Chuyên đề Phương hướng và giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu rau quả của Việt Nam sang Trung Quốc

Rau quả là mặt hàng xuất khẩu có nhiều tiềm năng của Việt Nam. Đây là nhóm hàng có giá trị cao và có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Tuy nhiên để thúc đẩy sản xuất- xuất khẩu rau quả đòi hỏi phải xuất phát từ động lực của người sản xuất, kinh doanh.Mặt khác, hoạt động xuất khẩu rau quả cũng phụ thuộc vào phía cơ quan quản lý vĩ mô thông qua hệ thống cơ chế chính sách khuyến khích cụ thể đối với lĩnh vực kinh doanh xuất khẩu rau quả. Để nâng cao hiệu quả sản xuất và xuất khẩu rau quả trong những năm tới đòi hỏi phải có những thay đổi cơ bản trong đầu tư phát triển, chuyển từ sản xuất rau quả theo kiểu tự phát sang sản xuất rau quả hàng hoá, đầu tư phát triển các mặt hàng có giá trị cao.

doc52 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1529 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Phương hướng và giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu rau quả của Việt Nam sang Trung Quốc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phía Bắc và Lâm Đồng cho các thị trường nhiệt đới như Singapore, Malayxia, Trung Quốc… So với các nước trong khu vực thi Việt Nam có khả năng cung cấp những sản phẩm khác lạ, tuy nhiên chỉ dừng lại ở những giống cây trồng truyền thống trong khi các quôc gia trên thế giới ngày càng phát triển, lai tạo được những giống cây trồng mang hương vị đặc trưng được tuyển chọn, vì vậy cần có biện pháp đẩy mạnh sản xuất các chủng loại rau quả đặc trưng, kết hợp tích cực đầu tư nghiên cứu lai tạo ra nhiều loại giống cây trồng mới có năng suât cũng như chất lượng cao hơn. Chương 2 : Thực trạng xuất khẩu rau quả của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc 2.1.Thực trạng xuất khẩu rau quả của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc 2.1.1.Khái quát về thị trường xuất khẩu Trung Quốc Trong những năm qua ,cả thế giới đã chứng kiến sự vươn lên thần kỳ của Trung Quốc, được đánh giá sự bành trướng mới của Châu Á. Trung Quốc đã đẩy Canada khỏi vị trí thứ 4 trong bảng xếp hạng các nền kinh tế mạnh trên thế giới. Hàng hóa Trung Quốc có mặt trên các thị trường quốc tế từ các thị trường khó tính như Hoa Kỳ, EU…đến thị trường các nước đang phát triển trên thế giới. Hàng hoá Trung Quốc đa dạng về chủng loại, mẫu mã, chấp chận được,phù hợp trên thị trường, giá cả lại rẻ hơn rất nhiều so với hàng hoá nội địa. Điều này như khẳng định sự đúng đắn trên các chiến lược phát triển ngoại thương của Trung Quốc. Trung Quốc đã thành công trong việc chuyển hướng xuất khẩu thay thế nhập khẩu. Song chiến lược phát triển này của Trung Quốc khác hẳn so với chiến lược về xuất khẩu của các nước đang phát triển ở Đông Á Trung Quốc có diện tích rất lớn khoảng 9.596.965 km2, đứng thứ 3 thế giới và dân số đông nhất thế giới khoảng 1.306.313 người (năm 2004) Trung Quốc trải rộng trên một diện tích lớn, địa hình phong phú đa dạng.Như vậy ngay trên đất nước này, chủng loại rau quả đã rất phong phú, đa dạng.Thêm vào đó, Trung Quốc cũng là một đất nước nông nghiệp như Việt Nam nhưng họ có khả năng về tài chính, công nghệ hơn hẳn chúng ta.Vì vậy nông nghiệp của họ được tiến hành công nghiệp hoá từ rất lấu rồi với công nghệ hiện đại. Đúng như Trung Quốc nhân định, bản thân Trung Quốc cũng là một thị trường rất hấp dẫn với tất cả những mặt hàng nói chung và rau quả nói riêng. Do đời sống người dân Trung Quốc ngày càng được nâng cao và thói quen ẩm thực nên người dân Trung Quốc đòi hỏi một lượng rau quả lớn ,sức tiêu thị ngày càng nâng cao. Với một mức dân số hơn 1,3 tỷ người thì cầu trên thị trường này là một con số khổng lồ cho ngành xuất khẩu rau quả. Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Trung Quốc là nấm, củ cải, hành tỏi, các loại rau tươi và rau chế biến khác, quýt, táo…Các thị trường xuất khẩu rau quả chính của Trung Quốc là Nhật Bản,Hồng Kông, EU, Nga và các nước Đông Nam Á. Các loại rau quả nhập khẩu chủ yếu là chuối, nho, cam, táo, cần tây, nấm.. nhập khẩu chủ yếu từ Hoa Kỳ, Chilê, các nước Đông Nam Á… Hệ thống siêu thị và các cửa hàng bán lẻ hiện đại đã phát triển nhanh chóng trong những năm qua thay thế dần các chợ ngoài trời.Rau quả nhập khẩu ngày càng trở nên phổ biến hơn ở thị trường Trung Quốc. Đã bắt đầu hình thành cửa hàng chuyên doanh rau quả chất lượng cao và rau quả nhập khẩu.Các nhà bán lẻ cũng như các chuỗi cửa hàng bán lẻ thường tổ chức các hình thức hợp tác trong mua gom rau quả nội địa cũng như nhập khâu, ký kết hợp đồng cung ứng với các nhà sản xuất trong và ngoài nước…Các nhà cung cấp nước ngoài có thể xuất khẩu vào thị trường Trung Quốc thông qua các công ty nhập khẩu, phân phối,các công ty mua gom, cũng như cung cấp trực tiếp cho các nhà bán lẻ lớn. Nhập khẩu qua Hồng Kông đóng vai trò quan trọng trong hệ thống kinh doanh rau quả nhập khẩu của Trung Quốc.Nhiều nhà phân phối rau quả của Trung Quốc có quan hệ chặt chẽ với các công ty thương mại của Hồng Kông. Sơ đồ 1: Kênh phân phối rau quả trên thị trường Trung Quốc Nhà xuât khẩu Cửa hàng hiệp hội giá và các văn phòng mua bán Nhà cung cấp nước ngoài Nhà phân phối của Trung Quốc:Thượng Hải,Quảng Đông Nhà buôn cấp độ 2 Mạng lưới bán lẻ Hải quan và trạm kiểm dịch Trong thời gian qua, có những dấu hiệu đáng mừng của quan hệ mua bán giữa Việt Nam và Trung Quốc.Sau sự kiện Việt Nam gia nhập WTO, mối quan hệ giao thương này càng có điều kiện phát triển hơn nữa, thể hiện bằng sự tăng trưởng kim ngạch giữa hai nước, 10 tỷ USD là kim ngạch buôn bán song phương mà hai nước đặt ra đến năm 2010.Song mục tiêu này đã hoàn tất ngoạn mục trong năm 2006. Đây là những thành công ngoài dự đoán của hai nước,khiến hai nước thấy rõ tiềm lực ngoại thương của mình để có những chính sách phù hợp. Bảng 6: Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc(2000-2006) Năm Kim ngạch ( tr USD) 2001 3023.6 2002 3677.1 2003 5021.7 2004 7192 2005 8.200 2006 10.000 ( Nguồn: Báo cáo hàng năm của Bộ Thương Mại) 2.1.2.Thực trạng xuất khẩu rau quả của Việt Nam sang Trung Quốc Trung Quốc là thị trường tiêu thụ rau quả hàng đầu thế giới. Mặc dù là một nước xuất khẩu rau quả lớn, đứng thứ 8 trên thế giới nhưng bình quân Trung Quốc nhập khẩu 620 triệu USD trái cây mỗi năm. Trong đó khoảng 78% trái cây nhập khẩu từ các nước Đông Nam Á. Trong thời gian tới, nhập khẩu trái cây của Trung Quốc từ các nước Đông Nam Á sẽ còn tăng lên. Trung Quốc vẫn được coi là thị trường xuất khẩu trái cây hàng đầu của Việt Nam, chiếm