Chuyên đề Phương hướng và biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổng công ty nhà nước trong công nghiệp

Chủ trương thành lập các Tổng công ty của Đảng và nhà nước là một hướng đi đúng và cần thiết để củng cố khu vực kinh tế quốc doanh hiện nay. Sự ra đời của các Tổng công ty nhà nước mới trong thời gian ngắn hay nói đúng hơn là trong giai đoạn thử nghiệm theo mô hình mới. Từ những kết quả đã đạt được trên các mặt có thể khẳng định các Tổng công ty nhà nước về cơ bản đã thực hiện được các mục tiêu đề ra của Đảng và nhà nước, góp phần rất lớn vào việc phát huy vai trò chủ đạo của khu vực doanh nghiệp Nhà nước tạo đà phát triển cho toàn bộ nền kinh tế, góp phần làm ổn định kinh tế, xã hội, an ninh, chính trị, trật tự quốc phòng được giữ vững, đóng góp lớn vào việc duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế liên tục trong nhiều năm của thập kỷ 90, đưa nền kinh tế nước ta dần dần thu hẹp khoảng cách tụt hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, do mới thành lập và tồn tại trong thời gian ngắn do đó không thể tránh khỏi những hạn chế, tồn tại, vướng mắc đòi hỏi phải giải quyết để hoàn thiện hơn nữa loại hình doanh nghiệp này. Những tồn tại và vướng mắc đó một phần do đặc điểm nội tại khi thành lập các Tổng công ty mà chúng ta không thấy được, đó là những quy định về cơ cấu tổ chức, các bộ phận trong Tổng công ty không phù hợp với thực tế. Mặt khác, Những tồn tại về cơ chế, chính sách, luật pháp cũng cần phải khắc phục bởi vì một môi trường kinh doanh lành mạnh phải được tạo ra cho các Tổng công ty. Việc khắc phục những tồn tại cần phải được tiến hành ngay, nhưng phải có bước đi thích hợp tránh nóng vội và đòi hỏi phải có sự phối hợp của các cơ quan khác nhau cùng thực hiện. Phải tham khảo ý kiến của các chuyên gia các nhà quản lý có kinh nghiệm và nắm bắt những kinh nghệm của nước ngoài để thực hiện những điều chỉnh cần thiết nhằm nâng cao sức cạnh tranh của các Tổng công ty nhà nước ở nước ta nói chung và các Tổng công ty nhà nước trong công nghiệp nói riêng.

doc91 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1283 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Phương hướng và biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổng công ty nhà nước trong công nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
công ty Dầu khí việt nam hiện nay vẫn chưa thoát khỏi tình trạng cơ chế quản lý kế hoạch hóa tập trung. Mô hình tổ chức của các đơn vị thành viên vẫn chưa phong phú cả về tổ chức hoạt động lẫn hình thức sở hữu. -Thứ hai, vốn của các tổng công ty nhà nước vẫn phân tán ở các đơn vị thành viên. việc điều chuyển, tập trung vốn ở các đơn vị thành viên phục vụ cho các mục tiêu phát triển, chiến lược của Tổng công ty gặp rất nhiều khó khăn, phức tạp. - Thứ ba, quan hệ sở hữu về vốn giữa Tổng công ty và các đơn vị thành viên không rõ ràng, mặc dù vốn của tổng công ty sau khi được Nhà nước giao lại cho các đơn vị thành viên theo quy định. - Thứ tư, tính tự chủ về sản xuất kinh doanh và tài chính chưa triệt để. Nhà nước còn can thiệp sâu vào Tổng công ty, cơ chế xin cho vẫn còn ảnh hưởng đến hoạt động của Tổng công ty. - Thứ năm, có một số vấn đề bức xúc liên quan đến quan hệ về tín dụng: Để khắc phục và hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính tại các tổng công ty nhà nước trong công nghiệp ở Việt nam hiện nay cần xem xét và quán triệt những định hướng sau: + Một là, mô hình tổ chức của các tổng công ty nhà nước phải được xây dựng như mô hình của Tập đoàn kinh doanh với tư cách là “công ty mẹ” và thiết lập mối quan hệ kinh tế với các “công ty con”, hoạt động theo luật doanh nghiệp. với định hướng như vậy, công ty mẹ phải là đơn vị sản xuất kinh doanh chủ yếu hoạt động theo luật doanh nghiệp, quản lý vốn đầu tư vào các công ty con và các liên doanh. + Hai là, cơ chế tài chính của tổng công ty nhà nước phải được thiết lập theo nguyên tắc: công ty mẹ phải là đơn vị hoạt động sản xuất kinh doanh chủ yếu nhận vốn của Nhà nước đã đầu tư, có quyền và nghĩa vụ của người chủ sở hữu đối với phần vốn đầu tư vào các công ty con, tự động huy động vốn để đầu tư vào các công ty con. Công ty mẹ là một đối tác đầu tư đối với các công ty con; các công ty con nhận vốn đầu tư của Công ty mẹ, có quyền kinh doanh, quyền đầu tư vào vào các doanh nghiệp khác….đồng thời có trách nhiệm, nghĩa vụ với công ty mẹ, với các đối tác khác theo tỷ lệ vốn góp, theo luật và thỏa thuận. + Ba là, Chính phủ và các cơ quan Bộ, Ngành thuộc chính phủ không can thiệp sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các tổng công ty nhà nước, tăng cường tính tự chủ của các tổng công ty nhà nước; Nhà nước chỉ quản lý, kiểm tra thông qua các công cụ quản lý vĩ mô như chính sách thuế, hệ thống pháp luật… + Bốn là, thiết lập mối quan hệ giữa Công ty mẹ với các công ty con ( các đơn vị thành viên) theo xu hướng thúc đẩy quá trình sản xuất kinh doanh của Tổng công ty và nâng cao hiệu quả kinh tế cũng như khả năng cạnh tranh của các tổng công ty nhà nước nói chung và các tổng công ty nhà nước trong công nghiệp nói riêng. 1.4.3. Nâng cao năng lực quản lý của cán bộ trong doanh nghiệp Ngoài các phương hướng trên thì phương hướng nâng cao năng lực quản lý của cán bộ trong doanh nghiệp cũng không kém phần quan trọng cần phải quán triệt sâu sắc nhằm xây dựng cơ chế quản lý phù hợp với yêu cầu đổi mới doanh nghiệp hiện nay. Vấn đề nâng cao năng lực quản lý của cán bộ trong doanh nghiệp có ý nghĩa to lớn đối với các tổng công ty nhà nước bởi vì chỉ có sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp mà vẫn giữ nguyên cơ chế quản lý kế hoạch hóa tập trung thì sẽ không thể thu được hiệu quả cao nhất. Do vậy cần phải nâng cao năng lực quản lý của cán bộ trong doanh nghiệp nhằm tìm ra những sáng tạo có ý nghĩa quan trọng đối với tổng công ty nhà nước trong sự phát triển chung. 2.