Chuyên đề Phương hướng và các giải pháp thúc đẩy phát triển thương mại tỉnh Lào Cai

Chiến lược phát triển thương mại tỉnh Lào Cai đến năm 2010 được thực hiện trên cơ sở điều tra, khảo sát thực tế hoạt động thương mại trên địa bàn tỉnh nói chung và khu vực cửa khẩu Lào Cai nói riêng. Đồng thời, chiến lược cũng đã tiếp cận các nguồn thông tin, số liệu khác nhau phản ánh thực trạng và triển vọng phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, cũng như tại khu vực cửa khẩu Lào Cai. Từ những vấn đề thực trạng và tiềm năng, triển vọng phát triển kinh tế - xã hội nói chung và lĩnh vực thương mại của tỉnh, của các vùng kinh tế phụ cận, cũng như tình hình và triển vọng phát triển quan hệ giữa hai nước Việt Nam - Trung Quốc, đặc biệt những vấn đề về lợi thế phát triển thương mại của tỉnh với sự hiện diện của các cửa khẩu quốc tế và quốc gia đang đặt ra yêu cầu cần thiết phải thúc đẩy nhanh sự phát triển các hoạt động thương mại trên địa bàn tỉnh. Điều đó có ý nghĩa rất quan trọng trong giai đoạn hiện nay và càng quan trọng hơn trong những năm tiếp theo.

doc88 trang | Chia sẻ: linhlinh11 | Lượt xem: 668 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Phương hướng và các giải pháp thúc đẩy phát triển thương mại tỉnh Lào Cai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lưu thông của các sản phẩm hàng hoá, chợ còn là tấm gương phản ánh trình độ đời sống xã hội. Vì vậy, đối với nhiều huyện, nhiều xã, và nhiều khu vực biên giới của Lào Cai, quy hoạch hệ thống cơ sở vật chất thương mại lại chủ yếu và có thể là duy nhất đồng nghĩa với quy hoạch phát triển chợ. Việc đầu tư xây dựng chợ nhất là hệ thống chợ nông thôn, chợ biên giới sẽ được thực hiện chủ yếu từ nguồn ngân sách địa phương, các chợ khu vực khác sẽ huy động đầu tư chủ yếu từ nguồn vốn trong dân. Cần chú ý rằng, chợ có quy luật hình thành và phát triển riêng của nó, trên cơ sở các điều kiện kinh tế - xã hội của khu vực, vì vậy, trong điều kiện một tỉnh biên giới như Lào Cai, quan điểm quy hoạch phát triển chợ là trên cơ sở hệ thống chợ hiện có, thiết lập kế hoạch đầu tư nâng cấp chợ và phải rất thận trọng trong việc đề xuất xây dựng chợ mới. Trong giai đoạn từ nay tới 2005, chợ có thể được phát triển theo mô hình lồng ghép các hoạt động kinh tế - xã hội trong khu vực ảnh hưởng của chợ, lồng ghép các loại hình thương nghiệp khác, lồng ghép các phương thức kinh doanh,... để nâng cao hiệu suất của chợ. Khi hoạt động của chợ được nâng dần lên về quy mô (thể hiện bằng khối lượng hàng hoá trao đổi, số lượng người tham gia trên chợ); về cường độ, tốc độ lưu chuyển của hàng hoá,... khi đó sẽ tách dần các chức năng lồng ghép của chợ. Mục tiêu Xuất phát từ thực trạng của một nền kinh tế kém phát triển dựa trên sản xuất nông nghiệp là chín, xuất phát từ những quan điểm chiến lược phát triển mang tính chất lâu dài đã được xác định, nhiệm vụ cơ bản của sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Lào Cai trong vòng 15 năm tới là: phải phát triển như thế nào để vừa phù hợp với điều kiện thực tế của tỉnh, vừa tránh được nguy cơ ngày càng tụt hậu so với tốc độ phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế - xã hội chung của cả nước. Để thực hiện nhiệm vụ này, trong thời kỳ này, Lào Cai phải hình thành và phát huy mạnh những khâu “đột phá” kinh tế để tạo nên nhiều sản phẩm hàng hoá trên cơ sở khai thác nguồn tài nguyên của mình, từng bước vững chắc chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá với mục tiêu tổng quát là: giảm ở mức cao nhất khoảng cách chênh lệch so với mức trung bình của cả nước, rút ngắn khoảng cách chênh lệch so với mức trung bình của vùng Đông Bắc. Để thực hiện mục tiêu tổng quát đó, các mục tiêu cơ bản được xác định trong thời kỳ 2000-2010 là: Nhịp độ tăng trưởng bình quân GDP đạt từ 6,5-7,0% trong giai đoạn 2000-2005, và đạt 8% trong giai đoạn 2005-2010, xấp xỉ mức tăng trưởng trung bình của cả nước và cao hơn mức trung bình của vùng Đông Bắc. Hàng năm phải từng bước vững chắc chuyển dịch cơ cấu theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ. Đến năm 2005 sẽ chuyển sang cơ cấu kinh tế công nghiệp – nông, lâm nghiệp – dịch vụ và giữ ổn định cơ cấu kinh tế này trong những năm tiếp theo. Đẩy mạnh kinh tế dịch vụ sau khi đã xây dựng cơ sở hạ tầng phù hợp. Giảm tỷ lệ tăng dân số tự nhiên từ 0,45% đến 0,6%/ năm trong giai đoạn 2001-2010. GDP/ người đạt từ 240 USD đến 250 USD vào năm 2010, tăng 1,65-1,75 lần so với năm 1998 và 1,58-1,65 lần so với năm 2000. Phấn đấu tăng tỷ lệ thu ngân sách từ GDP từ 9-10% trong giai đoạn 1992-1994 lên khoảng 20% giai đoạn 2001-2010. Tỷ lệ tích luỹ đầu tư ở giai đoạn Lào Cai 13-14% và 14-14,5%. Giá trị kim ngạch xuất khẩu vào năm 2005 đạt 20 triệu USD, trong đó xuất khẩu 12 triệu USD và 30-35 triệu USD với nhịp độ tăng bình quân năm 15-17% vào năm 2010. Phấn đấu đến năm 2005 căn bản xoá đói thường xuyên ở vùng cao, vùng sâu. Giảm bớt tỷ lệ các hộ nghèo 2-3% mỗi năm. Lựa chọn cơ cấu và định hướng phát triển Cơ cấu thành phần đây là nội dung bố trí một cách cân đối các lực lượng tham gia kinh doanh thương mại trên phạm vi lãnh thổ Lào Cai để thực hiện tốt các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội nói chung và phát triển thương mại nói riêng. Trên cơ sở thực trạng phát triển các thành phần thương mại tỉnh Lào Cai và các quan điểm định hướng phát triển các thành phần kinh tế tham gia hoạt động thương mại cũng như những thiết kế về không gian phát triển thương mại trong giai đoạn từ nay đến năm 2010, có thể quy hoạch phát triển các thành phần kinh tế tham gia kinh doanh thương mại trên lãnh thổ Lào Cai như sau: Quốc doanh Những nhiệm vụ cơ bản của thương nghiệp Nhà nước đặt ra trong thời gian tới bao gồm: Một là, góp phần điều hoà cung - cầu bằng cách: Đảm bảo lưu thông những mặt hàng chủ yếu ở những nơi kém sinh lời, nhằm thực hiện chính sách xã hội của Nhà nước. Kinh doanh những mặt hàng mà các thành phần kinh tế khác chưa đủ điều kiện kinh doanh. Những hoạt động này cũng góp phần tạo lập thị trường. Ngoài ra còn đảm bảo nhiệm vụ lưu thông các mặt hàng khu vực tư nhân kinh doanh thì không có lợi cho cộng đồng. Bình ổn giá cả thị trường một số mặt hàng thiết yếu, tại những địa bàn quan trọng, ngăn chặn những cơn sốt gây tổn thương tới lợi ích của đông đảo nhân dân, nhất là người lao động. hai là, mở đường vào các thị trường mới trong và ngoài nước, giúp các doanh nghiệp, các hộ sản xuất gia đình và cá thể tiêu thụ sản phẩm, phát triển kinh doanh vì quốc tế dân sinh. ba là, đi đầu làm gương, chấp hành luật pháp, thúc đẩy các thành phần kinh tế thực hiện