gần 60% tổng giá trị xuất khẩu trái cây của Việt Nam năm 2000. Tuy nhiên trong thời gian gần đây, tỷ trọng xuất khẩu trái cây của Việt Nam sang Trung quốc đang giảm đi đáng kể, chỉ còn 18% vào năm 2000. Chương trình thu hoạch sớm Việt Nam-Trung Quốc thực hiện trong 5 năm (2004- 2008). Riêng đối với Việt Nam, từ ngày 1/1/2004, Trung Quốc cắt giảm dần 206 dòng thuế nhập khẩu từ Việt Nam và Việt Nam sẽ cắt giảm dần 88 dòng thuế nhập khẩu từ Trung Quốc xuống bằng 0% trước ngày 1/1/2008. Mặc dù Trung Quốc được đánh giá là thị trường có nhiều tiềm năng, nhưng từ khi thực hiện Chương trình Thu hoạch sớm đến nay, việc xuất khẩu rau quả của Việt Nam vào Trung Quốc không tăng lên, mà lại giảm đi. Thách thức đáng lo ngại nhất là hàng nông sản Việt Nam (chủ yếu là rau quả) đang phải cạnh tranh với hàng nông sản của các nước trong khối ASEAN, đặc biệt là Thái Lan. Trái cây Việt Nam thường đắt hơn so với trái cây cùng loại của các nước nhiệt đới khác. Trong tháng 12/2001, khi sầu riêng Mongthon hạt lép của Thái Lan giá 0,5 USD/kg, thì sầu riêng trái vụ của ta giá đến 20.000 đ/kg, đắt gấp 3 lần mà chất lượng so với sầu riêng Thái Lan kém hơn. Giá thành chuối tươi xuất khẩu được ở các tỉnh ĐBSCL thường ở mức 115-120 USD/tấn chưa kể bao bì và chi phí khác trong khi giá xuất khẩu FOB trong nhiều năm tại các cảng của Philippines cũng ở mức 110-115 USD/tấn với khối lượng lớn và đồng đều. Việt Nam chỉ có lợi thế hơn các nước ASEAN khác vì có chung đường biên giới dài với Trung Quôc. Khoảng cách vận chuyển gần, có nhiều ưu đãi trong buôn bán biên mậu là lợi thế đã được các doanh nghiệp và thương nhân Việt Nam khai thác hiệu quả. Nhưng tình hình đã thay đổi rất nhanh, khi Trung Quôc bãi bỏ dần các ưu đãi biên mậu thì kim ngạch nhiều mặt hàng đã giảm xuống 4-5 lần. Cửa khẩu duy nhất còn lại áp dung các ưu đãi biên mậu là Lào Cai thì gặp nhiều khó khăn về vận chuyển đường bộ, nhất là các mặt hàng tươi sống. Tuy nhiênThái Lan đã và đang tìm các biện pháp để khắc phục bất lợi về khoảng cách địa lý của mình. Thái Lan đã có những biện pháp mà doanh nghiệp Việt Nam chưa hề nghĩ tới như: mỗi ngày, chở đến Côn Minh rau quả tươi, thuỷ sản tươi bằng máy bay và đã được bán giá rất đắt. Thái Lan và Trung Quôc cũng đầu tư rất lớn để cải tạo sông Mêkông thành một đường thủy vận chuyển rất an toàn, chi phí rất rẻ cho những mặt hàng cồng kềnh, đòi hỏi cao về bảo quản như rau quả. Ngày ngày, hàng rau quả, thuỷ sản Thái Lan vẫn đến được với các tỉnh miền Tây xa xôi của Trung Quôc bằng hàng không và đường thuỷ. Trong khi đó các doanh nghiệp Việt Nam với phương thức vận chuyển bằng xe đông lạnh đã bị bỏ lại rất xa cuộc chạy đua vào thị trường Trung Quôc. Như vậy, có thể nói ngay lợi thế buôn bán mậu biêu và chi phí vận tải của Việt Nam cũng đang ngày càng mất dần trước sự cạnh tranh gay gắt của rau quả của Thái Lan trên thị trường Trung Quốc. Bảng 7: Kim ngạch xuất khẩu rau quả của Việt Nam trong những năm qua Năm Kim ngạch xuất khẩu rau quả cả nước(Tr USD) Kim ngạch xuất khẩu rau quả sang TrungQuốc(trUSD) Tỷ trọng XK sang Trung Quốc 2001 330 123.6 37.45 2002 200 62 31.0 2003 160 61.2 38.25 2004 140 56.8 40.57 2005 260 97.2 37.38 2006 300 126 42.0 (Nguồn: Báo cáo hàng năm của Bộ Thương Mại) 2.2. Các rào cản thương mại của Trung Quốc đối với nhập khẩu rau quả Tổng cục Hải quan Trung Quốc (CGA) là cơ quan xác định thuế và thu thuế. Thêm vào đó, cơ quan này thu thuế giá trị gia tăng (VAT), thường ở mức trung bình 17% đối với những hàng hoá nhập khẩu. Thuế nhập khẩu được chia thành hai loại: thuế quan chung và thuế quan tối thiểu (đối với những nước được hưởng tối huệ quốc). Năm đặc khu kinh tế, các thành phố mở, và những khu vực mậu dịch tự do có thể được hưởng ưu tiên giảm thuế hoặc miễn thuế. Các công ty kinh doanh ở những khu vực này nên tham khảo những qui định có liên quan. Định giá thuế quan: Theo qui định thuế quan của Trung Quốc, trị giá hàng hoá nhập khẩu là theo giá CIF, bao gồm cả giá bán thông thường của hàng hoá, cộng chi phí đóng gói, cước chuyên chở, phí bảo hiểm, và hoa hồng cho người bán. Trung Quốc áp dụng các mức thuế nhập khẩu tương đối cao và chính sách phi thuế quan khá chặt chẽ. Thuế suất trung bình phổ thông đối với rau chủ yếu khoảng 70% (thuế suất MFN tương ứng là 13%), trừ một số mặt hàng như nấm, măng, hành khô hoặc sơ chế, có thuế suất phổ thông cao hơn, khoảng 80% - 90% (nhưng thuế suất MFN vẫn là 13%); nhưng các loại hạt giống rau có thuế suất MFN khoảng 0-8%, các loại đậu, lạc thuế MFN khoảng 30%. Riêng các loại quả tươi, khô có thuế suất cao hơn. Thuế suất MFN trung bình với quả khoảng từ 30%-50% (thuế phổ thông lên tới 100%). Về chính sách phi thuế, Trung Quốc áp dụng chủ yếu các hình thức hạn ngạch, giấy phép hoặc chế độ đăng ký đặc định nhập khẩu. Các Quy Định Chung Điều 1 Để ngăn ngừa sinh vật có hại và thực vật có mang tính nguy hiểm thâm nhập vào nước ta, đảm bảo an toàn cho việc sản xuất hoa quả của trong nước cũng như sức khoẻ con người, căn cứ “Luật kểm dịch động thực vật xuât nhập khẩu nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa” và các quy định thực thi có liên quan, nay ban hành bản quy định này. Điều 2 Quy định kiểm dịch này được áp dụng đối với các loại hoa quả tươi và các loại rau thuộc họ quả là cà chua, cà và ớt được nhập khẩu từ các nơi bên ngoài lãnh thổ Trung Quốc. Điều 3 Cục kiểm dịch kiểm nghiệm xuất nhập khẩu quốc gia (sau đây gọi tắt là Cục kiểm dịch kiểm nghiệm quốc gia) quản lý chung về công tác kiểm tra kiểm dịch hoa quả nhập khẩu của toàn quốc. Các chi cục kiểm dịch kiểm nghiệm xuất nhập khẩu do Cục kiểm dịch kiểm nghiệm xuất nhập khẩu đặt tại các địa phương (sau đây gọi tắt là Chi cục kiểm nghiệm kiểm dịch) phụ trách công tác giám sát và kiểm dịch hoa quả nhập khẩu nơi địa phương được giao quản lý. Điều 4 Nghiêm cấm nhập khẩu các loại hoa quả được sản xuất tại các khu vực hoặc quốc gia đang bị nạn ruồi tại Địa Trung Hải. Đối với các loại hoa quả ngoài vùng dịch nhưng lần đầu tiên nhập khẩu vào Trung Quốc thì chỉ sau khi có báo cáo về mức độ nguy hiểm của sinh vật có hại, đồng thời cùng với nước xuất khẩu ký kết Nghị định thư về kiểm dịch, lúc đó mới cho phép nhập khẩu. Điều 5 Nghiêm cấm mang xách hoa quả theo người hoặc gửi hoa quả qua đường bưu điện. Trừ những loại được luật pháp quy định. Chương II: Kiểm tra kiểm dịch Điều 6 Chủ hàng hoặc người được uỷ quyền trước khi nhập khẩu hoa quả phi nộp đơn đề nghị được kiểm dịch và trước khi ký các hợp đồng hay tho thuận thương mại nên hoàn tất việc