực marketing cho công ty cổ phần kỹ thuật ứng dụng quốc tế

Vấn đề về kỹ thuật công ty chưa thể đáp ứng được nhưng trong xu thế phát triển của thị trường thì sẽ đem lại cho công ty rất nhiều cơ hội hợp tác, trên thị trường thì có rất nhiều các doanh nghiệp kinh doanh về dịch vụ, chăm soc khách hàng đã và đang phát triển rất mạnh. Nên phương án đưa ra ở đây là. Công ty có thể ký các hợp đồng với các công ty vận chuyển, công ty bảo dưỡng sản phẩm với các đối tác có chuyên môn phù hợp với sản phẩm của công ty. Để giúp cho công ty hoàn thiên hơn về khả năng phục vụ khách hàng của mình. Đó là những điểm còn thiếu và yếu trong hoạt động Marketing của công ty. Đó cũng có thể là những thiếu sót không mong muốn của công ty, rất có thể công ty đã lường trước được điều đó nhưng vì những vấn đề nội tại bên trong công ty mà công ty không thể hoàn thiện nó được. Và em cũng đã nêu ra những giải pháp của riêng mình với hy vọng rằng những phát hiện và góp ý của mình sẽ có ích cho công ty. Giúp công ty ngày càng hoạt động có hiệu quả hơn.

doc57 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1710 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Phát triển lĩnh vực marketing cho công ty cổ phần kỹ thuật ứng dụng quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phát triển mạng lưới kênh phân phối. Việc lựa chọn kênh phân phối thích hợp sẽ giúp được doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí mà hiệu quả kinh doanh lại cao hơn. Doanh nghiệp sẽ có được lợi nhuận tốt nhất có thể. Công cuộc hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của kênh phân phối có thể được thực hiện theo các yêu cầu sau: Nâng cao khả năng cung ứng bằng vận tải, đẩy nhanh khả năng đáp ứng yêu cầu của khách hàng về mặt thời gian, linh động hơn về địa điểm giao hàng cho khách. 3.1.3. Nâng cao khả năng chuyên môn bán hàng cho nhân viên. Cảm giác của khách hàng là một yếu tố rất quan trọng trong quyết định mua hay không mua của khách hàng. Do vậy khả năng chào bán của nhân viên cung là một yếu tố hết sức đáng chú ý, nó có thể tác động đến việc hàng hóa có được bán chạy hay không. Chuyên môn bán hàng của nhân viên là vấn đề cần phải được đào tạo một cách kỹ lưỡng và bài bản như: Cần phải đào tạo về khả năng mời chào khách hàng trong lần gặp đầu tiên. Tạo được cảm giác thân thiện với khách hàng, làm cho khách có được sự tự nhiên trong việc lựa chọn sản phẩm của mình. 3.1.4. Nâng cao chất lượng phục vụ sau bán hàng cho sản phẩm. Ngày nay trong quá trình phát triển mạnh mẽ của các công ty về các hoạt động quảng cáo sản phẩm hay quảng bá thương hiệu cho công ty. Các công ty hàng đầu thế giới hàng năm phải chi ra hàng triệu đô cho các hoạt động quảng cáo, khuyến mại. Tuy nhiên nó không chỉ dừng lại ở đó hiện nay các công ty còn đưa ra những dịch vụ chăm sóc khách hàng đến tuyệt vời dưới mọi hình thức tốt nhất như: cung cấp hàng tại nhà, bán hàng qua điện thoại, qua Internet. Ngoài ra họ còn đưa ra những dịch vụ sửa chữa bảo dưỡng tại nhà với phương trâm khách hàng là thượng đế. Nếu hai doanh nghiệp có cùng khả năng cung ứng và đáp ứng khách hàng như nhau chất lượng, tính năng của hàng hóa như nhau. Doanh nghiệp nào có khả năng phục vụ khách hàng sau khi bán sản phẩm tốt hơn thì chắc chắn doanh nghiệp đó sẽ chiếm được yêu thế trong tâm lý tiêu dùng của khách hàng. Thị phần mà doanh nghiệp đó đạt được sẽ cao hơn so với đối thủ. 3.2. Đối với sản phẩm phục vụ công nghiệp. 3.2.1. Dùng chiến lược Marketing trực tiếp. Marketing trực tiếp cố gắng kết hợp cả 3 yếu tố quảng cáo, xúc tiến bán hàng, bán hàng cá nhân để đi đến bán hàng trực tiếp không qua trung gian. Nó là một hệ thống tương tác của Marketing có sử dụng một hay nhiều phương tiện quảng cáo để tác động đến một phản ứng đáp lại của khách hàng hay một giao dịch bất kỳ tại một thời điểm nào. Marketing trực tiếp sử dụng các phương tiện quảng cáo trả lời trực tiếp để bán hàng. Những công cụ chủ yếu của Marketing trực tiếp là: Marketing bằng Catalog. Doanh nghiệp gửi các catalog tới khách hàng tiềm năng qua đường bưu điện, dựa trên các catalog này, khách hàng cũng sẽ đặt hàng qua đường bưu điện. Marketing bằng thư trực tiếp. Doanh nghiệp gửi qua bưu điện những thư chào hàng, tờ quảng cáo, tờ gấp và các hình thức chào bán hàng cho khách hàng qua đó hy vọng bán được sản phẩm hay dịch vụ, thu nhập hay tuyển chọn được danh sách các khách hàng cho lực lượng bán hàng, thông báo thông tn hoặc gửi quà tặng để cảm ơn khách hàng. 3.2.4. Marketing qua điện thoại. Doanh nghiệp sử dụng điện thoại để chào hàng trực tiếp đến các khách hàng chọn lọc. Doanh nghiệp cũng có thể đặt một số điện thoại miễn phí để khách hàng đặt mua hàng mà họ biết qua quảng cáo trên truyền hình, truyền thanh, gửi thư trực tiếp, catalog hay khiếu nại và góp ý với doanh nghiệp. 4. Lựa chọn kênh phân phối cho sản phẩm. Theo quan điểm tổng quát, kênh phân phối là một tập hợp các doanh nghiệp và cá nhân độc lập và phụ thuộc lẫn nhau, tham gia vào quá trình đưa hàng từ người sản xuất tới người tiêu dùng. Nói cách khác, đây là một nhóm các tổ chức cá nhân thực hiện các hoạt động làm cho sản phẩm hoặc dịch vụ sãn sàng để người tiêu dùng hay người sử dụng công nghiệp có thể mua và sử dụng. Các kênh phân phối tạo nên dòng chảy hàng hóa từ người sản xuất qua hoặc không qua các trung gian tới người mua cuối cùng. Tất cả những người tham gia vào kênh phân phối được gọi là thành viên của kênh. Có nhiều loại trung gian thương mại tham gia vào kênh phân phối và thực hiện các chức năng khác nhau. Dưới đây là một số loại trung gian thương mại chủ yếu. Nhà bán buôn là những trung gian bán hàng hóa và dich vụ cho các trung gian khác, cho nhà bán lẻ hoặc những nhà sử dung công nghiệp. Nhà bán lẻ là những người trung gian bán hàng hóa và dịch vụ trực tiếp cho người tiêu dùng cuối cùng. Đại lý và môi giới là những trung gian có quyền hành động hợp pháp thay mặt cho nhà sản xuất. Nhà phân phối dùng để chỉ những trung gian thực hiện các chức năng phân phối trên thị trường công nghiệp. Đôi khi người ta cũng dùng để chỉ nhà bán buôn. Như vậy kênh phân phối đóng vai trò là một mạch máu rất quan trọng trong quá trình lưu thông hành hóa, và đưa hàng hóa tới tay người tiêu dùng. Việc lựa chọn kênh phân phối phù hợp với mặt hàng kinh doanh của doanh nghiệp là một việc vô cùng quan trọng. Những căn cứ để lựa chọn kênh phân phối cho phù hợp nó phụ thuộc vào: Những mục tiêu của kênh. Mục tiêu của kênh định rõ kênh sẽ vươn tới thị