văn minh thương nghiệp, phục vụ người tiêu dùng. Sự tồn tại của các doanh nghiệp thương nghiệp Nhà nước phụ thuộc vào khả năng đảm đương vai trò chủ đạo nêu trên. Bên cạnh mục tiêu chung là hiệu quả, cần thực hiện mục tiêu: ít quốc doanh nhưng mạnh hơn. Điều đó có nghĩa phải củng cố những đơn vị thương nghiệp quốc doanh thật cần thiết làm công cụ của Nhà nước cho các hoạt động của các doanh nghiệp của các doanh nghiệp này, làm cho chúng có sức cạnh tranh trên thị trường, từng bước chuyển hoá sở hữu các tổ chức thương nghiệp quốc doanh còn lại bằng các hình thức thích hợp. Như vậy, với Lào Cai những định hướng cần thực hiện trong thời gian tới đối với thương nghiệp Nhà nước có thể phác hoạ như sau: Trong không gian thương mại, thương nghiệp nhà nước (kể cả trong tỉnh và ngoài tỉnh) cần tập trung phát triển mạnh ở các trung tâm và các cụm kinh tế thương mại dịch vụ. Trong đó, tại trung tâm thị xã Lào Cai và Cam Đường, thương nghiệp nhà nước trong tỉnh, cần có cơ chế, chính sách để thu hút các thành phần thương nghiệp cũng như các doanh nghiệp thương mại nhà nước của Trung ương và các địa phương khác đến thiết lập hệ thống kinh doanh tại các trung tâm này. Trên thương trường, thương nghiệp nhà nước giữ vai trò tổ chức bằng sự tham gia kinh doanh trực tiếp hoặc bằng sự phối hợp liên ngành nhằm tạo động lực với sức hấp dẫn lôi cuốn sự tham gia của các thành phần kinh tế khác. Cụ thể, thương nghiệp nhà nước tỉnh Lào Cai cần tham gia tích cực vào quá trình thu mua nông sản và khai thác hàng xuất khẩu. Trong thương nghiệp bán lẻ, thương nghiệp nhà nước nghiên cứu xây dựng và áp dụng các hình thức phục vụ văn minh, trước hết tại các trung tâm thương mại ở 2 thị xã, tuỳ theo sự phát triển trình độ tiêu dùng và mức độ cải thiện thu nhập của dân cư trong khu vực. Ngoài ra, thương nghiệp nhà nước cần phối hợp với các cơ quan chức năng, chuyên môn thực hiện quá trình kiểm soát giá cả, chất lượng hàng hóa tiêu thụ trên địa bàn. Đối với thương nghiệp tập thể: đây là hình thức hợp tác kinh doanh trên cơ sở tự nguyện của một nhóm người, hay tập thể người. Thành phần thương nghiệp này có vai trò quá độ trong giai đoạn phát triển hiện nay và nếu biết phát huy tốt nó sẽ đóng một vai trò tích cực đối với các tỉnh miền núi nói chung và Lào Cai nói riêng. Có thể xác định quy hoạch phát triển thành phần thương nghiệp này theo hướng: Phát triển thành phần thương nghiệp này một cách đồng đều trên toàn bộ không gian lãnh thổ tỉnh, trong đó, tại các trung tâm thương mại và các cụm kinh tế thương mại - dịch vụ sẽ phát triển các hợp tác xã phục vụ trực tiếp nhu cầu tiêu thụ sản phẩm và cung ứng tư liệu sản xuất cho mọi đối tượng có nhu cầu. Trong lưu thông có thể xem thành phần thương nghiệp này là những đơn vị cơ sở đảm nhận khâu thu gom và bán lẻ hàng hoá trực tiếp trên địa bàn khu vực. Trong điều kiện sản xuất nhỏ, phân tán, thành phần thương nghiệp này được xem là những hạt nhân cơ bản có khả năng khuyếch tán cao, có thể thúc đẩy quá trình liên kết và phát triển thị trường với quy mô ngày càng rộng hơn, đặc biệt là quá trình liên kết các hộ sản xuất ở khu vực nông thôn để tạo ra quy mô đủ lớn và do đó mang lại hiệu quả ngày càng cao cho sản xuất ở khu vực này. Ngoài quốc doanh Đây là thành phần thương nghiệp cần được phát triển trong điều kiện nền kinh tế thị trường. Chính thành phần kinh tế này đã góp phần tạo nên sự phong phú và sôi động của thương mại và thị trường. Trong điều kiện đặc thù của Lào Cai, thành phần thương nghiệp này được quy hoạch phát triển theo hướng: Trong không gian thương mại tỉnh sẽ khuyến khích thành phần thương mại này phát triển ở cả ba cấp (tụ điểm thương mại, cụm thương mại và trung tâm thương mại). Trong đó, tại các trung tâm thương mại sẽ tạo điều kiện thuận lợi để tư nhân thành lập các doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần; tại các cụm thương mại sẽ tuỳ theo quy mô thực tế để khuyến khích tư nhân thành lập doanh nghiệp hay tổ hợp của người buôn chuyến; tại tụ điểm thương mại sẽ phát triển mạnh các hộ kinh doanh có chỗ ngồi (vị trí kinh doanh) cố định, thường xuyên, qua đó nâng quy mô kinh doanh của chợ, nhất là đối với các chợ biên giới. Thành phần thương nghiệp này sẽ là một trong những lực lượng chủ yếu trên thị trường thực hiện chức năng lưu thông hàng hoá, tìm kiếm và khai thác lợi nhuận trong khâu lưu thông trên cơ sở tiết kiệm chi phí, phát triển các thị trường cung ứng và tiêu thụ các sản phẩm có quy mô vừa và nhỏ. Đồng thời, thành phần thương nghiệp này cũng sẽ là lực lượng chủ yếu bán lẻ hàng hoá trên thị trường. Trong giai đoạn từ nay đến năm 2010, Lào Cai cần chú trọng phát triển các doanh nghiệp thương mại tư nhân và công ty TNHH (cả về quy mô và phạm vi kinh doanh) để trở thành lực lượng cùng với thành phần thương nghiệp nhà nước phát triển và mở rộng không gian thương mại chung của tỉnh và nhanh chóng hướng ra thị trường ngoài tỉnh. Phát triển chợ nông thôn Chợ là nơi tổ chức trao đổi, mua bán hàng hóa của dân cư xuất hiện từ lâu. Hiểu theo nghĩa cổ điển, chợ là nơi để mọi người đến trao đổi, mua bán hàng hoá theo những ngày, những buổi nhất định. Nhiều vùng, nhiều địa phương trong nước cũng như trên thế giới, chợ còn là nơi giao lưu văn hoá tinh thần. Cùng với sự phát triển của kinh tế hàng hoá, chợ cũng không ngừng phát triển và ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với sản xuất và đời sống. Phương hướng phát triển chợ trong thời gian tới là: Kết hợp giữa hệ thống chợ hiện có với việc mở rộng và phát triển thêm các chợ mới. Kết hợp giữa phát triển chợ với siêu thị và trung tâm thương mại. Đối với những chợ hiện có và đã được phân bổ hợp lý cần có kế hoạch củng cố, mở rộng và nâng cấp cho phù hợp với nhu cầu tăng lên của trao đổi hàng hóa và đáp ứng yêu cầu vệ sinh, môi trường. Những chợ đặt ở những địa điểm đến nay không còn thích hợp nữa thì cần điều chỉnh lại vị trí cho phù hợp, ở những khu kinh tế hoặc dân cư mới hình thành, những vùng còn thiếu chợ cần phải xây dựng mới một số chợ để đáp ứng nhu cầu mua bán. Nhìn chung, trong cả nước, việc phát triển chợ mới trong thời gian tới sẽ không nhiều, nhưng việc cải tạo, nâng cấp chợ là rất lớn. Vì phần lớn chợ hiện nay là chợ tạm, cơ sở vật chất - kỹ thuật lạc hậu, các tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm, môi trường chưa đảm bảo. Bên cạnh chợ ở các đô thị hình thức mua bán trong các cửa hàng bách hoá tổng hợp hoặc các siêu thị ngày càng tăng lên. Phát triển chợ theo hướng văn minh, hiện đại kết hợp với việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Để có thể thực hiện