kiểm tra kiểm dịch. Điều 7 Nếu phù hợp các điều kiện sau đây, người đề nghị kiểm dịch sẽ được tiến hành làm các thủ tục kiểm tra kiểm dịch hoa quả nhập khẩu: 1. Nước xuất khẩu hoặc khu vực xuất khẩu không có bệnh dịch nghiêm trọng; 2. Phù hợp với các quy định có liên quan được quy định tại pháp luật về kiểm dịch động thực vật của Trung Quốc; 3. Phù hợp với các Thỏa thuận kiểm dịch có liên quan được ký kết song phương giữa Trung Quốc và nước (khu vực) xuất khẩu (Bao gồm cả Hiệp định kiểm dịch, Bản ghi nhớ…) Điều 8 Trình tự xem xét kiểm dịch hoa quả nhập khẩu 1. Chủ hàng hoặc người được uỷ quyền trước khi tiến hành nhập khẩu, theo đúng quy định phải điền vào Đơn xin giấy phép kiểm dịch động thực vật nhập khẩu Cục kiểm dịch xuất nhập khẩu Quốc gia nước CHND Trung Hoa và nộp lên Cục kiểm dịch kiểm nghiệm Quốc gia. Đối với các loại hoa quả dùng cho triển lãm, phi được chi cục kiểm dịch kiểm nghiệm tại địa phương ni tổ chức triển lãm ghi rõ ý kiến; các loại hoa quả được bán hoặc sử dụng trên các chuyến tàu, xe đi xuyên suốt, của hàng miễn thuế đặt tại các cửa khẩu, và tại các khách sạn ở khu vực cửa khẩu, khi bán nhất định phi được chi cục kiểm dịch kiểm nghiệm đặt tại cửa khẩu nhập khẩu ghi rõ ý kiến mới được phép tiêu thụ. 2. Cục kiểm dịch kiểm nghiệm Quốc gia sẽ tiến hành kiểm tra xem xét, đối với những trường hợp phù hợp với yêu cầu kiểm dịch, sẽ cấp “Giấy phép kiểm dịch động thực vật nhập khẩu của Cục kiểm dịch kiểm nghiệm xuất nhập khẩu Quốc gia nước CHND Trung Hoa”, đối với các trường hợp không phù hợp với yêu cầu sẽ không cấp cho Giấy phép trên và sẽ thông báo rõ nguyên nhân đối với người đề nghị được kiểm dịch. Điều 9 Sau khi đã hoàn tất thủ tục xin kiểm dịch nhập khẩu, nếu như chủ hàng hoặc người được uỷ quyền thuộc một trong những trường hợp sau thì phi tiến hành lại các thủ tục xin kiểm dịch: 1. Tăng số lượng hoặc thay đổi loại hoa quả nhập khẩu; 2. Thay đổi nước hoặc khu vực xuất khẩu; 3. Thay đổi cửa khẩu nhập khẩu 4. Vượt quá thời hạn có giá trị sử dụng của Giấy phép kiểm dịch. Chưng III: Kiểm dịch nhập khẩu Điều 10 Chủ hàng hoặc người được uỷ quyền trước khi hoặc khi nhập khẩu hoa quả phải tiến hành khai báo kiểm dịch với Chi cục kiểm dịch kiểm nghiệm nơi cửa khẩu nhập khẩu, đồng thời phải nộp “Giấy phép kiểm dịch động thực vật nhập khẩu của Cục kiểm dịch kiểm nghiệm xuất nhập khẩu Quốc gia nước CHND Trung Hoa”, và các giấy tờ khác như Hoá đơn, Hợp đồng thương mại, Giấy chứng nhận xuất xứ, Giấy chứng nhận kiểm dịch thực vật do cơ quan có thẩm quyền về kiểm dịch động thực vật của nước (khu vực) xuất khẩu cấp… Điều 11 Đối với các loại hoa quả mà không có Giấy chứng nhận kiểm dịch thực vật do cơ quan có thẩm quyền về kiểm dịch động thực vật của nước (khu vực) xuất khẩu cấp hoặc chưa tiến hành kiểm tra kiểm dịch theo luật định, chi cục kiểm dịch kiểm nghiệm tại cửa khẩu nhập khẩu căn cứ tình hình thực tế mà tiến hành xử lý theo phưng thức trả lại hàng hoặc tiêu huỷ. Điều 12 Cơ sở tiến hành kiểm dịch hoa quả nhập khẩu gồm có: 1. Các văn bản pháp quy, quy định của Trung Quốc về kiểm dịch thực vật; 2. Thỏa thuận song phương được ký kết giữa Chính phủ Trung Quốc và Chính phủ nước (khu vực) xuất khẩu; 3. Thỏa thuận được ký kết giữa Cục kiểm dịch kiểm nghiệm Quốc gia Trung Quốc và C quan có thẩm quyền về kiểm dịch thực vật của nước (khu vực) xuất khẩu (Bao gồm c Nghị định thư, Biên bn ghi nhớ…) 4. Yêu cầu kiểm dịch trong Giấy phép kiểm dịch; 5. Yêu cầu về kiểm dịch được nêu rõ trong Hợp đồng thương mại. Điều 13 Rau, hoa, quả khi nhập khẩu, nhất định phi phù hợp các điều kiện kiểm dịch sau: 1. Phù hợp với Thoả thuận song phương về kiểm dịch được ký kết giữa Chính phủ Trung Quốc và Chính phủ nước (khu vực) xuất khẩu. 2. Không có các loại sinh vật có hại và thực vật mang tính nguy hiểm mà Trung Quốc nghiêm cấm nhập khẩu; hoa quả không được có cành, lá và đất. 3. Nhập khẩu trong trạng thái đóng gói nguyên trạng và phi ghi rõ ràng nơi sản xuất. 4. Phù hợp với các yêu cầu khác quy định trong Thỏa thuận song phương. Điều 14 Chi cục kiểm dịch kiểm nghiệm khi tiến hành kiểm tra tại chỗ, phải kiểm tra đối chiếu giữa hàng hóa và giấy tờ xem có khớp nhau không, căn cứ vào tình hình vận chuyển hàng hoá mà tiến hành kiểm tra, sau đó theo các trình tự và tiêu chuẩn kiểm tra mà lấy mẫu hoặc tiến hành kiểm tra ngẫu nhiên, đồng thời lưu vào sổ sách số lượng (khối lượng) và chủng loại được kiểm tra thực tế. Điều 15 Khi tiến hành kiểm dịch trong phòng thí nghiệm thì phải căn cứ nơi sản xuất của hoa quả, chủng loại, khả năng mang sâu bệnh và các trình tự hoặc tiêu chuẩn liên quan tiến hành kiểm dịch. Sau khi hoàn tất việc kiểm dịch, phải điền vào “Báo cáo kiểm dịch tại phòng thí nghiệm”. Điều 16 Sau khi hoàn tất việc kiểm dịch hoa quả nhập khẩu, các trường hợp dưới đây cần xử lý như sau: 1. Nếu kiểm dịch đạt tiêu chuẩn, cấp Giấy thông quan kiểm dịch kiểm nghiệm xuất nhập khẩu, cho phép nhập khẩu. 2. Trong quá trình kiểm dịch nếu phát hiện các loại thực vật mang tính nguy hiểm hoặc sâu bệnh hoặc các loại sâu bệnh thông thường nhưng vượt quá quy định cho phép, phải tiến hành diệt trừ, loại bỏ những loại sâu bệnh trên. Xử lý đạt tiêu chuẩn mới cho phép nhập khẩu; kiểm dịch không đạt tiêu chuẩn hoặc không có biện pháp nào có thể xử lý các loại sâu bệnh bị phát hiện thì sẽ trả lại hàng hoặc tiêu huỷ. Chương IV: Giám sát kiểm dịch Điều 17 Cục kiểm dịch kiểm nghiệm Quốc gia sẽ thực hiện chế độ đăng ký đối với các đơn vị kho bãi, chế biến và vườn trồng tại nước ngoài nơi xuất khẩu hoa quả sangTrungQuốc. Cục kiểm dịch kiểm nghiệm Quốc gia căn cứ vào yêu cầu kiểm dịch, đồng thời được sự đồng ý của nước (khu vực) xuất khẩu, sẽ cử chuyên gia kiểm dịch đến nơi sản xuất tiến hành điều tra về dịch bệnh, giám sát đóng gói hoặc tiến hành kiểm dịch trước khi xuất khẩu. Điều 18 Hoa quả có nguồn gốc từ vùng dịch bệnh phục vụ cho triển lãm, trước khi sử dụng phi làm các thủ tục về kiểm dịch cho phép đặc biệt tại Cục kiểm dịch kiểm nghiệm Quốc gia. Trong thời gian trưng bày triển lãm, phải chịu sự quản lý giám sát của chi cục kiểm dịch kiểm nghiệm, nếu chưa được phép của cơ quan có thẩm quyền về kiểm dịch không được tự ý sử dụng, biếu tặng, buôn bán hoặc di chuyển. Các loại hoa qủa bỏ đi thì phải tiến hành xử lý dưới sự giám sát của chi cục kiểm dịch kiểm nghiệm. Điều 19 Các loại hoa quả nhập khẩu bán trên tàu, thuyền chạy suốt đến Hồng Kông, Ma Cao, sau khi kiểm dịch hợp lệ sẽ được đóng gói trong túi có dấu niêm phong của chi cục kiểm dịch kiểm nghiệm. Khi hành