Chuyên đề Phương hướng và giải pháp tăng cường huy động và sử dụng nguồn vốn đầu tư của Nhà nước cho phát triển nông nghiệp và nông thôn

Trên đây là toàn bộ những gì mà em cảm thấy tâm đắc nhất về vấn đề đầu tư nhà nước cho phát triển nông nghiệp, nông thôn. Đối với một vấn đề quá lớn như vậy, thêm nữa nhận thức và thời gian nghiên cứu còn hạn chế chuyên đề này chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo, các bác, các anh chị trong Vụ Kế hoạch và Quy hoạch – Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn cùng toàn thể bạn đọc để chuyên đề được hoàn thiện hơn nữa.

doc91 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1488 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Phương hướng và giải pháp tăng cường huy động và sử dụng nguồn vốn đầu tư của Nhà nước cho phát triển nông nghiệp và nông thôn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
động các hộ nông dân đóng góp thêm. - Tăng đầu tư và đổi mới phương thức đầu tư cho xây dựng các nhà máy chế biến theo hướng giảm dần tỷ trọng nguồn vốn của Nhà nước tăng tỷ trọng vốn của tư nhân trong các nhà máy này, tuy nhiên Nhà nước vẫn có vai trò định hướng trong việc xây dựng ban đầu. - Khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học tiếp tục có những bước nhảy vọt. Do vậy muốn có một nền nông nghiệp tiên tiến hiện đại, Nhà nước ta cần phải tăng đầu tư cho việc nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu khoa học vào sản xuất nông nghiệp. Thêm nữa, nền kinh tế thị trường phát triển, thông tin trở thành yếu tố rất quan trọng, do vậy cũng rất cần xây dựng một số trung tâm tư vấn và phát triển dịch vụ cung cấp thông tin ở khu vực nông thôn. - Tăng cường và đổi mời phương thức đầu tư Nhà nước cho phát triển giáo dục đào tạo ở khu vực nông thôn theo hướng mở các lớp đào tạo ngắn hạn miễn phí cho nông dân theo học để nâng cao trình độ quản lý, trình độ kỹ thuật... cho người dân, khuyến khích các cử nhân kinh tế, kỹ sư nông nghiệp về làm việc ở khu vực nông thôn. - Hoàn thiện việc tổ chức quản lý Nhà nước đối với nông thôn và nguồn vốn đầu tư cho phát triển nông nghiệp nông thôn. Phương hướng nghiên cứu ở đây là làm rõ hệ thống tổ chức làng xã, hệ thống tổ chức bộ máy quản lý nông thôn và vai trò phát triển trình độ xã hội của từng bộ phận để việc phân bổ nguồn vốn đầu tư được thuận lợi và nguồn vốn được sử dụng có hiệu quả hơn. - Đầu tư theo kế hoạch, quy hoạch và có hệ thống là một phương hướng không thể thiếu được của đầu tư cho phát triển nông nghiệp, nông thôn kết hợp giữa phát hiện trước mắt và phát triển lâu dài, kết hợp trên phạm vi chung của cả nước với phát triển từng vùng, từng địa phương. 3.2. Mục tiêu đầu tư Nhà nước cho phát triển nông nghiệp, nông thôn. - Mục tiêu đầu tư Nhà nước không nằm ngoài mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội nông nghiệp nông thôn theo tinh thần Nghị quyết trung ương 5 của Đảng "Tiếp tục giải phóng sức sản xuất, khai thác và huy động cao nhất mọi nguồn lực, mọi tiềm năng để phát triển mạnh nông nghiệp và kinh tế nông thôn, bảo đảm thu hút đại bộ phận lao động dư thừa thông qua sự phát triển đa dạng của kinh tế nông thôn vào công cuộc công nghiệp hóa đất nước, tăng cường năng suất lao động xã hội, tạo ra khối lượng sản phẩm lớn, chất lượng cao, giá thành hạ giải quyết vững chắc nhu cầu lương thực thực phẩm..., đáp ứng yêu cầu nguyên liệu cho công nghiệp, tăng kim ngạch xuất khẩu và tăng tích luỹ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, giữ gìn và khai thác hợp lý tài nguyên, bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái. Tăng thu nhập, cải thiện đới sống vật chất, văn hóa của nông dân, tăng diện giàu, thu hẹp diện nghèo. Xây dựng nông thôn mới, xây dựng hệ thống chính tự vững mạnh, phát huy dân chủ, bảo đảm công bằng xã hội, tăng cường ổn định chính trị, giữ vững trật tự xã hội”. Quán triệt và vận dụng tư tưởng nêu trên, kết hợp với việc phân tích đánh giá thực trạng, xu hướng vận động phát triển của kinh tế nông thôn trong thời gian tới, mục tiêu mà các chính sách và giải pháp đầu tư của Nhà nước cần hướng tới để phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn là: + Tiếp tục giải phóng và phát huy tiềm năng to lớn về lao động, đất đai, về vốn và năng lực sáng tạo của các hộ nông dân nhằm đẩy mạnh sản xuất hàng hóa, tăng thu nhập, cải thiện đời sống nông dân, thực hiện mục tiêu chiến lược kinh tế - xã hội đã đề ra “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh”. + Giải toả mọi trở lực, tạo điều kiện cho nông nghiệp và kinh tế nông thôn phát triển. + Khuyến khích phát triển các hộ chuyên ngành, chuyên nghề, hộ sản xuất kinh doanh tổng hợp với nhiều trình độ, nhiều quy mô khác nhau. Khuyến khích phát triển kinh tế trang trại (trại nông, trại vườn, trại thuỷ sản, trại chăn nuôi) với mọi quy mô (từ nhỏ đến lớn) thích hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của mỗi địa phương. + Khuyến khích không hạn chế các hộ nông dân có vốn, có kỹ thuật, có khả năng quản lý và kinh doanh bỏ vốn khai thác đất trống, đồi núi trọc; phát triển mạnh mẽ các cơ sở sản xuất kinh doanh chuyển từ nghề nông sang tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp chế biến gắn với nguồn nguyên liệu từ nông - lâm - ngư nghiệp; phát triển các hoạt động, dịch vụ, bán buôn ở nông thôn....giải quyết việc làm, tăng thu nhập, mở rộng thị trường nông thôn. - Đối tượng đầu tư: Để thực hiện mục tiêu trên, chính sách, giải pháp đầu tư của Nhà nước không phải chủ yếu tập trung cho khu vực quốc doanh và HTX như trước kia mà trước hết phải là các hộ gia đình sản xuất kinh doanh nông nghiệp sau đó là các cơ sở phục vụ nông nghiệp của các thành phần kinh tế. Nghĩa là đối tượng đầu tư của Nhà nước là các hộ nông dân và các cơ sở sản xuất của các thành phần kinh tế - vì hơn 95% giá trị sản lượng nông nghiệp hiện nay là do các hộ gia đình thuộc khu vực ngoài quốc doanh sản xuất. Lương thực là sản phẩm quan trọng nhất cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu gần như hoàn toàn do khu vực hộ gia đình và khu vực kinh tế tập thể đảm nhiệm. Dương nhiên không thể phủ nhận vai trò của các xí nghiệp, doanh nghiệp Nhà nước trong việc cung cấp giống, vật tư kỹ thuật, dịch vụ, điều hoà và tiêu thụ sản phẩm....hỗ trợ cho kinh tế hộ gia đình và kinh tế hợp tác phát triển. Sự ưu đãi về vốn đầu tư là điều kiện cần thiết của mỗi nước, nhưng ưu đãi cho ai, cho cái gì, chủ yếu không phải căn cứ vào thành phần kinh tế (tập thể, quốc doanh, tư nhân hay hộ gia đình) mà là căn cứ vào mục tiêu và hiệu quả. III. Hệ thống các giải pháp đổi mới đầu tư Nhà nước cho phát triển NN,NT. 1. Xác định những lĩnh vực, những hướng ưu tiên đầu tư của Nhà nước cho phát triển NN,NT. Trong điều kiện nguồn tài chính quốc gia còn hạn hẹp, tỷ trọng vốn đầu tư của Nhà nước cho nông nghiệp còn thấp chưa có khả năng tăng nhanh, trên quan điểm hiệu quả, tất yếu đòi hỏi phải lựa chọn những khâu, những lĩnh vực then chốt nhất để tập trung vốn đầu tư cho phát triển NN,NT. Đó là tập trung đầu tư cho việc phát triển năng lực nội tại của các chủ thể khu vực nông thôn và tạo lập môi trường bên ngoài thuận lợi cho các chủ thể kinh tế phát triển. 