Chuyên đề Phương pháp tài khoản kế toán và việc vận dụng phương pháp tài khoản kế toán để xây dựng hệ thống tài khoản kế toán

Trong quá trình học tập tại trường, thì đây là lần đầu tiên chúng em được tiếp xúc với một môn học chuyên nghành. Hạch toán kế toán có thể được gọi là một trong những môn cơ sở, đóng vai trò là nền tảng của chuyên nghành kế toán . Qua môn học này đã giúp cho sinh viên khoa kế toán kiểm toán nói riêng và sinh viên trường tài chính nói chung có cách nhìn tổng quát về công việc của mình trong tương lai và hiểu được vai trò của nghề kế toán. Khi nghiên cứu môn học này ta thấy sự cần thiết của hạch toán kế toán. Có thể coi hạch toán kế toán như là một công cụ đắc lực của người quản lý bởi vì hạch toán kế toán chính là những hoạt động quan sát đo lường tính toán và ghi chép của con người đối với các hoạt động kinh tế xảy ra trong quá trình tái sản xuất xã hội để nhằm thu thập và cung cấp thông tin phục vụ cho công tác quản lý các hoạt động kinh tế. Bất kỳ một doanh nghiệp hay một nền kinh tế nào đều phải tiến hành hạch toán. Nếu không có hạch toán, doanh nghiệp hay nền kinh tế không thể có được các thông tin, dữ kiện cần thiết phục vụ cho công tác quản lý do đó sẽ sản xuất không có hiệu quả hoặc nền kinh tế mất ổn định. Bên cạnh đó chúng ta còn có thể tiếp cận với từng phương pháp khoa học của môn học hạch toán kế toán. Phương pháp chứng từ kế toán, phương pháp tính giá, phương pháp tổng hợp cân đối kế toán và phương pháp tài khoản kế toán. Mỗi phương pháp có những mặt tích cực riêng tổng hợp các phương pháp này tạo thành một hệ thống các phương pháp khoa học giúp cho hạch toán kế toán có thể phát huy vai trò và chức năng của mình. Đặc biệt một trong các phương pháp trên – phương pháp tài khoản giữ vai trò hết sức quan trọng. Thông qua các tài khoản kế toán được sắp xếp theo một trật tự nhất định trong hệ thống tài khoản kế toán và cách ghi phản ánh các nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh vào tài khoản kế toán. Phương pháp tài khoản kế toán đã thể hiện tính khoa học của mình bằng việc phân loại đối tượng kế toán và ghi chép phản ánh kiểm tra một cách thường xuyên liên tục có hệ thống tình hình hiện có và sự vận động của từng đối tượng kế toán - Đây là hai đặc trưng cơ bản của phương pháp tài khoản kế toán. Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa duy vật biện chứng và kinh tế chính trị học phương pháp tài khoản kế toán gắn liền với việc xây dựng kết cấu của tài khoản kế toán một cách khoa học – bao gồm hai phần với cấu trúc hình chữ T để phản ánh đối tượng kế toán ở cả trạng thái tĩnh và trạng thái động trong mối liên hệ giữa các đối tượng kế toán với nhau một cách thường xuyên liên tục có hệ thống. Các tài khoản kế toán được sắp xếp một cách khoa học theo một trình tự nhất định trong hệ thống tài khoản kế toán. Qua môn học này, với tư cách là một sinh viên Học viện Tài Chính em đã được hiểu thêm phần nào về vai trò của một người kế toán trong tổ chức cũng như tầm quan trọng của công tác kế toán. Với mong muốn tìm hiểu sâu hơn về phương pháp tài khoản kế toán, em đã lựa chọn đề tài “Phương pháp tài khoản kế toán và việc vận dụng phương pháp tài khoản kế toán dể xây dựng hệ thống tài khoản kế toán ”. Tuy nhiên do nhận thức còn giới hạn và kinh nghiệm chưa có, nên cách đánh giá chung còn nhiều thiếu sót chủ quan trong bài tiểu luận này. Em rất mong được các thầy cô đóng góp ý kiến đẻ em có thể hoàn thành đề tài này một cách tốt hơn. Để có thể hoàn thành được tiểu luận này em xin chân thành cám ơn thầy giáo Phạm Tiến Bình cùng các thầy cô trong khoa đã giảng dạy, hướng dẫn và tạo điều kiện cho em. Những kiến thức về bộ môn hạch toán mà em đã tiếp thu được, chắc chắn sẽ đóng góp vai trò rất quan trọng trong con đường học tập công tác nghiên cứu sau này. Một lần nữa em xin chân thành cám ơn các thầy cô.

doc33 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1259 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Phương pháp tài khoản kế toán và việc vận dụng phương pháp tài khoản kế toán để xây dựng hệ thống tài khoản kế toán, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phương pháp tài khoản kế toán đã phản ánh một cách có khoa học đối tượng kế toán ở bốn khía cạnh sau: Tính đa dạng, tính hai mặt , tính vận động, tính cân bằng thông qua hình thức biểu hiện và kết cấu của tài khoản kế toán và qua cách ghichép thường xuyên liên tục có hệ thống trên tài khoản kế toán các nghiệp vụ kinh tế phát sinh. 2. Nội dung kết cấu của tài khoản kế toán và tính khoa học của tài khoản kế toán . 