Điều kiện và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổng công ty nhà nước trong công nghiệp 2.1.Lựa chọn và lập căn cứ đánh giá Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng nguồn lực của các doanh nghiệp để đạt được hiệu quả cao nhất với tổng chi phí thấp nhất. Hiện nay do chưa nhận thức đúng nội dung bản chất của những mục tiêu, dẫn đếntình trạng đánh giá chưa thỏa đáng về hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, làm cho dư luận hiểu sai về thực chất của vấn đề. Thực chất không ít doanh nghiệp thực hiện các chỉ tiêu đề ra với chỉ số khá cao, song thực chất hoạt động kinh doanh còn yếu kém, làm ăn thua lỗ, thậm lý có nguy cơ phá sản. do vậy, trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thì vấn đề lựa chọn và tạo lập các chỉ tiêu và đánh giấ đúng như chỉ tiêu đó là một vấn đề hết sức quan trọng, giúp cho các doanh nghiệp phát huy được mặt mạnh, khắc phục được những mặt yếu kém, cũng như các cơ quan chức năng nhận thức đúng về thực chất của chỉ tiiêu để có sự uốn nắn kịp thời trong tổ chức chỉ đạo, mặt khác nó cũng giúp đánh giá đúng thực chất hoạt động sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp nhằm cơ có sơ sở phân loại chính xác các doanh nghiệp phục vụ cho chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước của Đảng và Nhà nước ta. đây là vấn đề có tính cấp bách hiện nay. Để lựa chọn và tạo lập các căn cứ đánh giá được chính xác trong những điều kiện cụ thể của từng doanh nghiệp hiện nay, trước hết hãy phân tích thực chất nội dung các chỉ tiêu lâu nay thường dùng để đánh giá kết quả kinh doanh của doanh nghiệp 2.1.1.Chỉ tiêu hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch Chỉ tiêu này được xây dựng trên cơ sở thực tế, có dự kiến khả năng phát triển trong thời gian tới của doanh nghiệp, nên bản thân nó luôn mang tính chủ quan. Không ít trường hợp giao ít hơn so với khả năng thực tế của doanh nghiệp nên dẽ dàng hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch. Trong trường hợp xét thấy nếu doanh nghiệp không có khả năng đạt kế hoạch giao thì gần cuối kỳ tiến hành điều chỉnh kế hoạch thấp hơn so với trước cho phù hợp với thực tế. Trong trường hợp doanh nghiệp kinh doanh nhiều loại sản phẩm, nhưng các sản phẩm đó bị thua lỗ thì việc vượt kế hoạch càng cao thì càng thua lỗ nhiều, càng có hại cho doanh nghiệp. Rõ ràng, trong điều kiện kinh tế thị trường nếu cớ tiếp tục sử dụng chỉ tiêu này thì hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp luôn bị thua lỗ. Do vậy, cần loại bỏ chỉ tiêu này và nên dùng chỉ tiêu “ hoàn thành và hoàn thành toàn diện kế hoạch được giao”. Có nghĩa là sản phẩm doanh nghiệp sản xuất ra với số lượng bằng với số lượng kế hoạch nhưng với chi phí thấp hơn và với chi phí thấp nhất có thể. 2.1.2. Chỉ tiêu so với cùng kỳ Thực trạng hiện nay nhiều trường hợp khi đánh giá so với cùng kỳ năm trước, vẫn chưa quy về cùng một giá, có nghĩa là chưa loại trừ yếu tố trượt giá. đồng thời chưa xác định cụ thể doanh nghiệp đã sử dụng chi phí sản xuất như thế nào. không ít trường hợp: sản lượng của doanh nghiệp này (A) tăng 50% so với năm trước nhưng chi phí sản xuất lại tăng 35% thì không hiệu quả bằng doanh nghiệp khác (B) khi sản lượng chỉ tăng 40% so với năm trước nhưng chi phí sản xuất lại chỉ tăng 10%. Điều đó chứng tỏ doanh nghiệp B sử dụng nguồn lực có hiệu quả hơn. 2.1.3.Chỉ tiêu nộp ngân sách Nhà nước Tính chất của từng khoản nộp ngân sách có yêu cầu, nội dung, mục đích và ý nghĩa khác nhau , cần phải phân biệt khoản nào là hoàn trả cho Nhà nước, khoản nào là nộp và khoản nào là đóng góp đích thực cho Nhà nước do kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Nộp về sử dụng vốn, là khoản nộp có tính chất hoàn trả lại nguồn vốn cho Nhà nước mà doanh nghiệp đã sử dụng. Nộp khấu hao cơ bản, là khoản nộp có tính chất để hoàn trả lại nguồn vốn cho Nhà nước đã đầu tư, xây dựng cơ sở hạ tầng, máy móc thiết bị cho doanh nghiệp. Thuế tài nguyên và các khoản nộp thuế có liên quan đến viẹc sử dụng đất. Doanh nghệp buộc phải nộp các loại thuế này tương tự như khoản tiền mua nguyên liệu đầu vào để tiến hành kinh doanh. Thuế doanh thu (thuế giá trị gia tăng - VAT), thuế tiêu thụ đặc biệt là loại thuế gián thu đánh vào người tiêu dùng. Doanh nghiệp phải nộp thuế này thay cho người tiêu dùng, nhưng vè thực chất nó không phải là công đóng góp của doanh nghiệp cho ngân sách Nhà nước. Thuế lợi tức (thuế thu nhập doanh nghiệp) , đây là loại thuế trực thu, đánh trực tiếp vào phần thu nhập của doanh nghiệp. Đây là khoản đóng góp đích thực đối với ngân sách Nhà nước. Tình trạng hiện nay chúng ta vẫn chưa thực sự khuyến khích động viên tạo điều kiện đúng mức , cũng như như chưa kiểm tra chặt khắc phuch tình trạng doanh nghiệp cố tình đưa những khoản chi phí bất hợp lý vào trong giá thànhđể giảm lợi tức chịu thuế. Rõ ràng chỉ có duy nhất khoản nộp thuế này là đóng góp của doanh nghiệp đối với Nhà nướ, nó được trích từ lợi nhuận của doanh nghiệp. 2.1.4. Chỉ tiêu thu nhập bình quân của một cán bộ công nghiệp viên thực chất nội dung chỉ tiêu này gồm ba phần: lương, phụ cấp và các khoản tiền từ lợi nhuận. Tình trạng hiện nay, không ít doanh nghiệp tính mức thu bình quân dưới nhiều hình thức và cách tính khác nhau như đưa tiền ăn ca, tiền trợ cấp …. Hoặc tiền thưởng không gắn với lợi nhuận và thu nhập … dẫn đến việc xây dựng chỉ tiêu nói trên không chính xác, kém hiệu quả. 2.1.5.Chỉ tiêu hiệu quả đầu tư tình trạng hiện nay có tính chất phổ biến ở các doanh nghiệp là đầu tư lãng phí, kém hiệu quả. Song chưa được quan tâm và ít được đề cập đến trong viẹc phân tích, so sánh hiệu quả của chỉ tiêu này trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Từ sự phân tích trên, cần xem xét thay đổi chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước, đặc biệt là các Tổng công ty nhà nước hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp, các chỉ tiêu đó là: Thứ nhất, sản lượng thực tế của doanh nghệp đạt được so với nguồn vốn chủ sở hữu và vốn sản xuất kinh doanh trên cơ sở so sánh, đối chiếu với năm trước và kkỳ báo cáo mà không dùng chỉ tiêu so sánh với kế hoạch được giao như hiện nay. Thứ hai, so sánh sản lượng, năng suất laođộng thực tế đạt được so với cùng kỳ năm trước dưới hai hình thức giá trị và hiện vật(đặc biệt về giá trị phải tính đến yếu tố trượt giá mới thể hiện đúng ý nghiã của chỉ tiêu này). đồng thời gắn với tình trạng doanh nghiệp sử dụng công suất thiết kế như thế nào phải so sánh đối chiếu với trước và sau khi mở, rộng cải tạo… Thứ ba, sử dụng chỉ tiêu thu nhập bình quân của một công nhân viên, cần phải tách bạch ba khoản riêng biệt: tiền lương trả theo đơn giá sản phẩm, phụ cấp theo quy định hiện hành, tiền lương tháng, quý, cuối năm lấy từ lợi nhuận, không tính thu nhập chung nhằm đánh giá đúng hiệu quả mang lại. Thứ tư, cần sử dụng chỉ tiêu lợi tức thuần và tỷ suất lợi nhuận so với vốn chủ sở hữu và vốn sản xuất kinh doanh. Mục đích của chỉ tiêu này là xác định số lợi nhuận làm ra so với vốn chủ sở hữu và vốn sản xuất kinh doanh, từ đó, có thể đánh giá chính xác thực chất hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thứ năm, đặc biệt coi trọng chỉ tiêu nộp thuế lợi tức vì nó đánh giá một cách chính xác sự đóng góp thực sự của doanh nghiệpđối với ngân sách Nhà nước. Do vậy, cần tạo mọi điều kiện cho doanh nghiệp kinh doanh có lãi càng nhiều đóng góp cho NHà nước càng lớn và đây chính là sự đóng góp đích thực, hay nói cách khác đó là chỉ tiêu đánh giá chính xác hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Thứ sáu, chỉ tiêu hiệu quả đầu tư, để chỉ tiêu này có hiệu quả cần phải xác định giá trị vốn luôn gắn liền với thời gian sử dụng trên cơ sở của mối quan hệ giữa vốn đầu tư với hiệu quả sản xuất kinh doanh đạt được so với mục tiêu đề ra. Thứ bẩy, chỉ tiêu hiệu quả sản xuất kinh doanh, là chỉ tiêu có quan hệ với tất cả các yếu tố trong quá trình sản xuất kinh doanh. Vì thế cần thông qua đánh giá các chỉ tiêu chi tiết: sức sản xuất, sức hao phí, sức sinh lợi của các yếu tố trong quá trình sản xuất kinh doanh. 