trường nào, với mục tiêu nào? Những mục tiêu khác nhau đòi hỏi những kênh phân phối khác nhau cả về cấu trúc lẫn cách quản lý. Đặc điểm của khách hàng mục tiêu. Đây cũng là yếu tố quan trọng đẫn tới việc lựa chọn kênh. Những yếu tố quan trọng cần xem xét về đặc điểm của khách hàng là quy mô, cơ cấu, mật độ và hành vi của khách hàng. Khách hàng càng ở phân tán về phạm vi địa lý thì kênh phân phối càng dài. Nếu khách hàng mua thường xuyên bằng lượng nhỏ cũng cần kênh dài. Đặc điểm của sản phẩm. Một yếu tố khác chi phối đến việc lựa chọn kênh phân phối đó là đặc điểm của sản phẩm. Những sản phẩm dễ hư hỏng, thời gian từ sản xuất đến tiêu dung ngắn, cần kênh trực tiếp. Những sản phẩm cồng kềnh, nặng nề đòi hỏi kênh phân phối ngắn để giảm tối đa quảng đường vận chuyển. Đặc điểm của trung gian thương mại. Các trung gian thương mại sẽ tham gia vào kênh có vai trò quan trọng trong lựa chọn kênh phân phối. Người quản lý kênh phải xem xét có những trung gian thương mại nào trên thị trường. Khả năng, mặt mạnh, mặt yếu của các trung gian khi thực hiện nhiệm vụ của mình. Kênh phân phối của đối thủ cạnh tranh. Việc lựa chọn kênh phân phối cũng chụi ảnh hưởng bởi các kênh của các đối thủ cạnh tranh. Nhà sản xuất có thể lựa chọn những kênh phân phối có cùng đầu ra bán lẻ với các nhà cạnh tranh hay những kênh hoàn toàn khác với kênh của họ. Đặc điểm chính của doanh nghiệp. Cũng là căn cứ quan trọng khi lựa chọn kênh phân phối. Quy mô của doanh nghiệp sẽ quyết định quy mô của thị trường và khả năng của doanh nghiệp tìm được các trung gian thương mại thích hợp. Nguồn lực của doanh nghiệp nó sẽ quyết định có thể thực hiện các chức năng phân phối nào và phải nhường cho các thành viên kênh khác những chức năng nào. Các đặc điểm của môi trường Marketing. Khi nền kinh tế suy thoái, nhà sản xuất thường sử dụng các kênh ngắn và bỏ bớt những dịch vụ không cần thiết để giảm giá bán sản phẩm. Những quy định và giàng buộc pháp lý cũng ảnh hưởng đến kiểu kênh. Yêu cầu về mức độ bao phủ thị trường. Do các đặc tính của sản phẩm, môi trường Marketing ảnh hưởng đến bán hàng, nhu cầu và kỳ vọng của khách hàng tiềm năng mà yêu cầu về mức độ bao phủ thị trường trong phân phối sản phẩm sẽ thay đổi. Sự bao phủ thị trường của hệ thống kênh phân phối được xem như một bảng biến thiên từ phân phối rộng rãi tới phân phối đặc quyền. Yêu cầu về mức độ điều khiển kênh. Trong khi lựa chọn kênh phân phối, doanh nghiệp phải dựa trên mức độ điều khiển kênh mong muốn. Mức độ điều khiển kênh tỷ lệ thuận với tính trực tiếp của kênh. Quy mô của tổng chi phí phân phối. Lựa chọn kênh phải tính đến tổng chi phí phân phối của cả hệ thống kênh, bởi vì đây là một hệ thống tổng thể phụ thuộc vào nhau. Mục tiêu của doanh nghiệp là phải tối ưu hóa hoạt động của cả hệ thống. Doanh nghiệp phải lựa chọn kênh phân phối có tổng chi phí lớn nhất. Như vậy qua quá trình phân tích ở trên thì việc lựa chon một kênh phân phối phù hợp với doanh nghiệp là không dễ một chút nào. a) Đối với hang điện tử, tiêu dùng nói chung lựa chọn kênh phân phối truyền thống. Kênh phân phối truyền thống là gì? Là kênh phân phối lựa chon những trung gian thương mại làm cầu nối cho quá trình lưu thông hàng hóa nó bao gồm các cấp đại lý truyền thông như. Nhà Nhà Các Người Sản Phân Đại lý Tiêu Xuất Phối Bán lẻ Dùng b) Đối với các sản phẩm phục vụ cho công nghiệp lựa chọn kênh phân phối di động. Do đặc điểm của hàng công nghiệp nặng và số lượng nhiều nên việc vận chuyển sẽ rất khó khăn và se rất tốn kém cho việc bốc giỡ hàng hóa nếu như chúng ta lựa chọn cách tập kết hàng rồi mới đem bán điều này gây rất nhiều lãng phí cho doanh nghiệp. Vì vậy chúng ta nên lựa chon kênh phân phối di động tức là vần chuyển hàng trực tiếp theo đưn đặt hàng không cần qua một rung gian nào cả. Hàng về tời đâu chúng ta vần chuyển luôn theo đơn đặt hàng. Như vậy sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí cho doanh nghiệp. 5. Chính sách về giá sản phẩm. Ngày nay trong quá trình hội nhập thì việc ứng dụng công nghệ của các doanh nghiệp là rất nhanh do đó, những tính năng về chất lượng của sản phẩm ngày càng được san lấp một cách sản phẩm do đó sự cạnh tranh về chất lượng sản phẩm ngày càng không chiếm được lợi thế như trước kia. Đổi lại với mức tiêu thụ ngày càng nhiều như hiện nay thì giá cả luôn tác động rất lớn đến việc tiêu dùng của khách hàng cũng như sự lựa chọn sản phẩm của khách hàng. Cùng những tính năng như nhau chất lượng không chênh lệch nhau nhiều sản phẩm nào có giá chiếm ưu thế hơn sản phẩm đó sẽ được tiêu thụ nhiều. Như vậy giá cả đóng một vai trò hết sức quan trọng trong việc tiêu thụ sản phẩm. Những chính sách giá hợp lý sẽ giúp cho công cuộc kinh doanh của doanh nghiệp trở nên thuận lợi hơn rất nhiều. CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH VÀ CHIẾN LƯỢC MARKETING CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN KỸ THUẬT ỨNG DỤNG QUỐC TẾ. I. Vài nét về bản về công ty. 1. Lịch sử hình thành và phát triển của công ty. Khoa học và công nghệ luôn tao ra cho nó hướng đi riêng, trong lịch sử phát triển kinh tế của toàn cầu thì con người, doanh nghiệp luôn phải tự biến đổi mình, bám sát theo sự phát triển của công nghệ. Công nghệ có thể làm cho doanh nghiệp phát triển mạnh nhưng ngược lại nó cũng có thể bỏ lại rất nhiều doanh nghiệp ở phía sau, đồng nghĩa với sự chấm hết cho sự tồn tại của doanh nghiệp đó. Việc ứng dụng khoa học công nghệ, biến đổi mình theo xu thế phát triển chung của thế giới, đặc biệt trong thời kỳ hội nhập này là một xu hướng phát triển rất hợp lý cảu công ty. Tuy nhiên công việc đó cũng không hề đơn giản một chút nào khi mà doanh nghiệp của chúng ta không hề hiểu rõ được những công nghệ mới đó. Một câu hỏi đặt ra là làm sao để doanh nghiệp có thể ứng dụng và sử dụng hết khả năng của công nghệ khi doanh nghiệp có đủ khả năng để dưa được công nghệ đó về cho doanh nghiệp. Nắm bắt được tình hình đó vào năm 2000 Ông TRỊNH VĂN LÂM cùng các cộng sự của mình đã thành lập CÔNG TY CỔ PHẦN KỸ THUẬT ỨNG DỤNG QUỐC TẾ. 2. Tên và địa chỉ giao dịch của công ty. Tên công ty: CÔNG TY CỔ PHẦN KỸ THUẬT ỨNG DỤNG QUỐC TẾ Tên giao dịch: International Engineering Joint Stock Company Tên viết tắt: Ipeco.jsc Trụ sở chính: Số 15/68 Nguyên Hồng – Đống Đa – Hà Nội Website: Ipeco@com.vn Email: sales@ipeco.com.vn - Vốn điều lệ của công ty. Năm 2000 3000000000 ( VND ) Năm 2005 4000000000 ( VND ) Năm 2006 5000000000 ( VND) Năm 2007 6000000000 ( VND ) - Người đại diện chụi