1.1. Nhóm các lĩnh vực liên quan đến phát triển năng lực nội tại của các chủ thể kinh tế. - Đẩy mạnh công tác lai tạo, tuyển chọn áp dụng các giống mới vào sản xuất nhất là giống hoa mầu, lương thực, cây công nghiệp, gia súc, gia cầm... có chất lượng tốt, năng suất cao đáp ứng nhu cầu thị trường. Bằng việc bù lỗ, trợ giá, trang bị kỹ thuật cho các cơ sở lai tạo, tuyển chọn cung cấp giống để bán cho nông dân với giá cả thích hợp, hoặc cho nông dân vay vốn, bán rẻ vật tư, miễn giảm thuế một số năm đầu... nhằm khuyến khích nông dân áp dụng rộng rãi các giống mới vào sản xuất. - Đổi mới các thiết bị và công nghệ sản xuất, chế biến: Ngoài việc khuyến khích đổi mới các thiết bị công cụ sản xuất, cây trồng, vật nuôi, sản xuất phân bón, phòng trừ sâu bệnh..., trọng tâm là đầu tư để đổi mới các thiết bị, công nghệ sau thu hoạch (công cụ thu hái, phơi sấy, bảo quản, xay sát, sàng, tuyển) để giảm mức tổn thất quá cao hiện nay (khoảng 15-20% sản lượng) và công nghệ chế biến nông sản (hoa mầu, lương thực, thịt, cá, chè, cao su, dâu tằm tơ, dầu thực vật, dược liệu) để nâng cao giá trị tiêu dùng và xuất khẩu của sản phẩm nông nghiệp. Riêng hoa mầu, lương thực, cao su và cá biển, nếu có thiết bị và công nghệ chế biến tốt sẽ tạo ra nhiều dạng sản phẩm khác nhau (tinh bột, mì màu, bánh phồng tôm, thức ăn gia súc tổng hợp, các đồ dùng bằng cao su, bột cá, cá hộp....) thì giá trị sản phẩm có thể tăng lên 3 đến 5 lần đó là chưa kể đến việc thu hút thêm hàng ngàn lao động ở nông thôn tạo công ăn việc làm, giảm lao động dư thừa trong nông nghiệp. - Đào tạo cán bộ kỹ thuật, chuyển giao công nghệ, nâng cao trình độ mọi mặt cho nông dân. Đây là vấn đề mà các chuyên gia nông nghiệp của Liên hợp quốc đã xác định là cực kỳ quan trọng cần phải ưu tiên hàng đầu đối với các nước chậm phát triển mới đi vào sản xuất hàng hóa, phát triển nền kinh tế thị trường. Bên cạnh việc phổ cấp và nâng cao trình độ văn hóa cho nông dân, Nhà nước cần đầu tư, hỗ trợ để mở trường lớp đào tạo cán bộ kỹ thuật đến tận cơ sở sản xuất để giúp nông dân lập kế hoạch, quy hoạch sản xuất, hướng dẫn áp dụng các biện pháp kỹ thuật. Đồng thời Nhà nước cần cung cấp tài liệu (cho không hoặc bán rẻ) về áp dụng các tiến bộ kỹ thuật, kinh nghiệm sản xuất, giống cây trồng, vật nuôi mới, thông tin về thị trường, giá cả, dự báo nhu cầu các mặt hàng nông sản. 1.2. Nhóm các lĩnh vực có liên quan đến tạo lập môi trường phát triển. - Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, vận tải và năng lượng: + Cải tạo cầu cống, bến bãi, nâng cấp trục đường chính, nâng cấp và mở rộng có lựa chọn hệ thống đường giao thông - nhất là giao thông nông thôn ở miền núi bằng nguồn ngân sách đầu tư của Nhà nước, bằng hỗ trợ một phần và dân đóng góp. + Đầu tư phương tiện vận tải quy mô nhỏ bằng hình thức sở hữu tư nhân hoặc quốc doanh cho thuê. + Xây dựng mạng lưới cung cấp điện cho nông thôn, chủ yếu cho chế biến nông sản ở đồng bằng sông Cửu Long và phục vụ tiêu úng ở Đồng bằng sông Hồng, cho phát triển các ngành phi nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ở khắp các vùng nông thôn. + Xây dựng nhà máy thuỷ điện cỡ nhỏ và các công trình sử dụng điện kết hợp cho thuỷ lợi và chế biến nông sản ở miền núi. - Đầu tư cho thuỷ lợi phục vụ sản xuất và dân sinh . + Xây dựng những công trình thuỷ lợi đầu mối then chốt có ý nghĩa quyết định đối với sản xuất dân sinh của khu vực dân cư rộng lớn hoặc những vùng điều kiện đặc biệt khó khăn mà sức dân trong vùng không có khả năng tự giải quyết. + Khai thác nguồn nước ngầm cho sinh hoạt, thuỷ lợi ở đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long và ở vùng đồi núi. + Đào kênh cấp 3 nạo vét kênh mương, trang bị máy bơm để phát huy hết công suất các hệ thống thuỷ lợi. + Hỗ trợ một phần kinh phí cho các đề án "thuỷ lợi địa phương" theo phương thức "Nhà nước và nhân dân cùng làm”. - Đầu tư cho các hoạt động hỗ trợ khác. + Khôi phục và tăng công suất của các cơ sở sản xuất phân bón trong nước đang là đòi hỏi cấp bách để phát triển nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa thâm canh cao. + Tăng cường các cơ sở pha trộn phân bón để khuyến khích sử dụng các loại phân bón tổng hợp có độ cân bằng dinh dưỡng tốt hơn mà không gây tác hại xấu cho môi trường. + Tổ chức lại hệ thống tạo giống, kiểm định và sản xuất giống. - Đầu tư phát triển công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm: + Trang bị các thiết bị sấy khô - chủ yếu tại các nhà máy chế biến, tìm công nghệ ít tốn kém và lợi nhuận thoả đáng trong chế biến hàng nông sản. + Trang bị phương tiện, thiết bị diệt trừ sâu bọ, mối mọt ở các kho tàng hiện có để bảo quản sản phẩm tốt hơn, hạn chế bớt thiên tai. + Nâng cấp các nhà máy xay xát gạo quy mô vừa và nhỏ phục vụ thuận tiện cho các vùng nông thôn, nhất là những vùng trọng điểm lúa. Đầu tư xây dựng mới các cơ sở chế biến nông sản thực phẩm phục vụ cho xuất khẩu, phát huy thế mạnh của nông sản nhiệt đới. Phương châm là khâu sơ chế giải quyết ở bộ gia đình, tinh chế tập trung vào những xí nghiệp quy mô lớn và kỹ thuật cao của Nhà nước. -Tập trung xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống chính sách vĩ mô: + Chính sách ruộng đất: Theo hướng tăng cường quyền tự chủ cho nông dân đối với ruộng đất, thúc đẩy luân chuyển tích tụ tập trung ruộng đất kinh doanh nông nghiệp, rút bớt lao động nông nghiệp, phát triển ngành nghề phi nông nghiệp. + Chính sách tín dụng: Thúc đẩy hình thành nhanh chóng thị trường vốn ở nông thôn, tăng nguồn vốn cho vay của Nhà nước qua hệ thống tín dụng, tạo điều kiện thuận lợi, dễ dàng cho việc vay vốn, gửi tiền, xúc tiến mạnh việc xây dựng hệ thống tín dụng nhân dân ở khu vực nông thôn. + Chính sách giá cả, thị trường: Thúc đẩy mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm hàng hóa và làm tốt khâu dịch vụ cho nông dân. + Đổi mới