2.2.Lựa chọn công nghệ và áp dụng công nghệ mới phù hợp với điều kiện của doanh nghiệp, đồng thời nâng cao trình độ chuyển giao công nghệ, làm chủ công nghệ 2.2.1.Thực chất của đổi mới công nghệ Trong điều kiện của tiến bộ khoa học – kỹ thuật ngày nay, khoa học – kỹ thuật – công nghệ có mối liên hệ hữu cơ không thể tách rời. Trong mối quan hệ đó, khoa học đóng vai trò cực kỳ quan trọng và đang trở thành lực lượng sản xuất tiên tiến như C.mác đã tiên đoán. Trong nhiều thế kỷ trước đây, mối quan hệ khoa học – kỹ thuật- công nghệ- sản xuất tách rời. Khoa học đi sau kỹ thuật – công nghệ và chỉ làm chức năng giải thích, tổng kết hiện tượng tự nhiên là chủ yếu. Loài người đã tạo ra công cụ bằng đá ngay từ buổi sơ khai, sau đó là bằng sắt, bằng đồng để săn bắt, đánh cá, trồng trọt,… trước khi khám phá ra các căn cứ khoa học để sản xuất chung. Cho đến thế kỷ 18, khi mới bắt đầu cuộc cách mạng công nghiệp đầu tiên, nhiều công nghệ, kỹ thuật mới ra đời dựa vào tiến bộ khoa học. Nhưng ngày nay, mối quan hệ khoa học – kỹ thuật- công nghệ- sản xuất đã có sự thay đổi về căn bản: kỹ thuật- công nghệ không thể phát triển từ kinh nghiệm thực tế mà phải từ kết quả nghiên cứu khoa học. Ngược lại, nghiên cứu khoa học lại dựa vào kỹ thuật- công nghệ- sản xuất. Trình độ của công nghệ và sản xuất phát triển sẽ tạo ra vốn và những phương tiện, thiết bị ngày càng hoàn thiện cho công tác nghiên cứu khoa học, thúc đẩy khoa học phát triển ngày một nhanh hơn. Trước khi đi vào đổi mới công nghệ cần hiểu thế nào là công nghệ? Có thể hiểu công nghệ là tổng hợp những phương tiện, kỹ năng, phương pháp chung để chuyển đổi các nguồn lực thành một loại sản phẩm hoặc một loại hình dịch vụ nào đó! Công nghệ gồm 4 bộ phận cơ bản tác động qua lại với nhau để tạo ra bất kỳ một biến đổi mang muốn nào, 4 bộ phận đó là: công cụ, máy móc, thiết bị, vật liệu, thông tin, phương pháp, quy trình, bí quyết, tổ chức ( thiết kế tổ chức), liên kết, phối hợp, quản lý, con người…. Như vậy công nghệ được hiểu với nghĩa rộng hơn, đầy đủ hơn so với kỹ năng. đương nhiên kỹ thuật công nghệ liên hệ mật thiết với nhau, sự phân biệt đó chỉ là tương đối. để sáng tạo ra một công nghệ mới thường đòi hỏi phải có phương tiện kỹ thuật, công nghệ mới sáng tạo ra phương tiện kỹ thuật mới. đổi mới công nghệ bao gồm hai hình thức phát triển: Một là, phát triển tiệm tiến biến đổi dần về lượng như cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất. Hai là, phát triển nhảy vọt, đồng bộ về chất trong nhận thức khoa học và các yếu tố kỹ thuật công nghệ tạo nên bước ngoặt trong phát triển Lực lượng sản xuất. Sự phát triển nhảy vọt, đồng bộ như vậy thì được gọi là cuộc cách mạng kỹ thuật. 2.2.2.Vai trò của đổi mới công nghệ Công nghệ là yếu tố cơ bản của sự phát triển. Tiến bộ của khoa học – công nghệ, đổi mới công nghệ là động lực của phát triển kinh tế – xã hội, phát triển ngành. Đổi mới công nghệ sẽ thúc đẩy sự hình thành và phát triển mới đại diện cho Tiến bộ của khoa học – công nghệ. Dưới tác động của đổi mới công nghệ, các ngành có trình độ hàm lượng của khoa học – công nghệ cao sẽ phát triển nhanh hơn so với các ngành truyền thóng tiêu tốn nhiều nguyên liệu, năng lượng…. Tiến bộ của khoa học – công nghệ, đổi mới công nghệ sẽ cho phép nâng cao được chất lượng sản phẩm, tạo ra nhiều sản phẩm mới, đa dạng hóa sản phẩm, tăng sản lượng sản xuất, tăng năng suất lao động, sử dụng hợp lý, tiết kiệmnguyên liệu. Nhờ vậysẽ tăng khả năng cạnh tranh mở rộng thị trường, thúc đẩy tăng trưởng nhanh và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Tiến bộ của khoa học – công nghệ, đổi mới công nghệ sẽ giải quyết được các nhiệm vụ bảo vệ môi trường, cải thiện điều kiện sống và làm việc, giảm lao động nặng nhọc, độc hại, biến đổi cơ cấulao động theo hướng : nâng cao tỷ lao động chất xám, lao động kỹ thuật và giảm lao động giản đơn, lao động phổ thông….. 2.2.3.Phương hướng chủ yếu của đổi mới công nghệ trong hoạt động sản xuất kinh doanh công nghiệp đổi mới công nghệ trong hoạt động sản xuất kinh doanh công nghiệp hiện nay diễn ra rất nhanh chóng, đồng bộ, toàn diện, mạnh mẽ và sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực như: công cụ lao động, vật liệu, năng lượng, phương pháp công nghệ, khoa học quản lý… nó được thể hiện ở những phương hướng chủ yếu sau: Một là, cơ khí hóa và tự động hóa đồng bộ: Điện tử tin học. Cơ khí hóa và tự động hóa được thực hiện đồng thời và theo hai hướng sau cơ bản: Sử dụng máy móc thiết bị và hệ thống máy móc thiết bị ngày càng có trình độ kỹ thuật hiện đại hơn. đồng thời với việc chế tạo ra những máy chuyên dùng có năng suất cao, người ta cũng chế tạo ra những máy đảm nhận nhiều chức năng, máy móc thiết bị được chế tạo ở những thế hệ sau bao giờ cũng hiện đại hơn nhiều so với những máy móc thiết bị được chế tạo ở những thế hệ trước. Mở rộng phạm vi sử dụng máy móc thiết bị vào quá trình sản xuất và công tác quản lý: từ cơ khí hóa bộ phận đến cơ khí hóa toàn bộ, từ tự động hóa bộ phận đến tự động hóa toàn bộ quá trình sản xuất……. Điện tử và tin học đã và đang đưa lại những biến đổi mang tính chất cách mạng trong lĩnh vực sản xuất vật chất, đưa nhân loại vào kỷ nguyên văn minh tin học….. Hai là, khai thác và sử dụng những nguồn năng lượng mới trên cơ sở sử dụng hợp lý và phù hợp những nguồn năng lượng truyền thống. Sử dụng rộng rãi điện năng vào sản xuất công nghiệp. Do tác động của tiến bộ khoa học công nghệ, do yêu cầu phải khai thác và sử dụng hợp lý nguyên liệu và do sự hạn chế của nguồn năng lượng truyền thống ( than , dầu mỏ…) cho nên ngày nay trên thế giới và ngay cẩ ở nước ta – một đất nước có nguồn nguyên liệu dồi dào , phong phú cũng đang đặt ra phải nghiên cứu và đưa vào sử dụng các nguồn năng lượng mới – năng lượng sạch (năng lượng thủy triều năng lượng mặt trời…) vào mục đích phát điện và mục đích công nghệ. Các nguồn năng lượng này có ý nghĩa rất to lớn với tư cách là nguồn năng lượng bổ sung, đặc biệt trong trường hợp xa đường dây tải điện hoặc phải có nguồn cung cấp độc lập với lý do sử dụng nguồn điện năng tiện lợi nhất…. Điện năng hiện nay được sử dụng rất rộng rãi cho nhiều mục đích khác nhau như làm động lực chạy máy, sử dụng điện cho mục