trách nhiệm trước pháp luật. Chức danh: Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị Họ Và Tên: Trịnh Văn Lâm Giới Tính: Nam Sinh ngày: Dân Tộc: Kinh Quốc Tịch: Việt Nam - Danh sách cổ đông sáng lập công ty: STT Tên cổ đông Số lượng 1 Trinh Văn Lâm 1500000000 ( VND ) 2 Dương Đức Hùng 1000000000 ( VND) 3 Quách Văn Thắng 500000000 ( VND ) Công ty cổ phần kỹ thuật ứng dụng quốc tế Phó Giám đốc Quách Văn Thắng Chủ tịch HĐQT Trịnh Văn Lâm Giám Đốc Dương Đức Hùng Phòng Hành Chính Dương Đức Hùng (Trưởng Phòng) Nguyễn Thị Ngân (Nhân viên) Lái Xe Phòng Kế Toán Đoàn Minh Thục (KT Trưởng) Nguyễn Thị Hồng (Nhân viên) Phòng Kinh Doanh Quách Văn Thắng (Trưởng Phòng) Nguyễn Thành Trung (Nhân viên) Đào Viết Phong (Nhân viên KD) Phó Giám đốc Nguyễn Ngọc Bích Phòng Kỹ thuật-Sản xuất Phòng Nghiệp vụ Nguyễn Ngọc Bích (Trưởng Phòng) Trưởng Phòng Nhân viên Nhân viên Nguyễn Thành Trung (Nhân viên) SƠ ĐỒ TỔ CHỨC CÔNG TY 3. Chức năng nhiệm vụ của các phòng ban. Công ty cổ phần kỹ thuật ứng dụng quốc tế là tổ chức một thành viên do cá nhân sáng lập và diều hành hoạt động cũng như chụi mọi trách nhiệm về sự tồn tại và phát triển của công ty. Chủ tịch hội đồng quản trị: Ông Trịnh Văn Lâm Trách nhiệm tìm và đưa ra những phương hướng kinh doanh của công ty. Như những sản phẩm, đối tác nước ngoài,trong nước để nhập và tiêu thụ sản phẩm. Dưa ra những chính sách, phương thức thoạt động của công ty trong ngắn hạn và dài hạn. Mặt khác Ông cũng là người dại diện để ký kết những hợp đồng quan trọng của công ty, người trực tiếp điều hành hoạt động của công ty. Giám đốc: Dương Đức Hùng. La người thay mặt chủ tịch hội đồng quản tri giải quyết những vấn đề nội địa của công ty. Điều hành những công viêc do chủ tich hội đồng quản trị giao phó và co nhiệm vụ báo cáo với chủ tịch hội đòng quản trị những vấn đề đã giải quyết cung như vấn đề đang còn vướng mắc hay những vấn đề phát sinh trong quá trình công việc diễn ra mà ngoài thẩn quyền giải quyết công việc. Ông cũng là người điều hành cũng như giải quyết, chụi trách nhiệm vơi công ty khi chủ tịch hội dồng quản tri đi vắng và được sự ủy quyền của chủ tịch hội đồng quản trị. Phó giám đốc: Công ty có hai phó giám đốc và mỗi người có những chức năng và nhiệm vu khác nhau do công ty giao phó. Phó giám đốc là người phụ giúp cho giám đốc giải quyết những công việc theo chức năng và cương vị được đảm nhiệm về chuyên môn. Phó giám đốc thứ nhất Bà: Nguyễn Ngọc Bích Bà là người quản lý hoạt động về các nghiệp vụ trong công ty. Như các nghiệp vụ về hóa đơn chứng từ các hợp đồng mua bán, nhập và giao hàng hóa… Phó giám đốc thứ hai Ông: Quách Văn Thắng Ông phụ trách các hoạt động nội bộ của công ty về việc quản lý các hoạt động của các phòng ban trong công ty. Như phòng hành chính, phòng kế toán, phòng kinh doanh. Chức năng nhiệm vụ của các phòng. Phòng hành chính: Ông: Dương Đức Hùng ( Trưởng Phòng ) Chức năng, nhiệm vụ của phòng: Huy động được nguồn vốn lưu động cần thiết cho công ty. Cân đối được lượng tiền vào cũng như lượng tiền ra từ đó có thể đưa ra những phương án huy động vốn mang lại hiệu quả cao nhất cho doanh nghiệp. Cụ thể là phòng hành chính đưa ra những phương an vay vốn của các ngân hàng sao cho hơp lý và tiện lợi trong việc giao dịch của công ty. Phòng kế toán: Bà: Đoàn Minh Thục ( Kế toán trưởng ). Chức năng nhiệm vụ của phòng: Chức năng, nhiệm vụ của phòng: tổ chức các hoạt động về kế hoạch tài chính và công tác kế toán theo pháp luật của Nhà nước quy định. Cụ thể là: lập kế hoạch tài chính, dự trữ ngân sách hàng năm cho từng dự án của công ty; tổ chức theo dõi và kiểm soát các công việc chi tiêu và thực hiện các chính sách tài chính của công ty. Phòng kinh doanh: Ông: Quách Văn Thắng ( Trưởng phòng ). Chức năng nhiệm vụ của phòng: Chức năng, nhiệm vụ của phòng: xúc tiến ký kết các hợp đồng thương mại; tổ chức, sắp xếp, giới thiệu sản phẩm cũng như khả năng cung ứng, sản xuất, chế tạo thiết bị sản phẩm của công ty đối với các đối tác, khách hàng nhằm thúc đẩy hoạt động kinh doanh thương mại của công ty. Phòng nghiệp vụ: Bà: Nguyễn Thị Bích ( Trưởng Phòng ). Chức năng nhiệm vụ của phòng: Tổng hợp và phân tích các hoạt động của công ty về các mặt như tài chính, kế toán, kinh doanh từ đó có thể đưa ra nhữn nhận định chính xác nhất về tình hình thực tế của công ty. Báo cáo tình hình chung của công ty lên ban giám đốc và chủ tịch hội đồng quản trị. Ban giám đốc và chủ tịch hội đòng quản trị lấy đó làm căn cứ để đưa ra nhưng phương hướng kinh doanh tiếp theo cho công ty. 4. Phương thức hoạt động kinh doanh của công ty. Công ty cổ phần kỹ thuật ứng dụng quốc tế được thành lập và hoạt động vào năm 2000. Với mục tiêu hoạt động của công ty là lợi nhuận. Công ty hoạt động theo phương trâm hợp tác cùng phát triển, đôi bên cùng có lợi. Nắm bắt dược xu thế chung của sự phát triển nền kinh tế cả nước trong tiến trình hội nhập công nghệ đóng vai trò là nòng cốt của mọi vấn đề. Là cơ sở để các doanh nghiêp nâng cao được năng suất cũng như chất lượng của sản phẩn. Công nghệ cũng là dấu hiệu tốt, tích cực để các doanh nghiệp có thể hợp tác với các công ty nước ngoài, là cơ sở để thu hút sự đầu tư của thế giới. Trong xu thế phát triển nhanh của nghành công nghiệp thì cũng có những bất cập cần phải được giải quyết trong các quá trình hoạt động sản xuât như. Tiêu chuẩn về đảm bảo chất lượng sản phẩm, tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm, tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường… Trong quá trình phát triển đó thì hầu như các doanh nghiệp ở Việt Nam nhất là các doanh nghiệp nhỏ chưa chú trọng đến những vấn đề đó nhiều lắm, các doanh nghiệp lớn cũng chưa đáp ứng tốt nhất những yêu cầu ra. Chính những điều này đã tạo nên cơ hội cho công ty có thể chen chân vào nên kinh tế bằng lĩnh vực kinh doanh của mình. Công ty hoạt động đưới hình thức là trung gian của các doanh nghiệp cụ thể là trung gian giữa nhà sản xuất và người tiêu thụ ( ở đây là các doanh nghiệp ). Các đối tác hoạt động của công ty là các doanh nghiệp trong nước, mọi doanh nghiệp đều có thể là các khách hàng nếu họ có nhu cầu sử dụng sản phẩn của công ty. Không dừng lại ở các khách hàng và những đối tác ở trong nước, công ty còn có những bản ký kết hợp đồng quan trọng trong việc cung cấp các mặt hàng với các công ty nước ngoài. Đây cũng là một yếu tố rất quan trọng trong sự thành công của công ty. Với việc ký kết với các đối tác nước ngoài công ty đã góp phần vào công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa ở Việt Nam. Nội dung kinh doanh của công ty là. Công ty ký kết hợp đồng với các nhà sản xuất nước ngoài về việc độc quyền cung cấp các sản phẩm công nghiệp của họ vào Việt Nam. Tuy nhiên với bản chất là một doanh nghiệp do tư nhân làm chủ. Do vậy tính năng động của doanh nghiệp luôn được thể hiện rõ trong phương thức kinh doanh của công ty. Doanh ngiệp có thể chuyển đổi các mặt hàng kinh doanhcủa công ty miễn là nó mang lại lợi ích về kinh tế cho công ty. Do vậy cách quản lý và phương thức hoạt động của doanh nghiệp luôn rất năng đông, linh hoạt. Với quy cách hoạt động cụ thể của công ty như sau. Chủ tịch hội đồng quản trị là người chụi trách nhiệm ký kết các hợp đồng của công ty. Ban giám đốc và phòng kinh doanh chụi trách nhiệm nhận hàng ở các của khẩu hải quan. Từ đó phân phối cho các đối tác người mua hàng trong nước. Phòng kế toán chụi trách nhiệm hợp thức hóa các giấy tờ từ lúc ký hợp đồng cho tới khi hàng được chuyển giao cho khách hàng. - Các mặt hàng kinh doanh chính của công ty. Công ty chủ yếu cung cấp các mặt hàng về công nghiệp trong lĩnh vực sản xuất và chế biến xi măng như. Thiết bị linh kiện siêu cao tần. Thiết bị làm sạch công nghiệp . Thiết bị giám sát nhiệt độ cho lò quay xi măng. Đo lường – Điều khiển – Tự động hóa công nghiệp. Túi lọc bụi công nghiệp. Van điện từ. Linh kiện điện tử. Nguyên liệu sản xuất rời. Thiết bị điện. II. Hoạt động Marketing của công ty. 1. Quan điểm về Marketing của công ty. Cùng với sự tiến bộ và phát triển của các doanh nghiệp trên toàn cầu về mọi mặt, mọi lĩnh vực như: kinh tế, kỹ thuật, dịch vụ, nông nghiệp... Thì tư duy của của các nhà quản trị trên mọi lĩnh vực cũng dân thay đổi theo và ngày càng hiện đại hơn, chính xác hơn, hợp lý hơn... Tiếp theo sự phát triển thì hàng loạt những cuốn sánh mới ra đời nó mang trong mình những tư duy lý luận mới có tính thực tiễn và khoa họ gắn liền với các chiêu thức kinh doanh và hoạt động của doanh nghiệp. Không chỉ dừng lại ở đó, khoa học công nghệ phát triển nhất là trong lĩnh vực công nghệ thông tin, nó đã tác động rất lớn tới việc tìm hiểu và tiếp thu kiến thức của nhân loại. Trước kia khi ma công nghệ thông tin chưa phát triển thì việc liên kết kinh tế toàn cầu cũng như nắm bắt được xu thế phát triển chung về kinh tế thế giới là điều không tưởng. Tuy nhiên ngày nay công việc đó thật đơn giản, chỉ cần một chiếc máy tính chúng ta có thể nắm bắt được gần hết xu thế vận động của kinh tế toàn cầu, chính điều đó giúp doanh nghiệp trở nên linh hoạt và năng đông hơn rất nhiều. Các doanh nghiệp có thể dễ dàng nắm bắt được xu hướng phát triển chung của các khách hàng cũng như sự vận động không ngừng của các doanh nghiệp từ đó có thể đưa ra những quyết định đúng đắn và chính xác hơn. Trước tình hình biến động mạnh mẽ của nền kinh tế toàn cầu trong việc phát triển xu hướng kinh doanh chung của các doanh nghiệp hàng đầu, hay những công ty nhỏ lẽ. Dần dần các doanh nghiệp đã chuyển từ kinh doanh sản phẩm, bán sảm phẩm cho khách hàng sang phục phụ khách hàng, đáp ứng nhu cầu của khách hàng xem nhu cầu của khách hàng là việc mà doanh nghiệp cần phải tìm và đưa ra những sản phẩm phù hợp để phục vụ những nhu cầu đó với phương trâm khách hàng là thượng đế. Qua việc tìm hiểu và nắm bắt, nghiên cứu xu thế vận động chung của nền kinh tế thì ban lãnh đạo công ty cũng đã dưa ra những chiến lược Marketing phù hợp với quá trình vận động và phát triển của nó. Thứ nhất: Việc kinh doanh của công ty muốn thành công thì phải dựa vào khách hàng, muốn thắng lợi thì phải lấy được lòng tin của người tiêu dùng, có được sự tin tưởng của những người đóng vai trò quyết định tới thành công hay thất bại của công ty nó sẽ đem lại nhiều lợi ích thiết thực và sự tồn tai cũng như lợi nhuận của công ty. Thứ hai: Lấy chất lượng của sản phẩm làm nền tảng cho sản phẩm của công ty. Ai cũng sẽ nghĩ rằng chất lượng kém là thất sách trong kinh doanh. Khách hàng nào mua phải sản phẩm kém chất lượng kém sẽ không quay lại và còn nói xấu công ty. Tuy nhiên nói đến chất lượng thì có rất nhiều nghĩa. Và bản thân sản phẩm sẽ giải thích cho khách hàng và khi họ tin dùng thì đó là một thành công của công ty. Vấn đề đặt ra là khách hàng sẽ không biết được chất lượng của sản phẩm bằng mắt thường hay cảm rác được do vậy thương hiệu nó sẽ đóng vai trò hết sức quan trọng trong điều này. Thứ ba: Dịch vụ bán hàng của công ty. Tất cả các khách hàng đều muốn có một dịch vụ tốt nhất hợp với sở thích của mình nhất. Tuy nhiên mỗi khách hàng sẽ có những suy nghĩ và hành động khách nhau trong từng thời điểm khác nhau, những khách hàng khác nhau cũng khác nhau. Do đó chúng ta sẽ rất khó có thể khẳng định dịch vụ nào tốt, dịch vụ nào chưa đạt yêu cầu. Thứ tư: Cần phải có một mức giá phù hợp. Việt nam đang còn là một nước kém phát triển, do vậy thu nhập bình quân đầu người là rất thấp. Chính vì vậy mà đại đa số người dân việt nam có thu nhập thấp và trung bình. Sản phẩm của công ty phải có tính chất phù hợp với khả năng, túi tiền của người dân việt nam. Tuy nhiên giá cả cũng phải có tính cạnh tranh và đem lại lợi nhuận cao nhất cho doanh nghiệp có thể đạt được. Thứ năm: Phát triển và giữ vững thị phần của doanh nghiệp. Nhìn chung những công ty dẫn đàu về thị phần luôn đem lại những doanh thu lơn hơn các đối thủ cạnh tranh kém hơn. Những công ty sẽ tiết kiệm được chi phí nhờ các cách quản lý tôt hơn. Thứ sáu: Tìm được và đáp ứng được nhu cầu riêng của khách hàng. Trong quá trình tiêu dùng của khách hàng, sẽ có nhiều ý định nảy sinh ra những mong muốn và yêu cầu cho sản phẩm họ đang dùng. Như về tính năng, ứng dụng của sản phẩm cần phải thêm hay bớt đi những ứng dụng cần thiết và không cần thiết. Ví dụ như một doanh nghiệp có thể yêu cầu các doanh nghiệp đưa thư có thể nhận thư của họ tới lúc 7h tối thay vì 5h như thường lệ. Để đáp ứng được yêu cầu đó của khách hàng thì doanh nghiệp đưa thư cần phải cử nhân viên làm thêm ca để đáp ứng được nhu cầu đó. Thứ bảy: Tìm được những sản phẩm mới đáp ứn được yêu cầu của khách hàng trong từng thời kỳ nhất định. Lời cảnh báo mà chúng ta thường được nghe là “ Đổi mới hay là biến mất”. Đúng như vậy theo vòng đời tuần hoàn và phát triển của một sản phẩm hay một công nghệ nói riêng, thì nó luân bao gồm ba giai đoạn “ Nghiên cứu và phát triển – Hưng thịnh – Suy tàn. Chính điều đó mà doanh nghiệp luân phải tự đổi mới và hoàn thiện mình sản phẩm của mình để phù hợp với sự phát triển chung của nền kinh tế nói chung. Thứ bảy: Cần phải đưa ra những phương hướng và biện pháp để tiếp cận với những thị trường tiềm năng trong tương lai. Các thị trường tăng trưởng cao như là điện tử bán dẫn,công nghệ sinh học, người máy và viễn thông đang rất hấp đẫn. Một số công ty dẫn đầu trong lĩnh vực này đã kiếm được những món lời kếch xù. Tuy nhiên để xâm nhập vào thị trường này là một điều không hề đơn giản một chút nào, nếu sai lầm trong một quyết định có thể doanh nghiệp sẽ tư bóp chết mình. Do đó cần phải xác định rõ ràng là doanh nghiệp nên tham gia trong khâu nào, giai đoạn nào cho phù hợp với khả năng của doanh nghiệp. Rõ ràng không chỉ có một con đường đẫn đến sự giàu có của doanh nghiệp. Thay vì chỉ dựa vào một sự khác biệt lớn hay một chiến dịch lớn, công ty cần phải có một chiến lược Marketing độc đáo riêng, cả về chất lượng lẫn hoạt động cụ thể.Việc làm hầu hết mọi thứ tốt hơn chút ít so với đối thủ cạnh tranh là chưa đủ. Một công ty sẽ không thực sự có một chiến lược nếu nó chỉ có các hoạt động giống như của các đối thủ cạnh tranh và chỉ làm tốt hơn một chút. Điều đó chỉ đơn giản là hoạt động có hiệu quả hơn đối thủ về mặt tác chiến. Nhưng sự hoàn hảo về tác chiến và có một chiến lược hùng mạnh không phải là một. Sự hoàn hảo về chiến lược có thể giúp công ty giành thắng lơi tạm thời, nhưng các công ty khác sẽ sớm bắt kịp và vượt qua điều đó. Theo quan điểm hiện tại về việc đánh giá của các công ty hàng đầu đối với khách hàng ngày nay. Khách hàng ngày càng tinh tế và nhạy cảm hơn đối với gía cả Họ nhận thấy chất lượng sản phẩm của các nhà cung cấp ngày càng ngang bằng nhau. Họ không có thời gian và đòi hỏi sự tiện nghi nhiều hơn. Họ bớt nhạy cảm hơn đối với thương hiệu của nhà sản xuất và dễ chấp nhận hơn đối với thương hiệu của người bán và các sản phẩm không có thương hiệu. Họ có kỳ vọng được thực phục vụ tốt hơn. Sự trung thành của họ đối với các nhà cung cấp ngày càng nhỏ giảm đi. Tất nhiên đối với mỗi công ty cách nhìn nhận về tầm quan trong của vấn đề Marketing là khác nhau. 2. Quan điểm về đối thủ cạnh tranh của công ty. Với phương thức và hoạt động hiện tại của công ty thì lĩnh vực kinh doanh chính của công ty là các mặt hàng về điện tử cũng như các mặt hàng phục vụ cho công nghiệp với xu thế phát triển chung và thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp là thị trường trong nước. Đây được được ban lãnh đạo công ty đánh giá là một thị trường tương đối rộng lớn và nó sẽ đem lại nhiếu cơ hội cũng như thách thức cho công ty. Việc xác định đúng đối thủ cạnh tranh của công ty là một việc rất có lợi trong chính sách kinh doanh của doanh nghiệp. Nó sẽ đem lại cho chúng ta những lợi thế sau. Thứ nhất: Chúng ta sẽ nắm bắt được xu hướng phát triển về các loại hình cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường Thứ hai: Chúng ta có thể nắm bắt được các chiến lược Marketing mà các đối thủ cạnh tranh đã và đang áp dụng từ đó có thể nắm bắt và đưa ra những chính sách hợp lý cho hoạt động kinh doanh. Chiếm được vị thế khẳng định được thương hiệu của doanh nghiệp đối với niềm tin của khách hàng. Thứ ba: Chính từ việc quan sát tốt các đối thủ cạnh tranh thì doanh nghiệp cũng sẽ tiếp cận tốt hơn với xu thế phát triển chung của công cuộc biến đổi, đổi mới của các doanh nghiệp. Nó sẽ giúp cho công ty tránh được tình trạng đi chậm hơn so với đối thủ một bước. Giúp công ty tiếp cận được với thị trường mới một cách tốt hơn. Như vậy việc xác định được đúng và chính xác được đối thủ cạnh tranh sẽ đem lại được nhiều lợi thế cho doanh nghiệp về tất cả mọi mặt như, sản xuất kinh doanh, về sản phẩm, chiến lược Marketing... Điều này sẽ giúp cho doanh nghiệp hoẹt động ngày càng tốt hơn. 3. Phổ biến nội dung và phương thức quản lý hoạt động Marketing của công ty. Công ty Cổ phần kỹ thuật ứng dụng quốc tế. Với đặc điểm là một doanh nghiệp tư nhân, do cá nhân làm chủ chính vì vậy mọi quyết về việc kinh doanh, phân phối, cách thức hoạt động của doanh nghiệp đều do người có quyền cao nhất trong công ty quyết định đó chính là Ông Trịnh Văn Lâm chủ tịch hội đồng quản trị công ty. Ông là người đưa ra những quyết định về việc tìm kiếm và kinh doanh những sản phẩm của công ty. Tóm lại mọi quyết định về sản phẩm hay phương thức kinh doanh đều do Ông quyết định riêng về lĩnh vực Marketing bao gồm những chức năng sau. Thứ nhất: Ông là người đưa ra những quyết định cuối cùng trong việc hoạch định cũng như chiến lược Marketing của doanh nghiệp. Mọi vấn đề liên quan tới những hoạt động tương tự đều phải được sự đồng ý của Ông thì kế hoạch mới được thực hiên. Thứ hai: Ông cũng là người đóng vai trò quan trọng nhất trong việc tìm kiếm những sản phẩm mới cho công ty. Tức là Ông luôn đóng một vai trò chủ đạo trong công cuộc tìm kiếm những sản phẩm cũng như quá trình phân phối sản phẩm của công ty. Thứ ba: Trong quá trình giứi thiệu và phân phối sản phẩm của công ty lĩnh vực này do bộ phận khác của công ty đảm nhận dó là: Phòng kinh doanh. 3. Nội dung hoạt động Marketing của công ty. 3.1. Chiến lược tìm kiếm sản phẩm, đối tác của công ty. Với đặc điểm kinh doanh của công ty dó là một trung gian trong quá trình đưa sản phẩm từ nhà sản xuất tới người tiêu dùng. Do vậy sản phẩm của công ty là không cố định và luôn biến đổi theo thị trường. Trong quá trình tìm kiếm sản phẩm của công ty thì những sản phẩm có các đặc tính phù hợp với thị trường dễ dàng tiêu thụ và có lợi cho doanh nghiệp thì sẽ được doanh nghiệp quan tâm và tìm cachs có được nó. Cũng như tất cả các doanh nghiệp đang tồn tại trong nền kinh tế thì công ty luôn xem khách hàng là sự quan tâm hàng đầu của mình ví dụ như: Nắm bắt được xu thế tiêu dùng cùa khách hàng, những biến đổi trong tâm lý tiêu dùng của khách hàng... Chính vì những đặc điểm riêng biệt của mình nên công ty đã xây đựng cho mình một chiến lược Marketing riêng biệt. Với phương trâm và mục tiêu cuối cùng là lợi nhuân nên những mặt hàng nào có lợi sẽ được công ty tiếp tục kinh doanh và những mặt hàng nào không đem lại lợi ích kinh doanh sẽ bị loại bỏ trong chiến lược kinh doanh của công ty. Những sản phẩm được thị trường chấp nhận thì cũng được công ty chấp nhận. Các mặt hàng của công ty là rất rộng nó bao gồm cả các sản phẩm về tiêu dùng, các sản phẩm điện tử, các sản phẩm về hóa chất, các sản phẩm phục vụ cho công nghiệp và những thiết bị cần thiết cho công nghiệp. Thị trường sản phẩm của công ty là rất rộng lớn, nó bao gồm tất cả các đối tác doanh nghiệp sản xuất trong khu vực cũng như một số doanh