mua bán một cách văn minh hiện đại, đảm bảo được các yêu cầu về vệ sinh, môi trường... các chợ phải tiến tới xây dựng khang trang, lắp đặt các trang thiết bị hiện đại phục vụ tốt cho việc giao dịch mua bán hàng hoá. Các hình thức tổ chức và phương thức hoạt động chợ truyền thống mang bản sắc dân tộc cần được giữ gìn và phát huy, nhằm tạo nên tính đa dạng, phong phú của hình thức trao đổi mua bán hàng hoá của loại hình chợ. Cần chú trọng phát triển các chợ lớn bán buôn, phát luồng có vai trò quan trọng, các loại chợ chuyên doanh như chợ nông sản, rau quả, chợ vải, chợ quần áo, chợ hàng điện tử ... ở các đô thị nhằm thoả mãn nhu cầu ngày càng cao và đa dạng của nhân dân; hình thành một số chợ chuyên doanh ở các vùng chuyên canh và các làng nghề ở nông thôn nhằm mục đích tiêu thụ sản phẩm và cung ứng vật liệu chuyên dùng. Cần nghiên cứu tiến tới xây dựng một số loại hình chợ mới như chợ bán đấu giá. đầu tư và phát triển chợ theo nguyên tắc “Nhà nước và nhân dân cùng làm”. trong kinh phí đầu tư xây dựng chợ, một phần được trích từ nguồn thu ngân sách của chợ, một phần do đóng góp của nhân dân, ưu tiên cho những người kinh doanh trong chợ, ở những vùng kinh tế có nhiều khó khăn, vùng sâu, vùng xa, vùng có nhiều đồng bào dân tộc, đầu tư của nhà nước vào chợ sẽ chiếm tỷ lệ cao. Tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước trong quá trình phát triển chợ (trong quy hoạch phát triển chợ, trong đầu tư xây dựng chợ, trong tổ chức quản lý chợ, trong việc bổ sung, hoàn chỉnh các chính sách...). Theo dự báo của Bộ Thương mại, năm 2000 cả nước có 5.793 chợ (5.183 chợ nông thôn và 610 chợ thành thị). Trong đó số chợ phải cải tạo là 1.165 chợ (nông thôn 1.036 chợ, thành thị là 129 chợ). Số chợ cần xây dựng mới là 432 (nông thôn 388, thành thị 44). Năm 2010 cả nước có 6.681 chợ (5.959 chợ ở nông thôn và 722 chợ ở thành thị). Trong đó, số chợ phải cải tạo là 1.829 (nông thôn 1582, thành thị 247). Số chợ cần xây dựng mới là 888 chợ (nông thôn 776, thành thị 112). Phát triển các trung tâm thương mại Trung tâm thương mại là đầu mối giao dịch xúc tiến và tổ chức thực hiện các hoạt động thương mại và các dịch vụ có liên quan phục vụ cho hoạt động đó. Các dịch vụ mà trung tâm thương mại cung cấp rất đa dạng như thông tin, tư vấn, môi giới thương mại, ký kết hợp đồng, thanh toán, chuyển đổi ngoại tệ, dịch vụ giáo dục - đào tạo, tổ chức nơi làm việc cho các hãng, tổ chức trưng bày, triển lãm hàng hoá, tổ chức ăn ở, đi lại cho thương nhân... Trung tâm thương mại là một tổ chức kinh doanh có đối tượng phục vụ là các thương gia, kỹ nghệ gia, người tiêu dùng,... Tổ chức các trung tâm thương mại phải gắn với việc tổ chức các đô thị vì chỉ có các đô thị mới có các điều kiện về thị trường, tiếp thị, cơ sở vật chất kỹ thuật, hạ tầng giao thông... phục vụ cho các hoạt động của chúng. Trung tâm thương mại có nhiều cấp độ khác nhau: Trung tâm thương mại quốc tế Trung tâm thương mại quốc gia Trung tâm thương mại cấp vùng và tỉnh Trung tâm thương mại cửa khẩu Cùng với sự phát triển của các đô thị và các nhu cầu giao lưu hàng hóa ở trong và ngoài nước, nhất là trong bối cảnh khu vực hoá và toàn cầu hoá, hội nhập thị trường trong nước với thị trường khu vực và thị trường thế giới. Trung tâm thương mại đang được hình thành và phát triển ở nước ta. Trên cơ sở dự báo các loại đô thị và nhu cầu phát triển thương mại trong và ngoài nước, có thể định hướng phát triển hệ thống Trung tâm thương mại ở các cấp như sau: Trung tâm thương mại quốc tế: ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Trung tâm thương mại cấp quốc gia ở các đô thị loại I và loại II gồm Hà Nội, thành phố HCM, Hải Phòng, Đà Nẵng,... Trung tâm thương mại cấp vùng và tỉnh Trung tâm thương mại cửa khẩu quốc tế hoặc quốc gia: Móng Cái, Lạng Sơn, Lào Cai,.... Các trung tâm thương mại có quan hệ mật thiết với nhau, cùng hợp tác và cạnh tranh trong việc kinh doanh dịch vụ thương mại, phục vụ sản xuất và đời sống. Hệ thống Trung tâm thương mại là bộ khung của hoạt động thương mại, kết hợp với doanh nghiệp, hệ thống siêu thị, hệ thống chợ, hệ thống dịch vụ xuất nhập khẩu, hệ thống kho tàng, hệ thống giao thông,... tạo nên bộ mặt hoạt động thương mại của một nước. Phát triển xuất nhập khẩu - kinh tế cửa khẩu Trong giai đoạn 1991-1996, về kim ngạch xuất - nhập khẩu cũng như về ngành hàng, mặt hàng và thị trường xuất - nhập khẩu của Lào Cai còn nhỏ về quy mô, hạn hẹp về danh mục hàng hoá, đơn điệu về thị trường. Trong điều kiện và trình độ phát triển kinh tế, cũng như hoạt động kinh doanh xuất - nhập khẩu của một tỉnh như Lào Cai thì việc xây dựng định hướng kinh doanh xuất - nhập khẩu và nhất là kinh doanh xuất khẩu, không phải là điều khó thực hiện. Bởi lẽ, các yếu tố nguyên liệu phục vụ cho yêu cầu thiết kế cơ bản đã có sẵn, mặc dù còn đang ở dạng tiềm năng. Vì vậy, những định hướng mang tính chất tiền đề cho quá trình phát triển lâu dài hơn. Đó là: Qua số liệu thực trạng trong những năm vừa qua và dự báo triển vọng giai đoạn từ nay đến năm 2010 về kinh doanh xuất - nhập khẩu của Lào Cai là mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế với các địa phương khác, với thị trường nước ngoài, khai thác các nguồn hàng xuất khẩu được sản xuất ra trong nước trên cơ sở đầu tư phát triển giao thông làm hạ cước phí vận chuyển hàng hoá sản xuất từ các vùng, các tỉnh trong nước đến Lào Cai và ngược lại. Những tiềm lực về kinh tế, cũng như các điều kiện khác để Lào Cai đẩy mạnh hoạt động kinh doanh xuất - nhập khẩu hàng hoá, nhất là đối với xuất khẩu, về lâu dài, có nhiều triển vọng sáng sủa với lợi thế về đường biên giới và các cửa khẩu. Do đó, Lào Cai cần phải định hướng các hoạt động kinh doanh xuất - nhập khẩu cho các đơn vị khác có nhu cầu đi qua Lào Cai, bằng cách trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào các khâu của quá trình xuất - nhập khẩu hàng hoá như vận tải, vận chuyển, cho thuê kho bãi, cung cấp bao bì và dịch vụ bao gói lại hàng hóa xuất - nhập khẩu ... định hướng phát triển ngành hàng, mặt hàng xuất - nhập khẩu của riêng Lào Cai. Đối với xuất khẩu: thế mạnh về mặt hàng xuất khẩu của Lào Cai trong giai đoạn từ nay đến năm 2010 là một số sản phẩm của công nghiệp khai khoáng và nông - lâm nghiệp, nhưng dự đoán phải sau năm 2005 những thế mạnh này mới được phát huy tối đa. Vì vậy, xây dựng định hướng phát triển mặt hàng xuất khẩu của Lào Cai trước hết là các sản phẩm của nông - lâm nghiệp. Cần tập trung theo hướng lựa chọn cây trồng phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng, có giá trị và có thị trường xuất khẩu để quy hoạch, mở