2.1.Nội dung tài khoản kế toán. Biểu hiện cụ thể của phương pháp tài khoản kế toán là các tài khoản kế toán sử dụng và cách ghi phản ánh các nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh vào tài khoản kế toán. Như vậy tài khoản kế toán chính là hình thức biểu hiện của phương pháp kế toán. Tài khoản kế toán là cơ sở kế toán (bảng liệt kê) được sử dụng để phản ánh kiểm tra một cách thường xuyên liên tục có hệ thống tình hình hiện có và sự vận động của từng đối tượng kế toán cụ thể. Tuỳ vào mức độ cụ thể mà tài khoản kế toán có nhiều cấp khác nhau. Xét về mặt hình thức, tài khoản kế toán chính là một phương tiện của kế toán được dùng để ghi chép phản ánh sự tăng giảm của các khoản mục trên báo cáo tài chính . Xét về mặt bản chất, tài khoản kế toán chính là một công cụ phương pháp kế toán phân loại các đối tượng kế toán để phản ánh và kiểm tra thường xuyên liên tục có hệ thống tình hình hiện có và sự vận động của đối tượng kế toán Tuỳ theo yêu cầu thu thập thông tin, ghi sổ kế toán mà tờ sổ kế toán có thể bố trí một hoặc nhiều tài khoản để phản ánh nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh có liên quan đến một hoặc nhiều đối tượng kế toán .Tài khoản kế toán mở theo từng đối tượng kế toán có nội dung kinh tế riêng biệt nên ở một đơn vị có bao nhiêu đối tượng kế toán thì có bấy nhiêu tài khoản kế toán tương ứng. Tài khoản kế toán phản ánh tình hình hiện có và sự vận động của đối tượng kế toán mà nó phản ánh. Ví dụ: Đối tượng kế toán là “tài sản cố định” đ tài khoản mở tương ứng với nó là tài khoản “tài sản cố định” Tên gọi, nội dung kinh tế phản ánh của từng tài khoản kế toán do nội dung kinh tế của từng đối tượng kế toán mà tài khoản đó phản ánh quyết định . Ví dụ như tài khoản 111 “Tiền mặt ”, đối tượng mà tài khoản này phản ánh chính là tình hình thu chi tồn quỹ tại quỹ của doanh nghiệp bao gồm: Tiền Việt Nam, ngoại tệ, vàng bạc, kim khí đá quý. Do đó tên gọi của tài khoản là “tiền mặt” đồng thời nội dung phản ánh của tài khoản chính là phản ánh nội dung kinh tế của quỹ này tại doanh nghiệp. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, các hoạt động kinh tế tài chính diễn ra ngày càng phức tạp đa dạng, các nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh nhiều hơn và đối tượng kế toán liên quan tới nghiệp vụ kinh tế tài chính này cũng tăng thêm. Do đó tài khoản kế toán đang từng bước được điều chỉnh sao cho nội dung được phù hợp với đối tượng kế toán mà hạch toán kế toán cần phản ánh. Sản xuất phát triển gắn liền với sự ra đời của một số tài khoản mới đồng thời một số tài khoản cũ không còn phù hợp cũng mất đi. Ví dụ: Khi nước ta tiến hành phát triển kinh tế nhiều thành phần khoa học công nghệ ngày càng phát triển, được đánh dấu bởi dsự ra đời của nhiều phát minhđược ứng dụng thực tế trong sản xuất. Vì vậy sản xuất Tài khoản “Tài sản cố định vô hình ”, tài khoản “chứng khoán ngắn hạn ” Kể từ năm 2000 chúng ta tiến hành tính thuế giá trị gia tăng, do đó xuất hiện thêm tài khoản “Thuế giá trị gia tăng được khấu trừ ” – Trong điều kiện nền kinh tế mở cửa, hoạt động của các doanh nghiệp sẽ không ngừng mở rộng phạm vi. Để có thể quản lý tốt các đơn vị phải thường xuyên kiểm tra, giám sát các đối tượng kế toán một cách thường xuyênthông qua các tài khoản kế toán để có thể thu thập xử lý và cung cấp kịp thời các thông tin phục vụ cho việclãnh đạo điều hành đem lại kết quả cao. 2.2. Kết cấu của tài khoản kế toán. 2.2.1 Nội dung kết cấu của tài khoản kế toán. Các đối tượng kế toán cụ thể phản ánh ở các tài khoản kế toán có nội dung kinh tế khác nhau, mục đích sử dụng khác nhau, yêu cầu quản lý khác nhau…Nhưng xét về mặt vận động của chúng thì bất kỳ đối tượng kế toán cụ thể nào cũng luôn luôn vận động theo hai mặt đối lập sau: Tăng và giảm, thu và chi , nhập và xuất, vay và trả. Vì vậy để phản ánh liên tục, có hệ thống sự vận động của từng đối tượng kế toán cụ thể do các doanh nghiệp kinh tế tài chính phát sinh, tác động đến, đồng thời để thể hiện rõ tính hai mặt của vận động với từng đối tượng kế toán cụ thể tài khoản kế toán bao giờ cũng có kết cấu hai bên. Thông thường trang sổ tài khoản kế toán được xây dựng kiểu đối chiếu một bên. Để phản ánh sự vận động của tiền mặt bao gồm các hoạt động thu chi quỹ tiền mặt, tài khoản kế toán xây dựng kiểu đối chiếu một bên phản ánh đối tượng kế toán là quỹ tiền mặt có mẫu như sau: Tài khoản “Tiền mặt”. Tháng … Năm… Chứng từ Diễn giải Số tiền Số Ngày Nợ Có Dư đầu kỳ Phát sinh trong kỳ …. Cộng phát sinh Dư cuối kỳ Để thuận tiện trong học tập tài khoản kế toán được xây dựng theo hình thức kiểu chữ “T”, nó được chia thành hai bên để phản ánh riêng biệt từng mặt vận động của đối tượng kế toán. Kết cấu chung của tài khoản kế toán có dạng sau: Tài khoản ….. Nợ Có Bên trái của tài khoản là bên Nợ, phản ánh một mặt của vận động của đối tượng kế toán. Bên phải của tài khoản kế toán phản ánh mặt vận động đối lập với mặt vận động phản ánh ở bên nợ của đối tượng kế toán. Số lệu phản ánh sự vận động của đối tượng kế toán được phản ánh vào bên nợ , bên có của tài khoản kế toán được gọi là sổ phát sinh bên Nợ,bên Có của tài khoản.Số liệu của đối tượng kế toán phản ánh trên tài khoản kế toán vào thời điểm đầu kỳ, cuối kỳ hạch toán gọi là số dư đầu kỳ số dư cuối kỳ của tài khoản kế toán. Như vậy với kết cấu của tài khoản như trên giúp cho tài khoản kế toán có thể phản ánh được liên tục có hệ thống tình hình hiện có và sự vận động của từng đốitượng kế toán cụ thể. 2.2.2.Nguyên lý kết cấu của tài khoản cơ bản. Trên cơ sở kết cấu chung của tài khoản kế toán ta tiến hành xây dựng kết cấu và nội dung phản ánh của các tài khoản cơ bản phù hợp với đặc điểm của đối tượng kế toán mà nó phản ánh. Xét về đối tượng cơ bản của hạch toán kế toán bao gồm: vốn kinh doanh nguồn vốn kinh doanh và quá trình kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó tương ứng với từng đối tượng kế toán cụ thể có thể được phản ánh với từng loại cụ thể được phản ánh với từng loại tài khoản tương ứng với nó. Vì vậy có thể xem có 3 loại tài khoản chính sau: Kết cấu của tài khoản phản ánh vốn. Tài khoản :vốn kinh doanh Nợ Có Số dư đầu kỳ: (Phản ánh vốn kinh doanh hiện có đầu kỳ ) Số phát sinh tăng:(Phản ánh vốn kinh doanh tăng trong kỳ ) Số phát sinh giảm:(Phản ánh vốn kinh doanh giảm trong kỳ ) Tổng số phát sinh tăng Tổng số phát sinh giảm Số dư cuối kỳ: (Phản ánh vốn kinh doanh hiện có cuối kỳ ) Ví dụ: kết cấu của tài khoản “Tiền gửi ngân hàng”. Tài khoản 112 Số dư đầu kỳ: Số tiền mặt, ngoại tệ, Vàng đá quý.hiện gửi ngân hàng ở thời điểm đầu kỳ hạch toán . Số phát sinh tăng: - Các khoản tiền mặt, ngoại tệ,đá quý…gửi vào Ngân hàng. - Chênh lệch tỉ giá ngoại tệ tăng do đánh giá lại số dư ngoại tệ cuối kỳ(Đối với tiền gửi ngoại tệ). Số phát sinh giảm: - Các khoản tiền mặt, ngoại tệ, đá quý…rút ra từ Ngân hàng. - Chênh lệch tỉ giá ngoại tệ giảm do đánh giá lại số dư ngoại tệ cuối kỳ(Đối với tiền gửi ngoại tệ). Tổng số phát sinh tăng Tổng số phát sinh giảm Số dư cuối kỳ: Số tiền mặt ngoại tệ vàng ,đá quý hiện còn gửu tại ngân hàng ở thời điểm cuối kỳ hạch toán Kết cấu của tài khoản phản ánh nguồn vốn kinh doanh. Tài khoản: Nguồn vốn kinh doanh Số phát sinh giảm: - Phản ánh số nguồn vốn kinh doanh giảm trong kỳ. Số dư đầu kỳ: (Phản ánh nguồn vốn kinh doanh hiện có đầu kỳ). Số phát sinh tăng: - Phản ánh số nguồn vốn kinh doanh tăng trong kỳ. Tổng số phát sinh tăng Tổng số phát sinh giảm Số dư cuối kỳ: Phản ánh nguồn vốn kinh doanh hiện có cuối kỳ. Ví dụ: Kết cấu của tài khoản “Tài khoản vay ngắn hạn ”. Tài khoản 311 Số phát sinh giảm: - Số tiền đã trả về khoản vay ngắn hạn trong kỳ. - Số tiền giảm nợ vay do tỷ giá hối đoái giảm(Nợ ngoại tệ). Số dư đầu kỳ: Số tiền còn nợ về các khoản vay ngắn hạn chưa trả ở đầu kỳ hạch toán. Số phát sinh tăng: - Số tiền vay ngắn hạn phát sinh trong kỳ. - Số tiền tăng nợ vay do tỷ giá hốiđoái tăng(Nợ ngoại tệ). Tổng số phát sinh tăng Tổng số phát sinh giảm Số dư cuối kỳ : Số tiền còn nợ về khoản vay ngắn hạn chưa trả ở thời điểm cuối kỳ hạch toán . Số dư cuối kỳ của cả hai loại tài khoản trên được tính như sau: Số dư cuối kỳ = Số dư đầu kỳ + tổng số phát sinh tăng – tổng số phát sinh giảm. Sở dĩ hai loại tài khoản này có kết cấu như trên vì những nguyên nhân sau: Do vốn và nguồn vốn là hai mặt biểu hiện khác nhau của tài sảnở đơn vị, do vậy kết cấu phản ánh hai đối tượng kế toán vốn kinh doanh và nguồn vốn kinh doanh phải ngược nhau để phản ánh rõ các đối tượng kế toán nào thuộc vốn kinh doanh hay thuộc nguồn vốn kinh doanh. Số dư đầu kỳ của tài khoản vốn kinh doanh và nguồn vốn kinh doanh phản ánh số hiện có của hai đối tượng này ở thời điểm đầu kỳ vì kết cấu của hai loại tài khoản này ngược nhau nên số dư đầu kỳ của chúng phản ánh ở hai bên khác nhau. Nếu số dư tài khoản vốn kinh doanh phản ánh ở bên nợ thì số dư của tài khoản nguồn vốn ở bên có. Theo quy ước hiện nay, số dư đầu kỳ của tài khoản vốn ở bên Nợ, còn số dư tài khoản Nguồn vốn ở bên có. Số dư cuối kỳ này là số dư đầu kỳ sau nên số dư đầu kỳ và số dư cuối kỳ được phản ánh cùng bên. Số phát sinh tăng trong kỳ làm cho số dư của tài khoản vốn kinh doanh (hay tài khoản Nguồn vốn kinh doanh tăng lên) do đó để dễ nhận biết thì nó cùng phản ánh cùng với bên số dư. Số phát sinh giảm làm cho số dư giảm đi, đồng thời nó là sự vận độngđối lập với số phát sinh tăng, nên nó được phản ánh khác bên với số phát sinh tăng và số dư. Tài khoản phản ánh quá trình kinh doanh. Nợ Có - Phản ánh chi phí phát sinh - Phản ánh thu phát sinh - Lãi - Lỗ Ví dụ: Kết cấu tài khoản – Doanh thu bán hàng. Tài khoản – Doanh thu bán hàng - Số thuế tiêu thụ đặc biệt hoặc thuế xuất khẩu phải nộp tính trêndoanh thubán hàng thực tế của sản phẩm, hàng hoá dịch vụ đã cung cấp cho khách hàng và đã được xác định là tiêu thụ trong kỳ bằng kế toán . - Trị giá hàng hoá bị trả lại kết chuyển cuối kỳ . - Khoản giảm giá hàng bán kết chuyển cuối kỳ. - Kết chuyển doanh thu vào tài khoản “xác định kết quả kinh doanh” - doanh thu bán sản phẩm, hàng hoá và cung cấp dịch vụ của doanh nghiệp thực hiện trong kỳ kế toán . Do đối tượng kế toán là tài sản và sự vận động của tài sản đó trong đơn vị nên kết cấu của tài khoản kế toán phải được xây dựng dựa trên nội dung và đặc điểm của từng đối tượng hạch toán kế toán. Mặt khác tài sản trong đơn vị bao gồm nhiều loại được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, quá trình sản xuất kinh doanh của đơn vị bao gồm nhiều giai đoạn phức tạp, mỗi đơn vị kinh doanh khác nhau thì số tài sản cần thiết sử dụng cũng khác nhau , do đó cần tổ chức nhiều hệ thống tài khoản khác nhau để có thể đáp ứng nhu cầu thông tin quản lý, tiện lợi cho việc hạch toán hàng ngày cũng như quyết toán định kỳ. Đối với một số tài khoản kế toán chi tiết cần nắm số dư thường xuyên liên tục thì kết cấu tài khoản có thể xây dựng gồm 3 phần để phản ánh thường xuyên số hiện có và hai mặt vận động của đối tượng kế toán . Ví dụ: tài khoản chi tiết “phải thu khách hàng”. Diễn giải Số phải thu Số đã thu Số còn phải thu Số