đích côn nghệ. đó là qúa trình biến đổi điện năng thành những dạng năng lượng khác để sử dụng trực tiếp vào quá trình sản xuất kinh doanh trong công nghiệp. Cần tính toán hiệu quả sử dụng điện năng so với các dạng năng lượng khác vào mục đích sản xuất kinh doanh công nghiệp. Ba là, tạo ra những loại vật liệu mới để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về phát triển sản xuất và đời sống. Trong những năm gần đây, các vật liệu mới đã xuất hiện và với những chủng loại, tính chất vô cùng phong phú nhằm bổ sung, thay thế cho vật liệu truyền thống, đáp ứng những nhu cầu cao của kỹ thuật hiện đại mà vật liệu tự nhiên, vật liệu truyền thống không thể đáp ứng được. đó là các vật liệu có thể làm việc được trong điều kiện cực đoan về điều kiện sản xuất như : nhiệt độ, áp suất; là các chất bán dẫn mà thiếu chúng thì không thể sản xuất được máy tính điện tử; các vật liệu siêu dẫn; vật liệu hỗn hợp; các vật liệu gốm có thể thay thế cho kim loại…. Trong điều kiện ngày nay, có rất nhiều hình thức đổi mới công nghệ nhưng đối với các nước đang phát triển như nước ta hiện nay thì việc chuyển giao công nghệ từ nước ngoài là nguồn chủ yếu để đổi mới công nghệ. Trong việc thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế, quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, các Tổng công ty nhà nước cần phát huy vai trò chủ đạo của mình. để làm được điều này, đòi hỏi các Tổng công ty nhà nước cần triển khai ứng dụng công nghệ tiên tiến vào trong sản xuất kinh doanh công nghiệp, nếu không sẽ gặp khó khăn trong điều kiện cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thị trường. Tiến bộ khoa học – công nghệ đã và sẽ thúc đẩy quá trình sản xuất phát triển và làm nảy sinh ra nhiều nhu cầu mới đòi hỏi các doanh nghiệp phải đáp ứng kịp thời và đầy đủ các nhu cầu ấy. để làm được điều đó, không còn cách nào khác là các doanh nghiệp cần nghiên cứu và triển khai ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến, đổi mới công nghệ một cách toàn diện và sâu sắc nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Nhưng cần phải xem xét điều kiện của doanh nghiệp trong vấn đề đổi mới công nghệ, xem xét các yếu tố kỹ thuật, khả năng tài chính của doanh nghiệp và trình độ chuyển giao công nghệ. Vấn đề có ý nghĩa quan trọng đối với chuyển giao công nghệ ở các doanh nghiệp nói chung và đối với các Tổng công ty nhà nước nói riêng là trình độ chuyển giao công nghệ bởi vì khi đã có công nghệ trong tay mà chúng ta không sử dụng được công nghệ hoặc sử dụng không hết tính năng tác dụng của công nghệ thì hiệu quả kinh tế của việc đổi mới công nghệ sẽ không cao và đôi khi còn có tác dụng ngược lại. Do vậy, song song với đổi mới công nghệ cần đạo tạo cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật cho phù hợp nhằm làm chủ công nghệ được giao. Chỉ khi đó mới tạo ra được hiệu quả sản xuất kiinh doanh cao nhất đáp ứng được yêu cầu của đổi mới công nghệ. 2.3.Hoàn thiện cơ chế tạo lập vốn đầu tư. Từ một Chủ trương lớn của Đảng: “ Hình thành một số tổ chức kinh tế lớn với mục đích tích tụ, tập trung cao về vốn, đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới”, đến nay nhiều Tổng công ty tổ chức theo hướng Tập đoàn kinh doanh ở nước ta đã được thành lập. Mục đích nhằm chuyển các Tổng công ty này sang mô hình sản xuất kinh doanh mới hoàn toàn thay đổi về chất, trở thành xương sống của nền kinh tế quốc dân, là công cụ thực sự trong tay Nhà nước để phát huy vai trò chủ đạo của thành kinh tế Nhà nước cũng như hội nhập có hiệu quả vào nền kinh tế khu vực và trên thế giới. Vấn đề cốt lõi ở đây là tìm ra được một cơ chế tạo lập vốn đầu tư của các Tổng công ty nhà nước để thúc đẩy nhanh quá trình tích tụ, tập trung cao về vốn. Cơ chế này phải phát huy từ những quan điểm sau đây: Đảm bảo pháthuy lợi thế, tiềm lực kinh tế - tài chính của từng thành viên cũng như của cả Tổng công ty nhằm thúc đẩy nhanh quá trình tích tụ, tập trung cao về vốn. Phải đạt yêu cầu tập trung điều hòa vốn linh động, chuyển dịch vốn nhanh, kịp thời huy động được nguồn vốn lớn để đầu tư vào những nơi có khả năng sinh lợi cao. Đảm bảo sự hài hòa và thống nhất lợi ích giữa các thành viên cũng như giữa các thành viên với cả Tổng công ty. Phải phân định rõ quyền hạn và trách nhiệm giữa các thành viên và với cả Tổng công ty trong qúa trình huy động và sử dụng vốn đầu tư nhằm đảm bảo và phát triển vốn. Phải sử dụng một cách triệt để nhất, linh hoạt nhất tất cả công cụ tài chính – tiền tệ trong qúa trình huy động, tạo lập, quản lý và sử dụng vốn cho nhu cầu về đầu tư phát triển. Từ đó cần Hoàn thiện cơ chế tạo lập vốn đầu tư phát triển của các Tổng công ty nhà nước trong công nghiệp ở nước ta hịên nay theo các nội dung chủ yếu sau: 2.3.1.Quy trình xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch đầu tư phát triển. Trước hết, Tổng công ty phải xây dựng chiến lược đầu tư cho toàn Tổng công ty trên cơ sở xác định lợi thế so sánh, tiềm năng thị trường, công nghệ sẵn có. đây là điều kiện tiền đề để phát huy hiệu quả của đồng vốn đầu tư, là căn cứ để kế hoạch đầu tư phát triển cho Tổng công ty và cho các đơn vị thành viên. Kế hoạch đầu tư phải được xây dựng từ cơ sở vì cơ sở là nơi xuất hiện nhu cầu đầu tư. Tổng công ty có nhiệm vụ tổn hợp kế hoạch đầu tư toàn bộ. Nội dung của kế hoach đầu tư tối thiểu gồm có: giá trị các hạng mục công trình, bảng cân đối vốn, các chỉ tiêu hiệu qủa đầu tư. 2.3.2.Cơ chế điều hòa vốn, quản lý và sử dụng quỹ khấu hao cơ bản và các quỹ tập trung khác. Trong giai đoạn hiện nay, Tổng công ty nhà nước cần có một nguồn vốn tập trung đủ mạnh để có thể quyết định kịp thời việc chuyển vốn vào những nơi có khả năng sinh lợi cao, giành ưu thế trong cạnh tranh. Vì vậy, một đòi hỏi bức thiết đặt ra là phải có cơ chế để Tổng công ty có thể huy động được tất cả các nguuồn vốn nhàn rỗi trong nội bộ để hình thành các quỹ tài chính tập trung. Muốn vậy, phải thành lập một công ty tài chính hoạt động như một thành viên độc lập. công ty tài chính trước hết là một tổ chức tài chính phục vụ nhu cầu nội bộ của Tổng công ty, song cơ chế hoạt động như một ngân hàng nội bộ. Muốn vậy, Phải định được lãi suất , cả lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền vay. Thời gian đầu, lãi suất tiền gửi tại công ty tài chính chưa thể bằng lãi suất tiền gửi tại Ngân hàng thương mại được, song cũng không thấp hơn mức trượt giá hàng năm do Ngân hàng Nhà nước công bố. để khuyến khích các đơn vị thành viên vay vốn đầu tư, lãi suất tiền vay nên thấp hơn lãi suất tiền vay của Ngân hàng thương mại và Ngân hàng đầu tư. 2.3.3. Cơ chế tài chính để tham gia thị trường vốn và thị trường chứng khoán ở nước ta hiện nay, thị trường chứng khoán đã bắt đầu chuyển động