rộng diện tích gieo trồng tạo ra các sản phẩm có hàm lượng lao động lớn. Đối với nhập khẩu: trong giai đoạn từ nay đến năm 2010, nhu cầu nhập khẩu cần ưu tiên hàng đầu của Lào Cai là nhập khẩu các máy móc thiết bị vừa và nhỏ, các nguyên vật liệu kèm theo. Đối với ngành hàng này cần chú trọng đến trình độ công nghệ và phương thức thanh toán nhằm sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư và khắc phục tình trạng thiếu vốn, nhất là vốn đầu tư ngắn hạn và trung hạn. Đối với các hàng hoá tiêu dùng cần hạn chế nhập, thay thế bằng các sản phẩm sản xuất trong nước. Định hướng phát triển thị trường xuất - nhập khẩu: trên cơ sở trình độ sản xuất và tiêu dùng trong tỉnh, năng lực kinh doanh xuất - nhập khẩu của các công ty địa phương và các điều kiện khác, định hướng phát triển thị trường xuất - nhập khẩu của Lào Cai cần tập trung ưu tiên trước hết đối với thị trường Vân Nam - Tứ Xuyên - Trung Quốc và khai thác triệt để các cơ hội kinh doanh xuất - nhập khẩu hàng hoá các loại khác của Việt Nam. Định hướng phát triển và nâng cao năng lực kinh doanh xuất - nhập khẩu: để nâng cao năng lực kinh doanh xuất - nhập khẩu hàng hoá của Lào Cai cần có sự bổ sung về nguồn vốn cũng như phải có cơ chế tài chính, tín dụng thoả đáng tạo điều kiện để các đơn vị kinh doanh xuất - nhập khẩu liên kết liên doanh tạo ra được nguồn hàng, xây dựng các đầu mối thu mua, thu gom hàng hoá xuất khẩu, đồng thời chú trọng đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý và cán bộ nghiệp vụ kinh doanh xuất - nhập khẩu am hiểu thị trường, am hiểu pháp luật và các nghiệp vụ kinh doanh. Đối với hàng hoá xuất - nhập khẩu qua Lào Cai cần định hướng ưu tiên phát triển trước hết tuyến, cửa khẩu Lào Cai - Bát Xát - Mường Khương về các điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật thương mại, cơ sở hạ tầng và các hoạt động kiểm tra, giám định hàng hoá xuất - nhập khẩu... Các giải pháp thực hiện phương hướng phát triển thương mại Giải pháp về tổ chức, quy hoạch mạng lưới Ngày nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của sức sản xuất và các phương tiện, điều kiện kinh doanh, mọi ranh giới thị trường đều bị tấn công, bị “xé rách”, không gian thương mại ngày càng mở rộng hơn ở tầm vĩ mô xuyên quốc gia, xuyên lục địa. Vì vậy, giải pháp về tổ chức quy hoạch mạng lưới thương mại tỉnh Lào Cai không thể và không chỉ bó hẹp trong phạm vi không gian lãnh thổ của tỉnh, nhất là trong điều kiện Lào Cai là tỉnh có lợi thế về phát triển thương mại quốc tế. Tuy nhiên, với giới hạn cố hữu về không gian lãnh thổ của một tỉnh, những hạn chế tất yếu về nguồn lực phát triển trước đòi hỏi đa dạng của thị trường trong và ngoài nước, và hơn nữa là tính hiệu quả trong phát triển đã ràng buộc mọi hướng phát triển phải xoay quanh các yếu tố thuộc về lợi thế so sánh, do đó, không gian thương mại của một tỉnh cũng cần được giới hạn. Giới hạn này sẽ được mở rộng trong quá trình phát triển chung, nhưng không thể mở rộng đến vô cùng. Trên cơ sở những vấn đề về lợi thế và hạn chế trong phát triển thương mại của Lào Cai, quy hoạch các vùng sản xuất, quy hoạch mạng lưới giao thông... để xem xét sự phân bổ không gian kinh tế nói chung của tỉnh Lào Cai, cho thấy hiện tại và tương lai, tuyến trục kinh tế động lực dọc sông Hồng kéo dài từ Trịnh Tường - Sơn Quyền (Bát Xát) qua Lào Cai - Cam Đường - Bảo Thắng xuống đến Bảo Yên, tuyến Dương Quỳ - Bảo Yên, Lào Cai - Sa Pa là những tuyến có tiềm năng lớn về phát triển kinh tế thương mại. Trong điều kiện Lào Cai là một trong các tỉnh biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc, quốc lộ nối liền Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng là tuyến hành lang quan trọng trong quan hệ hợp tác và phát triển kinh tế trực tiếp giữa Hà Nội - trung tâm kinh tế lớn nhất Việt Nam với Vân Nam - Trung Quốc. Như vậy, có thể tổ chức không gian thương mại Lào Cai trong giai đoạn từ nay đến năm 2010 dựa vào sự ảnh hưởng chủ yếu của tuyến trục này. Nói một cách hình tượng, tổ chức không gian thương mại tỉnh Lào Cai theo kiểu cấu tạo của “nam châm điện” với lõi là các tuyến trục và các cuộn dây là các hoạt động kinh tế trong và ngoài tỉnh gắn liền với sự phát triển thương mại của tỉnh. Điện từ trường mạnh hay yếu là sự phản ánh không gian thương mại được mở rộng hay bị thu hẹp và điều đó lại phụ thuộc vào cường độ hay chất lượng các hoạt động kinh tế. Như vậy, giải pháp quy hoạch mạng lưới không gian thương mại trong giai đoạn từ nay đến năm 2010 là Lào Cai phải kích thêm “từ tính” cho lõi của nam châm bằng các chính sách cụ thề như: chính sách thu hút đầu tư, chính sách ưu đãi và khuyến khích phát triển các hoạt động sản xuất, kinh doanh,... trên cơ sở “từ tính” sẵn có (nhưng còn yếu) nhờ sự phát triển của vùng kinh tế trọng điểm Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, quyết định xây dựng khu kinh tế cửa khẩu Lào Cai của chính phủ, việc nâng cấp tuyến đường sắt Lào Cai - Hà Nội... Đây là mô hình dựa vào khả năng phát huy nội lực Lào Cai. Mô hình này hàm chứa cả việc tổ chức thương mại nội tỉnh và thương mại hướng ngoại. Trong đó, trước hết là coi trọng tổ chức thương mại nội địa nhằm tạo nên tiền đề cho sự phát triển của tuyến, trục và từ sự phát triển của các trục tuyến này sẽ tạo nên khả năng hướng tới thị trường bên ngoài tỉnh, ngoài nước. Mặt khác, việc tổ chức các hoạt động thương mại nội tỉnh cũng cần phải tuân thủ nguyên tắc có ưu tiên để hướng tới sự phát triển của tuyến trục quan trọng này. Chẳng hạn, không xây dựng nhiều trung tâm thương mại độc lập với tuyến trục này, hoặc nếu xây dựng trung tâm, cụm thương mại ngoài tuyến trục thì phải xem nó như là một chân rết của tuyến trục trong tương lai... Giải pháp về vốn Từ thực trạng và yêu cầu phát triển thương mại, thị trường từ nay tới năm 2010, trên phạm vi cả nước nói chung và trên địa bàn tỉnh Lào Cai nói riêng cần phải thực thi các chính sách vốn và tài chính thích hợp ở cả tầm vĩ mô và vi mô, giúp doanh nghiệp kinh doanh thương mại thoát khỏi tình trạng khó khăn về vốn nhằm đẩy mạnh giao lưu thương mại, phát triển thị trường. Đối với các hoạt động kinh doanh thương mại chung của các thành phần kinh tế ở tầm vĩ mô, tỉnh cần có kiến nghị với Nhà nước Trung ương áp dụng các biện pháp nhằm huy động vốn trên thị trường (trong và ngoài nước) theo các pháp lệnh, cụ thể: Thiết lập các định chế nhằm tổ chức, phát triển thị trường vốn dài hạn, ngắn hạn, thị trường chứng khoán, hoàn thiện cơ chế tín dụng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều có thể tham gia vào vòng luân chuyển vốn của xã hội. Huy động mọi tiềm năng