HTX và các doanh nghiệp Nhà nước để làm tốt khâu dịch vụ "đầu vào" "đầu ra" thực sự hỗ trợ tích cực cho kinh tế hộ phát triển. + Sớm có luật khuyến khích đầu tư trong nước và các chính sách, giải pháp tạo vốn cho NN,NT. 2. Một số giải pháp chung: Để thực hiện quan điểm, mục tiêu, phương thức và hướng ưu tiên đầu tư nêu trên, cần triển khai một hệ thống đồng bộ nhiều chính sách và biện pháp lớn, trong đó tập trung chủ yếu là các chính sách giải pháp sau đây: 2.1. Đầu tư và tín dụng: Cần tăng tỷ trọng vốn đầu tư cho nông nghiệp lên tương ứng với đóng góp của nông nghiệp vào tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân. Chúng ta cần thực hiện một số giải pháp cụ thể sau: - Về vốn đầu tư từ NSNN. + Tập trung vào các lĩnh vực: xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất, nhất là thủy lợi, phân bố lại dân cư, xây dựng vùng kinh tế mới, định canh, định cư, khai hoang phủ xanh đất trống đồi trọc, nghiên cứu khoa học triển khai công nghệ vào sản xuất, khuyến nông, sản xuất và giữ giống đầu dòng, giống cấp I thuộc hệ thống giống quốc gia, các chương trình phát triển nông thôn về giáo dục, văn hóa, y tế, bảo trợ giá một số mặt hàng nông nghiệp quan trọng có tỷ suất hàng hóa lớn khi có biến động giá cả của thị trường quốc tế. Đầu tư vào các ngành công nghiệp phục vụ nông nghiệp (bằng nguồn vốn nhà nước và tranh thủ vốn nước ngoài, hoặc liên kết liên doanh) nhất là công nghiệp sản xuất phân bón, hóa chất, cơ khí công cụ và trang thiết bị chế biến nông sản... tạo điều kiện cho nông nghiệp nước ta sớm được hiện đại. + Có chính sách khuyến khích khả năng tự tăng trưởng vốn đầu tư vào nông nghiệp của các thành phần kinh tế; huy động được nguồn vốn tự có của nông dân và các lực lượng phi nông nghiệp đầu tư vào trồng trọt, chăn nuôi, trồng rừng, khai hoang đất trống đồi trọc, nuôi trồng thủy sản và phát triển công nghiệp nông thôn. + Thu hút các nguồn vốn nước ngoài đầu tư vào nông nghiệp bằng nhiều hình thức như: hợp tác liên doanh sản xuất, chế biến và bao tiêu sản phẩm; cho thuê một số vùng đất nhất định để mở cơ sở sản xuất, vay vốn của nước ngoài và các tổ chức quốc tế theo các dự án, gắn vay vốn với bao tiêu sản phẩm. - Về vốn tín dụng. + Củng cố phát triển và mở rộng hệ thống ngân hàng nông nghiệp hiện nay. + Phát triển đa dạng các hình thức tín dụng nông thôn, các tổ chức tín dụng nhân dân, khai thác mọi nguồn lực, khuyến khích mọi hình thức tín dụng nhằm hỗ trợ vốn cho nhân dân; nâng tỷ lệ số hộ được vay tín dụng nhà nước từ 32% tổng số hộ hiện nay lên 50-60% trong một vài năm tới. Khuyến khích các hình thức hợp tác tự nguyện của nông dân trong khâu tín dụng để có điều kiện cho nông dân vay với hình thức tín chấp. Đơn giản hóa các thủ tục vay vốn phù hợp với trình độ dân trí và đặc điểm sản xuất nông nghiệp, tập quán địa phương. Nhà nước khuyến khích và hướng dẫn các hình thức huy động vốn trong nhân dân mang tính chất hợp tác như: các tổ tín dụng, các hình thức tín dụng truuyền thống trong nhân dân (phường, họ) có nội dung lành mạnh hỗ trợ lẫn nhau, từng bước thu hẹp nạn vay nặng lãi ở nông thôn. + Tổng kết kinh nghiệm thí điểm hình thức tín dụng nhân dân để triển khai khẩn trương việc xây dựng trên diện rộng, hệ thống tín dụng nhân dân, ngân hàng cổ phần ở các vùng nông thôn nhằm huy động vốn và cho vay vốn hỗ trợ trực tiếp cho các hộ nông dân phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Ban hành hệ thống lãi suất tín dụng hợp lý, phù hợp với cơ chế thị trường để ngăn chặn những tiêu cực phát sinh, tạo điều kiện thuận lợi, tin cậy cho nông dân vay vốn và góp vốn. + Kế hoạch hóa ở tầm vĩ mô mạng lưới hệ thống ngân hàng, hệ thống tín dụng nông thôn thích ứng với những vùng lãnh thổ thay thế cho hệ thống tín dụng trước kia ở nông thôn, xúc tiến nhanh việc thành lập quỹ tín dụng nhân dân rộng khắp. + Chuyển toàn bộ hoạt động tín dụng ngân hàng sang hạch toán kinh doanh, nâng cao quyền tự chủ (tạo vốn, phân phối vốn, lãi suất tiền vay, tiền gửi...) và hoạt động theo đúng pháp luật. + Bên cạnh đó, cần xác định trách nhiệm của ngân hàng nhà nước trong việc cho phát triển sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn. ở nhiều nước trách nhiệm này được quy định bằng một tỷ lệ bắt buộc vốn ngân sách nhà nước dành cho nông dân vay. ở Việt Nam thuộc hệ thống ngân hàng nông nghiệp và dĩ nhiên nhà nước phải hỗ trợ vốn. 2.2. Khuyến nông, chuyển giao tiến bộ khoa học công nghệ, giáo dục, đào tạo nâng cao trình độ mọi mặt cho nông dân. Khuyến nông có thể được coi là một quá trình dịch vụ thông tin, truyền bá kiến thức và đào tạo tay nghề cho nông dân, giúp họ có thêm khả năng tự giải quyết các vấn đề đặt ra trong sản xuất kinh doanh và đời sống xã hội. Trong cơ chế mới hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ, khuyến nông được coi là một biện pháp cấp bách và lâu dài có tác động sâu sắc đến quá trình phát triển sản xuất hàng hóa của nông dân và xây dựng nông thôn mới. Vì vậy phải xây dựng hệ thống khuyến nông mạnh từ Trung ương đến cơ sở, tập hợp được nhiều chuyên ngành chuyên môn, nhiều cán bộ kỹ thuật, quản lý, kinh tế và những nông dân sản xuất giỏi có kinh nghiệm làm giàu. Đi đôi với việc phát triển hệ thống khuyến nông quốc gia, nhà nước khuyến khích việc thành lập các tổ chức khuyến nông tự nguyện do các nhà khoa học, các nhà kinh tế, các doanh nghiệp và các cá nhân đứng ra tổ chức và hoạt động. Các hình thức khuyến nông có thể là: xây dựng các mô hình trình diễn, tổ chức cho nông dân đến thăm quan, trao đổi kinh nghiệm với những nông dân sản xuất giỏi; truyền bá kiến thức mới trên các phương tiện thông tin đại chúng; tổ chức các hội nghị đầu bờ, trang trại chăn nuôi theo phương châm "Trăm nghe không bằng một thấy"; tổ chức các hội thảo kỹ thuật, các cuộc hội nghị sơ kết, tổng kết phát động thi đua, tuyển chọn, khen thưởng những nông dân sản xuất giỏi; tổ chức các câu lạc bộ nghề nghiệp và câu lạc bộ nông dân sản xuất giỏi, thu hút rộng rãi nông dân tham gia... Nhà nước cần dành nguồn vốn đầu tư thỏa đáng cho chương trình khuyến nông, đồng thời có chính sách thu hút nguồn vốn của các ngành hàng, các cơ sở kinh doanh nông sản và nguồn tài trợ của quốc tế tham gia đầu tư vào công tác khuyến nông. Ngành nghề là thế mạnh trong nông thôn mà ở vùng nào, miền nào cũng có. Cần khuyến khích các hộ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giảm dần và rút bớt lao động sang ngành nghề phi nông nghiệp. Để giải quyết việc này nhà nước cần: Lập quỹ hoặc dành một tỷ lệ vốn nhất định với