Ngày Dư đầu kỳ Phát sinh trong kỳ Cộng phát sinh Dư cuối kỳ 2.3 Tính khoa học của tài khoản kế toán. Tài khoản kế toán là hình thức biểu hiện, là công cụ của phương pháp tài khoản kế toán. Phương pháp tài khoản có phát huy được hiệu quả của mình là phản ánh các đối tượng kế toán, ghi chép, kiểm tra một cách thường xuyên liên tục có hệ thống tình hình hiện có và sự vận động của từng đối tượng kế toán nhằm cung cấp thông tin đầy đủ có hệ thống kịp thời phục vụ công tác quản lý, tất cả các yếu tố đó đều phụ thuộc vào việc xây dựng kết cấu tài khoản một cách hợp lý. Có nghĩa là phải đảm bảo tính khoa học của tài khoản kế toán. Tính khoa học của tài khoản thể hiện cụ thể ở các mặt như sau: + Tài khoản kế toán phản ánh đối tượng kế toán ở trạng thái tĩnh và sự vận động của từng đối tượng kế toán cụ thể trong mối quan hệ giữa các đối tượng kế toán với nhau một cách có hệ thống, thường xuyên liên tục, toàn diện. Đây là một trong những ưu điểm của phương pháp tài khoản kế toán so với phương pháp chứng từ kế toán. + Kết cấu của tài khoản kế toán thể hiện tính khoa học của tài khoản kế toán vì thông qua kết cấu này, tài khoản kế toán được chia làm hai bên do đó phản ánh được sự vận động của đối tượng kế toán theo hai mặt đối lập (tăng và giảm, thu va chi, nhập và xuất ) giúp cho việc ghi chép phản ánh số liệu của đối tượng kế toán ở mọi thời điểm cần thiết, thuận tiện khi tổng hợp số liệu. + Qua việc ghi chép các nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh, tài khoản kế toán cho phép nhận biết được số hiện có của đối tượng kế toán cụ thể ở từng thời điểm. Số phát sinh trong kỳ cho phép thấy được sự vận động của đối tượng kế toán. Số dư đầu kỳ và cuối kỳ cho biết tình hình hiện có của đối tượng kế toán ở các thời điểm đầu kỳ và cuối kỳ hạch toán. Đồng thời qua việc ghi chép một nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh vào tài khoản có liên quan tới nó, ta thấy được mối quan hệ lẫn nhau giữa các đối tượng kế toán. 3 .Cách ghi chép trên tài khoản kế toán và tính khoa học của cách ghi chép trên tài khoản kế toán . 3.1 Nội dung của cách ghi chép trên tài khoản kế toán . Căn cứ vào nội dung các nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh đã được phản ánh ở các chứng từ gốc, kế toán sử dụng phương pháp tài khoản kế toán để phản ánh các nghiệp vụ kinh tế tài chính đó vào các tài khoản kế toán.Cách ghi chép trên tài khoản kế toán là một trong những hình thức biểu hiện của phương pháp tài khoản kế toán. Có hai cách ghi phản ánh nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh vao tài khoản kế toán đó là : cách ghi đơn và cách ghi kép. + Cách ghi đơn: Cách ghi đơn là cách ghi phản ánh các nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh tác động đến đối tượng kế toán cụ thể nào thì ghi vào tài khoản kế toán phản ánh đối tượng kế toán cụ thể đó một cách độc lập, không có quan hệ với đối tượng kế toán cụ thể khác. Cùng với sự phát triển của sản xuất, cách ghi đơn của hạch toán kế toán được tiến hành lần đầu vào thời kỳ nên kinh tế xã hội đang ở hình thái kinh tế xã hội chiếm hữu nô lệ, sau đó nó ngày càng được cải tiến hợp lý hơn. Trong các doanh nghiệp cách ghi đơn được sử dụng phổ biến để ghi chép các hoạt động sản xuất, buôn bán, nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh ít. Ví dụ: Số dư đầu kỳ nguyên hiện vật hiện là 200 Xuất kho nguyên vật liệu 50 Nhập kho nguyên vật liệu 100 Các nghiệp vụ đó phản ánh vào Tài khoản “Nguyên liệu- Vật liệu” bằng cách ghi đó: Tài khoản 152 200. (2)100 50(1) 100 50 250 Trong công tác kế toán ở các doanh nghiệp hiện nay ghi đơn được thực hiện trong các trường hợp sau: - Ghi phản ánh các nghiệp vụ kinh tế phát sinh vào các tài khoản chi tiết nhằm cụ thể hoá số liệu đã ghi ở tài khoản tổng hợp. Ví dụ: Một doanh nghiệp tạm ứng cho cán bộ X 200.000 bằng tiền mặt, nợ tài khoản “tạm ứng” : 200.000 Sổ chứng từ : Tạm ứng cho cán bộ X * * * (1)200.000. ………. - Ghi phản ánh các nghiệp vụ kinh tế phát sinh vào tài khoản ngoài bảng các hoạt động kinh tế tài chính cóliên quan tới tài sản của các đơn vị khác mà đơn vị có trách nhiệm quản lý và sử dụng. Ví dụ: Thuê ngoài một thiết bị trị giá 100 (đơn vị triệu đồng) phản ánh vào tài khoản ngoài bảng đó là tài khoản “tài sản thuê ngoài”. + Cách ghi kép: Ghi kép là ghi phản ánh các nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh cùng một lúc vào các tài khoản có liên quan theo đúng nội dung của nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh và đúng mối quan hệ khách quan giữa các đối tượng kế toán mà nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh tác động đến. Có các loại nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh chủ yếu sau: Nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh làm tăng một loại vốn này và làm giảm một loại vốn khác. Ví dụ: Chuyển tiền gửi ngân hàng về quỹ tiền mặt 100 triệu. Nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh làm tăng một loại nguồn vốn này và làm giảm một loại nguồn vốn khác. Ví dụ: Vay ngắn hạn ngân hàng trả nợ người bán 20 triệu. Nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh làm tăng một loại vốn này đồng thời làm tăng một nguồn vốn cụ thể khác. Ví