về vốn trên thị trường theo quy định của pháp luật. Thực hiện tốt luật khuyến khích đầu tư trong nước nhằm thu hút mạnh và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước vào sản xuất kinh doanh, khuyến khích đầu tư vào lĩnh vực chế biến nông, lâm sản, thuỷ sản. Thành lập các công ty tài chính, thúc đẩy quá trình liên kết các công ty lớn, kinh doanh các mặt hàng quan trọng với quy mô và giá trị kinh tế cao, tạo điều kiện tích tụ và tập trung vốn. Thúc đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước theo hướng Nhà nước giữ cổ phần chi phối đối với doanh nghiệp lớn. Thực hiện phát hành cổ phiếu thu hút vốn đầu tư của cán bộ nhân viên và của xã hội nhằm phát triển doanh nghiệp, mở rộng kinh doanh. áp dụng các biện pháp khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu thông qua biện pháp tín dụng xuất khẩu, cho doanh nghiệp xuất khẩu vay với lãi suất ưu đãi. Vốn bỏ ra cho việc sản xuất và thực hiện các hợp đồng xuất khẩu thường rất lớn. Người xuất khẩu cần có được một số vốn trước và sau khi giao hàng để thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Do đó, Nhà nước có biện pháp khuyến khích xuất khẩu thông qua cơ chế cho vay với lãi suất tín dụng xuất khẩu thấp hơn lãi suất thương mại, để góp phần tăng khả năng cạnh tranh vốn, Nhà nước cần tạo điều kiện cho doanh nghiệp xuất khẩu này liên kết chặt chẽ với sản xuất, ứng trước vốn, tư liệu sản xuất cho người sản xuất, chế biến, ổn định nguồn hàng xuất khẩu với chất lượng tốt, số lượng đảm bảo hợp đồng xuất khẩu. Về phía các doanh nghiệp kinh doanh thương mại của tỉnh để tạo vốn kinh doanh tăng khả năng đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, cần áp dụng các biện pháp sau: Mỗi doanh nghiệp thương mại trên cơ sở tiềm năng của mình về vốn, lao động, kỹ thuất, lợi thế thương mại cần phải xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển sản xuất kinh doanh và tổ chức thực hiện, áp dụng các biện pháp nhằm tăng khối lượng hàng hóa sản xuất kinh doanh được tiêu thụ nhằm tăng lợi nhuận, đảm bảo việc làm, tăng thu nhập cho cán bộ công nhân viên, tăng các khoản nộp ngân sách và điều cơ bản là tích luỹ thêm vốn tái đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh của đơn vị. Đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh cần có phương án cụ thể được bàn bạc thống nhất trên cơ sở nguyên tắc hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn. Phương án mở rộng sản xuất kinh doanh phải đề cập tới các yếu tố như nguồn vốn đầu tư, thời hạn thu hồi vốn, thị trường tiêu thụ sản phẩm, yếu tố cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường, phương án trả gốc và lãi (nếu tiền đầu tư là tiền đi vay) tránh rủi ro, tổn thất về tài chính cho doanh nghiệp. Thường xuyên xem xét đánh giá lại toàn bộ tài sản của doanh nghiệp để có biện pháp khai thác hiệu quả hơn cơ sở vật chất kỹ thuật của đơn vị. Đồng thời, áp dụng biện pháp tăng nhanh vòng quay vốn lưu động, áp dụng các phương thức bán hàng văn minh, thuận tiện nhằm tiêu thụ nhanh hàng hóa, hồi vốn nhanh, hạn chế tới mức thấp nhất tình trạng hàng hoá tồn đọng vừa gây đọng vốn, vừa phải chi phí cho bảo quản, ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh chung của doanh nghiệp. áp dụng các biện pháp tránh thất thoát vốn, nợ khó đòi, chiếm dụng vốn của doanh nghiệp bằng cách thanh toán kịp thời tiền bán hàng. Thiết lập quan hệ bạn hàng trên cơ sở tín nhiệm lẫn nhau nhưng phải có biện pháp nắm tình trạng tài chính của khách hàng để có phương thức bán hàng thích hợp. Chấn chỉnh quy chế quản lý tài chính trong nội bộ doanh nghiệp theo đúng chế độ chính sách hiện hành của Nhà nước. Để tạo vốn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh cần tăng cường liên doanh, liên kết, thu hút vốn từ các thành phần kinh tế. Muốn vậy, cần xây dựng được cơ cấu đầu tư hợp lý có khả năng thu hútđối tác trong và ngoài nước góp vốn liên doanh xây dựng các công trình thương mại như trung tâm thương mại, siêu thị, cụm thương mại, chợ,... dưới các hình thức thành lập công ty cổ phần để kêu gọi vốn của các cổ đông; hợp tác đầu tư xây dựng và phân chia diện tích sử dụng các công trình thương mại. Đối với các doanh nghiệp thương mại Nhà nước Một là, để tạo lượng vốn cần thiết, đủ mạnh để phát huy vai trò chủ đạo trong hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp TMNN tỉnh Lào Cai cần khai thác tốt các nguồn vốn: Nguồn vốn từ ngân sách: đề nghị Nhà nước cấp bổ sung đủ 30% vốn lưu động định mức cho các doanh nghiệp có phương án và chiến lược kinh doanh rõ ràng cả ở tầm ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Đặc biệt, đối với các doanh nghiệp công ích, những doanh nghiệp kinh doanh ở ngành hàng mũi nhọn, tỉnh Lào Cai cần có kiến nghị để Nhà nước có chính sách nới lỏng hạn chế khi cấp phát vốn lớn hơn định mức quy định chung. Nguồn vốn từ ngân hàng: đây là nguồn vốn chủ yếu đáp ứng yêu cầu hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp TMNN. Ngân hàng nên xem xét tính hợp lý về thời gian và mức lãi cho vay phù hợp với loại hình doanh nghiệp TMNN, phù hợp với từng mặt hàng, ngành hàng và vòng chu chuyển của từng loại hàng hoá; cần nâng tỷ lệ khoản vay vốn trung và dài hạn, nhất Lào Cai vốn dài hạn đối với một số mặt hàng xuất khẩu chiến lược, có thời gian chu chuyển vốn dài. Bên cạnh đó, phải có chính sách tài trợ đối với một số mặt hàng thiết yếu, như: giấy vở học sinh, lương thực, muối iốt, một số mặt hàng thực hiện chính sách xã hội, ... thông qua hỗ trợ lãi suất vay trong một thời gian nhất định. Các nguồn vốn khác: các doanh nghiệp TMNN cần phải nâng cao khả năng sử dụng vốn, tăng nhanh vòng quanh và lập phương án kinh doanh có hiệu quả, tăng tích luỹ nội bộ. Những doanh nghiệp TMNN trong tỉnh đã được xác định cổ phần hoá cần được tiến hành nhanh, thông qua đó huy động nguồn vốn từ cổ động, từ huy động cổ phiếu, trái phiếu, từ vốn góp của các thành viên. Hai là, đẩy mạnh thu hồi công nợ bằng nhiều biện pháp. Những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, thất thoát vốn đều phải đưa ra xem xét từng trường hợp cụ thể, quy trách nhiệm cá nhân, trách nhiệm tập thể để có phương thức xử lý thoả đáng. Các doanh nghiệp còn nợ nhưng đang kinh doanh có hiệu quả, tỉnh nên khoanh nợ, có thể ghi giảm vốn lưu động cho doanh nghiệp tự cân đối lại tổng nguồn vốn; và/ hoặc cho phép thanh lý hay bán tài sản cố định không cần dùng và cho phép doanh nghiệp chuyển thành vốn lưu động. Các doanh nghiệp không còn khả năng trả nợ hoặc cố tình dây dưa công nợ nên chuyển sang các cơ quan pháp luật để xử lý. Ba là, các doanh nghiệp