lãi suất thấp để cho vay. Giúp đỡ vốn để đổi mới kỹ thuật, công nghệ nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa. Khai thông thị trường, tìm kiếm thị trường mới và kích thích mở rộng thị trường nội địa. Có chính sách miễn giảm thuế, chính sách giá thích hợp (hạ bớt giá đầu vào: điện, sắt, thép...) 2.3. Chính sách, giải pháp ổn định thị trường. Xây dựng, tổ chức và đầu tư thích đáng cho công tác dự báo thị trường bao gồm cả thị trường trong nước và ngoài nước, cả thị trường tiêu thụ nông sản và thị trường vật tư, dịch vụ cho nông nghiệp, đồng thời, mở rộng và tăng cường công tác thông tin kinh tế - đặc biệt là thông tin về thị trường, giá cả hàng nông phẩm, tăng cường khả năng tiếp thị tạo điều kiện cho các hộ và các tổ chức kinh tế hoạch định được kế hoạch sản xuất và tiêu thụ sản phẩm thích ứng với thị trường. Tăng nhanh sức mua của thị trường trong nước bằng các biện pháp đồng bộ, bao gồm: hướng dẫn nông dân đẩy mạnh sản xuất, đa dạng hóa sản phẩm, nâng cao hiệu quả kỹ thuật, tăng nhanh thu nhập, xóa bỏ các khoản huy động đóng góp của nông dân không có trong quy định của chính sách và pháp luậtcủa nhà nước. Các chính sách của nhà nước cần quan tâm nhiều hơn đến lợi ích nông dân, phát triển mạnh lưu thông trao đổi hàng hóa, ngăn chặn, nạn đầu cơ tích, làm hàng giả, buôn bán gian lận nhằm bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng hàng nội địa, khuyến khích hình thành các tụ điểm công nghiệp, thương nghiệp, dịch vụ ở nông thôn, phát triển tại nông thôn, tạo điều kiện đưa hàng đến tay người tiêu dùng. Đi đôi với tăng cường sức mua của thị trường trong nước, phải đẩy mạnh việc tìm kiếm thị trường xuất khẩu. Một mặt phải duy trì quan hệ thương mại với các thị trường truyền thống, mặt khác mở rộng quan hệ thương mại với nhiều nước khác. Phải ra sức đổi mới công nghệ sản xuất chế biến, nâng cao chất lượng hàng hóa để có thể đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới, khắc phục tình trạng quá nhiều đầu mối xuất, nhập khẩu, tranh xuất, tranh nhập để người nước ngoài ép giá. Xây dựng các hiệp hội xuất khẩu trước hết là đối với những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu, đưa các hiệp hội này tham gia vào các hiệp hội của thế giới. Phấn đấu để trong vòng 3 năm giải quyết cho được thị trường tiêu thụ lớn ổn định lâu dài cho những hàng nông sản quan trọng như gạo, tơ tằm, cao su, cà phê, hải sản, thịt rau quả, thoát dần tình trạng xuất khẩu từng chuyến, từng món qua trung gian. Khuyến khích các đơn vị trực tiếp giao dịch, tiếp xúc với thị trường nước ngoài, để học tập kinh nghiệm kinh doanh, chọn được thiết bị công nghệ tiên tiến để tự đổi mới công nghệ sản xuất làm ra những sản phẩm có giá trị xuất khẩu cao. 2.4. Bảo trợ nông nghiệp và bảo hiểm sản xuất. Nhà nước lập quỹ bảo trợ nông nghiệp khi có biến động lớn về giá cả nhằm bảo đảm cho người sản xuất, kinh doanh nông nghiệp có thêm điều kiẹn để yên tâm đầu tư vào nông nghiệp. Phạm vi bảo trợ tập trung trước hết vào những sản phẩm nằm trong chương trình trọng điểm của nông nghiệp. Quỹ bảo trợ nông nghiệp của Nhà nước được hình thành từ các nguồn do ngân sách cấp một phần, phần còn lại từ nguồn trích lợi nhuận để lại của các ngành hàng, các nguồn tài trợ của quốc tế, các nguồn từ các tổ chức kinh tế - xã hội. Phương thức bảo trợ chủ yếu thông qua hình thức tín dụng. Viện trợ cấp cấp không hoàn lại được thể hiện dưới hình thức miễn giảm lãi suất, xóa một phần hoặc toàn bộ số nợ khi đến kỳ hạn thanh toán do Chính phủ xét duyệt và quyết định. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chịu trách nhiệm trước Chính phủ, phối hợp với các ngành có liên quan tổ chức thực hiện việc quản lý và sử dụng quỹ. Dưới sự tác động của cơ chế thị trường, để giá cả nông phẩm không xuống quá thấp, người sản xuất không bị lỗ mà có lãi, trong điều kiện nước ta hiện nay Nhà nước nên áp dụng cơ chế bảo hộ thông qua điều tiết cung - cầu hàng nông sản trên thị trường. Bằng cách Nhà nước dành vốn cho các ngành hàng vay với lãi suất hợp lý để thu mua hết nông sản hàng hóa dư thừa trong nông dân. Chỉ khi nào biện pháp cung cầu chưa đủ sức kích thích giá nông sản lên, người sản xuất và kinh doanh bị thua thiệt thì nhà nước dùng biện pháp miễn giảm thuế... Ngân sách nhà nước phải tài trợ cho khoản chênh lệch giữa lãi suất cho vay thấp, so với lãi suất thị trường. Mấu chốt của giải pháp bảo trợ là nhà nước phải điều tiết thị trường giữ cho giá hàng nông sản không bị xuống quá thấp. Sản xuất nông nghiệp thường gặp thiên tai và rủi ro nên cần có chính sách bảo hiểm. Trước mắt, cần khuyến khích và hướng dẫn các hình thức lập quỹ bảo hiểm sản xuất trong các tổ chức kinh tế hoặc trong từng khu vực, nhất là ở những vùng có tỷ trọng hàng hóa cao, sản phẩm gắn liền với chế biến có thể lấy cách xí nghiệp chế biến làm nòng cốt và động viên những người sản xuất kinh doanh đóng bảo hiểm. Thông qua việc thực hiện bảo hiểm sản xuất theo khu vực, rút kinh nghiệm để thực hiện bảo hiểm Nhà nước đối với một số mặt hàng sản xuất trong nông nghiệp. 2.5. Đầu tư cho công tác nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu nghiên cứu vào thực tiễn. Để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất kinh doanh, khoa học kỹ thuật và công nghệ là động lực quan trọng. Trong những năm trước mắt, khoa học kỹ thuật nông nghiệp cần tập trung nghiên cứu lai tạo giống tốt (cây trồng, vật nuôi) kể cả áp dụng những công nghệ mới về sinh học để tạo ra những giống mới, xây dựng hệ thống, biện pháp kỹ thuật tổng hợp về thâm canh trong trồng trọt, chăn nuôi, làm sạch, chuyển giao công nghệ chế biến, bồi dưỡng kiến thức tổ chức quản lý kinh doanh... đến từng hộ gia đình. Để thực hiện được yêu cầu, nhiệm vụ nêu trên cần phải: + Tăng cường và đổi mới đầu tư cho công tác nghiên cứu khoa học và ứng dụng những thành tựu nghiên cứu vào thực tiễn. Ngoài vốn ngân sách, nhà nước cần có chính sách động viên sự đóng góp của mọi thành phần kinh tế, đồng thời mở rộng hợp tác với các tổ chức quốc tế và các nước để có thêm nguồn vốn, trang thiết bị cho các nước để có thêm nguồn vốn, trang thiết bị cho nghiên cứu khoa học, đổi mới kỹ thuật. Thêm nữa, một thực tế ở nước ta hiện nay là chưa thật sự chú ý đến công tác ứng dụng những thành tựu nghiên cứu vào thực tiễn. Do vậy cần tăng thêm vốn đầu tư cho việc ứng dụng những thành tựu nghiên cứu vào thực tiễn theo hướng: đổi mới quản lý khoa học, gắn khoa học kỹ thuật với sản xuất và đời sống nông dân thông qua hình thức ký kết hợp đồng nghiên