dụ: Nhà nước cấp một tài sản cố định trị giá 500 triệu làm tăng nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp Nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh làm giảm một loại vốn này đồng thời làm giảm một nguồn vốn cụ thể khác. Ví dụ: Trích tiền mặt trả lương công nhân 1triệu Nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh làm giảm nguồn vốn này nhưng không tăng nguồn vốn khác và cũng không giảm vốn khác. Ví dụ: Doanh nghiệp mua hàng hết 100 triệu trả tiền ngay được giảm 5 triệu đphát sinh thu nhập vì làm giảm khoản phải trả người bán, không tăng nguồn vốn khác, không giảm vốn khác. Nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh làm tài sản này không làm giảm tài sản khác,hay làm tăng khoản nợ phải trả khác. Ví dụ: Lãi do tiền gửi ngân hàng 3 triệuđphát sinh thu nhập do làm tăng tiền gửi ngân hàng trong khi không làm giảm tài sản khác hay làm tăng khoản nợ phải trả khác. Nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh làm tăng khoản nợ phải trả nhưng không làm giảm khoản nợ phải trả khác hay tăng tài sản khác . Ví dụ: Doanh nghiệp mua hàng nhưng trả trong thời gian 1năm do đó số tiền thực tế phải trả lớn hơn số tiền mua hàng hoá trả tiền ngay là 1 triệu đphát sinh chi phí vì khoản phải trả chongười bán hàng tăng Nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh làm giảm tài sản này nhưng không làm tăng tài sản khác, không giảm khoản nợ khác Ví dụ: Lấy tiền mặt trả công cho người làm thuê 500 nghìn đphát sinh chi phí. Nội dung của cách ghi sổ kép là: Nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh tác động đến tài sản của đơn vị bao giờ cũng đượcghi vào ít nhất 2 tài khoản kế toán có liên quan. Nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh bao giờ cũng đượcghi Nợ vào tài khoản này ghi Có vào tài khoản khác. Số tiền ghi vào bên Nợ và số tiền ghi vào bên Có của các tài khoản do nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh tác động đến bao giờ cũng bằng nhau Cơ sở để thực hiện việc ghi chép trên tài khoản là nội dung kinh tế của các nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh. Căn cứ vào chứng từ gốc kế toán tiến hành ghi nợ vào tài khoản nào và ghi có vào tài khoản nào và số tiền ghi vào mỗi bên . Công việc nàyđược gọi là định khoản kế toán. Có 2 loại định khoản kế toán là định khoản giản đơn và định khoản phức tạp Định khoản kế toán giản đơn là định khoản kế toán liên quan ít nhất đến 3 tài khoản tổng hợp Định khoản kế toán phức tạp có các dạng sau: ghi nợ 1 tài khoản này, ghi có nhiều tài khoản khác ghi có 1 tài khoản này, ghi nợ nhiều tài khoản khác ghi nợ nhiều tài khoản đồng thời ghi có nhiều tài khoản khác do cùng một nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh tác động đến. Ví dụ: Trích tiền gửu ngân hàng trả vay ngắn hạn 50 triệu, chuyển sang quỹ tiền mặt 10 triệu. Nợ tài khoản 311: 50 triệu Nợ tài khoản 111: 10 triệu Có tài khoản 112: 60 triệu Với cách đơn trên tài khoản kế toán chỉ phản ánh, kiểm tra, giám sát được sự vận động độc lập, riêng rẽ của bản thân từng đối tượng kế toán cụ thể. Nó chỉ phản ánh sự vận động nội tại bên trong đối tượng kế toán chứ không phải phản ánh được sự vận động của đối tượng kế toán trong mối liên hệ biện chứng với sự vận động của đối tượng kế toán. Nhưng với cách ghi kép đã khắc phục được những nhược điểm này, trên cơ sở vận dụng quan điểm của chủ nghĩa duy vật mỗi sự vật hiện tượng trong thế giới hiện tồn tại tác động qua lại lẫn nhau, và các đối tượng của hạch toán, kế toán không nằm ngoài các quy luật đó. Ghi kép trên tài khoản kế toán giúp phản ánh và kiểm tra giám sát các hoạt động kinh tế tài chính một cách khoa học chính xác do cách ghi chép này đã phản ánh được mối liên hệ giữa các đối tượng kế toán trong nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh . 3.2 Tính khoa học cách ghi chép trên tài khoản kế toán. Cách ghi chép trên tài khoản kế toán chính là một hình thức biểu hiện của phương pháp tài khoản kế toán. Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và kinh tế chính trị học, kế toán tiến hành việc tiến hành việc ghi chép trên tài khoản kế toán một cách khoa học hợp lý: Do mỗi sự vật hiện tượng không thể tồn tại độc lập một mình mà nó luôn luôn có mối quan hệ mật thiết với các sự vật hiện tượng khác do đó giữa các đối tượng kế toán cũng có mối liên hệ mật thiết với nhau, với cách ghi chép trên tài khoản kế toán đã đáp ứng được yêu cầu này Mặt khác căn cứ vào cách ghi chép trên tài khoản, cụ thể là thông qua việc ghi số dư đầu kỳ, số dư cuối kỳ, số phát sinh phản ánh vào tài khoản kế toán giúp người cần thông tin có thể nắm bắt được số liệu kế toán ở các thời điểm khác nhau. Ngoài ra cách ghi chép này còn giúp phản ánh đối tượng kế toán ở cả trạng thái tĩnh và động với tính khoa học này giúp cho tài khoản kế toán được sử dụng làm sổ để ghi chép các bảng cân đối kế toán, do bảng tổng hợp cân đối chi phản ánh tổng quát tài sản ở đơn vị tại một thời điểm nhất định. Chương II Vận dụng phương pháp tài khoản kế toán để xây dựng hệ thống tài khoản kế toán. 1.Nguyên tắc xây dựng hệ thống tài khoản kế toán. Theo liên đoàn quốc tế về kế toán: “kế toán là nghệ thuật ghi chép phân loại và