TMNN, doanh nghiệp TMNN nên chú trọng mở rộng liên doanh, liên kết và phát triển hình thức đại lý cho các doanh nghiệp sản xuất, nhất là các doanh nghiệp sản xuất tại Hà Nội và nhiều khâu, tiết kiệm được vốn ứng trước, tăng nhanh vòng quay của vốn, tận dụng được các cơ sở vật chất (cửa hàng, kho tàng, phương tiện, vận chuyển), tiết kiệm lao động xã hội, tăng hiệu quả kinh doanh. Giải pháp về đào tạo nguồn nhân lực Từ thực trạng và định hướng của tỉnh về công tác đào tạo đội ngũ lao động, xuất phát từ yêu cầu thực tế phát triển ngành thương mại Lào Cai từ nay tới năm 2010, cần áp dụng các biện pháp nhằm xây dựng lực lượng lao động thương mại đồng bộ, đáp ứng yêu cầu phát triển nền kinh tế thương mại nhiều thành phần, thích ứng với từng vùng, từng ngành hàng của địa phương. Đối với doanh nghiệp thương mại quy mô lớn, cần có đội ngũ lao đông chuyên sâu nghiệp vụ trong từng lĩnh vực: cán bộ marketing mua - bán hàng, cán bộ kinh doanh, kế hoạch, tài chính - kế toán, lao động, quản trị kinh doanh với các loại trình độ từ sơ cấp đến đại học được bố trí vào các cương vị hợp với nhu cầu công tác. Đối với doanh nghiệp kinh doanh với quy mô nhỏ, các hộ kinh doanh cần nắm kiến thức tổng hợp, yêu cầu trình độ vừa phải, không bắt buộc phải chuyên sâu nghiệp vụ chuyên môn. Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý Nhà nước về thương mại ở địa phương và ở doanh nghẹp băng cách rà soát, sắp xếp, điều chỉnh đội ngũ cán bộ hiện có, kể cả cán bộ lãnh đạo, cán bộ chủ chốt. Bổ sung những cán bộ đủ tiêu chuẩn, có triển vọng, đồng thời thay những cán bộ không đủ năng lực, vi phạm đạo đức, pháp luật. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng và hình thành đội ngũ cán bộ nghiệp vụ chuyên môn có năng lực kinh doanh, có đức, có tài. Hình thức đào tạo như: Mở các lớp ngắn hạn đào tạo tại địa phương và doanh nghiệp về công tác thương mại và thị trường trong và ngoài nước. Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ, công nhân viên đang công tác lĩnh vực thương mại của tỉnh, đặc biệt chú ý đào tạo cán bộ làm công tác xuất - nhập khẩu có trình độ chuyên môn, ngoại ngữ nhằm phát triển hoạt động kinh doanh này của địa phương. Có chính sách khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi tuyển chọn cán bộ trẻ, gửi đi đào tạo trong và ngoài nước với thời gian nhất định để có lớp cán bộ thương mại kế cận, có đủ trình độ chuyên môn, ngoại ngữ, tin học phục vụ phát triển ngành thương mại tỉnh nhà. Phát triển hình thức đào tạo từ xa với giáo trình, bài giảng cô đọng, dễ hiểu, cung cấp kiến thức tổng hợp, đáp ứng nhu cầu đào tạo của các hộ kinh doanh nhỏ, nâng cao kiến thức trong lĩnh vực quản trị kinh doanh thương mại. có kế hoạch tuyển chọn và đề ra tiêu chuẩn tuyển chọn cán bộ, nhân viên mới vào công tác trong lĩnh vực thương mại trong đó quy định rõ trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, trình độ tin học, ngoại ngữ, độ tuổi. Đặc biệt, chú ý tiêu chuẩn tuyển chọn cán bộ, nhân viên vào làm việc trong các cơ quan quản lý Nhà nước về lĩnh vực thương mại và tại các doanh nghiệp thương nghiệp Nhà nước, để đội ngũ này thực sự là những nhân tố tạo nên sự thành công trong hoạt động thương mại, góp phần to lớn vào sự phát triển của tỉnh trong giai đoạn sắp tới. Nhân tố con người là nhân tố quan trọng nhất quyết định sự thành công trong mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội, trong đó có lĩnh vực thương mại. Việc áp dụng biện pháp nhằm nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ, nhân viên hoạt động trong lĩnh vực thương mại là hết sức cần thiết, đòi hỏi sự quan tâm không chỉ của những người làm công tác thương mại mà của các cấp, các ngành trong tỉnh nhằm tạo ra đội ngũ lao động giỏi chuyên môn nghiệp vụ, có trình độ ngoại ngữ, tin học, đáp ứng được yêu cầu phát triển ngành thương mại, Lào Cai từ nay tới 2010, phục vụ sự nghiệp phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Giải pháp về cơ sở hạ tầng Trong thời gian tới nâng cấp thị xã Lào Cai và thị xã Cam Đường, chuẩn bị các điều kiện cần thiết để sau năm 2010 hai thị xã này sẽ trở thành thành phố của một tỉnh biên giới phía Bắc, phát triển tương xứng với các thành phố biên giới của nước lân cận. Hình thành mạng lưới thị trấn được coi như những đô thị vệ tinh cho thị xã Lào Cai, có sức hút ảnh hưởng kinh tế đối với các vùng khác nhau trong tỉnh. Song song với việc nâng cấp hai thị xã, các thị trấn, thị tứ cũng sẽ đầu tư về cơ sở hạ tầng để nâng cao năng lực cạnh tranh và tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại phát triển. Chính sách và cơ chế Quán triệt đường lối đổi mới của Đảng và Chính phủ, trong thời gian qua nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đã được ban hành. Trong đó, có các văn bản về cơ chế quản lý, chính sách, biện pháp, điều hành hoạt động thương mại; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, hướng dẫn các cơ sở sản xuất kinh doanh làm ăn theo pháp luật; nâng cao vai trò quản lý Nhà nước của các Sở thương mại; phổ biến rộng rãi các Luật, Nghị định, các chủ trương, chính sách liên quan đến hoạt động thương mại như chính sách xuất - nhập khẩu, chính sách thuế, chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, chính sách tự do lưu thông hàng hoá trên thị trường, chính sách về phát triển thương nghiệp biên giới ... Công tác quản lý Nhà nước về thị trường và hoạt động thương mại là nội dung rất quan trọng, tuy nhiên đây lại là những lĩnh vực còn nhiều yếu kém. Điều đó, đòi hỏi phải có chính sách và giải pháp tiếp tục hoàn thiện nhằm tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước trong lĩnh vực thương mại thông qua việc hoàn thiện và đổi mới cơ chế chính sách trong quản lý thương mại. ở tầm vĩ mô, cần hoàn thiện hệ thống các công cụ quản lý mà công cụ quản lý quan trọng nhất là hệ thống các văn bản pháp quy, hệ thống cơ chế chính sách và đòn bẩy kinh tế. Đồng thời, phải sử dụng các lực lượng kinh tế của Nhà nước để can thiệp trực tiếp vào thị trường khi thị trường có biến động lớn. Muốn vậy, cần phải hoàn thiện bộ máy quản lý và tăng cường công tác quản lý thị trường, đấu tranh chống buôn lậu. đến nay, Nhà nước đã xây dựng và hoàn thiện một bước các chính sách phát triển thị trường, tạo hành lang pháp lý cho thị trường có nhiều tành phần kinh tế tham gia thông suốt và thống nhất trong cả nước, mở cửa với bên ngoài, qua đó thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, nội địa và xuất - nhập khẩu phát triển. Đặc biệt, trong năm 1998 công tác xây dựng pháp luật, chính sách và cơ chế quản lý thương mại có nhiều chuyển biến tích