nhưng nhìn chung thì “ hàng hóa” tham gia thị trường này vẫn thuộc về phía Nhà nước, còn quá ít “ hàng hóa” từ các doanh nghiệp. Vì vậy, cần phải đẩy nhanh tốc độ cổ phần hóa một số bộ phận kinh doanh của Tổng công ty Nhà nước để tăng thêm nguồn vốn cho Tổng công ty, mặt khác phải xúc tiến việc tìm kiếm thị trường đầu tư để tiến hành bán cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp, kể cả trái phiếu quốc tế. Dịch vụ cổ phần hóa giao cho công ty tài chính thuộc Tổng công ty đảm nhận. Trong hai hình thức nói trên, thì hình thức thứ nhất diễn ra ở giai đoạn đầu khi mà hình sở hữu chủ yếu là hình thức sở hữu Nhà nước. hình thức thứ hai diễn ra chủ yếu khi thị trường chứng khoán đã phát triển mạnh mẽ. đó cũng là con đường để chuyển các Tổng công ty mạnh từ hình thức đơn sở hữu sang hình thức đa sở hữu. 2.3.4. Cơ chế gọi vốn liên doanh trong và ngoài nước Liên doanh là giải pháp cho phép giải các nguồn vốn ở dạng tiềm năng của mỗi doanh nghiệp, phát huy lợi thế riêng ở từng doanh nghiệp, tổng hợp và nhân lên sức mạnh cảu công nghệ và kỹ năng, kinh nghiệm quản lý của các bên liên doanh. để có thể thực hiện được các dự án liên doanh đúng hướng, có hiệu quả, Tổng công ty nhất thiết phải có “Hội đồng thẩm định các dự án đầu tư”. Việc liên doanh phải đảm bảo nguyên tắc hiệu quả , bảo toàn và an toàn vốn, tăng thu nhập. Lợi nhuận thu được trong họat động liên doanh sau khi trừ đi khoản làm nghiã vụ với ngân sách Nhà nước, hoàn trả lãi vay vốn, các chủ thể liên doanh và các Tổng công ty cần được toàn quyền chủ động phân phối và sở dụng theo quy định tài chính hiện hành. Vấn đề về vốn đang trở lên hết sức nóng bỏng đối với các Tổng công ty nhà nước, việc huy động và sử dụng vốn ở các Tổng công ty nhà nước hiện nay là rất quan trọng, cần phải có chính sách tạo nguồn vốn và tăng cường các biện pháp quản lý vốn để tăng tiềm lực tài chính cho các Tổng công ty. Ngoài việc tạo ra một quy chế tài chính rõ ràng, có thể sử dụng một số biện pháp nhằm làm tốt công tác huy động và sử dụng vốn ở các Tổng công ty nhà nước trong công nghiệp hiện nay như sau: Cổ phần hóa một số doanh nghiệp thành viên trong Tổng công ty để huy động vốn tiềm tàng mà vẫn duy trì sự quản lý của Nhà nước ở mức độ cần thiết. Tuy nhiên cần nghiên cứu để hoàn thiện cơ chế quản lý của Nhà nước đối với các Tổng công ty sau khi diễn ra quá trình cổ phần hóa ở một số doanh nghiệp thành viên. một số Tổng công ty đã thu được một số kết quả bước đầu từ việc thí điểm cổ phần hóa một số đơn vị trực thuộc và rút ra kinh nghiệm để tiếp tục cổ phần hóa một số đơn vị thành viên khác trong Tổng công ty Nhưng cần được tháo gỡ các khó khăn về cơ chế và thủ tục. Vì vậy, Nhà nước cần đề ra các cơ chế và chính sách giúp cho doanh nghiệp tháo gỡ những khó khăn trên. qua thực tế tiến hành cổ phần hóa ở một số doanh nghiệp thuộc các Tổng công ty nhà nước cho thấy có một số khăn cần phải sớm nghiên cứu tháo gỡ, trong đó có việc xác định giá trị doanh nghiệp. Khi xác định giá trị doanh nghiệp cần chú ý đánh giá ảnh hưởng của việc xác định giá trị doanh nghiệp trong quá trình cổ phần hóa. đây là một yêu cầu quan trọng, nếu không xác định đúng giá trị doanh nghiệp sẽ gây ra khó khăn cho quá trình cổ phần hóa. Cần nghiên cứu xây dựng phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của nước ta. đa dạng hóa các kênh tài chính và giải phóng nguồn vốn bên trong Tổng công ty. Bài toán về vốn đã và đang thu hút sự quan tâm của công luận vì có ảnh hưởng quyết định đến khả năng hoạt động và sức cạnh tranh của Tổng công ty. Cần làm cho các nguồn vốn tín dụng ngân hàng được khai thông và linh hoạt hơn, đơn giản hóa các quy định và thủ tục gây ách tắc trong nguồn vốn tín dụng. Ngay ở lĩnh vực này, các ngân hàng nước ngoài cũng thể hiện những ưu thế hơn trong cạnh tranh, thủ tục thuận lợi hơn so với các ngân hàng ở Việt nam. Nên thí điểm đa dạng hóa các phương thức tạo vốn để tăng cường năng lực tài chính cho các Tổng công ty trọng điểm. Cho phép một số doanh nghiệp Nhà nước được phát hành trái phiếu công ty một cách rộng rãi hơn, vừa huy động được vốn trong dân để kinh doanh, vừa thúc đẩy được sự hình thành của thị trường trái phiếu công ty. Tập trung đầu tư có trọng điểm một số Tổng công ty nhà nước để có đủ khả năng cạnh tranh trên trường quốc tế. Cần khẳng định rằng nếu các Tổng công ty nhà nước muốn có đủ khả năng cạnh tranh với các công ty nước ngoài thì trước hết phải đảm bảo khả năng tài chính với quy mô đủ lớn. Thực tế, sau khi thành lập lại 74 Tổng công ty nhà nước có thể nói rằng quy mô của các Tổng công ty nhà nước ở Việt nam còn quá nhỏ bé so với các công ty trung bình của các nước trong khu vực. Trong cuộc cạnh tranh gay gắt như hiện nay, xu thế sáp nhập , liên kết diễn ra hết sức mạnh mẽ, do đó các Tổng công ty nhà nước cũng cần phải liên kết để tăng thêm sức mạnh, đặc biệt là sức mạnh tài chính cho mình. với quy mô vốn quá nhỏ bé của các Tổng công ty nhà nước ở Việt nam hiện nay so với nước ngoài, rõ ràng các Tổng công ty nhà nước sẽ mất khả năng cạnh tranh, không có đủ năng lực chi trả cho các chi phí nghiên cứu phát triển, chi phí MARKETING như các đối thủ cạnh tranh đã, đang và sẽ làm. Ngoài ra, thúc đẩy nhanh quá trình liên kết nội bộ cũng là một khả năng thu hút, huy động vốn trong nội bộ Tổng công ty. Cũng với điều đó thì việc đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý tài chính là rất cần thiết. Quy mô Tổng công ty càng lớn thì càng cần đội ngũ cán bộ quản lý tài chính giỏi và có năng lực, phẩm chất tốt. Có thể thấy rằng vấn đề tăng cường năng lực tài chính cho các doanh nghiệp Việt nam, đặc biệt là cho các Tổng công ty nhà nước là rất cân thiết trong giai đoạn hiện nay. Bởi vì, nó là yếu tố quyết định quy mô và khả năng cạnh tranh của các Tổng công ty nhà nước. Nếu khả năng tài chính tốt, thì quy mô của các Tổng công ty nhà nước càng lớn và từ đó sẽ tạo ra khả năng cạnh tranh của các Tổng công ty nhà nước trên thị trường trong nước và nước ngoài. Ngược lại, nếu không có vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh thì trong điều kiện ngày nay nền kinh tế thị trường sẽ không chấp nhận doanh nghiệp ấy, các doanh ngiệp sẽ bị những quy luật nghiệt ngã của kinh tế thị trường đào thải. Và các doanh nghiệp kể cả các Tổng công ty nhà nước cũng không thể ỷ lại vào Nhà nước được, cũng không thể hoạt động ngoài các quy luật nghiệt ngã ấy của nền kinh tế thị trường, điều đó sẽ dẫn đến tình trạng phá sản doanh nghiệp là điều không thể tránh khỏi. 2.4.Nâng cao chất lượng sản phẩm và đổi mới cơ chế quản lý chất lượng. Do sức ép của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường và do yêu cầu sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước theo