khách mang theo loại hoa qủa này nhập khẩu nếu là loại túi đóng gói nêu trên thì sẽ không phi chịu sự kiểm tra, nhân viên kiểm dịch cũng có thể tuỳ tình hình thực tế mà tiến hành kiểm tra ngẫu nhiên. Điều 20 Các loại quả nhập khẩu bán tại các cửa hàng miễn thuế nơi cửa khẩu, chỉ được phép tiêu thụ sau khi đã được kiểm dịch hợp lệ và được đóng gói trong trong túi có dấu niêm phong của chi cục kiểm dịch kiểm nghiệm, đồng thời phải chịu sự quản lý giám sát của chi cục kiểm dịch kiểm nghiệm. Điều 21 Các chuyến bay, chuyến tàu, thuyền quốc tế trong thời gian quá cảnh trong lãnh thổ Trung Quốc, các nhân viên phục vụ trên các phương tiện giao thông này và các nhân viên khác không được đem các loại hoa quả mang theo ra khỏi phương tiện giao thông của mình; hạt, vỏ hoặc các thứ bỏ đi của hoa quả do các nhân viên giao thông tự mang theo sẽ được tiến hành xử lý tiệt trùng dưới sự giám sát của chi cục kiểm dịch kiểm nghiệm. Đối với các chuyến bay, chuyến tàu, thuyền đến từ khu vực đang có dịch bệnh động thực vật, nếu phát hiện các loại hoa quả cấm nhập khẩu thì tiến hành niêm phong và xử lý tiêu huỷ; nếu tiến hành niêm phong, trong thời gian hoạt động hoặc quá cảnh tại Trung Quốc, chưa được sự đồng ý của cơ quan có thẩm quyền về kiểm dịch không được phép dỡ bỏ niêm phong. Điều 22 Cục kiểm dịch kiểm nghiệm Quốc gia căn cứ vào tình hình thực tế, có thể chỉ định cơ quan kiểm dịch hữu quan giám sát kiểm dịch đối với các loại hoa quả đã được phép quá cảnh hoặc trung chuyển qua Trung Quốc. Điều 23 Chi cục kiểm dịch kiểm nghiệm căn cứ tình hình thực tế có thể tiến hành công tác giám sát dịch bệnh tại sân bay, bến tàu, ga tàu hoả, nhà kho, xưởng chế biến…Các đơn vị hữu quan phi có trách nhiệm phối hợp. 2.3. Đánh giá chung về xuất khẩu rau quả của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc Hiện nay, chất lượng của nhiều loại rau quả tiêu thụ trong nước hay xuất khẩu luôn là một vấn đề nổi cộm. Chất lượng của rau quả là hàm số phụ thuộc vào một số biến cơ bản gồm giống, phương pháp canh tác-thu hoạch, bảo quản-chế biến và vận chuyển. Trung Quôc đánh giá trái cây Việt Nam có những điểm hạn chế như sau: Bị bầm dập, xây xước (do thu hái, đóng gói, vận chuyển, bốc xếp…) Bịsâu bệnh mau hư hỏng không đồng đều ,bao bì xấu quả nhãn bị xông SO2 quá mức qui định, phải trải lại hoặc huỷ Trước tiên, giống trái cây và kỹ thuật trồng trọt là yếu tố quan trọng hàng đầu để nâng cao năng suất mà đặc biệt là chất lượng quả. Việt Nam tương đối tự hào về các loại giống cây ăn trái bản địa phong phú. Tuy nhiên sự phong phú này đã không được khai thác phát triển một cách thích hợp. Do vậy, nhiều giống rau quả hiện nay của Việt Nam chỉ phù hợp với thị trường trong nước chứ chưa thích hợp cho xuất khẩu thị trường quốc tế hay để chế biến. Chúng ta chưa phát triển được bộ giống phong phú các loại rau quả để phục vụ cho thị hiếu đa dạng của thị trường nội địa và xuất khẩu, tiêu dùng tươi hay phục vụ ngành công nghiệp chế biến. Các giống rau quả của Việt Nam đã không được phát triển và bị lạc hậu so với nhiều nước trong khu vực. Như vậy, chúng ta mới dừng ở mức độ khai thác các giống đã có sẵn chứ chưa chịu khó tìm tòi phát triển những giống mới có chất lượng cao hơn, phù hợp với thị hiệu phức tạp của các loại thị trường khác nhau. Đây chính là một trong những điểm yếu cơ bản về khả năng cạnh tranh của rau quả Việt Nam. Giống vải thiều hiện nay được trồng phổ biến ở các tỉnh phía Bắc, nhất là Bắc Giang, Hưng Yên. Nếu để ăn tươi thì được nhưng khi chế biến thì quả vải đổi màu sau khi đóng hộp 2-3 tháng. Với nhãn thì hầu hết các giống đang được trồng ở cả miền Nam và miền Bắc đều có chất lượng hạn chế so với các nước trồng nhãn khác. Nói chung nhãn có kích thước quả còn nhỏ trong khi kích thước hạt lại lớn do vậy cùi nhãn (thịt nhãn) mỏng. Các giống chuối và cây có múi ở Việt Nam hiện nay cũng chỉ phù hợp với thị trường trong nước trong khi kích thước, năng suất và các đặc điểm màu sắc, mùi vị đều không phù hợp cho xuất khẩu sang thị trường quốc tế. Một khó khăn cơ bản nữa đối với Việt Nam là các giống không thuần chủng, bị lai tạp nhiều do một thực tế là tập quán nhiều vườn cây ăn trái trước đây được trồng bằng hạt do vậy bị thoái hoá. Bên cạnh đó, các cây giống không được chọn lọc kỹ càng thiếu nguồn gốc. Các giống bị lai tạp nhiều không thuần chủng tạo ra những khó khăn cơ bản cho sản phẩm như tính đồng đều, sự ổn định về chất lượng và tiêu chuẩn hoá. Bởi vì trong cùng một vườn có các giống khác nhau rất đến trái cây có mùi vị, kích cỡ, màu sắc khác nhau. Việc nhập giống tiến bộ, tuyển chọn giống nội địa tốt mới bắt đầu vài năm trở lại đây. Trong khi Thái Lan đã thực hiện 35 năm nay. Bên cạnh đó, các nước trong khu vực đã bằng cách này hay cách khác lấy giống một số loại quả của Việt Nam như thanh long và họ đã phát triển nhanh hơn chúng ta về việc đa dạng hoá và đưa ra nhiều đặc tính mới cho loại quả về màu sắc, hương vị. Chỉ một vài năm gần đây, Việt Nam mới bắt đầu nhập nhiều giống tiến bộ của các nước đối với một số cây ăn quả nhiệt đới như xoài từ Thái Lan và Ôxtrâylia, dứa từ Trung Quôc và Thái Lan, hồng từ Đài Loan, nhãn từ Trung Quôc. Một vấn đề tác động rất lớn đến chất lượng rau quả là dư lượng thuốc trừ sâu trong sản phẩm do rau quả phần lớn được tiêu dùng ở dạng tươi sống, không qua chế biến hay nấu chín. Sản xuất rau quả ở nước ta là sản xuất nhỏ, phân tán, một bộ phận nhỏ nông dân có phần chạy theo lợi nhuận trước mắt nên ý thức và kiến thức sử dụng thuốc bảo vệ thực vật và các hoá chất khác còn yếu. Công nghệ sau thu hoạch còn rất kém và đã có rất ít tiến bộ kỹ thuật về lĩnh vự này được chuyển giao đến nông dân. Việc thu hoạch, vận chuyển, đóng gói, bao bì và bảo quan không đúng cách làm cho rau quả bị hư hỏng nhiều (trên 20%). Hiện nay, chúng ta vẫn chưa có công nghệ bảo quản trái cây tươi kéo dài thời gian (1 đến 2 tháng) sau thu hoạch nên ta chỉ có thể xuất khẩu được số lượng ít trái cây tươi bằng tàu thuỷ sang một số nước châu Á gần Việt Nam và một số rất ít trái cây bằng máy bay sang một số nước châu Âu. Về vận chuyển, ở nước ta vẫn còn thiếu các thiết bị vận chuyển lạnh như tàu lạnh hoặc container có thiết bị làm lạnh nên đã ảnh hưởng không ít tới khả năng xuất khẩu khối lượng lớn đến các thị trường xa. Chất lượng của việc đóng gói và nhãn mác cũng là vấn đề nổi cộm. Sản phẩm bao bì còn đơn điệu, nghèo nàn. Trình độ công nghệ và thiết bị chế biến còn lạc hậu, không đồng bộ. Bên cạnh đó các xưởng chế biến rau quả thủ công của nhân dân với qui