tổng hợp theo một cách riêng có bằng tiền các nghiệp vụ, sự kiện có tính chất tài chính và giải thích kết quả của nó” theo cách định nghĩa này tính nghệ thuật của kế toán thể hiện kế toán không chỉ sử dụng một số phương pháp khoa học mà nó còn phụ thuộc rất nhiều vào trình độ và nănglựccủa người sử dụng nó mặt khác đối tượng của hạch toán ở đây là tài sản và sự vận động của tài sản đó trong quá trình hoạt động của đơn vị, phương pháp tài khoản kế toán đã sử dụng tài khoản kế toán để phản ánh kiểm tra một cách thường xuyên liên tục có hệ thống tình hình hiện có và sự vận động của từng đối tượng kế toán cụ thể’. Một cá nhân muốn hiểu được kế toán và vận dụng phương pháp tài khoản kế toán nhằm phát huy chức năng và vai trò của nó thì vấn đề quan trọng là phải biết và hiểu rõ được các tài khoản kế toán. Bởi vì tài khoản kế toán chính là hình thức biểu hiện của phương pháp tài khoản kế toán. Các tài khoản kế toán sử dụng được sắp xếp và hệ thống hoá theo một trình tự khoa học được thể hiện qua hệ thống tài khoản kế toán thống nhất, góp phần phát huy tác dụng của phương pháp tài khoản kế toán. Như vậy, hệ thống tài khoản kế toán là danh mục các tài khoản kế toán mà đơn vị (tổ chức) phải sử dụng đủ để phản ánh toàn bộ tài sản của đơn vị và sự vận động của tài sản đó trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, sử dụng kinh phí, đủ để cung cấp được số lượng để lập được các báo cáo tài chính. Do quy mô và đặc điểm sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp cũng rất khác nhau cho nên loại tài khoản và số lượng tài khoản mà các doanh nghiệp sử dụng để phản ánh tài sản và sự vận động của tài sản trong quá trình kinh doanh ở đơn vị cũng rất khác nhau. Trên cơ sở hệ thống tài khoản kế toán thống nhất do nhà nước ban hành, mỗi doanh nghiệp sẽ lựa chọn những loại tài khoản thích hợp để vận dụng vào trong công tác kế toán sao cho phù hợp với tình hình hoạt động và đặc điểm của doanh nghiệp. Các tài khoản kế toán được doanh nghiệp lựa chọn để vận dụng tạo thành hệ thống tài khoản kế toán ở doanh nghiệp.ở Việt Nam hiện nay tồn tại nhiều hệ thống tài khoản kế toán doanh nghiệp, hệ thống tài khoản kế toán kho bạc, hệ thống tài khoản kế toán các đơn vị hành chính sư nghiệp. Muốn xây dựng được hệ thống tài khoản kế toán cần phải tiến hành lựa chọn và sắp xếp các tài khoản kế toán hợp lý. Mà để có thể thực hiện được việc đó cần phải nắm được nội dung và nguyên tắc ghi chép phản ánh của từng tài khoản kế toán. Mỗi tài khoản kế toán có những đặc trưng riêng do đối tượng kế toán mà tài khoản kế toán phản ánh là rất khác nhau. Đặc trưng của tài khoản kế toán được thể hiện : Nội dung phản ánh của tài khoản :Nội dung kinh tế mà tài khoản phản ánh ở các tài khoản khác nhau thì khác nhau Mỗi tài khoản kế toán có một công dụng nhất định và kết cấu của chúng cũng rất khác nhau. Mức độ phản ánh của tài khoản kế toán tuỳ thuộc vào đối tượng kế toán mà tài khoản kế toán phản ánh .Tuỳ theo yêu cầu quản lý trong từng giai đoạn và đặc trưng của đối tượng kế toán mà đối tượng kế toán đó có thể xây dựng một hay một số tài khoản để phản ánh đối tượng kế toán. Tuỳ thuộc vào phạm vị mà tài khoản được sử dụng để phản ánh toàn bộ tài sản chi phí, thu nhập tính toán kết quả kinh doanh của doanh nghiệp ở mức độ tổng quát hay tính toán kết quả từng hoạt động, từng loại sản phẩm ..Trên cơ sở đó cung cấp thông tin cần thiết cho hoạt động quản lý, tổ chức của doanh nghiệp. Ví dụ : Để phản ánh số hiện có và tình hình biến động tăng, giảm các loại vốn bằng tiền của doanh nghiệp, gồm tiền mặt tại, tiền gửi ở các Ngân hàng, kho bạc nhà nước và các khoản tiền đang chuyển, bằng phương pháp tài khoản kế toán người ta đã xây dựng các tài khoản sau: Tài khoản “Tiền mặt” dùng để phản ánh tình hình thu chi tồn quỹ tại quỹ của doanh nghiệp bao gồm : Tiền Việt Nam, ngoại tệ, vàng bạc đá quý. Tài khoản “Tiền gửi ngân hàng”phản ánh số hiện có và tình hình biến động tăng giảm các khoản tiền gửi ngân hàng của doanh nghiệp tại ngân hàng hoặc kho bạc nhà nước. Tài khoản “Tiền đang chuyển ”để phản ánh các khoản tiền của doanh nghiệp đã nộp vào ngân hàng hoặc kho bạc nhà nước đã gửi cho bưu điện để chuyển cho ngân hàng, trả cho đơn vị khác hay đã làm thủ tục chuyển tiền từ tài khoản tại ngân hàng để trả cho đơn vị khác nhưng chưa nhận được giấy báo Nợ, hay bản sao kê của ngân hàng. Hệ thống tài khoản kế toán được coi là một bộ phận quan trọng của chế độ kế toán. ở mỗi quốc gia khác nhau tồn tại nhiều hệ thống tài khoản kế toán của doanh nghiệp,tuy nhiên việc sử dụng thống nhất hệ thống tài khoản do nhà nước ban hành và việc sử dụng hệ thống tài khoản đó phải tuân thủ nguyên tắc sau: +> Trước hết, khi xây dựng hệ thống tài khoản kế toán doanh nghiệp phải dựa trên nguyên tắc thoả mãn các yêu cầu của nền kinh tế thị trường, tôn trọng và vận dụng có chọn lọc các chuẩn mực quốc tế về kế toán, phù hợp với các nguyên tắc và thông lệ có tính phổ biến của kế toán các nước có nền kinh tế phát triển. +>Thứ hai là, khi xây dựng hệ thống tài khoản kế toán doanh nghiệp phải căn cứ vào đặc điểm tình hình kinh tế tài chính của doanh nghiệp, nguyên tắc cân đối giữa giá trị tài sản và nguồn hình thành tài sản