cứu, ứng dụng, triển khai, thông qua các dự án, các chương trình tổng hợp... + Sắp xếp lại các cơ sở nghiên cứu khoa học kỹ thuật phục vụ sản xuất nông nghiệp, nông thôn, phân công hợp lý chức năng, nhiệm vụ tránh tình trạng phân tán, chồng chéo. + Có chính sách sử dụng và chế độ đãi ngộ thỏa đáng với cán bộ khoa học kỹ thuật trong lĩnh vực nông nghiệp - nông thôn, nhất là đối với những sáng tạo về khoa học, công nghệ và các tiến bộ khoa học - công nghệ được ứng dụng có hiệu quả vào tiễn. 3. Giải pháp cụ thể. 3.1.Cơ sở nguồn lực Theo em, mặc dù hiện nay nền công nghiệp của nước ta tuy chưa lớn đủ để đáp ứng cho nhu cầu của công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn nhưng vấn đề là phải làm gì để đưa những cái đó áp dụng vào phát triển sản xuất nông nghiệp. Nhà nước ta có một hệ thống quản lý hành chính từ Trung Ương đến các xã phường, làng xóm để chăm lo cuộc sống cho nhân dân. Nhưng thực tế hiện nay chức năng phát triển kinh tế của các cơ quan quản lý ở địa phương bị lu mờ đi, làm cho đường lối của Đảng không đến được với người dân lao động nhất là những người ở các vùng nông thôn. Chúng ta chưa sử dụng hệ thống các cơ quan này một cách có hiệu quả nhất để phát triển kinh tế đất nước, nhất là phát triển kinh tế nông thôn. Nhà nước ta cần quan tâm hơn nữa đối với việc phát triển kinh tế nông thôn. Nhưng chỉ có chính phủ không thì chưa đủ mà cần phải có sự liên kết nhất định giữa các cơ quan Trung Ương với các cơ quan ở địa phương; trong đó, các cơ quan ở Trung Ương cần có những cá nhân xuống tận các địa phương nghiên cứu tình hình thực tế sau đó vạch ra các kế hoạch phân bổ nguồn lực một cách cụ thể. Tiếp đó các cơ quan ở địa phương có trách nhiệm sử dụng một cách có hiệu quả nhất các nguồn lực đó. Để có thể thực hiện được phương kế đó, chúng ta cần có những nhà lãnh đạo giỏi, tận tâm, sâu sát với cuộc sống của nhân dân; chúng ta cũng cần những nhà kinh tế giỏi có đức có tài; cần những nhà nghiên cứu tận tụy; các kỹ sư nông nghiệp giỏi nghiệp vụ và cuối cùng là cần một lượng vốn nhất định. Chúnh ta lần lượt xem xét các nguồn lực đó. Thứ nhất, về các nhà lãnh đạo: Với dân số hơn 80 triệu người, nước ta không thiếu những nhà lãnh đạo có đức, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, quan tâm đến cuộc sống của nhân dân. Nhưng vấn đề là làm sao chúng ta có thể lựa chọn một cách chính xác. Công việc này hoàn toàn mang tính chất chủ quan, do đó chúng ta nên phát huy tính dân chủ chính thống trong việc bầu cử và cương quyết sáng suốt trong hành động. Trong công tác bầu cử của chúng ta hiện nay, mặc dù mang tính dân chủ nhưng còn nhiều hạn chế. Chẳng hạn như công bố lý lịch của những người trong danh sách bầu cử đại biểu quốc hội, trong thực tế là có rất nhiều cử tri đi bầu cử mà không hề biết gì về người mà mình bầu... Chúng ta đi bầu cử là để bầu ra những người có đức, có tài; rồi những người này lại đại diện cho dân chúng bầu ra những người lãnh đạo của đất nước. Nhưng dựa vào đâu để nhận biết một người có năng lực hay không. Người lãnh đạo cũng là một người sản xuất nhưng là một người sản xuất đặc biệt và sản phẩm của họ là những quyết định. Vậy muốn biết năng lực và phẩm chất của người lãnh đạo như thế nào chúng ta chỉ cần căn cứ vào chất lượng sản phẩm của hộ là được. Biểu hiện của chất lượng các quyết định đó là thành tích của tập thể mà người đó quản lý và như vậy biểu hiện cuối cùng của người lãnh đạo chính là cuộc sống, là thu nhập của người dân trong phạm vi mà họ quản lý. Đó là tiêu chuẩn tốt nhất để đánh giá phẩm chất và năng lực của người lãnh đạo. Hệ thống hành chính của nước ta được phân cấp theo chiều dọc từ Trung Ương đến địa phương đồng thời nó cũng được phân chia theo chiều ngang; do vậy mà mỗi người, mỗi cơ quan sẽ có nhiệm vụ và quyền hạn khác nhau nhưng lại liên kết với nhau như một thể thống nhất. Đối với nước ta hiện nay, chúng ta không thể không mở rộng quan hệ ngoại giao với các quốc gia khác, không thể không phát triển công nghiệp... Nhưng chúng ta cũng không nên coi trọng thái quá đến nó, mà chúng ta cần làm sao cho nền kinh tế của đất nước phát triển một cách cân đối, mọi người dân đều được hưởng những lợi ích của mình. Chúng ta cần phải có sự quy hoạch trong việc phát triển kinh tế đất nước, cần kết hợp sự phát triển của công nghiệp với nông nghiệp để từ đó tiến hành công nghiệp hóa nông nghiệp và nông thôn thì sự nghiệp công nghiệp hóa mới có thể hoành thành được. Điều đó có nghĩa là mọi nơi mọi lúc, chúng ta đều rất cần những nhà lãnh đạo có đức, có tài và có nỗi lo lắng đến cuộc sống của nhân dân. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn phải coi trọng vấn đề thanh lọc và chỉnh đốn bộ máy quản lý đất nước từ Trung Ương đến các địa phương; cần nghiêm khắc trừng trị những cán bộ không có đạo đức, làm hại đến cuộc sống của nhân dân; cần phát hiện và loại bỏ những người thiếu năng lực ra khỏi bộ máy. Về vấn đề này, có thể chúng ta cần phải học tập Trung Quốc, học cách giải quyết và xử lý những cán bộ kém về phẩm chất đạo đức. Có như vậy thì bộ máy quản lý của chúng ta mới dần đi đến sự hoàn thiện được. Thứ hai, về các cán bộ kinh tế: nước ta với hai trường đại học kinh tế lớn cùng nhiều khoa kinh tế ở các trường đại học khác, mỗi năm đào tạo ra hàng nghìn cử nhân kinh tế với các chuyên nghành khác nhau. Hiện nay chúng ta đang chưa sử dụng hết đội ngũ này, bởi hầu hết các sinh viên mới ra trường đều phải tự đi kiếm việc làm và phần lớn trong số họ đều làm trái ngành trái nghề. Từ trước đến nay gần như chúng ta sử dụng đội ngũ cán bộ kinh tế này trong công nghiệp và dịch vụ, các cử nhân kinh tế sau khi ra trường được thả nổi trong xã hội và như vậy, theo dòng chảy họ lại chảy về các thành phố thị xã để tìm việc. Tại sao như vậy? Bởi thực tế bắt họ phải như vậy; thực tế tại các địa phương cho thấy rằng những kiến thức mà các cử nhân kinh tế tích lũy được trong quá trình học tập nếu về địa phương sẽ không có cơ hội sử dụng và thậm chí còn bị vùi dập đi. Và giả sử nếu Chính phủ ta có ưu đãi đối với những cán bộ lên vùng sâu vùng xa làm việc thì kết quả cũng chỉ là con số không mà thôi. Bởi lẽ làm một việc gì chúng ta cũng cần có những kế hoạch cụ thể từ trên xuống và cần có sự kết hợp giữa các ban ngành địa phương cùng thực hiện thì mới có thể thành công được. Một vài cử nhân kinh tế mới ra trường, cho dù họ có tài giỏi đến đâu, nếu không được sự hợp tác giúp đỡ của các ban ngành địa phương, không nằm trong những kế hoạch phát triển kinh tế xã hội cụ thể thì