hướng nêu cao vai trò chủ đạo và nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước nói chung và các doanh nghiệp Nhà nước trong công nghiệp nói riêng, vấn đề nâng cao chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp Nhà nước đã và đang được coi là những nhiệm vụ, mục tiêu trọng tâm của các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt nam trong giai đoạn hiện nay. Đi liền với vấn đề đó, vấn đề quản lý chất lượng sản phẩm ở các doanh nghiệp Nhà nước cũng cần có sự quan tâm hơn nữa và phải đặt đúng với vai trò vị trí của nó. Trong những năm đổi mới vừa qua, các doanh nghiệp Nhà nước phải đương đầu với những thách thức như cung lớn hơn cầu do sản xuất quá nhiều so với nhu cầu tiêu thụ của người tiêu dùng, hàng ngoại nhập tràn đầy, thị trường trong và ngoài nước yêu cầu khắt khe về chất lượng. điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp Nhà nước đặc biệt là các Tổng công ty nhà nước hoạt động theo mô hình Tổng công ty 90, Tổng công ty 91 phải quan tâm hơn nữa tới đảm bảo và nâng cao chất lượng. Trong quá trình đổi mới quản lý sản xuất kinh doanh, quản lý chất lượng ở các doanh nghiệp Nhà nước đã có sự chuyển biến tích cực, thể hiện trên các mặt chủ yếu sau: Thứ nhất, thay đổi nhận thức về vai trò và nội dung quản lý chất lượng. Nếu như trước đây các doanh nghiệp đồng nhất quản lý chất lượng với kiểm tra chất lượng và coi việc đảm bảo, nâng cao chất lượng là trách nhiệm của người sản xuất và người kiểm tra chất lượng, coi quản lý chất lượng là công việc của bộ phận kiểm tra chất lượng sản phẩm, thì ngày nay các doanh nghiệp Nhà nước đã hiểu quản lý chất lượng đầy đủ hơn, các doanh nghiệp Nhà nước đã coi quản lý chất lượng là công việc của tất cả mọi người, mọi tổ chức trong doanh nghiệp, gồm tổng hợp các biện pháp kinh tế, kỹ thuật, tổ chức , xã hội, văn hóa được tiến hành đồng bộ ở các khâu của chu trình sản xuất và cung ứng dịch vụ, từ Marketing, thiết kế, chế tạo, lắp đặt, sử dụng và bảo hành nhằm đảm bảo nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ đáp ứng tốt nhất nhu cầu khách hàng. Thứ hai, xác định vai trò lãnh đạo đối với quản lý chất lượng. Vấn đề quản lý chất lượng không chỉ thuộc về cán bộ quản lý chất lượng mà cả lãnh đạo cũng cần phải phối hợp chặt chẽ với các bộ phận trong doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp Nhà nước đã xác định 80 – 90% trách nhiệm đảm bảo nâng cao chất lượng sản phẩm thuộc về giám đốc. Bởi vậy, quản lý chất lượng là công việc, trách nhiệm của tất cả mọi người, mọi tổ chức, bộ phận trong doanh nghiệp. Để nâng cao vai trò của lãnh đạo đối với quản lý chất lượng, một số doanh nghiệp đã có cơ cấu bộ máy quản lý doanh nghiệp và bộ máy quản lý chất lượng theo mô hình giám đốc trực tiếp nắm các bộ máy quản lý chất lượng. Một số doanh nghiệp đã xây dựng chính sách, chiến lược chất lượng và coi trọng công tác đào tạo chất lượng cho giám đốcvà toàn thể cán bộ công nhân viên. Có thể nói rằng trong điều kiện cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thị trường, vấn đề chất lượng là yếu tố quan trọng, quyết định sự sống còn của doanh nghiệp. Do vậy, các doanh nghiệp rất coi trọng việc đảm bảo nâng cao chất lượng sản phẩm, từ đó việc quản lý chất lượng được coi trọng, nó không chỉ là trách nhiệm của cán bộ sản xuất hay cán bộ quản lý chất lượng mà nó là trách nhiệm của lãnh đạo và toàn bộ doanh nghiệp. Thứ ba, xác định biện pháp chủ yếu của quản lý chất lượng. Có rất nhiều biện pháp quản lý chất lượng đã được áp dụng trong các doanh nghiệp Nhà nước, nhưng vấnđề đặt ra là sử dụng bịên pháp quản lý nào là có hiệu quả nhất. Trong quá trình quản lý chất lượng, đổi mới công nghệ là khâu đột phá, xây dựng chất lượng nhằm đảm bảo nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo điều kiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển và phát huy vai trò chủ đạo của các doanh nghiệp Nhà nước nói chung và của các Tổng công ty nhà nước nói riêng trong nền kinh tế quốc dân. Chất lượng sản phẩm nói chung và chất lượng sản phẩm công nghiệp nói riêng của các Tổng công ty nhà nước ở Việt nam còn rất khiêm tốn so với các nước trên thế giới và trong khu vực. Do vậy, việc nâng cao chất lượng sản phẩm cần dựa trên một số quan điểm quản lý chất lượng sau: đổi mới quản lý chất lượng phải gắn liền với đổi mới sản xuất kinh doanh. Thực chất quản lý chất lượng là quản lý sản xuất kinh doanh có hiệu quả và chất lượng. Quản lý chất lượng là một bộ phận hợp thành trong quản lý sản xuất kinh doanh. Nó phải phục vụ cho mục tiêu chung của quản lý sản xuất kinh doanh và phù hợp đồng bộ các hoạt động quản lý khác của doanh nghiệp như quản lý công nghệ, quản lý nhân lực, quản lý tài chính, quản lý Marketing,…. đổi mới quản lý chất lượng trong các Tổng công ty nhà nước theo hướng thúc đẩy tiến trình hội nhập của các Tổng công ty nhà nước Việt nam vào thị trường thế giới và khu vực. Để hội nhập, cơ chế và phương pháp quản lý chất lượng của các Tổng công ty nhà nước Việt nam phải đảm bảo sự tương đồng quốc tế. Lựa chọn áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO 900 hoặc TQM, HACCP cũng như các hệ thống quản lý chất lượng khác phù hợp với điều kiện và đặc điểm cụ thể của doanh nghiệp là hướng phấn đấu của các Tổng công ty nhà nước trong quá trình hội nhập. đổi mới quản lý chất lượng phải hướng đến tạo sản phẩm có chất lượng đáp ứng yêu cầu thị trường với chi phí thấp nhất nhằm đảm bảo khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Đa dạng hóa các mức chất lượng phù hợp với giá cả và thu nhập của từng đối tượng khách hàng. Thực hiện tiêu chuẩn chất lượng là cơ sở để kiểm tra, kiểm soát là việc làm thường xuyên. Hiện nay trình độ công nghệ của các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt nam còn thua kém thế giới 2 – 3 thế hệ nên đổi mới công nghệ được coi là nền tảng, là khâu đột phá trong hệ thống các biện pháp nhằm đảm bảo nâng cao chất lượng. Bởi vì không đổi mới được công nghệ thì không đổi mới được thiết kế và không thể nâng cấp được các thông số kinh tế - kỹ thuật của sản phẩm. Tiêu chuẩn hóa là cơ sở đảm bảo và nâng và quản lý chất lượng; nhiều doanh nghiệp Nhà nước đã tăng cường và đổi mới công tác tiêu chuẩn hóa theo hướng xây dựng và thực hiện 3 tiêu chuẩn chủ yếu: Hệ thống các chỉ tiêu, tiêu chuẩn chất lượng phù hợp với từng loại sản phẩm. Các quy định về quy trình, quy phạm sản xuất. Xác định mức phế phẩm cho phép, đồng thời mở rộng, nâng cao tỷ trọng các tiêu chuẩn do doanh nghiệp quản lý. Thứ tư, phấn đấu thực hiện theo hệ thống quản lý chất lượng TQM ISO 9000, HACCP. Nhiều doanh nghiệp Nhà nước, nhất là các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu đã phấn đấu để đạt được chỉ tiêu ISO 