cực. Bộ thương mại đã chủ động phối hợp với các Bộ có liên quan khẩn trương xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách khuyến khích xuất khẩu như mở rộng quyền xuất - nhập khẩu cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam; Luật thương mại đã được ban hành và có hiệu lực thi hành từ 01/01/1998, đồng thời Bộ đã triển khai các dự thảo Nghị định của Chính phủ để hướng dẫn một số điều quy định chi tiết, hướng dẫn cụ thể thi hành Luất thương mại . Luật thương mại đã được thực hiện trên thực tế, trong quản lý cũng như trong kinh doanh thương mại, góp phần làm lành mạnh hoá các hoạt động thương mại và tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho thương mại Việt Nam từng bước hội nhập với thị trường thế giới và khu vực. Tuy nhiên, khâu soạn thảo Nghị định, hướng dẫn thi hành Luật thương mại cho các thương nhân còn chậm so với yêu cầu, đã phần nào hạn chế tác dụng của Luật thương mại từ khi ban hành. Bộ thương mại cũng đã tiến hành rà soát lại các văn bản pháp quy trong hoạt động thương mại để kịp thời bổ sung sưả đổi phù hợp với yêu cầu quản lý trong tình hình mới; phối hợp với Tổng cục hải quan rà soát, bổ sung, sửa đổi các quy định về thủ tục xuất - nhập khẩu hàng hoá theo yêu cầu cải cách hành chính; triển khai một bước quan trọng việc cải cách thủ tục hành chính nhằm đơn giản hoá và công khai hoá quy trình giải quyết công việc trong quan hệ với các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài trên lĩnh vực xuất - nhập khẩu, gia công, cấp giấy phép đặt văn phòng đại diện của các tổ chức kinh tế nước ngoài tại Việt Nam và văn phòng đại diện các tổ chức kinh tế Việt Nam ở nước ngoài; đồng thời, đã hoàn thiện và ban hành quy chế làm việc của Bộ thương mại để thực hiện chuyển biến mới về cung cách làm việc của Bộ, nâng cao hiệu lực quản lý, giảm bớt sự phàn nàn về tệ quan liêu... Hướng hoàn thiện luật pháp, chính sách và cơ chế quản lý thương mại trong thời gian tới cần tập trung: Hoàn thiện các văn bản hướng dẫn thi hành Luật thương mại cho các thương nhân trên địa bàn tỉnh. Tiếp tục rà soát các văn bản pháp quy hiện hành để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình mới. Kiện toàn tổ chức quản lý Nhà nước về thương mại ở địa phương, căn cứ vào yêu cầu và nội dung quản lý xác định rõ chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy các cấp từ tỉnh đến các bộ phận quản lý hoạt động thương mại ở huyện. Hoàn thiện tổ chức quản lý thương mại cấp huyện theo hướng thành lập Phòng công thương nghiệp huyện có chức năng hướng dẫn, kiểm tra, giám sát nhằm hỗ trợ sự phát triển hoạt động thương mại sâu rộng trên địa bàn. Về công tác quản lý thị trường, đấu tranh chống buôn lậu tại địa phương tiếp tục thực hiện Chỉ thị 853/CT của Thủ tướng Chính phủ về chống buôn lậu, buôn bán hàng giả; gian lận thương mại và chỉ đạo của UBND tỉnh về tổng kiểm tra giấy phép kinh doanh các cơ sở kinh doanh ngoài quốc doanh; kiện toàn và sắp xếp lại hệ thống tổ chức và đội ngũ cán bộ trong hệ thống quản lý thị trường theo quy định của luật thương mại; xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện việc đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác quản lý thị trường. Đồng thời, phải tổ chức sự phối hợp giữa các lực lượng, đề cao trách nhiệm của các ngành chức năng trên địa bàn; kết hợp biện pháp kinh tế với hành chính, lấy biện pháp kinh tế là chủ yếu để thực hiện tốt công tác chống buôn lậu, sản xuất và kinh doanh hàng giả, hàng nhái mác và những hành vi vi phạm Luật thương mại trên thị trường. áp dụng các biện pháp tăng cường công tác quản lý Nhà nước về thương mại trên địa bàn tỉnh thông qua việc tiếp tục triển khai thực hiện tốt các văn bản về cơ chế quản lý, chính sách, biện pháp điều hành hoạt động thương mại, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, hướng dẫn các cơ sở sản xuất kinh doanh làm ăn theo đúng pháp luật góp phần nâng cao vai trò quản lý Nhà nước của Sở thương mại, thúc đẩy hoạt động thương mại và thị trường không ngừng phát triển, có đóng góp xứng đáng vào sự phát triển kinh tế - xã hội tỉnh nhà trong giai đoạn tới. Chương IV: Chương IV: Kết luận và kiến nghị Chiến lược phát triển thương mại tỉnh Lào Cai đến năm 2010 được thực hiện trên cơ sở điều tra, khảo sát thực tế hoạt động thương mại trên địa bàn tỉnh nói chung và khu vực cửa khẩu Lào Cai nói riêng. Đồng thời, chiến lược cũng đã tiếp cận các nguồn thông tin, số liệu khác nhau phản ánh thực trạng và triển vọng phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, cũng như tại khu vực cửa khẩu Lào Cai. Từ những vấn đề thực trạng và tiềm năng, triển vọng phát triển kinh tế - xã hội nói chung và lĩnh vực thương mại của tỉnh, của các vùng kinh tế phụ cận, cũng như tình hình và triển vọng phát triển quan hệ giữa hai nước Việt Nam - Trung Quốc, đặc biệt những vấn đề về lợi thế phát triển thương mại của tỉnh với sự hiện diện của các cửa khẩu quốc tế và quốc gia đang đặt ra yêu cầu cần thiết phải thúc đẩy nhanh sự phát triển các hoạt động thương mại trên địa bàn tỉnh. Điều đó có ý nghĩa rất quan trọng trong giai đoạn hiện nay và càng quan trọng hơn trong những năm tiếp theo. Trên cơ sở các kết quả khảo sát, nghiên cứu, chiến lược đã phác thảo những nội dung cơ bản quy hoạch phát triển thương mại trên địa bàn tỉnh Lào Cai một cách toàn diện và cần thiết, trong giai đoạn từ nay đến 2010. Đồng thời, chiến lược cũng nêu lên những chính sách và giải pháp phát triển thị trường, phát triển thương mại đến 2010. Tất cả những điều đó nhằm tạo ra một khu vực mà thương mại và thị trường phát triển phong phú sống động, không chỉ có ý nghĩa thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Lào Cai, mà còn có sức hấp dẫn và lan toả đối với các vùng phụ cận và cả nước. Tuy nhiên để chiến lược phát triển thương mại thực hiện, ngoài các giải pháp đã nêu, tôi xin có một số kiến nghị thực hiện chiến lược phát triển thương mại tỉnh đến năm 2010: Tổ chức triển khai thực hiện các nội dung quy hoạch phát triển thương mại trên địa bàn tỉnh đến năm 2010 Sở thương mại - du lịch làm tờ trình đề nghị UBND tỉnh thành lập Ban chỉ đạo thực hiện chiến lược quy hoạch phát triển thương mại tỉnh đến năm 2010, trong đó: Sở thương mại - du lịch là cơ quan chủ trì thực hiện Các cơ quan phối hợp là Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở xây dựng, Sở tài chính, Sở giao thông và các Ban, Ngành khác. Ban chỉ đạo có nhiệm vụ, như: huy động vốn địa phương; tìm kiếm nguồn hỗ trợ bên ngoài; lập chương trình khuyến cáo để thu hút các doanh nghiệp, các thương gia tham gia đầu tư xây dựng và tổ chức