mô nhỏ và thô sơ. Dịch vụ đóng gói, vận chuyên và thông tin đều kém. Một bất lợi khác là việc Việt Nam và Trung Quôc chưa thống nhất được các Hiệp định chung về kiểm dịch đối với động vật và thực vật. Trong khi đó, một số thỏa thuận về kiểm dịch và giám sát vệ sinh đối với mặt hàng gạo, thuỷ sản đã được ký kết chậm hướng dẫn, phổ biến để các doanh nghiệp thực hiện. Điều này khiến cho không chỉ rau quả mà nhiều nhóm hàng khác vấp phải các rào cản kỹ thuật khi xuất khẩu vào thị trường Trung Quôc. Một ví dụ được nhiều doanh nghiệp nêu lên là cơ chế kiểm tra hải quan một lần giữa Trung Quôc và Việt Nam vẫn chưa được thực hiện nên hàng hoá Việt Nam vào Trung Quôc, nhất là các mặt hàng tươi sống hay bị gây khó dễ bởi mã hàng hai bên không thống nhất, chứng chỉ vệ sinh chưa được hai bên công nhận... Ngược lại, Thái Lan đã giải quyết rất tốt vấn đề này bằng các văn bản ký kết giữa Chính phủ hai nước. Hơn nữa, sự đảm bảo về chất lượng từ nguồn nguyên liệu đến công nghệ chế biến tốt là một lợi thế của doanh nghiệp Thái Lan. Trong khi đó đây lại là điểm yếu của doanh nghiệp Việt Nam. Trung Quôc có quy chế, nếu hàng Việt Nam có chứng chỉ C/O thì sẽ được giảm 50% thuế nhưng từ trước đến nay doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa làm được. Trong nửa đầu năm 2004, Trung Quôc đã nhập khẩu rau quả từ các nước ASEAN với kim ngạch lên tới 330 triệu USD, với mức tăng trưởng 38,7% so với cùng kỳ năm 2003. Trong cùng kỳ, Trung Quôc xuất khẩu nông sản sang các nước ASEAN với tổng giá trị đạt 270 triệu USD, tăng 34%. Xuất khẩu rau quả của Thái Lan sang Trung Quôc đã tăng hơn 30% và đạt tới 210 triệu USD, chiếm tới 64% tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn bộ khối ASEAN vào thị trường Trung Quôc trong cùng kỳ. Bên cạnh đó, việc thực hiện chương trình thu hoạch sớm cũng góp phần làm giảm và dẫn tới loại bỏ hoàn toàn hiện tượng buôn lậu rau quả tại biên giới. Với mức thuế nhập khẩu bằng 0% thì việc buôn lậu rau quả sẽ bị ngưng hoàn toàn. Như vậy, có thể dễ dàng nhận thấy Chương trình thu hoạch sớm trong khuôn khổ Hiệp định khung về ACFTA đã và đang tác động trực tiếp đến xuất nhập khẩu rau quả và qua đó ảnh hưởng đến sự phát triển của ngành hàng này của Việt Nam. Tác động của việc thực hiện Chương trình thu hoạch sớm phụ thuộc chủ yếu vào khả năng cạnh tranh của ngành hàng rau quả của Việt Nam so sánh với các nước thành viên khác trong khu vực, cụ thể đối với hai nước Thái Lan và Philippines. Có thể nói ngay trong năm 2004, Thái Lan đã dành được những lợi thế rất đáng kể nhờ sớm nhanh chóng thực hiện cắt giảm thuế song phương với Trung Quôc. Do vậy, những lợi thế từ ưu đãi thuế quan trước đây của Việt Nam trong trao đổi mậu biên đã không còn. Thậm chí, do Trung Quôc bỏ ưu đãi thuế đối với mậu biên tại Quảng Tây thì rau quả của Việt Nam khi đi nhập khẩu qua tỉnh này sẽ phải chịu mức thuế cao hơn đáng kể so với rau quả của Thái Lan. Như vậy, ưu thế còn lại của Việt Nam chỉ là quãng đường vận chuyển ngắn hơn và do đó chi phí vận chuyển có thể thấp hơn. Theo một số chuyên gia thương mại của Trung Quôc, một số sản phẩm rau quả của Thái Lan trước đây chuyển qua Việt Nam để xuất khẩu sang Trung Quôc nhằm hưởng những ưu đãi về thuế đối với mậu biên. Tuy nhiên, từ đầu năm 2004, sản phẩm Thái Lan không qua Việt Nam nữa mà xuất khẩu trực tiếp sang Trung Quốc. Hiện nay kim ngạch xuất khẩu rau quả của Việt Nam chỉ đạt khoảng 300 triệu USD- Một con số chưa tương xứng với tiềm năng của Việt Nam.Với những ưu thế tự nhiên của mình,Việt Nam có thể cung ứng cho thị trường một khối lượng lớn hơn nữa rau quả.Rõ ràng Việt Nam chưa phát huy hết tiềm năng của mình Nhà nước đang đưa ra mục tiêu đưa rau quả vào danh sách các mặt hàng nông sản tham gia “câu lạc bộ một tỷ” vào năm 2010. Rõ ràng đây là một con số khả thi, có thể thực hiện được và hy vọng được hoàn thành sớm hơn dự kiến như kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam và Trung Quốc được thực hiện sớm hơn 4 năm so với kế hoạch hai nước đặt ra. Chương 3 :Phương hướng và giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu rau quả của Việt Nam sang Trung Quốc 3.1.Phương hướng về phát triển xuất khẩu rau quả -Kích thích phát triển sản xuất sản phẩm rau quả xuất khẩu trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh của mỗi vùng, mỗi địa phương nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh ,góp phần tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu,tạo thêm việc làm, nâng cao thu nhập cho người nông dân. Quan điểm này đòi hỏi cần phải phân tích và tìm ra những vùng địa phương có lợi thế trong việc phát triển sản xuất rau quả trên cơ sở vận dụng lý thuyết về lợi thế so sánh, từ đó có kế hoạch quy hoạch phát triển sản xuất đảm bảo sản phẩm sản xuất ra có sức cạnh tranh cả về chi phí và chất lượng. -Đẩy mạnh xuất khẩu cần xuất phát từ nhu cầu thị trường,lấy thị trường làm căn cứ chủ yếu để xây dựng kế hoạch,quy hoạch sản xuất kinh doanh. Quan điểm này đòi hỏi làm tốt công tác nghiên cứu nhu cầu,thị hiếu khách hàng, từ đó xác định được thị trường trọng điểm, ổn định với những mặt hàng có khả năng cạnh tranh cao, đem lại hiệu quả kinh tế lớn. -Phát triển xuất khẩu trên cơ sở ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật với công nghệ tiên tiến nằm nâng cao năng suất, giá trị sản phẩm xuất khẩu kết hợp với tổ chức tốt quá trình cung ứng dịch vụ xuất khẩu. Quan điểm này đòi hỏi quá trình sản xuất-chế biến-tổ chức xuất khẩu rau quả, cần chú ý ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực tạo giống, áp dụng công nghệ canh tác tiên tiến, đồng thời đổi mới công nghệ và thiết bị công nghiệp chế biến rau quả,bảo quản rau quả theo hướng hiện đại, tăng khả năng cạnh tranh của các loại rau quả xuất khẩu của nước ta trên thị trường thế giới. -Phát triển rau quả xuất khẩu trên cơ sở khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia sản xuất-kinh doanh xuất khẩu rau quả nếu đủ điều kiện.Quán triệt quan điểm này nhằm phát huy được tiềm năng thế mạnh của từng thành phần kinh tế. -Kích thích phát triển sản xuất rau quả xuất khẩu cần có sự trợ giúp của Nhà nước, các cấp các ngành có liên quan. Kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường, để thúc đẩy sản xuất rau quả đòi hỏi phải xuất phát từ động lực trực tiếp của ngưòi sản xuất kinh doanh.Mặt khác nó cũng phụ thuộc vào sự tác động từ phía các cơ quan quản lý vĩ mô thông qua hệ thống cơ chế -chính sách khuyến khích cụ thể đối với lĩnh vực kinh doanh xuất khẩu rau quả, nhằm nâng cao lợi thế cạnh tranh trên thị trường thế giới. Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế thế kỷ 21 là thế kỷ của Châu Á và sự trỗi dậy của những sức mạnh kinh tế tiềm ẩn. Và Trung Quốc là một minh chứng cụ thể trong thời gian qua.Trung Quốc được xem như là một sức mạnh kinh tế mới, một đối thủ sừng sỏ của các nền kinh tế lớn trên thế giới như Mỹ,Nhật Bản và các nước Tây Âu. Trung Quốc trở thành thị trường rộng lớn nhất thu hút lượng vốn đầu tư cao nhất trên thế giới mặc cho những khó khăn của pháp luật Trung Quốc đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Đối với Việt Nam, Trung Quốc là một thị trường nhập khẩu rau quả lớn nhất chiếm tới 43% kim ngạch xuất khẩu rau quả của Việt Nam đủ biết sức hấp dẫn mà thị trường này đem lại.Trong thời gian tới cùng với sự phát triển của Trung Quốc về kinh tế sẽ kéo theo cầu về thị trường này cũng tăng theo do cầu của người dân tăng thêm Có rất nhiều vấn đề thúc đẩy sự phát triển kim ngạch xuất khẩu rau quả của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc hiện nay. Các vấn đề này giải thích một phần xu hướng hiện nay trong tiêu dùng rau quả: -Thời tiết hiện nay đang có những chuyển biến theo chiều hướng không tichs cực trên thế giới.Chính vấn đề này sẽ làm giảm hiệu quả của việc sản xuất rau quả trên thế giới.Sản lượng rau quả có thể tiếp tục giảm do ảnh hưởng của những nhân tố cả về chất lượng và số lượng. Điều này buộc phải có sự mở rộng hơn nữa cho việc nhập khẩu rau quả để thoả mãn nhu cầu của con người. -Dân số Trung Quốc nói chung vẫn tiếp tục tăng dù rất chậm nhưng với một quy mô dân số lớn như vậy thì cầu về một thực phẩm thiết yếu như vậy cũng phải tăng lên đáng kể. -Kinh tế Trung Quốc vẫn được đánh giá là tăng mạnh trong những năm tới.Chính vì vậy đời sống của người dân Trung Quốc được nâng lên gấp bội.Vì vậy nhu cầu tìm kiếm thực phẩm mới, đa dạng cũng sẽ nâng cao hơn trong cộng đồng dân Trung Quốc. Các nông sản như rau quả nhập khẩu sẽ có một chỗ đứng vững chắc hơn trong thị trường Trung Quốc. -Trung Quốc đang trong lộ trình cắt giảm thuế quan theo những hiệp định đã ký kết với các thành viên WTO khi tham gia vào tổ chức này. Điều này sẽ làm giảm bớt những khó khăn cho các doanh nghiệp xuất khẩu muốn tham gia vào thị trường Trung Quốc. Đây là điều nhiều nhà kinh doanh chờ đợi trong những năn tới để có thể tham gia sâu hơn nữa vào thị trường lớn nhất thế giới này. Một trong những hy vọng nữa của ngành xuất khẩu rau quả nói chung là giá cả các loại hàng hóa này sẽ còn tiếp tục tăng do những nguyên nhân trên.Tất cả dường như đem đến những luồng gió mới cho ngành xuất khẩu rau quả của Việt Nam. Song song với việc giá cả các loại rau quả sẽ tăng trong thời gian tới thì những chỉ tiêu về vệ sinh an toàn thực phẩm của Trung Quốc cũng sẽ tăng lên theo yêu cầu của cuộc sống và một phần bảo hộ cho sản xuất trong nước.Chính vì vậy, việc thâm nhập thị trường này đòi hỏi ngày một cao hơn, muốn thành công trên thị trường này buộc các doanh nghiệp phải xây dựng cho mình những uy tín hơn về mặt chất lượng cũng như xây dựng cho mình một hệ thống chất lượng có uy tín trên thế giới để bảo vệ cho sản phẩm của mình. 3.2.Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu rau quả của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc 3.2.1. Các biện pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm rau quả xuất khẩu 3.2.1.1.Chính sách phát triển các vùng sản xuất hàng hóa Quy hoạch vùng sản xuất rau quả hàng hoá tập trung,chuyên canh tạo điều kiện đầu tư áp dụng tiến bộ kỹ thuật, thực hiện thâm canh tổng hợp, tạo ra vùng nguyên liệu gắn với công nghệ sau thu hoạch,gắn với hệ thống tiêu thụ. Để đảm bảo khối lượng chất lượng rau quả xuất khẩu,thực hiện tốt hợp đồng đã ký, cần quy hoạch các vùng chuyên canh rau quả theo hướng săn xuất hàng hoá, với kỹ thuật tiến bộ, được thu hoạch xử lý bảo quản chế biến theo tiêu chuẩn quốc tế, không đơn thuần chỉ thu gom từ các vườn của hộ gia đình.Hướng quy hoạch như sau: +Quy hoạch vùng sản xuất rau tập trung chuyên canh xuất khẩu gần các nhà máy chế biến, gần đường giao thông ,thuận tiện cho khâu vận chuyển nguyên liệu,sản phẩm tới nơi tập trung phục vụ xuất khẩu. +Quy hoạch vùng rau chuyên canh xuất khẩu ở vùng đồng bằng Sông Hồng, tổng diện tích trên 20.000 ha với các mặt hàng như dưa chuột, khoai tây,cải bắp và cà chua. +Quy hoạch vùng rau ôn đới ở Đà Lạt (Lâm Đồng) với các sản phẩm khoai tây, cải bắp tím, ngô rau, cần tỏi tây, su su ,xu hào… +Quy hoạch các vùng quả tập trung cho xuất khẩu: Để chủ động nguồn nguyên liệu đáp ứng nhu cầu xuất khẩu, cần phải xây dựng các vùng chuyên canh cung cấp quả cho xuất khẩu. +Để cung cấp các loại quả phục vụ xuất khẩu tươi hoặc nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, ngoài các vùng quả tập trung có sẵn từ trước, cần mở rộng diện tích trồng cây ăn quả trên đất trống đồi núi trọc, phù hợp với loại cây dài ngày. +Đối với đồng bằng Sông Cửu Long không mở rộng diện tích,chủ yếu tập trung thâm canh và cải tạo vườn theo hướng trồng những loại cây ăn quả phục vụ xuất khẩu như chuối, xoài ,nhãn. +Vùng Đông Nam Bộ, thu hẹp diện tích chuối ,mở rộng diện tích các loại cây ăn quả có nhu cầu xuất khẩu như chôm chôm, măng cụt, sầu riêng, 3.2.1.2. Đầu tư cho công nghệ sau thu hoạch Để đáp ứng yêu cầu xuất khẩu, cần đầu tư cho công nghệ sau thu hoạch (bảo quản và chế biến) .Hiện hầu hết các nhà máy chế biến đã ở trong tình trạng lạc hậu, không đáp ứng được yêu cầu bảo quản, chế biến phục vụ xuất khẩu. Để nâng cao sức cạnh tranh của rau quả trên thị trường thế giới, cần triển khai việc đầu tư mở rộng các nhà máy hiện có và xây dựng theo hướng mới. +Nâng cấp các nhà máy chế biến hiện có, mở rộng quy mô tương xứng với nhu cầu chế biến. +Xây dựng một số nhà máy chế biến đặt tại vùng nguyên liệu đã được quy hoạch (ví dụ: xây dựng nhà máy chế biến rau quả đặt tại vùng quả Lục ngạn- Bắc giang, nhà máy chế biến rau quả vùng chuyên canh rau Vạn Đông…) Tuỳ theo quy mô lớn hay nhỏ mà ứng dụng công nghệ chế biến từ thủ công tới hiện đại cho phù hợp, đa dạng hoá các sản phẩm chế biến (bảo quản lạnh và đông lạnh, đóng hộp ,xấy khô…).Cần chú ý xây dựng nhà máy chế biến rau quả đặt tại cùng nguyên liệu, nên tính đến khả năng chế biến các sản phẩm khác thời vụ để tận dụng công suất máy. +Làm tốt công tác bảo quản rau quả: Đối với rau quả, trong tương lai nhu cầu xuất khẩu tươi chiếm tỷ trọng lớn.Do vậy, việc đầu tư cho công nghệ bảo quản tươi là rất quan trọng.Những giải pháp đặt ra đối với vấn đề này là kết hợp xử lý bảo quản tại vùng nguyên liệu, tại cơ sơ chế biên, tại doanh nghiệp chế biến xuất khẩu, tại kho cảng. Các công ty rau quả trong nước có thể mở rộng liên doanh liên kết với các doanh nghiệp nước ngoài nhằm lợi dụng vốn của họ tăng quy mô đầu tư, tập trung cho việc xử lý, bảo quản rau quả trong quá trình lưu thông. 