9000. Trong những năm 90 của thế kỷ 20, rất ít doanh nghiệp áp dụng ISO 9000 và chưa hiểu hết ISO 9000, nhưng cho đến nay số lượng các doanh nghiệp áp dụng và được công nhận đạt tiêu chuẩn ISO 9000 tăng lên rất nhiều. Năm 1997 chỉ có vài doanh nghiệp, năm 1998 có 28 doanh nghiệp, năm1999 có 75 doanh nghiệp được cấp chứng nhận ISO 9000; Rõ ràng, ngày nay cải cách doanh nghiệp Nhà nước đang tích cực phấn đấu đạt tiêu chuẩn chất lượng quốc tế nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường. Một số doanh nghiệp đang phấn đấu thực hiện hệ thống quản lý chất lượng TQM và HACCP. Các doanh nghiệp hoạt động theo mô hình Tổng công ty 90 và Tổng công ty 91 muốn nâng cao hiệu quả kinh tế và tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước cần thiết phải xây dựng và phấn đấu thực hiện theo hệ thống quản lý chất lượng trên cơ sở các quan điểm về đổi mới quản lý chất lượng nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường. Cần thực hiện các giải pháp chủ yếu sau để đổi mới quản lý chất lượng. Một là, cần nâng cao nhận thức về quản lý chất lượng, đẩy mạnh công tác đào tạo về quản lý chất lượng cho toàn thể cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp. Ngày nay có không nhiều các Giám đốc am hiểu về công tác quản lý chất lượng, nhận thức rõ tầm quan trọng của chất lượng và có quyêt định thay đổi hệ thống quản lý chất lượng của doanh nghiệp, tạo phong cách làm việc mới, đưa chiến lược chất lượng sản phẩm vào phương hướng chiến lược và kế hoạch của doanh nghiệp, đảm bảo cơ chế và nguồn lực cho chiến lược và chính sách chất lượng được thực hiện tốt trên thực tế. Chiếm số lượng khá đông là các Giám đốc hiểu biết và quan tâm đến vấn đề quản lý chất lượng chưa đầy đủ, chưa đúng mức, họ thường giao khoán trách nhiệm quản lý chất lượng của doanh nghiệp cho bộ phận kiểm tra chất lượng. Bên cạnh đó còn một số ít các Giám đốc nhận thức và tiếp thu kiến thức quản lý chất lượng hạn chế, coi kiểm tra chất lượng như một nội dung chính của quản lý chất lượng, khóan trắng toàn bộ vấn đề quản lý chất lượng cho bộ phận kiểm tra chất lượng. Như vậy, nâng cao nhận thức về vai trò và nôị dung quản lý chất lượng theo quan điểm hiện đại là điều kiện cần làm tích cực và đồng bộ đối với tất cả các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cần đào tạo kiến thức và kỹ năng về chất lượng và quản lý chất lượng cho mọi thành viên của doanh nghiệp từ Giám đốc đến từng công nhân. nội dung và hình thức đào tạo phải phù hợp với từng đối tượng. Hai là, công tác đổi mới công nghệ và nâng cao khả năng thiết kế, chế tạo sản phẩm mới. Xác định vấn đề đổi mới công nghệ phải là khâu đột phá, là giải pháp cơ bản, trung tâm có tính chiến lược tác động lâu dài đến chất lượng sản phẩm. Đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm đang sản xuất và sản phẩm mới, cũng như sản phẩm đa dạng hóa phải là mục tiêu của đổi mới công nghệ. Hình thức và phương thức đổi mới công nghệ phải phù hợp với điều kiện cụ thể của từng doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp cần xác định những sản phẩm quan trọng, mũi nhọn trong từng giai đoạn để lựa chọn đầu tư đổi mới có trọng điểm. Thiết kế sản phẩm mới là hoạt động sáng tạo để chuyển hóa nhu cầu của khách hàng thành kiểu dáng, đặc điểm và các thông số kỹ thuật của sản phẩm, đủ sức đáp ứng nhu cầu của khách hàng. đây cũng là khâu yếu nhất trong quản lý chất lượng ở các Tổng công ty nhà nước Việt nam vì các doanh nghiệp chưa coi trọng công tác điều tra nhu cầu khách hàng, mặt khác khả năng trình độ thiết kế của đội ngũ cán bộ thiết kế còn yếu và thấp nên sản phẩm đơn điệu, chủng loại nghèo nàn và nặng về bắt trước. để nâng cao năng lực thiết kế và thiết kế sản phẩm mới, cần có sự kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa Phòng kinh doanh và bộ phận Marketing với Phòng kỹ thuật trong khâu thiết kế sản phẩm và phải nâng cao năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ làm công tác thiết kế, chế tạo sản phẩm. Ba là, áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000, TQM hay HACCP. Lý Luận thực tế đã chứng minh rằng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000, TQM hay HACCP là hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến quán triệt được các quan điểm và nội dung quản lý chất lượng hiện đại, được các doanh nghiệp ở hầu hết các nước phát triển và đang phát triển áp dụng. Mỗi hệ thống quản lý chất lượng đều có ưu điểm và nhược điểm, do vậy tùy thuộc từng doanh nghiệp nên áp dụng hệ thống quản lý chất lượng phù hợp. ISO 9000 là bộ tiêu chuẩn về chất lượng được quy định nhằm giúp các doanh nghiệp phấn đấu liên tục, không ngừng để đảm bảo và nâng cao chất lượng phục vụ tốt nhất cho khách hàng trong và ngoài nước. Doanh nghiệp được cộng nhận đạt chứng nhận ISO 9000 coi như được cấp giấy thông hành di vào thị trường thế giới. Do vậy, phần lớn các doanh nghiệp xuất khẩu phấn đấu được cấp giấy chứng nhận đạt ISO 9000. TQM là một phương pháp quản lý chất lượng có hiệu quả mà nội dung của TQMlà cáhc tổ chức quản lý một tổ chứctập trung vào chất lượng thông qua động viên, thu hút toàn bộ mọi thành viên tham gia quản lý chất lượng ở mọi cấp mọi khâunhằm đạt được thành công lâu dài nhờ thỏa mãn nhu cầu khách hàng. Doanh nghiệp áp dụng TQM tuy không tổ chức nào chứng nhận nhưng nó là một việc làm cải tiến thường xuyên, liên tục, đồng bộ nhằm làm cho chất lượng của doanh nghiệp tiến bộ không ngừng. Do đó bất cứ doanh nghiệp nào cuãng có thể áp dụng TQM. HACCP là hệ thống phân tích, xác định và kiểm soátmối nguy hại trọng yếu, nó được áp dụng trong ngành chế biến thực phẩm. Bốn là, tăng cường công tác tiêu chuẩn hóa. Các doanh nghiệp Việt nam nói chung, các Tổng công ty nhà nước trong công nghiệp nói riêng đã coi tiêu chuẩn hóa là biện pháp quan trọng để đảm bảo và nâng cao chất lượng. Nhiều doanh nghiệp Nhà nước trong đó có các Tổng công ty nhà nước đã xây dựng tiêu chuẩn cho doanh nghiệp của mình và phấn đấu đạt tiêu chuẩn ngành, tiêu chuẩn Việt nam, tiêu chuẩn quốc tế. Tuy nhiên công tác tiêu chuẩn hóa còn có các tồn tại chủ yếu chưa nhận thức đầy đủ về nội dung của tiêu chuẩn hóa, chủ yếu tiêu chuẩn hóa chỉ tập trung vào khâu sản xuất, rất ít Tổng công ty nhà nước quan tâm đến tiêu chuẩn hóa ở khâu hỗ trợ. Hệ thống chỉ tiêu, tiêu chuẩn được xây dựng chủ yếu được căn cứ vào tình hình thực tế hiện có của Tổng công ty chưa dựa vào nhu cầu khách. Khi đánh giá chất lượng vẫn chủ yếu dực vào thực hiện các tiêu chuẩn đề ra, còn coi nhẹ sự đánh giá chất lượng từ những nhận thức của khách hàng. Vì vậy để tăng cường công tác tiêu chuẩn làm nền tảng cho quản lý chất lượng cần chú ý các biện pháp: Chú trọng xây dựng tiêu chuẩn doanh nghiệp đi đôi với thực hiện tiêu chuẩn ngành, tiêu chuẩn Việt nam, tiêu chuẩn quốc tế; Hoàn thiện, điều kiện tiêu chuẩn đã lạc hậu, không phù hợp; áp dụng chế độ thưởng đối với cá nhân và tập thể vượt tiêu chuẩn; Xây dựng tiêu chuẩn cho các khâu hỗ trợ và dịch vụ sản xuất như bao gói, dịch vụ sau bán hàng; Phát triển công tác chứng nhận hợp chuẩn. Năm là, phát triển công tác tư vấn về quản lý chất lượng. Phấn đấu theo hệ thống quản lý chất lượng TQM, ISO 9000, HACCP là vấn đề mới mẻ, hiện nhiều Tổng công ty nhà nước vẫn còn lúng túng. Vì vậy, phát triển công tác tư vấn về quản lý chất lượng theo quan điểm theo phương pháp hiện đại là điều cần thiết. Trung tâm năng suất chất lượng và các trung tâm chất lượng khu vực (I, II, III) thuộc Tổng cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng trong thời gian qua đã có những hoạt động tích cực, đặc biệt là đã mở nhiều lớp đào tạo về quản lý chất lượng, và tiến hành hoạt động tư vấn về quản lý chất lượng. Nhưng nhìn chung các tổ chức tư vấn về quản lý chất lượng còn thiếu và yếu, chưa đủ sức đáp ứng nhu cầu. Bên cạnh đó, một số tổ chức quốc tế cũng làm tư vấn quản lý chất lượng nhưng giá còn cao, nhiều doanh nghiệp chưa đủ tiền thuê. Do đó, cần có cơ chế và chính sách khuyến khích phát triển hệ thống tư vấn quản lý chất lượng và miễn giảm chi phí đối với hoạt động tư vấn quản lý chất lượng. Sáu là, tăng cường quản lý Nhà nước đối với quản lý chất lượng. Trong nền kinh tế thị trường, vấn đề đảm bảo và nâng cao chất lượng là trách nhiệm của doanh nghiệp. Nhưng Nhà nước có vai trò kiểm tra, giám sát, khuyến khích, tạo điều kiện cho quản lý chất lượng của doanh nghiệp, cụ thể như sau: -Định hướng chiến lược chất lượng sản phẩm và dịch vụ. -Tăng cường hợp tác quốc tế với các Tổ chức quản lý quốc tế về chất lượng. -Đẩy mạnh việc phổ biến tuyên truyền, quảng bá kiến thức về quản lý chất lượng. -đào tạo đôị ngũ cán bộ quản lý Nhà nước về chất lượng cho các trung tâm và địa phương, hỗ trợ đào tạo về quản lý chất lượng cho các doanh nghiệp. -Đầu tư các chương trình, đề tài nghiên cứu về quản lý chất lượng. -Tổ chức quản lý và phát huy hiệu quả, hiệu lực cảu bộ máy Nhà nước về quản lý chất lượng, đó là Tổng cục và các chi cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng. -Xây dựng tiêu chuẩn Nhà nước, tiêu chuẩn Ngành với một số sản phẩm quan trọng đối với an ninh quốc phòng, sản xuất và đời sống nhân dân. -Kiểm tra, kiểm soát để đấu tranh và xử lý đối với những trường hợp làm hàng giả, làm hàng kém phẩm chất nhằm bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng. Trên đây là một số biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước nói chung và của các Tổng công ty nhà nước trong công nghiệp nói riêng. Ngoài ra còn có rất nhiều giải pháp khác cũng đang cần quan tâm đúng đắn hơn trong các Tổng công ty nhà nước như điều tra nghiên cứu nhu cầu thị trường, nâng cao vai trò của Hội đồng quản trị trong các Tổng công ty nhà nước. Vấn đề là ở chỗ các Tổng công ty nhà nước cần thiết phải xem xét, đánh giá đâu là khâu yếu, đâu là khâu quan trọngnhất, từ đó có những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của mình thể hiện đúng đắn và tăng cường vai trò chủ đạo của các Tổng công ty nhà nước Việt nam nói chung các Tổng công ty nhà nước trong công nghiệp nói riêng của nền kinh tế quốc dân. Kết luận Chủ trương thành lập các Tổng công ty của Đảng và nhà nước là một hướng đi đúng và cần thiết để củng cố khu vực kinh tế quốc doanh hiện nay. Sự ra đời của các Tổng công ty nhà nước mới trong thời gian ngắn hay nói đúng hơn là trong giai đoạn thử nghiệm theo mô hình mới. Từ những kết quả đã đạt được trên các mặt có thể khẳng định các Tổng công ty nhà nước về cơ bản đã thực hiện được các mục tiêu đề ra của Đảng và nhà nước, góp phần rất lớn vào việc phát huy vai trò chủ đạo của khu vực doanh nghiệp Nhà nước tạo đà phát triển cho toàn bộ nền kinh tế, góp phần làm ổn định kinh tế, xã hội, an ninh, chính trị, trật tự quốc phòng được giữ vững, đóng góp lớn vào việc duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế liên tục trong nhiều năm của thập kỷ 90, đưa nền kinh tế nước ta dần dần thu hẹp khoảng cách tụt hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, do mới thành lập và tồn tại trong thời gian ngắn do đó không thể tránh khỏi những hạn chế, tồn tại, vướng mắc đòi hỏi phải giải quyết để hoàn thiện hơn nữa loại hình doanh nghiệp này. Những tồn tại và vướng mắc đó một phần do đặc điểm nội tại khi thành lập các Tổng công ty mà chúng ta không thấy được, đó là những quy định về cơ cấu tổ chức, các bộ phận trong Tổng công ty không phù hợp với thực tế. Mặt khác, Những tồn tại về cơ chế, chính sách, luật pháp cũng cần phải khắc phục bởi vì một môi trường kinh doanh lành mạnh phải được tạo ra cho các Tổng công ty. Việc khắc phục những tồn tại cần phải được tiến hành ngay, nhưng phải có bước đi thích hợp tránh nóng vội và đòi hỏi phải có sự phối hợp của các cơ quan khác nhau cùng thực hiện. Phải tham khảo ý kiến của các chuyên gia các nhà quản lý có kinh nghiệm và nắm bắt những kinh nghệm của nước ngoài để thực hiện những điều chỉnh cần thiết nhằm nâng cao sức cạnh tranh của các Tổng công ty nhà nước ở nước ta nói chung và các Tổng công ty nhà nước trong công nghiệp nói riêng. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Thành lập và quản lý các tập đoàn kinh doanh ở Việt Nam Chủ biên: PGS, PTS Nguyễn Đình Phan, NXB Chính trị Quốc gia - 1996. 2. Các quy định mới về doanh nghiệp Nhà nước NXB Thống kê - 1996 3. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX 4. Nghị quyết Trung ương III khóa IX Phần Tạp chí: 1. Kinh tế và phát triển số 8/1995, 27/1998, 28/1999, 29/1999, 107/1999, 108/1999, 34/2000, 38/2000, 40/2000, 55/2002. 2. Tài chính doanh nghiệp số 8/1995, 9/1995, 4/1999, 5/1999, 9/1999, 6/2000, 8/2000, 9/2000. 3. Công nghiệp số 9/1998, 18/1998, 2+3/1999, 5/1999, 6/1999, 18/1999, 19/1999, 11/2000, 21/2000, 3/2001, 5/2001, 7/2001, 8/2001, 12/2001, 16/2001, 19/2001, 20/2001. 4. Hoạt động ngân hàng số 8/1997 5. Tạp chí quản lý Nhà nước số 7/2000, 7/2001. 6. Công báo số 29/2000 7. Công nghiệp hoá chất số 8/2000 8. Thương mại 9/1999, 11/1999, 7/2000, 6/2001, 30/2001. 9. Tạp chí Cộng sản số 10/1999, 13/2001, 19/2001. 10. Tạp chí xây dựng số 9/2001. 11. Nghiên cứu kinh tế số 5/2000, 12. Kinh tế dự báo số 67/1999, 4/2001, 6/2001 13. Lý luận chính trị số 6/2001 14. Thông tin lý luận số 2/1999, 7/2000, 10/2000 15. Chứng khoán Việt nam số 8/1999 16. Nghiên cứu lý luận số 8/1999, 5/2000 17. Khoa học xã hội số1/2001, 18. Kinh tế châu á Thái bình dương số 3/2001 19. Phân tích kinh tế số 108/1999

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34222.doc
Tài liệu liên quan