nghiệp ngoài khu vực Đông Nam Á. Tuy nhiên đấy cũng là một quá trình hoạt động Marketing rất khó khăn. Bới vì sự cạnh tranh trong quá trình kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước cũng như các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài ngày càng khốc liệt và mạnh mẽ. Vì vậy việc xem xét và tìm kiếm sản phẩm cho công ty là một vấn đề luôn được đặt lên hàng đầu. Nó cũng là nhân tố quyết định tới thành công của công ty. 3.2. Phương thức tiếp thị bán hàng của công ty. Công cuộc tiếp thị và bán hàng luôn là một trong những khâu rất quan trọng của quá trình Maqrrketing. Do vậy công ty đã xác định nó cũng là điều kiện tiên quyết cho sự thành công của sản phẩm. Nếu công việc tiếp thị, bán hàng của công ty tốt tạo được ấn tường cho các đại lý thì uy tín của công ty sẽ được nâng cao và những sản phẩm mới của công ty cũng sẽ được mang trên mình nó sự tin tưởng của các đại lý bán hàng. Do vậy công ty đã lựa chọn những chính sách riêng cho những chủng loại sản phẩm khách nhau. Do khả năng và điều kiện của công ty còn nhiều những hạn chế như về tài chính, kỹ thuật nên công ty thường lựa chọn các hình thức Marketing hiệu quả và it tốn kém nhất. Thứ nhất: Đối với các mặt hàng điện tử nói chung. Đối với chủng loại mặt hàng này thì công ty thường sử dụng các mặt loại hình tiếp thị như: Marketing trực tiếp, Marketing bằng catalog, Marketing qua điện thoại. Thứ hai: Đối với các mặt hàng phục vụ cho công nghiệp. Do tính chất của loại mặt hàng này. Việc tiêu thụ nó hầu như là do các doanh nghiệp tiêu thụ hay ưng dụng nó. Do vậy công ty áp dụng hình thức Marketing chủ yếu là bằng Catalog, qua điện thoại ngoài ra nếu cần công ty có thể cử người đến gặp trực tiếp đối tác để hoàn thiện công việc. Từ ngày thành lập và đi vào hoạt động tới nay thì công ty cũng đã thu được rất nhiều thành công tuy nhiên bên cạnh đó cũng gặp không ít khó khăn và thách thức dưới đây là một vài bảng số liệu về tình hình hoạt động của công ty trong vòng từ năm 2004 – 2007. Trong năm 2004 thì lượng hàng nhập và bán thể hiện dưới bảng sau. STT Tên Mặt hàng Đơn Vị Nhập Bán 1 Thiết bị linh kiện siêu cao tần Chiếc 100 100 2 Thiết bị làm sạch công nghiệp Chiếc 50 50 3 Thiết bị giám sát nhiệt độ cho lò quay xi măng Chiếc 45 45 4 Đo lường – Điều khiển – Tự động hóa công nghiệp Chiếc 30 30 5 Túi lọc bụi công nghiệp Chiếc 15000 15000 6 Van điện từ Chiếc 5000 5000 Nguồn số liệu lấy từ phòng kế toán của công ty. Như vậy qua bảng số liệu trên ta có thể phần nao hiểu được tình hình kinh doanh của công ty. Do công ty làm viêc theo đơn đặt hàng củ khách hàng nên mọi mặt hang khi nhập về đều được bán hết theo từng lô. Tiếp theo là bảng số liệu kinh doanh của công ty trong năm 2005: STT Tên Mặt hàng Đơn Vị Nhập Bán 1 Thiết bị linh kiện siêu cao tần Chiếc 110 110 2 Thiết bị làm sạch công nghiệp Chiếc 54 54 3 Thiết bị giám sát nhiệt độ cho lò quay xi măng Chiếc 50 50 4 Đo lường – Điều khiển – Tự động hóa công nghiệp Chiếc 33 33 5 Túi lọc bụi công nghiệp Chiếc 20000 20000 6 Van điện từ Chiếc 6000 6000 7 Linh kiện điện tử Chiếc 20000 20000 Nguồn số liệu từ phòng kế toán của công ty: Như vậy từ bảng số liệu của 2 năm 2004 – 2005 ta thấy tình hình hoạt đông của công ty có sự gia tăng và theo chiều hướng tích cực. Điều này chứng tỏ công ty ngày càng có uy tín trên thị trường và càng được các công ty trong nước tin dùng sản phẩm của công ty. Và một điều quan trọng hơn nữa là trong năm 2005 công ty đã có thêm một măt hàng mới cho mình là: Linh kiện điện tử. Mặt hàng này tuy mới xuất hiện trong công ty vào năm 2005 nhưng đã được các doanh nghiệp và người tiêu dùng đón nhận, tin dùng rất mạnh mẽ với số lượng ngoài mong đợi 20000 chiếc trong năm 2005. Tiếp theo bảng số liệu kinh doanh của công ty trong năm 2006: STT Tên Mặt hàng Đơn Vị Nhập Bán 1 Thiết bị linh kiện siêu cao tần Chiếc 80 80 2 Thiết bị làm sạch công nghiệp Chiếc 60 60 3 Thiết bị giám sát nhiệt độ cho lò quay xi măng Chiếc 30 30 4 Đo lường – Điều khiển – Tự động hóa công nghiệp Chiếc 40 40 5 Túi lọc bụi công nghiệp Chiếc 30000 30000 6 Van điện từ Chiếc 3000 3000 7 Linh kiện điện tử Chiếc 25000 25000 8 Nguyên liệu sản xuất rời Tấn 100000 100000 Nguồn số liệu từ phòng kế toán của công ty. Trong năm 2006 thìviệc kinh doanh của công ty có một số sự sáo trộn của các mặt hàng. Trong số tất cả các mặt hàng của công ty thì có một số mặt hàng tăng về số lượng như: Linh kiện điện tử, túi lọc bụi công nghiệp, do lường điều kiển rự động hóa, thiết bị làm sạch công nghiệp. đồng thời với việc tăng về số lượng của các sản phẩm trên thì cũng có các sản phẩm giảm về số lượng so với năm 2005 như: Van điện từ, thiết bị linh kiện siêu cao tần, thiết bị giám sát cho lò quay xi măng. Trong năm 2006 thì công tycũng đã tìm thêm cho mình một sản phẩm rất có vị thế trên thị trương đó là: Nguyên liệu sản xuất rời, nguyên liệu này được dung trong việc sản xuất xi măng cho các doanh nghiệp. Và chúng ta cũng có thể thấy đay có thể trở thành một trong những sản phẩm chủ lực của công ty. Bảng kinh doanh của công ty trong năm 2007: STT Tên Mặt hàng Đơn Vị Nhập Bán 1 Thiết bị linh kiện siêu cao tần Chiếc 50 50 2 Thiết bị làm sạch công nghiệp Chiếc 70 70 3 Thiết bị giám sát nhiệt độ cho lò quay xi măng Chiếc 20 20 4 Đo lường – Điều khiển – Tự động hóa công nghiệp Chiếc 30 30 5 Túi lọc bụi công nghiệp Chiếc 35000 35000 6 Van điện từ Chiếc 2500 2500 7 Linh kiện điện tử Chiếc 35000 35000 8 Nguyên liệu sản xuất rời Tấn 150000 150000 9 Thiết bị điện Chiếc 100 100 Nguồn số liệu từ phòng kế toán công ty. Trong năm 2007 tình hình kinh doanh chung của công ty có sự tăng cao hơn so với năm 2006 đặc biệt là các sản phẩmchủ lực như: Nguyên liệu sản xuất rời, thiết bị điên… vẫngĩu được uy tín của mình trên thị trường và đó cũng là một tín hiệu đáng mừng cho việc kinh doanh của công ty. Một điều đạc biệt hơn nữa là trong quá trình hoạt động kinh doanh của công ty thì mỗi năm công ty đèu tìm cho mình một mặt hàng mới và các mặt hàng này khi đưa ra thị trường thì luôn có được những tín hiệu đáng mừng. 3.3. Lựa chọn kênh phân phối của công ty. - Đối với các mặt hàng điện tử. Công ty lựa chọn kênh phân phối truyền thống đó là lựa chọn cho mình những đại lý đáng tin cậy làm đại lý phân phối cho công ty. - Đối với sản phẩm công nghiệp. Công ty lựa chọn biện pháp phân phối di động, tức là khách hàng nhập hàng ở đâu thi giao và phân phối hàng ngay tịa chỗ. Chính sách về giá sản phẩm. Với tính chất là một doanh nghiệp thương