các hoạt động kinh doanh thương mại trên địa bàn tỉnh; giải quyết các vấn đề liên quan đến các cấp quản lý và các vấn đề liên ngành khác... Trên cơ sở chiến lược phát triển thương mại, Sở thương mại - du lịch Lào Cai đề xuất với UBND tỉnh cho phép triển khai tiếp tục các đề án nhánh, như: Đề án chi tiết xây dựng các trung tâm thương mại tỉnh, nhất là các trung tâm thương mại trọng yếu có tính chất phát luồng. Đề án chi tiết xây dựng hệ thống chợ trên địa bàn tỉnh trong giai đoạn đến năm 2010. Đề án nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp kinh doanh thương mại của tỉnh, trong đó chú trọng đến thị trường tiêu thụ, nhất là thị trường xuất khẩu, thị trường ngoài tỉnh. Các giải pháp tạo nguồn, huy động vốn cho thực hiện quy hoạch xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật thương mại trên địa bàn tỉnh đến năm 2010 Thành lập doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh bất động sản phục vụ cho nhu cầu phát triển mạng lưới kinh doanh thương mại trên địa bàn tỉnh. Xác định rõ tính chất các hạng mục công trình thương mại theo tính chất sử dụng, ý nghĩa đối với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh, khả năng đầu tư vì mục đích kinh doanh hay hỗ trợ chung cho các đối tượng kinh doanh. Đối với các công trình thương mại quy mô lớn như xây dựng các trung tâm thương mại, chợ đầu nguồn, hệ thống kho và các điểm bán hàng của TNQD ở các huyện biên giới,... khó huy động vốn các nguồn khác, đề nghị UBND tỉnh có kế hoạch đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách địa phương thông qua doanh nghiệp Nhà nước có chức năng kinh doanh, cho thuê các công trình thương mại. Ngoài sự đầu tư hỗ trợ của Nhà nước cho ngành thương mại, biện pháp kêu gọi tham gia đầu tư của các doanh nghiệp và tư nhân trong và ngoài tỉnh vào xây dựng các hạng mục công trình phục vụ cho hoạt động thương mại tại địa phương là rất quan trọng nhằm thu hút vốn nhàn rỗi trong dân vào phát triển sản xuất - kinh doanh của địa phương. Hình thức huy động có thể là phát hành cổ phiếu của doanh nghiệp kinh doanh bất động sản; bán cho thuê diện tích sử dụng; đầu tư trực tiếp của ngân hàng và các quỹ tín dụng; ... Xác định rõ ràng phạm vi xây dựng phát triển các công trình thương mại tại các trung tâm thương mại tỉnh. Từ đó, lập phương án bán quyền sử dụng đất và cho thuê đất, trong đó xác định rõ tỷ lệ, vị trí đất bán, đất cho thuê trên bản thiết kế chi tiết; xây dựng giá bán, giá thuê đất và quyền sử dụng đất ở những khu vực quy hoạch phát triển các công trình thương mại. Với chiến lược phát triển thương mại tỉnh Lào Cai từ nay đến năm 2010 cùng với sự quan tâm đầu tư phát triển của các cơ quan chức năng, hy vọng rằng trong tương lai, khi chiến lược phát triển thương mại được thực hiện, một mặt, sẽ góp phần phát triển mạnh mẽ hơn thương mại và thị trường Lào Cai, đồng thời còn thúc đẩy và mở rộng các quan hệ giao lưu thương mại, du lịch, dịch vụ, văn hoá, giáo dục, khoa học kỹ thuật,... với đất nước láng giềng Trung Quốc, cũng như với các nước trong khu vực ASEAN và các nước khác. Mặt khác, chiến lược phát triển thương mại tỉnh Lào Cai cũng sẽ được ghi nhận như một bước khởi đầu của thời kỳ hội nhập và tự do hoá thương mại của Việt Nam với các nước trong khu vực. Mục lục Trang Lời nói đầu 1 Chương I: Vai trò của thương mại đối với phát triển kinh tế - xã hội Tỉnh Lào Cai 3 I. Một số vấn đề về hoạt động thương mại 3 1. Khái niệm 3 2. Các vấn đề lý luận về hoạt động thương mại 4 3. Vai trò của thương mại đối với phát triển kinh tế xã hội 8 II. Những đặc điểm tự nhiên kinh tế xã hội của tỉnh Lào Cai 9 1. Đặc điểm tự nhiên 9 2. Đặc điểm điều kiện xã hội 11 3. Đặc điểm kinh tế 14 4. Những thuận lợi và hạn chế đối với hoạt động thương mại 14 III. Vai trò của ngành thương mại trong phát triển kinh tế xã hội ở Tỉnh Lào Cai 19 1. Đối với tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế 20 2. Đối với lao động và giải quyết việc làm 20 3. Đối với tích luỹ và đầu tư 21 4. Đối với việc mở rộng quan hệ kinh tế với bên ngoài và tăng cường công nghệ 21 5. Thức đẩy phát triển đời sống kinh tế xã hội 22 Chương II: Thực trạng phát triển của ngành thương mại Lào Cai 23 I. Đánh giá về tốc độ phát triển 23 1. Thực trạng lưu chuyển hàng hoá 23 2. Thực trạng kinh doanh xuất nhập khẩu 26 II. Đánh giá về hiệu quả sử dụng lợi thế và nguồn lực 35 1. Lợi thế vùng biên 35 2. Lao động 36 3. Vốn đầu tư 38 III. Những kết luận rút ra từ thực trạng 44 1. Những kết quả đã đạt được 44 2. Những hạn chế về nguyên nhân 44 Chương III; Phương hướng và giải pháp phát triển ngành thương mại tỉnh Lào Cai 47 I. Phân tích đánh giá dự báo các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển thương mại 47 1. Lợi thế về tự nhiên và sản xuất 47 2. Cơ sở hạ tầng, sự phát triển thị trường 48 3. Nguồn nhân lực 49 4. Mối quan hệ giữa thương mại: Công nghiệp và nông nghiệp 52 II. Phương hướng phát triển thương mại tỉnh Lào cai đến năm 2010 54 1. Vai trò ngành thương mại trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội tỉnh Lào Cai 54 2. Quan điểm và mục tiêu phát triển thương mại tỉnh Lào Cai 55 III. Lựa chọn cơ cấu và định hướng phát triển 63 1. Cơ cấu thành phần 63 2. Phát triển chợ nông thôn 66 3. Phát triển các trung tâm thương mại 68 4. Phát triển xuất nhập khẩu - kinh tế cửa khẩu 69 IV. Các giải pháp thực hiện phương hướng phát triển thương mại tỉnh Lào Cai 71 1. Giải pháp về tổ chức, quy hoạch mạng lưới 71 2. Giải pháp về vốn 72 3. Giải pháp về đào tạo nguồn nhân lực 76 4. Giải pháp về cơ sở hạ tầng 78 5. Chính sách và cơ chế 78 Chương IV. Kết luận và kiến nghị 82 Danh mục tài liệu tham khảo Giáo trình Kinh tế phát triển, tập I, II, NXB thống kê Hà Nội, 1999 Giáo trình Kinh tế thương mại, NXB Thống kê 2001. Niên giám Thống kê 1991-1995. Cục Thống kê tỉnh Lào Cai, NXB Thống kê Hà Nội, 1996. Quy hoạch phát triển thương mại trên địa bàn tỉnh Lào Cai đến năm 2010. Tình hình phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Lào Cai từ 1995-1999 và ước năm 2000. Cục Thống kê Lào Cai - Lào Cai 5/1/2000. Báo cáo tổng hợp: Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Lào Cai thời kỳ 1995-2010. Lào Cai tháng 10/1995. Báo cáo tổng kết của Sở Thương mại - Du lịch Lào Cai các năm 1996, 1997, 1998, 1999. Báo cáo tổng kết của Cục hải quan Lào Cai các năm 1996, 1997, 1998, 1999. Dự thảo văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Lào Cai lần thứ III. Tạp chí, báo Thương mại, Kinh tế phát triển, Đầu tư, Một số tài liệu tham khảo khác.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVV579.doc
Tài liệu liên quan