3.2.1.3. Chính sách quản lý chất lượng Hiện nay các rào cản quy định chất lượng an toàn thực phẩm mặt hàng rau quả là rất cao, nhưng vấn đề này ở Việt Nam người sản xuất chưa quan tâm đúng mức, việc sử dụng phân bón và thuốc trừ sâu trong canh tác còn tuỳ tiện ,vừa ảnh hưởng đến chất lượng rau quả, vừa không đạt tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm của nước nhập khẩu. Vì vậy trong thời gian tới, các ngành ,các cơ quan chức năng cần nghiên cứu và phổ biến các quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm của một số nước được coi là tiềm năng của thị trường xuất khẩu rau quả của Việt Nam như Hoa Kỳ ,Nhật Bản, EU… Bên cạnh việc nâng cao chất lượng sản phẩm xuất khẩu, một yếu tố rất quan trọng trong cạnh tranh xuất khẩu là phải giảm được các chi phí trong các khâu của tổ chức hoạt động xuất khẩu. Hiện chi phí cho hầu hết dịch vụ xuất khẩu ở Việt Nam cao hơn các nước khác, ảnh hưởng tới hiệu quả xuất khẩu và làm giảm năng lực cạnh tranh xuất khẩu. Một vấn đề quan tâm từ phía cơ quan Nhà nước là tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu .Theo đánh giá của nhiều chuyên gia kinh tế, việc thực hiện EHP có thể tạo ra nhiều cơ hội cho xuất khẩu rau quả của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc.Tuy nhiên, kết quả khảo sát về tác động việc cắt giảm thuế đối với nhiều mặt hàng nông sản của Việt Nam khi xuất sang thị trường Trung Quốc cho thấy, đa số thương nhân kinh doanh tai biên giới Việt Nam-Trung Quốc vẫn phải chịu mức thuế cũ đến 60%. Mặc dù “chương trình thu hoạch sớm” theo Hiệp định khung về hợp tác toàn diện ASEAN-Trung Quốc đã được áp dụng, tỷ lệ các doanh nghiệp xin mẫu C/O form E( xuất xứ hàng hoá) để hưởng thuế suất ưu đãi khi xuất hàng sang Trung Quốc còn rất hạn chế. Nguyên nhân chính là do thủ tục cấp C/O phía Việt Nam vẫn còn khá phức tạp không có cơ quan cấp mẫu C/O tai các cửa khẩu, trong khi do các đặc thù của mặt hàng rau quả là phải xuất nhanh nên doanh nghiệp không thể lần nào cũng về Hà Nội xin cấp C/O. Trong khi đó, phía Trung Quốc do cơ quan cấp C/O đặt ngay tại cửa khẩu nên gần như 100% hàng nhập từ Trung Quốc nếu nằm trong danh mục được cắt giảm đều được giảm thuế ưu đãi từ phía Việt Nam. 3.2.1.4. Khuyến khích hình thức liên kết trong sản xuất rau quả Với mục đích chung của mô hình liên kết bốn nhà: Nhà nông ,nhà doanh nghiệp, nhà khoa học, Nhà nước.Phát huy sức mạnh của 4 nhà nhằm tận dụng tiềm năng lợi thế sẵn có của ngành sản xuất rau quả. Tăng cường công tác quản lý hành chính nhà nước và đưa công nghệ vào trong sản xuất.Tăng cường mối quan hệ hỗ trợ lẫn nhau giữa các nhà tham gia liên kết nhằm tạo điều kiện phát triển ngành rau quả. Mặc dù đã có chính sách khuyến khích phát triển các hình thức liên kết trong sản xuất rau quả .Tuy nhiên mô hình còn có nhiều thiêú sot cần khắc phục.Nhà nông thường là đối tượng không tôn trọng hợp đồng đã ký kết với doanh nghiệp.Nhà doanh nghiệp thì sợ rủi ro nên chưa thực sự tham gia vào hoạt động liên kết. “Nhà khoa học”thiếu mạnh dạn, rất ít các cơ quan hay tổ chức nghiên cứu mạnh dan, chủ động đưa định hướng liên kết thành một ưu tiên trong triển khai các chương trình dự án nghiên cứu.Ngay cả những hợp đồng được ký kết thì quyền lợi vật chất của các công quan khoa học hay các nhà khoa học cũng chưa được xác định rõ ràng. Nhà nước cần giữ vai trò chủ động hơn trong liên kết 4 “nhà”.Nhà nước cần tạo ra một hành lang pháp lý phù hợp để giả quyết tranh chập trong liên kết giữa các nhà, đặc biệt là hợp đồng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm giữa nhà doanh nghiệp và nhà nông .Ngoài ra để thành công, Nhà nước cần hỗ trợ để sừ liên kết này trở thành một mắt xích, nâng cao giá trị gia tăng cho sản phẩm.Lúc đó từng nhà sẽ nhận thấy rằng sản phẩm của họ không thể có giá trị nếu như họ tự động rút khỏi mắt xích. Đối với việc hình thành mắt xích giá trị này, nhà nước cần có chính sách khuyến khích đầu tư để hình thành nên các doanh nghiệp công nghiệp lớn. Với tầm nhìn của các doanh nghiệp, bên cạnh việc huy động vốn đầu tư trong nước,Nhà nước còn khuyến khích sự tham gia của nước ngoài vào trong các doanh nghiệp .Các doanh nghiệp này sẽ trở thành mắt xích quan trọng nhất trong liên kết 4 “nhà” Các bộ các ngành liên quan cần phải có chế tài phù hợp để hỗ trợ giải quyết tranh chấp hợp đồng thu mua giữa doanh nghiệp và nhà sản xuất. Đối với trượng hợp thiệt hại do bất khả kháng. Nhà nước cũng cần phải có chính sach cụ thể hỗ trợ thiệt hại cho các bên tham gia liên kết. Nhà nước cần thực thi những chính sách khuyên khích, giúp đỡ để doanh nghiệp yên tâm đầu tư, nông dân yên tâm sản xuất..như chính sách tín dụng ưu đãi khi doanh nghiệp đọng vốn do nông dân mất mùa chưa trả nợ được, chính sách khấu trừ thuế VAT đầu vào cho sản phẩm, chính sách liên kết sản xuất bao tiêu với nông dân. Nhà nước có thể đưa ra và khuyến khích áp dụng nhiều hình thức liên kết phù hợp với từng mặt hàng và từng đối tượng tham gia theo mục tiêu, nội dung, thời gian, phạm vi hoạt động và thời gian liên kết. 3.2.2. Chính sách thương mại và khuyến khích xuất khẩu Đối với chính sách thương mại, trong quá trình Việt Nam đàm phán gia nhập WTO đã đưa ra các cam kết ràng buộc và tiến tới cắt giảm thuế xuất khẩu khẩu.Ngay đối với mặt hàng chúng ta cần bảo hộ trong thời gian tới nên áp dụng các cơ chế linh hoạt như hạn ngạch thuế quan hay thuế thời vụ.Theo đó chúng ta sẽ mở cửa thị trường nội địa phần nào để gia tăng sức ép cạnh tranh buộc sản xuất trong nước, nhất là các doanh nghiệp phải cố gắng vươn lên.Một môi trường cạnh tranh lành mạnh sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà sản xuất nâng cao hiêụ quả hoạt động và qua đó từng bước cải thiện vị thế cạnh trang của sản phẩm Việt Nam trên thị trường trong nước cũng như quốc tế. Các chính sách khuyến khích xuất khẩu trong những năm qua đã góp phần tạo điều kiện để các doanh nghiệp hạ gía thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh về giá của rau quả Việt Nam trên thị trường thế giới, khuyến khích các doanh nghiệp gia tăng sản xuất chế biến hàng rau quả xuất khẩu. Tuy nhiên về lâu dai chúng ta không thể tiếp tục các chính sách