mại nên việc quyết định về mẫu mã sản phẩm hay chất lượng của sản phẩm thì công ty phụ thuộc rất nhiều vào đối tác sản xuất tuy nhiên có một chính sách mà doanh nghiệp hoàn toàn có thể làm chủ được đó là giá của sản phẩm. Để đưa ra một chính sách giá hợp lý cho sản phẩm của mình doanh nghiệp đã tìm hiểu giá của các sản phẩm thay thế, của các đối thủ cạnh tranh từ đó đưa ra những chính sách tương đối hợp lý cho sản phẩm của mình. Để chiếm được thị phần cũng như niềm tin của khách hàng. CHƯƠNG III. NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHIÉN LƯỢC MARKETING CHO CÔNG TY. 1. Đánh giá quá trình hoạt động kinh doanh, Marketing của công ty. Trong phần trên chúng ta đã xem xét khái quát các hoạt động kinh doanh của công ty. Từ đó chúng ta cũng có thể thấy được phương thức hoạt động, cơ cấu tổ chức, quy trình lãnh đạo của công ty. Quy tắc hoạt động chính của công ty là. Nhập và phân phối sản phẩm là một trung gian từ nhà sản xuất tới người tiêu dùng, đóng vai trò là cầu nối quan trọng trong quá trình tiêu thụ sản phẩm từ đó thu được những lợi nhuận cần thiết cho công ty. Đối với những doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực xuất nhập khẩu thì những thành quả của công ty cũng có thể xem như đã thành công và đã có những chính sách kinh doanh tương đối hiệu quả. Tuy nhiên trong cuộc sống thì không có gì là hoàn hảo cả do vậy trong khi hoạt động công ty đã gặp không ít khó khăn cũng như đôi lúc đã đưa ra những chiến lược kinh doanh chua được tối ưu tuy nhiên công ty cũng đã vượt qua và thu được những thành công. Trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình công ty đã không ngừng đổi mới sản phẩm luôn tìm được cho mình những hướng đi riêng. Hầu như trong việc kinh doanh của công ty hàng năm công ty đều đưa ra được một sản phẩm mới kích thích hoạt động kinh doanh làm cho hoạt động kinh doanh ngày càng phong phú thêm, sản phẩm ngày càng đa dạng hơn. Tuy nhiên chúng ta có thể nhận ra rằng xu hướng phát triển sản phẩm của công ty nhày càng tiếp cận mạnh hơn đối với các sản phẩm công nghiệp và hóa chất phục vụ cho công nghiệp. Nói về vấn đề này chúng ta cần lưu ý một điều rằng. Đây là một nhận thức mới về xu hướng phát triển của công ty, trong điều kiện Việt Nam đã gia nhập WTO, và phấn đấu từ nay đến năm 2020 đất nước cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Chính điều này càng khẳng định rằng công nghệ luôn ngày càng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của kinh tế Việt Nam. Và có lẽ đó là một xu hướng phát triển, biến đổi hợp lý trong thời kỳ hội nhập hiện nay. 1.1. Chiến lược tìm kiếm sản phẩm mới của công ty. Trong việc phát triển sản phẩm của mình thì công luôn lựa chọn những giải pháp tìm kiếm rất của riêng mình. Tuy là một công ty thương mại nhưng công ty luôn chủ động tìm kiếm sản phẩm phù hợp với tình hình kinh doanh của công ty cũng như thị trường hiện tại. Với mục tiêu là lợi nhuận đặt lên hàng đầu những mặt hàng nào có lợi thì doanh nghiệp sẽ sãn sàng kinh doanh. Tuy nhiên doanh nghiệp cũng bỏ rất nhiều thời gian vào việc nghiên cứu thị trường để tìm ra sản phẩm phù hợp với khả năng của công ty cũng như được thị trương chấp nhận. 1.2 Chiến lược quảng bá và giới thiệu sản phẩm. Quảng bá sản phẩm là một chiến lược hết sức quan trọng trong quá trình kinh doanh của công ty. Việc sản phẩm của công ty có tiếp cận được với khách hàng tôt hay không phụ thuộc rất nhiều vào quảng cáo và giới thiệu sản phẩm. Trong quá trình quảng cáo sản phẩm của mình thì công ty đã phân sản phẩm của mình làm hai mảng đó là, dòng sản phẩm phục vụ cho tiêu dùng và dòng sản phẩm phục vụ cho công nghiệp. Đối với dòng sản phẩm phục vụ cho tiêu dùng thì công ty lựa chọn hình thức quảng cáo bằng catalog và giới thiệu đến các đại lý tin cậy và có uy tín trên thị trường. Trong sự lựa chọn của công ty như vậy thì phù hợp với khả năng cũng như năng lực của công ty. Đó có thẻ xem là một chiến lược Marketing hợp lý. Đối với dòng sản phẩm phục vụ cho sản xuất. Với tính chất của sản phẩm thì việc tiêu thụ sản phẩm phụ thuộc vào quyết định của các công ty tiêu thụ và số lượng tiêu thụ thường rất lớn do vậy các quyết định tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp thường được xem xét rất kỹ dưới nhiều kía cạnh. Chính vì những lý do đó mà công ty đã lựa chọn cách tiếp cận với khách hàng bằng chiến lược Marketing trực tiếp tức là. Cán bộ của công ty sẽ gặp gỡ trực tiếp khách hàng và giao dịch ngay với khách hàng về những sản phẩm cũng như dịch vụ hiện có của công ty. Ngoài ra công ty cung lựa chon các hình thức kèm theo như, giới thiệu bằng catalog, giới thiệu qua điện thoại. Bằng những chiến lược Marketing hợp lý như vậy công ty đã thu được rất nhiều thành công trong quá trình kinh doanh của mình. 1.3 Chiến lược lựa chọn kênh phân phối của công ty. Trong quá trình lựa chọn kênh phân phối của mình thì doanh nghiệp cũng lựa chọn hai kênh phân phối chính đó là. Đối với mặt hàng phục vụ tiêu dùng công ty lựa chọn kênh phân phối truyền thống đó là lựa chọn và sử dụng các đại lý trung gian làm các kênh phân phối sản phẩm tới người tiêu dùng. Ngoài ra trong quá trình phân phối thì công ty cũng có những hình thức linh động đối với những mặt hàng có giá trị cao bằng các dịch vụ kèm theo. Đối với các mặt phục vụ cho công nghiệp thì công ty lựa chon kênh phân phối di động. Tức là mặt hàng nào được tiêu thụ ở đâu công ty sẽ nhập và phân phối ngay tại chỗ làm như vậy công ty sẽ tiết kiệm được chi phí và nâng cao lợi nhuân. Đây là một chiến lược Marketing tốt. 1.4 Chiến lược về giá sản phẩm của công ty. Giá cả luôn là sự quan tâm hàng đầu của khách hàng do vậy công ty luôn quan tâm tới giá cả trong việc tìm kiếm sản phẩm. Trong điều kiện hiện nay với tình hình thu nhập bình quân đầu người của nước ta đang còn thấp do vậy doanh nghiệp luôn ưu tiên hàng đầu trong chính sách về giá sản phẩm. Và đây được xem như là ưu thế của mọi doanh nghiệp, đối với công ty thì chính sách của công ty là tiết kiệm tối đa chi phí của doanh nghiệp để hạ giá thành sản phẩm để làm sao giá sản phẩm của công ty có thể đạt mức thấp nhất nhưng chất lượng thì không đổi. 2. Những điểm còn thiiếu, yếu trong quá trình hoạt động Marketing và những giải pháp hoàn thiện cho doanh nghiệp. Như chúng ta đã biết Marketing hiện đại không chỉ còn là việc bán hàng nữa, mà hoạt động Marketing bắt đầu từ khi hình thành và tìm kiếm sản phẩm cho công ty. Nói về điều này chúng ta thấy các doanh nghiệp, công