làm sao họ có thể gây ra những ảnh hưởng lớn được, làm sao họ có đủ nguồn lực để thực hiện ý tưởng của mình. Như vậy, số lượng và chất lượng của đội ngũ cán bộ chúng ta không thiếu và nếu thiếu chúng ta có thể đào tạo thêm nhưng điều quan trọng là chúng ta dùng họ như thế nào để có thể phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn? Thứ ba, về các kỹ sư nông nghiệp: Có thể nói đội ngũ các trường đại học đào tạo kỹ sư nông nghiệp ở nước ta không ít. Mỗi năm hàng nghìn kỹ sư nông nghiệp ra trường với đủ các chuyên ngành khác nhau. Với số lượng như vậy họ sẽ đi đâu? làm gì và làm như thế nào? Đáng lẽ ra với kiến thức của mình họ phải trở về những miền quê để phát triển sản xuất nông nghiệp nhưng phần nhiều trong số họ lại ra các thành phố tìm việc làm, thậm chí làm việc trong các ngành nghề không liên quan gì đến kiến thức mà họ được học. Vấn đề sinh viên Việt Nam ra trường làm trái ngành trái nghề đang là một vấn đề bức xúc hiện nay. Chúng ta sẵn sàng đầu tư tiền của để dào tạo ra những kỹ sư, những cử nhân; vậy mà sau khi ra trường họ lại không được sử dụng những kiến thức mà họ đã bao năm nhọc nhằn mới có được. Quay lại vấn đề sinh viên mới ra trường, cũng giống như các tân cử nhân kinh tế thì các tân kỹ sư nông nghiệp cũng vì hoàn cảnh tương tự nên cũng phải rời bỏ miền quê thân yêu của mình để lên thành thị kiếm tìm đất dụng võ. Điều đó cũng nói lên sự quan trọng của các kế hoạch, các dự án phát triển kinh tế xã hội. Các tân kỹ sư nông nghiệp muốn được sử dụng, muốn phát huy được vốn kiến thức của mình, muốn có việc làm thì phải là các thành phần mà nói đúng hơn thì họ phải là các bộ phận trong nguồn lực của một dự án nào đó, và điều này cũng đúng với một số cử nhân kinh tế. Thứ tư, về các nhà nghiên cứu: Hầu như ở mỗi trường đại học ở miền Bắc nước ta đều có một viện nghiên cứu riêng, ngoài ra còn có các viện nghiên cứu chung của cả nước. Chính phủ ta cũng đã đầu tư rất nhiều cho các viện nghiên cứu và các nhà nghiên cứu của chúng ta cũng đã hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, chẳng hạn như các nhà nghiên cứu về vấn đề nông nghiệp và nông thôn. Trong thời gian gần đây với sự phát triển của khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ sinh học, họ đã tìm ra nhiều loại cây trồng vật nuôi có năng suất cao, phẩm chất tốt. Nhưng tại sao ở mỗi gia đình, trên mỗi cách đồng của miền quê Việt Nam vẫn tồn tại những giống cây trồng vật nuôi gần như đã bị thoái hóa. Đó cũng là sự khác biệt của Việt Nam với các nước công nghiệp phát triển. ở những nước này, họ rất đề cao việc nghiên cứu khoa học đồng thời họ càng coi trọng kết quả của việc nghiên cứu hơn; với họ những phát minh mới sẽ được áp dụng vào những mô hình cụ thể ngay và nếu thành công thì người chủ của những phát minh đó sẽ được thưởng rất nhiều và còn được hưởng nhiều ưu đãi khác. Nhưng với nước ta lại khác, chúng ta có quan tâm thậm chí còn quan tâm rất nhiều đến công việc nghiên cứu khoa học nhưng chúng ta lại không coi trọng việc áp dụng những thành tựu của việc nghiên cứu đó vào thực tiễn sản xuất. Nhà nước ta đã đầu tư và đầu tư nhiều cho các viện nghiên cứu, các nhà nghiên cứu của chúng ta với những phương tiện hiện đại, với tinh thần làm việc hết mình đã đạt được những kết quả đáng nể. Nhưng những thành quả đó gần như chỉ tồn tại ở trong các phòng thí nghiệm mà thôi. Điều đó không phải là do những giống mới không thể đưa ra sản xuất đại trà được, mà là do công tác ứng dụng những thành tựu khoa học vào sản xuất ở nước ta còn yếu. Để đẩy mạnh sự phát triển của nền kinh tế chúng ta cần nhanh chóng khắc phục nhược điểm này. Cuối cùng về nguồn vốn đầu tư: từ trước đến nay, Đảng và Nhà nước ta đã nhiều lần cho rằng: cần phải phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn. Nhưng nguồn vốn cung cấp cho công việc này lại quá ít, tỷ lệ vốn đầu tư cho phát triển nông nghiệp trong tổng thu nhập quốc dân nhỏ hơn so với công nghiệp và xây dựng rất nhiều. Điều đó có phải là do chính phủ ta cho rằng việc phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn là không quan trọng? Nguồn vốn đầu tư đã quá ít thì việc sử dụng vốn lại không hiệu quả bởi vì chúng ta đã quá dàn trải số vốn ít ỏi của mình đồng thời lại không có những mô hình, những dự án cụ thể trong việc sử dụng vốn. Với thực tế của nước ta hiện nay, để phát triển nông nghiệp và nông thôn cũng không cần một lượng vốn quá lớn đến độ không thể có được, mà lượng vốn cần cho việc đó chúng ta hoàn toàn có thể giải quyết được một cách hợp lý và chỉ cần chúng ta quan tâm hơn đến 80% dân số đang sinh sống ở khu vực nông thôn. Bởi lẽ cơ sở ban đầu cho cho việc phát triển sản xuất nông nghiệp là không lớn, mỗi hộ nông dân có thể tự lo được, chỉ cần cung cấp giống cây trồng, vật nuôi thích hợp cho họ, cung cấp thức ăn phân bón thích hợp, cung cấ dịch vụ thú y, giải quyết khâu đầu ra cho họ là được. Mọi kế hoạch đầu tư cho phát triển nông nghiệp và nông thôn cần phải kế hoạch thành các nguồn vốn đầu tư cho các dự án và tất nhiên là các dự án đó phải khả thi. Nguồn vốn ít hay nhiều, điều đó không quan trọng, mà điều quan trọng là cần phải đầu tư một cách có hệ thống, có kế hoạch và cần thiết phải xây dựng các mô hình cụ thể để hiệu quả vốn đầu tư là cao nhất. Việc sử dụng nguồn vốn ngân sách có hệ thống và có kế hoạch thông qua các dự án và các mô hình cụ thể cũng sẽ có tác động rất lớn đến việc huy động các nguồn vốn còn tồn đọng trong các hộ dân cư vào phát triển sản xuất nông nghiệp. Bởi chính những dự án đó, những mô hình đó sẽ là nguồn chỉ dẫn cho ngừơi dân sử dụng nguồn vốn ứ đọng nhiều năm của họ một cách có hiệu quả. Như vậy mọi điều kiện cho phát triển kinh tế nông nghiêp và nông thôn chúng ta đều đã có, thậm chí có một cách rất đầy đủ. Vậy chúng ta cần làm gì bây giờ? Với tư cách là một người con của đồng ruộng - đã phần nào thấm được nỗi khổ cực của một người nông dân, phần nào hiểu được nỗi khổ của họ - đồng thời với tư cách là sinh viên năm cuối của khoa kế hoạch và phát triển trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà nội, em xin đưa ra ý kiến của mình về đầu tư Nhà nước cho phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn. Qua đó, em mong sao có thể đóng góp được phần nào sức lực nhỏ bé của mình vào sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, phần nào làm giảm được nỗi khổ của của những người nông dân. 3.2 Các bước tiến hành cụ thể Đầu tư Nhà nước cho phát triển nông nghiệp, nông thôn được tiến hành theo các bước sau: Bước 1: ở bước này theo em thì cần thực hiện đồng thời hai công việc sau: Thứ nhất: là nghiên cứu điều kiện tự nhiên của mỗi vùng, gồm có: khí hậu và đất đai. Nói về điều kiện tự nhiên của mỗi vùng thì có rất nhiều yếu tố cần bàn đến, nhưng trong phạm vi bài nghiên cứu này chỉ cần đề cập đến hai yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp và quyết định đến sản xuất nông nghiệp đó là khí hậu và đất đai. *Về khí hậu: Đặc điểm chung của khí hậu nước ta là mang tính chất nhiệt đới gió mùa ẩm. Tuy nhiên tính chất gió mùa đó lại có những biểu hiện khác nhau ở mỗi vùng khác nhau và nó thích hợp đối với những loại vật nuôi cây trồng khác nhau. Do vậy, chúng ta cần phải nghiên cứu kỹ xem khí hậu ở mỗi vùng là có những đặc điểm gì và với đặc điểm đó thì thích hợp với loại cây trồng vật nuôi nào. Chúng ta cần làm tốt công việc này bởi nó có ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả của toàn bộ các dự án sau này. Làm tốt công việc này có nghĩa là tìm ra đúng đặc điểm khí hậu của vùng và từ đó tìm ra được loại cây trồng, vật nuôi thích hợp; khi đó chúng sẽ cho ra sản phẩm có năng suất cao, phẩm chất tốt. Còn chúng ta làm không tốt công việc này tức là không tìm ra đúng đặc điểm khí hậu của vùng từ đó dẫn đến việc đưa những giống cây trồng vật nuôi không thích hợp vào sản xuất và khi đó hậu quả là rất lớn: nó không những làm thiệt hại về mặt kinh tế mà còn làm mất lòng tin của nhân dân đối với người lãnh đạo và nếu như chúng ta muốn tiếp tục tiến hành sẽ gặp rất nhiều khó khăn. *Về đất đai: Cần phải nghiên cứu xem chất đất ở mỗi vùng gồm những thành phần nào và với những thành phần đó thì thích hợp với loại cây trồng gì. Việc làm này cũng rất quan trọng bởi nó cũng trực tiếp ảnh hưởng đến kết quả của toàn bộ các dự án sau này. Hai công việc này tưởng chừng đơn giản nhưng thực ra lại rất phức tạp và khó khăn trong khi tiến hành. Nó đòi hỏi những loại máy móc hiện đại, có độ chính xác cao, đồng thời cũng rất cần sự liên kết trong công việc giữa các nhà khí tượng, các nhà địa chất với các nhà sinh học và chỉ khi có sự liên kết đó mới có thể đưa ra đựơc kết quả với độ chính xác cao.Tuy đây là công việc phức tạp, đòi hỏi công nghệ cao nhưng với điều kiện khoa học của nước ta hiện nay, em nghĩ việc này hoàn toàn khả thi nếu có được sự quan tâm của chính phủ. Với công việc này chúng ta không cần nhiều vốn bởi vì cũng không cần có nhiều máy móc và công nhân làm việc. Do điều kiện tự nhiên là ít thay đổi trong phạm vi tương đối rộng nên cả nước chỉ cần khoảng tám tổ nghiên cứu là có thể đảm nhiệm được toàn bộ công việc. Họ sẽ lần lượt đi đến từng vùng, cho ra những dữ liệu cụ thể rồi đưa về trung tâm điều khiển và tiếp tục đi đến những vùng khác để nghiên cứu. Cuối cùng sẽ có một bảng tổng hợp kết quả của tất cả các vùng, lúc này cần có sự kết hợp với các nhà sinh học để cho ra những loại vật nuôi, cây trồng thích hợp với điều kiện của mỗi vùng. Thứ hai: Công việc thứ hai cần làm đồng thời với công việc trên là nâng cao vai trò phát triển kinh tế của chính quyền các địa phương. Thực tế cho thấy rằng, chính quyền địa phương ở các tỉnh chưa thực sự chú ý đến vai trò phát triển kinh tế của mình, nhất là ở cấp huyện và cấp xã. Những cơ quan này mới chỉ chú ý giải quyết các vấn đề về hành chính, về trật tự an ninh xã hội và các vấn đề về chính trị xã hội khác. Các vấn đề về chính trị, về trật tự an ninh xã hội quả thật rất quan trọng nhưng trong thời buổi hiện nay, phát triển kinh tế là vấn đề trọng tâm nhất, chúng ta cần làm sao cho thu nhập của người dân tăng cao và chỉ khi nhân dân ta có thu nhập cao thì mới dễ dàng cho việc xây dựng một xã hội văn minh được.Vậy, vai trò của bộ máy chính quyền địa phương là gì? Đó là điều mà chúng ta cần làm rõ. Đất nước ta đã độc lập, nhân dân ta đã được tự do nhưng nhân dân ta vẫn chưa sung sướng. Xây dựng đất nước là nhiệm vụ hàng đầu của đất nước ta hiện nay, do vậy phát triển kinh tế là nhiệm vụ hàng đầu của các nhà lãnh đạo, là nhiệm vụ hàng đầu của bộ máy chính quyền các địa phương. Để phát triển kinh tế ở một vùng nông thôn không phải là một vấn đề đơn giản, nó đòi hỏi người lãnh đạo phải có lòng thương đối với nhân dân, quan tâm sát sao đến việc sản xuất và đời sống của nhân dân. Phát triển kinh tế nông thôn cán bộ huyện, cán bộ xã có vai trò rất lớn. Họ là những người trực tiếp điều hành hoạt đông sản xuất của người dân đồng thời là cầu nối giữa nhân dân với cán bộ lãnh đạo cấp trên và với những tiến bộ khoa học kỹ thuật. Họ là người trực tiếp cung cấp đầu vào cho hoạt động sản xuất của nhân dân, đồng thời cũng là người giải quyết đầu ra cho nhân dân. Đó chính là phương thức hoạt động của các hợp tác xã kiểu mới. Tuy nhiên, chúng ta cũng không cần cho hình thành các hợp tác xã kiểu mới như vậy mà chỉ cần nâng cao trách nhiệm của các nhà lãnh đạo đối với hoạt động sản xuất của người nông dân mà thôi. Nói tóm lại, công việc mà chúng ta cần làm là chỉnh đốn thanh lọc đội ngũ cán bộ địa phương ; tìm ra những người có đức có tài, có lòng yêu nước thương dân đứng lên chăm lo cuộc sống cho nhân dân; đồng thời nâng cao vai trò phát triển kinh tế của chính quyền các địa phương. Đây là một công việc tế nhị, muốn làm tốt được đòi hỏi phải có lòng quyết tâm và cương quyết xử lý những người sai phạm. Bước hai: ở bước này cần làm hai việc sau: Thứ nhất: đưa các giống cây trồng vật nuôi vào sản xuất. Cần lưu ý một điều rằng chúng ta không thể cùng một lúc cung cấp giống mới cho tất cả các hộ nông dân bởi vì làm như vậychúng ta sẽ cần rất nhiều vốn, đồng thời trong mỗi vùng cũng sẽ có rất nhiều những hộ nông dân chưa thật sự tin tưởng nên không dám làm; thêm nữa, người dân lúc đầu chưa có kiến thức trong việc sản xuất kiểu này nên dễ dẫn đến sự đổ vỡ lớn. Như đã nói, trong mỗi làng mỗi xã luôn luôn có những hộ tiên tiến, có ý chí muốn làm giàu nên khi tiến hành chúng ta cần quan tâm tới những hộ này, đưa mô hình sản xuất áp dụng vào việc sản xuất của họ. Sau khi nghiên cứu kỹ điều kiện tự nhiên, tìm ra được giống cây trồng vật nuôi thích hợp, tiến hành cung cấp cây giống, con giống cho một số hộ có tư tưởng tiến bộ trong các khu vực, đồng thời phổ biến phương pháp tiến hành sản xuất cho các hộ này bằng cách mở các lớp bồi dưỡng cấp tốc tại các địa phương; rồi cung cấp phân bón, thức ăn thích hợp cho họ. Thứ hai: Tiến hành phân bổ các kỹ sư nông nghiệp đến từng địa bàn để giúp đỡ nhân dân trong việc sản xuất. Ban đầu, mỗi xã mới chỉ có một số hộ tham gia mô hình sản xuất kiểu mới này. Do đó số kỹ sư nông