trợ cấp xuất khẩu như trợ giá xuất khẩu và thưởng xuất khẩu vì các chính sách này vi phạm quy định về cấm trợ cấp xuất khẩu của WTO.Do vậy chúng ta phải nghiên cứu chuyển sang các dạng trợ cấp khác phù hợp với quy định của tổ chức thương mại thế giới. Để làm được điều đó chúng ta cần phải đa dạng hoá các hình thức tín dụng xuất khẩu, tiếp tục hoàn thiện và nâng cao các giải pháp ưu đãi tín dụng xuất khẩu, hoàn thiện quỹ hỗ trợ xuất khẩu tiến tới thành lập ngân hàng xuất nhập khẩu và triển khai bảo hiểm xuất khẩu. *Xúc tiến thương mại Đẩy manh xúc tiến thương mại đang trở thành vấn đề bức xúc hiện nay vì môi trường cạnh tranh về mặt hàng rau quả hiện đang rất gay gắt. Để củng cố các thị trường đã có và mở rộng thêm các thị trường mới, cần có chính sách xúc tiến thương mại thích hợp.Trước mắt Nhà nước cần lựa chọn các loại rau quả, đặc sản và tài trợ việc quảng bá tại các thị trường có tiềm năng như Hoa Kỳ, Nhật Bản, EU, đồng thời thông qua các hiệp hội doanh nghiệp nước ngoài hoặc tổ chức xúc tiến thương mại các nước tại Việt Nam để phối hợp, hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu nông sản thâm nhập vào thị trường nước ngoài. Công tác xúc tiến thương mại cần được đẩy mạnh hơn nưa.Trong thời gian tới, Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn cùng các hiệp hội ngành hàng cùng hợp tác xây dựng nhà trưng bày sản phẩm và giao dịch, trước hết tại thị trường quan trọng như Trung Quốc, Nga, Hoa Kỳ. Việc tham gia hội trợ triển lãm cũng nên thực hiện theo hình thức hợp tác để có thể hỗ trợ lần nhau tăng thêm sức mạnh và giới thiệu sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam một cách phong phú, đàng hoàng hơn.Tuy nhiên cần lưu ý tham dự một cách có chọn lọc thay vì chiếu lệ, hình thức.Riêng đối với thị trường Trung Quốc là thị trường lớn nhất tiêu thụ rau quả Việt Nam và tiềm năng của thị trường này vẫn còn rất lớn thì cần phải đặc biệt có chiến lược xúc tiến thương mại đặc biệt có quy mô và bài bản. Để thực hiện được nhiệm vụ này, đầu tư đào tạo một đội ngũ cán bộ xúc tiến thương mại có trình độ chuyên môn cao, trình độ ngoại ngữ trình độ am hiểu thị trường nước ngoài.Hỗ trợ cho các trung tâm thông tin nhằm nắm bắt kịp thời thông tin về nhu cầu giá cả thị trường….và thông báo tới các doanh nghiệp xuất khẩu. *Xây dựng thương hiệu Cũng như các loại hàng hoá nông sản khác, mặt hàng rau quả của Việt Nam tuy xuất khẩu đi nhiều nước trên thế giới nhưng phần lớn không có nhãn hiệu nên ít người biết đến.Chính vì vậy các vùng trồng các loại rau quả đặc sản cũng như các doanh nghiệp xuất khẩu cần phải quan tâm đầu tư xây dựng và bảo vệ nhãn hiệu hàng hoá cho sản phẩm của mình.Căn cứ vào chiến lược phát triển thị trường, tiến hành xúc tiến đăng ký nhãn hiệu hàng hóa ở cả trong nước và quốc tế cho hàng rau quả đặc sản của Việt Nam (nhất là các loại trái cây đặc sản) như vải thiều Lục Ngạn, nhãn lồng Hưng Yên, cam sành Tam Bình, xoài cát Hoà Lộc,bưởi Năm Roi,vú sữa Lò Rèn, thanh long Bình Thuận…tại những thị trường lớn và tiềm năng nhằm tránh tình trạng nước ngoài đăng ký trước tên mà chúng ta không thể khiếu nại được 4.2.3.Chính sách phát triển các hiệp hội ngành hàng -Chính phủ tạo điều kiện để phát huy hơn nữa vai trò của Hiệp hội trái cây và Hiệp hội rau quả. Các tổ chức này là đầu mối giao lưu với các tổ chức quốc tế, thống nhất điều hành kinh doanh sản xuất ,xuất khẩu rau quả. 4.2.4. Hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực Bên cạnh những tiềm năng to lớn như nguồn nhân lực dồi dào, thông minh khéo tay chịu khó, ham học hỏi..nguồn nhân lực Việt Nam còn bộc lộ những thách thức đối với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước nói chung như: tác phong và tư duy của người sản xuất nhỏ chưa quen với điều kiện nền kinh tế thị trường và công nghiệp hoá, thói quen mạnh ai nấy làm, thiếu sự hợp tác, chia sẻ và thiếu ý thức làm việc theo nhóm.. Đối với các doanh nghiệp xuất khẩu rau quả và các cơ quan chức năng quản lý hoạt động xuất khẩu rau quả. Cần phải được hỗ trợ đào tạo các kiến thức về xuất nhập khẩu thị trường. Hỗ trợ khuyến khích nhà nước đối với việc phát triển nguồn nhân lực xuất khẩu rau quả có thể gồm các hoạt động: -Nhà nước , tuỳ điều kiện và tình hình cụ thể có thể hỗ trợ một phần hay toàn bộ kinh phí cho hoạt động đào tạo cán bộ quản lý và kinh doanh của các doanh nghiệp,tổ chức xuất khẩu rau quả hoặc hướng dẫn,giúp đỡ để cho các doanh nghiệp tiếp cận được các nguồn tài trợ khác cho hoạt động đào tạo cán bộ. -Các cơ quan nhà nước đứng ra tổ chức các lớp đào tạo ngắn hạn hay dài hạn, tổ chức các hội nghị, hội thảo khoa học về xuất khẩu rau quả cho các doanh nghiệp, mời các chuyên gia của Việt Nam, chuyên gia quốc tế giảng dạy về nghiệp vụ xuất khẩu. -Nhà nước tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tham quan, khảo sát thị trường rau quả chính, học hỏi kinh nghiệm quản lý kinh doanh của các nước xuất khẩu rau quả thành công như Thái Lan, Australia.. Kết luận Rau quả là mặt hàng xuất khẩu có nhiều tiềm năng của Việt Nam. Đây là nhóm hàng có giá trị cao và có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Tuy nhiên để thúc đẩy sản xuất- xuất khẩu rau quả đòi hỏi phải xuất phát từ động lực của người sản xuất, kinh doanh.Mặt khác, hoạt động xuất khẩu rau quả cũng phụ thuộc vào phía cơ quan quản lý vĩ mô thông qua hệ thống cơ chế chính sách khuyến khích cụ thể đối với lĩnh vực kinh doanh xuất khẩu rau quả. Để nâng cao hiệu quả sản xuất và xuất khẩu rau quả trong những năm tới đòi hỏi phải có những thay đổi cơ bản trong đầu tư phát triển, chuyển từ sản xuất rau quả theo kiểu tự phát sang sản xuất rau quả hàng hoá, đầu tư phát triển các mặt hàng có giá trị cao. Trong những năm tới đây, Trung Quốc vẫn là thị trường có nhiều tiềm năng phát triển đối với rau quả xuất khẩu của Việt Nam.Trung Quốc là thị trường lớn dễ thâm nhập, yêu cầu về chất lượng không quá cao, nhu cầu tiêu dùng của cư dân cũng rất đa dạng.Xuất khẩu rau quả sang thị trường Trung Quốc có nhiều thuận lợi như chi phí vận chuyển thấp và có khả năng duy trì độ tươi của sản phâm.Theo như mục tiêu đã đặt ra, đến năm 2010 giá trị xuất khẩu rau quả của Việt Nam sang thi trường Trung Quốc dự kiến sẽ đạt 1 tỷ USD. Cùng với sự nhận thức ngày càng cao của người dân, sự liên kết mạnh mẽ giữa các doanh nghiệp cùng với những chính sách hợp lý của cơ quan nhà nước, hy vọng xuất khẩu rau quả sẽ sớm đạt được mục tiêu đã đề ra.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32900.doc
Tài liệu liên quan