ty, tập đoàn hàng đầu ngày càng đi sâu vào tìm nhu cầu về sản phẩm, các tính năng về sản phẩm mà các khách hàng mong muốn có được từ đó mới tạo ra các sản phẩm để đáp ứng nhu cầu đó. Trước tình hình đó thì công ty cũng đã làm và hoạt động theo xu hướng chung của nền kinh tế toàn cầu. Công ty đã phân tích và tìm ra những khe hở trong sản xuất từ đó chen chân vào để cung cấp các sản phẩm công nghiệp cho các doanh nghiệp, các tổng công ty. Do vậy việt nghiên cứu và tìm sản phẩm của công ty là hợp lý và hợp với xu thế chung của toàn cầu. Nhận xét về cách tiếp thị và phân phối sản của công ty. Trong việc tiếp thị của công ty, ta có thể thấy rằng công ty tập chung vào việc tiếp thị bằng các công cụ Marketing trực tiếp. Đó là các công cụ bằng Catalog, bằng thư trực tiếp, qua điện thoại, và gặp gỡ trực tiếp. Ưu điểm của việc tiếp thị bằng công cụ này là tiết kiệm được chi phí cho doanh nghiệp, hạn chế tối đa chi phí cho công ty. Trong tất cả các loại hình tiêp thị của Marketing thì đây là loại hình tiếp thị gọn nhẹ và ít tốn kém nhất. Công ty sử dụng hình thức tiếp thị này là rất phù hợp với những sản phẩm, mặt hàng hiện có của công ty, cộng với khả năng về tài chính có hạn thì đấy là một sự lựa chọn kinh doanh rất hợp lý. Những lợi ích mà hình thức tiếp thị này mang lại cho công ty. Thứ nhất: Nó là loại tiếp thị nhanh nhất giúp cho công ty có thể giới thiệu cho khách hàng mục tiêu của mình. Những sản phẩm mà công ty cần giới thiệu. Thứ hai: Đây là phương thức tiếp thị phù hợp nhất đối với các mặt hàng công nghiệp và các thiết bị máy dùng trong công nghiệp. Và nó phù hợp với hình thức kinh doanh của công ty. Về lĩnh vực phân phối sản phẩm của công ty. Như đã trình bày ở trên thì công ty đã và đang sử dụng hai hình thức phân phối chính đó là: phân phối truyền và phân phối di động. Với cơ cấu và tính chất của sản phẩm của công ty thì rõ rabgừ hai hình thức mà công ty lựa chọn để phân phối sản phẩm của mình là hợp lý, phù hợp với khả năng của công ty. Những dặc điểm còn thiếu trong hoạt đông Marketing của công ty là. Thứ nhất: Vấn đề ở đây chính là hoạt động tìm kiếm sản phẩm thích hợp cho công ty. Hiện tại việc sâm nhập và tìm kiếm sản phẩm mới của công ty hầu như đều do một mình chủ tịch hội đồng quản trị là Ông Trịnh Văn Lâm phụ trách. Trong vấn đề này nó sẽ có những hạn chế sau. Rất có thể những quyết định sẽ bị chi phối bởi những yếu tố chủ quan của bản thân người ra quyết định Điều này có thể gây ra tính bị động cho nhân viên hoạt động trong các hoạt động tiếp theo, dẫn đên nó sẽ kiềm chế khả năng của nhân viên. Để giải quyết được vấn đề này công ty có thể thành lập một nhóm chuyên phụ trách về tìm kiếm cung như đưa ra những chiến tổng quát cho từng mặt hàng cụ thể và người đứng đầu không ai khác chính là Ông Trịnh Văn Lâm. Làm như vậy sẽ có những lợi thế sau. - Những quyết định về việc tiếp nhận một sản phẩm sẽ không bị chi phối bởi ý kiến chủ quan của một người - Có một kế hoạch tổng thể cho việc phát triển sản phẩm, cung cấp sản phẩm. Công ty sẽ không bị động trong những giai đoạn tiếp theo, và nó cũng phát huy tốt khả năng cũng như năng lực cho nhân viên giúp công ty ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn. Thứ hai: Công ty chưa quan tâm nhiều tới việc chăm sóc khách hàng sau khi bán hàng. Đây là một trong những điều hết sức quan trọng trong công cuộc kinh doanh ngày nay. Với phương trâm hoạt động của các doanh nghiệp khách hàng là thương đế và ngày nay các khách hàng không có nhiều thời gian để đi mua sắm cũng như bảo đưỡng các sản phẩm mà mình đang tiêu dùng. Chính vì vậy mà vấn đề chăm sóc, phục vụ khách hàng ngày càng trở nên quan trọng. Ngày càng tiến tới phục vụ khách hàng tại nhà. Tuy nhiên đây cũng là một vấn đề khách quan đối với công ty. Do quy mô của công ty chưa đủ lơn và tiềm lực về tài chính, khả năng của công ty chưa thể đáp ứng được điều này. Vì đây là một lĩnh vực đòi hỏi rất cao ở các nhà cung cấp sản phẩm. Chỉ có những công ty lớn, các tập đoàn mới có thể phát triển mạnh về lĩnh vực này. Tuy nhiên không phải vấn đề nào cũng không có giải pháp cho nó. Về vấn đề này em xin đưa ra một giải pháp giúp công ty có thể hoàn thiện nốt chiến lược Marketing của mình để lĩnh vực Marketing của doanh nghiệp trở nên hoàn thiện hơn. Vấn đề về kỹ thuật công ty chưa thể đáp ứng được nhưng trong xu thế phát triển của thị trường thì sẽ đem lại cho công ty rất nhiều cơ hội hợp tác, trên thị trường thì có rất nhiều các doanh nghiệp kinh doanh về dịch vụ, chăm soc khách hàng đã và đang phát triển rất mạnh. Nên phương án đưa ra ở đây là. Công ty có thể ký các hợp đồng với các công ty vận chuyển, công ty bảo dưỡng sản phẩm với các đối tác có chuyên môn phù hợp với sản phẩm của công ty. Để giúp cho công ty hoàn thiên hơn về khả năng phục vụ khách hàng của mình. Đó là những điểm còn thiếu và yếu trong hoạt động Marketing của công ty. Đó cũng có thể là những thiếu sót không mong muốn của công ty, rất có thể công ty đã lường trước được điều đó nhưng vì những vấn đề nội tại bên trong công ty mà công ty không thể hoàn thiện nó được. Và em cũng đã nêu ra những giải pháp của riêng mình với hy vọng rằng những phát hiện và góp ý của mình sẽ có ích cho công ty. Giúp công ty ngày càng hoạt động có hiệu quả hơn. KẾT LUẬN. Có thể nói trong hoạt động kinh doanh ngày nay Marketing đóng một vai trò hết sức quan trọng. Chúng ta có thể khẳng định rằng Marketing là mạch máu, là bộ não giúp cho doanh nghiệp, các tập đoàn hoạt động một cách hiệu quả nhất. Tuy nhiên lựa chọn hay tim ra một chiến lược Marketing thích hợp cho hoạt động của Marketing là điều không hề đơn giản. Bài viết trên đây là một đánh giá hoạt động kinh doanh cũng như chiến lược Marketing của doanh nghiệp trong quá trình thực tập của em. Bài viết đánh giá về hoạt động Marketing của doanh nghiệp từ đó tìm ra được những thiếu sót và đưa ra những giải pháp để giúp chiến lược Marketing của doanh nghiệp ngày càng hoàn thiện hơn. Với những kiến thức đã được học cùng với sự hướng dẫn nhiệt tình của thầy Bùi Đức Thọ đã giúp em hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Em xin chân thành cảm ơn thầy. TÀI LIỆU THAM KHẢO. 1) GIÁO TRÌNH MARKETING ( TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN ). 2) BÀN VỀ TIẾP THỊ ( PHILIP KOTLER ) 3) CÁC KIỂU TIẾP THỊ CHUYÊN NGHIỆP ( PHILIP KOTLER ) 4) THỜI BÁO KINH TẾ VIỆT NAM. 5) TẠP TRÍ KINH TẾ. 6) INTERNET.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc12338.doc
Tài liệu liên quan