nghiệp là không cần nhiều, mỗi xã có thể chỉ cần một kỹ sư về trồng trọt và một kỹ sư về chăn nuôi là đủ. Họ sẽ là những người trực tiếp hướng dẫn nhân dân trong việc sản xuất: từ việc gieo trồng, làm chuồng trại đến việc chăm sóc, chữa bệnh.... Theo xu hướng hiện nay thì công việc này sẽ gặp nhiều khó khăn bởi vì để có thể đưa các cán bộ về làm việc ở vùng nông thôn là rất khó. Nhưng nếu chúng ta có những mô hình cụ thể, có những dự án cụ thể và cho họ thấy được cái lợi họ sẽ đạt được thì có thể họ sẽ tự nguyện chấp nhận một cách dễ dàng. Sau khi hoàn thành bước hai này, một số hộ nông dân đã bắt tay vào công việc sản xuất của mình, dưới sự hướng dẫn của các kỹ sư nông nghiệp, cùng với giống tốt, phân bón hợp lý thì cuối vụ sẽ cho ra mức sản lượng cao và chất lượng tốt. Lúc này cần phải nhanh chóng hướng dẫn các hộ trong việc bảo quản sản phẩm của họ và tiêu thụ hết số sản phẩm mà họ đã làm ra. Bước ba: Tiến hành sản xuất đại trà và tiêu thụ sản phẩm. Kết thúc bước hai, một số hộ nông dân sau khi tiêu thụ sản phẩm sẽ có một khoản thu nhập cao hơn trước rất nhiều. Một phần thu nhập đó họ sử dụng để trang trải cho cuộc sống, một phần sẽ tiếp tục đầu tư cho sản xuất. Những người nông dân khác thấy vậy dần dần cũng sẽ bẳt chước làm theo; và cứ như thế, dưới sự giúp đỡ của số lượng các kỹ sư nông nghiệp ngày càng tăng thì việc sản xuất sẽ được tiến hành rộng khắp. Khi sản xuất được mở rộng, sẽ có nhiều vấn đề đặt ra cần giải quyết như: cần nhiều kỹ sư hơn, cần nhiều bác sĩ thú y hơn. Do vậy, cần phải tiến hành lập các trạm thú y, các viện nghiên cứu nông nghiệp ở tại các huyện. Cho đến lúc này thì những công việc đó hoàn toàn có thể làm được, bởi vì cầu đối với những sản phẩm đó là rất lớn và đúng theo lý thuyết kinh tế thì khi mà cầu đã lớn cung tất nhiên sẽ xuất hiện. Sau khi được thành lập, những cơ quan này sẽ trực tiếp tác động đến tiến trình sản xuất ở mỗi địa phương, sẽ là những người sát sao nhất đôi với công việc sản xuất của nhân dân. Mọi thắc mắc của người nông dân đều do những cơ quan này giải quyết và đây là cầu nối giữa người dân với những tiến bộ khoa học. Lúc này các kỹ sư nông nghiệp sẽ vừa đóng vai trò là người tư vấn trong hoạt động sản xuất của nhân dân, vừa là các bác sĩ chữa trị bệnh tật cho vật nuôi cây trồng, lại vừa là người cung cấp giống mới, cung cấp phân bón cho nhân dân. Một vấn đề nữa là việc tiêu thụ sản phẩm cho nhân dân: Đây là vấn đề nan giải ở nước ta hiện nay, chỉ vì công nghệ chế biến sau thu hoạch của chúng ta lạc hậu nên giá trị nông sản của nước ta thấp hơn các nước phát triển rất nhiều. Do đó, để phát triển nền kinh tế nước nhà, bắt buộc chúng ta phải nhập những công nghệ chế biến nông sản hiện đại hơn và cần hình thành các nhà máy chế biến nông sản tại nơi có nguyên liệu đầu vào tức là tại nơi có các hộ nông dân đang tiến hành sản xuất. Có như vậy thì quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông thôn mới có thể thực hiện được và quá trình đô thị hóa mới diễn ra nhanh chóng, đời sống của nhân dân ở nông thôn mới được nâng cao. Quá trình được tiến hành theo ba bước, với đặc điểm chung là phát triển kinh tế hộ gia đình. Nhưng ba bước trên được áp dụng chung cho cả trồng trọt và chăn nuôi, vấn đề là cần làm việc nào trước? Một thực tế hiện nay đó là số lao động ở nông thôn dư thừa rất nhiều và hầu như số lao động chính đã ra các thành phố lớn làm thuê với mong muốn tăng thu nhập cho gia đình mình. Như vậy có thể thấy rõ công việc đồng áng (mà hiện nay chủ yếu là trồng lúa) là không đủ, mặc dù là rất vất vả; điều đó đồng nghĩa với tình trạng thu nhập không đáp ứng đủ nhu cầu của người dân hiện nay và họ luôn muốn nâng cao thu nhập của mình. Để giải quyết việc làm cho số lao động dư thừa này đồng thời để nâng cao thu nhập cho các hộ nông dân, chúng ta cần phát triển chăn nuôi trước và cần theo ba bước như đã nêu trên. Khi tiến hành cần lưu ý hướng dẫn các hộ nông dân quy hoạch khu vườn nhà mình sao cho hợp lý nhất. Đối với mỗi khu vực nhất định, chúng ta nên chọn một loại vật nuôi nhất định để thuận lợi cho việc quản lý và tiêu thụ sản phẩm sau này.Vấn đề đặt ra là hiện nay hầu hết các hộ nông dân đều chăn nuôi với quy mô nhỏ và theo kiểu thủ công, mà muốn có thu nhập cao thì cần phải làm với quy mô lớn hơn. Để chuyển từ sản xuất với quy mô nhỏ sang sản xuất với quy mô lớn cần có một bước chuyển tiếp, bước này được bắt đầu ở phía những người lãnh đạo - những người hướng dẫn : Ban đầu cung cấp giống tốt cho một vài hộ nông dân, hướng dẫn họ cách tiến hành sản xuất; sau đó hướng dẫn họ nhân ra những con giống mới để tăng quy mô sản xuất của gia đình họ rồi trên cơ sở đó đi vào sản xuất với quy mô lớn thực sự. Để đi vào sản xuất với quy mô lớn, chúng ta cần hướng dẫn người dân quy hoạch lại khu vườn của họ sao cho hợp lý nhất.Về mặt này, mô hình VAC vẫn được coi là rất hợp lý và có thể hướng dẫn các hộ nông dân xây dựng thêm bình bioga để đảm bảo vệ sinh và cải thiện đời sống cho nhân dân. Kết luận Trên đây là toàn bộ những gì mà em cảm thấy tâm đắc nhất về vấn đề đầu tư nhà nước cho phát triển nông nghiệp, nông thôn. Đối với một vấn đề quá lớn như vậy, thêm nữa nhận thức và thời gian nghiên cứu còn hạn chế chuyên đề này chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo, các bác, các anh chị trong Vụ Kế hoạch và Quy hoạch – Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn cùng toàn thể bạn đọc để chuyên đề được hoàn thiện hơn nữa. Em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến thầy giáo – TS. Lê Huy Đức, Th. S Nông nghiệp Đào Quốc Luân và các thầy cô giáo khoa Kế hoạch và phát triển cùng các bác, các anh chị đang công tác tại Vụ Kế hoạch và Quy hoạch – Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn đã giúp đỡ em trong suốt quá trình nghiên cứu chuyên đề này. Em xin chân thành cảm ơn! Tài liệu tham khảo 1. Văn Kiện Đại hội Đảng V, VI, VII, VIII, IX 2. Giáo trình Kinh tế Nông nghiệp – Trường Đại học Kinh tế Quốc dân - 3. Giáo trình Kinh tế phát triển Nông thôn – Trường Đại học Kinh tế Quốc dân – 4. Giáo trình Kinh tế Đầu tư - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân - 5. Đầu tư trong Nông nghiệp – Thực trạng và triển vọng - NXB Chính trị – Quốc gia – 6. Đầu tư hỗ trợ của Nhà nước cho phát triển kinh tế hộ gia đình - NXB Chính trị – Quốc gia – 7. Tạp chí Kinh tế Đầu tư các số năm 2002 8. Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc các số năm 2002 Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33620.doc
Tài liệu liên quan