phù hợp với chỉ tiêu phản ánh trên báo cáo tài chính. +> Các tài khoản được mã hoá, thuậntiện choviệc hạch toán và xử lý thông tin cũng như thu thập thông tin. Mỗi tài khoản có tên gọi riêng phù hợp với đối tượng kế toán phản ánh ở tài khoản và được đánh số hiệu riêng, giúp cho người làm kế toán và cán bộ quản lý lựa chọn được nghiệp vụ theo từng chỉ tiêu, tạo điều kiện rễ ràng cho việc tập hợp các mục, khoản mụcđể lập báo cáo tài chính. Cụ thể là : Số hiệu tài khoản cấp I được ký hiệu bằng ba chữ số; Chữ số đầu chỉ loại tài khoản, Chữ số thứ hai chỉ nhóm tài khoản trong loại đó, Chữ số thứ ba chỉ tài khoản trong nhóm. Với một số doanh nghiệp cần phải mở tài khoản cấp hai nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý vĩ mô của nhà nước. Tài khoản cấp hai được ký hiệu bằng bốn chữ số: Ba chứ số đầu mởtk cấp I, chữ số thứ tư chỉ tài khoản cấp II của tài khoản cấp I đó: +> Xây dựng hệ thống tài khoản kế toán phảicăncứ vào yêu cầu, trình độ quản lý kinh tế tài chính ở các đơn vị,các nghành trong nền kinh tế và trình độ tay nghề của đội ngũ nhân viên kế toán sao cho việc ghi chép trên các tài khoản được nhanh gọn tăng hiệu suất công tác kế toán. Ví dụ: - Tài khoản 111 là tài khoản “Tiền mặt”. Tài khoản 1111 là tài khoản “Tiền Việt Nam”. Tài khoản 1112 là tài khoản “Ngoại tệ”. Tài khoản 1113 là tài khoản “Vàng bạc,kim khí quý,đá quý ”. Việc thực hiện các nguyên tắc trên có ý nghĩa hết sức quản trọng, là cơ sở để xay dựng hệ thống tài khoản kế toán thống nhất. Với một hệ thống tài khoản thống nhất giúp cho đơnvị vận dụng chế độ kế toán một cách thống nhất và thuận tiện trong việc xác định tài khoản cần mở, tổ chức ghi chép, hạch toán theo chế độ quy định. Đồng thời giúp cho nhà nước tổ chức và chỉ đạo thống nhất công tác kế toán ở các đơn vị cơ sở, là căn cứ để nhà nước kiểm tra việc chấp hành chế độ kế toán cũng như chế độ quản lý ở đơn vị. 2. Hệ thống tài khoản kế toán ở Việt Nam. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế xã hội qua các hình thái kinh têax hội khác nhau, yêu cầu đối với các hoạt động tổ chức và quản lý cũng ngày càng được nâng cao tương xứng với sự phát triển của nền kinh tế. ở mỗi quốc gia, cơ chế quản lý kinh tế tài chính phải được đổi mới lien tục một cách linh hoạt nhằm tạo ra hệ thống pháp luật tài chính, lành mạnh hoá các quan hệ và các hoạt động kinh tế tài chính tạo ra sự ổn định của môi trường kinh tế. Trong bối cảnh đó hệ thống tài khoản ở Việt Nam cũng được xây dựng phù hợp với từng giai đoạn. 2.1. Giai đoạn trước năm1989. Cùng với sợ ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà nền kinh tế tài chính của nước ta cũng dần dần được thiết lập và kế toán được sử dụng như mộtcông cụ quản lý kinh tế tài chính.Trong thời kỳ này nhà nước ta thực hiện hủ trương từng bước hạch toán xã hội chủ nghĩa. Năm 1957, Nhà nước đã ban hành chế độ kế toán thống nhất cho hai nghành là công nghiệp và xây dựng cơbản, bước đầu chúng ta đã có một chế độ kế toán thống nhấtvà hệ thống tài khoản thống nhất cho hai nghành trên. Sau nhiều lần bổ sung tới năm 1970 nhà nước ban hành hệ thống tài khoản kế toán thống nhất áp dụng cho tất cả các đơn vị trong nghành kinh tế quốc dân bao gồm 16 tài khoản. Nói chung hệ thống tài khoản này còn hết sức sơ sài và đơn giản, tuy nhiên với đặc điểm của nền kinh tế tập chung quan liêu bao cấp, sản xuất còn chưa phát triển tồn tại duy nhất một thành phần kinh tế là thành phần kinh tế quốc doanh, nên hệ thống tài khoản này phần nào cũng đáp ứng được yêu cầu quản lý tổ chức. 2.2Giai đoạn từ năm 1989 tới nay. Đây là giai đoạn đánh dấu sự đổi mới của nền kinh tế nước ta. Chúng ta chuyể từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện phát triển nền kinh tế nhiều thành phần đa dạng hoá các hình thức sở hữu. Trong tình hình đó đáp ứng yêu cầu mới hệ thống tài khoản kế toán đã được đổi mới từng bước cho phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế. + Năm 1989 theo quyết định số 212 TC/CĐKT ngày 15/12/1989 do bộ tài chính ban hành, hệ thống tài khoản mới đã được thiết lập bao gồm 9 loại với 41 tài khoản và 8 tài khoản ngoài bảng. Đặc điểm của hệ thống tài khoản được lý luận bằng hai con số; các loại tài khoản được sắp xếp theo thứ tài sản cố định; dự trữ sản xuất kinh doanh, chi phí tiêu thụ và kết quả; vốn bằng tiền; thanh toán, thu nhập ; nguồn vốn tự có; nguồn vốn liên doanh. Hệ thống tài khoản kế toán năm 1989 đã có nhiều bước tiến so với năm 1970. Xuất hiện nhiều tài khoản mới phục vụ cho quá trình hạch toán như tài khoản “Mua hàng”. Trong những năm gần đây, quá trình đổi mới tác động ngày càng rõ rệt tới nền kinh tế nước ta đồng do ảnh hưởng của xu thế mở cửa, toàn cầu hoá nên đòi hỏi các chính sách này cũng phải thay đổi một cách toàn diện nhằm đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường. Xuất phát từ yêu cầu đó,tất yếu phải xây dựng một hệ thống tài khoản kế toán mới. +> Năm 1995 theo quyết định 1141 TC/QĐ/CĐKT ngày 1/11/1995 của bộ trưởng bộ tài chính hệ thống tài khoản kế toán thống nhất áp dụng cho các doanh nghiệp thuộc mọi lĩnh vực, mọi thành phần kinh tế ở nước tahiện nay ra đời, bao gồm 71 tài khoản cấp I trong bảng và 7 tài khoản ngoài bảng đủ để các doanh nghiệp phản ánh được toàn bộ sự hoạt động kinh tế tài chính phát sinh ở doanh nghiệp. Trong thời kỳ này số liệu tài khoản cấp I được ký hiệu băng ba con số. Trong đó chữ số đầu chỉ loại tài khoản, chữ số thứ hai chỉ nhóm tài khoản, chữ số thứ ba chỉ tài khoản trong nhóm. Từ năm 1995 tới năm 1999, nền kinh tế nước ta có những bước ngoặt lớn.Việt Nam đã tham gia vào một số tổ chức quốc tế cũng như khu vực, như ASEAN, ADEC. Tiếp đó nhà nước ban hành thêm một số chính sách mới như thi hành luật thuế giá trị gia tăng. Do đó tối 3/9/1999 Bộ tài chính bổ sung thêm 3 tài khoản mới vào hệ thống tài khoản năm 1995 đó là: Tài khoản 133: Thuế giá trị gia tăng được khấu trừ. Tài khoản 416: Quỹ dự phòng về trợ cấp mất việc làm. Tài khoản 466: Nguồn kinh phí đã hình thành Tài sản cố định. Bước vào thế kỷ 21, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của xu hướng toàn cầu hoá, quốc tế hoá và cuộc cách mạng khoa học công nghệ hệ thống tài khoản thống nhất của Việt Nam đang từng bước đổi mới không ngừng đẻe bắt kịp xu thế phát triển của thời đại. Cụ thể là hệ thống tài khoản liên tục được sửa đổi bổ sung để đáp ứng yêu cầu của công tác kế toán. Trong thời gian qua chúng ta đã bổ sung một số tài khoản sau: Tài khoản 242 – Chi phí trả trước hạn : Tài khoản này dùng để phản ánh các chi phí thực tế đã phát sinh nhưng có liên quan đến kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của nhiều niên độ kế toán và việc chuyển các khoản chi phí này vào chi phí sản xuất kinh doanh của các niên độ kế toán. Tài khoản 515 – Doanh thu hoạt động tài chính : Tài khoản này dùng để phản ánh doanh thu tiền lãi, tiền bản quyền, cổ tức, lợi nhuận được chia và doanh thu hoạt động tài chính khác của doanh nghiệp. Tài khoản 521 – Chiết khấu thương mại : Tài khoản này dùng để phản ánh chiết khấu thương mại mà doanh nghiệp đã giảm trừ hoặc đã thanh toán cho người mua hàng do việc người mua hàng đã mua hàng với khối lượng lớn theo thoả thuận về chiết khấu thương mại đã ghi trên hợp đồng kinh tế mua bán. Tài khoản 635 – Chi phí tài chính: Bổ sung nội dung phản ánh của một số tài khoản như Tài khoản 632 - Giá vốn hàng bán. Loại tài khoản 8 – Chi phí khác … Đổi tên và số hiệu tài khoản sau: +. Tài khoản 3387 – “Doanh thu nhận trước” thành tài khoản 3387 “Doanh thu chưa thực hiện ”. +. Tài khoản 512 – “Doanh thu bán hàng nội bộ” thành tài khoản 512 “Doanh thu nội bộ”. +. Tài khoản 721 – “Các khoản thu bất thường ” thành tài khoản 711 “Thu nhập khác ”. +. Tài khoản 821 “Chi phí bất thường ” thành tài khoản 811 “Chi phí hoạt động tài chính ”. Như vậy do yêu cầu quản lý của từng thời kỳ mà hệ thống tài khoản được xây dựng và sửa đổi cho phù hợp. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, chúng ta đang từng bước hoàn thiện hệ thống tài khoản thống nhất hơn nữa, góp phần là một công cụ đắc lực của hoạt động tổ chức quản lý. 3. Một số hệ thống tài khoản các nước: Như đã xét ở trên, đối tượng của hạch toán kế toán là tài sản và sự vận động của tài sản trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị. Cho nên ở mỗi quốc gia khác nhau, đặc điểm sản xuất khác nhau cũng như cách thức quản lý của mỗi quốc gia là khác nhau dẫn tới hệ thống tài khoản kế toán áp dụng ở mỗi nước có đặc thù riêng. Thông qua việc tham khảo và sưu tầm tài liệu, em xin phép được nêu một vài nét về hai hệ thống tài khoản của hai nước Mỹ và Pháp. Hệ thống tài khoản cuẩ Mỹ: Hầu hết các quốc gia đều thực hiện ban hành hệ thống tài khoản thống nhất, trên cơ sở đó các doanh nghiệp căn cứ vào đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp mình để xây dựng một hệ thống tài khoản cho doanh nghiệp. Nhưng với nước Mỹ, chính phủ không quy định hệ thống tài khoản kế toán thống nhất cho các doanh nghiệp. Việc xác định tên gọi, số lượng tài khoản và ký hiệu của một số tài khoản là tuỳ từng doanh nghiệp quy định riêng đối với doanh nghiệp mình dựa trên đặc điểm kinh doanh và điều kiện quản lý kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, không phải doanh nghiệp muốn mở tài khoản kiểu gì, sắp xếp tài khoản một cách tuỳ tiện, tự do. Mà các hiệp hội kế toán ở Mỹ ban hành các chuẩn mực kế toán Mỹ, quy định những nguyên tắc có tính định hướng, hướng dẫn những vấn đề về kế toán. Trong đó có quy định khung tài khoản kế toán cần mở ở doanh nghiệp. Theo đó khung tài khoản kế toán quy định trong các chuẩn mực kế toán được thừa nhận ở Mỹ bao gồm 6 loại. Loại 1: Các tài khoản tài sản. Loại 2: Các tài khoản Nợ phải trả . Loại 3: Các tài khoản của nguồn vốn chủ nhân. Loại 4: Các tài khoản Doanh thu. Loại 5: Các tài khoản chi phí. Loại 6: Các tài khoản tổng hợp xác định kết quả. Với cách xây dựng tài khoản này của nước Mỹ, thể hiện tính linh hoạt và chủ động trong việc tổ chức kế toán ở doanh nghiệp. Bởi vì thực sự các tài khoản kế toán là những quy ước các nghiệp vụ kinh tếphát sinh và ảnh hưởng đến đối tượng cụ thể nào thì được ghi theo đối tượng đó. Như vậy việc quy định đối tượng kế toán cụ thể đến mức độ nào là tuỳ từng doanh nghiệp. Tuy nhiên với một hệ thống tài khoản không thống nhất sẽ gặp khó khăn trong việc áp dụng chế độ kế toán và quản lý các doanh nghiệp. Bên cạnh đó khi các doanh nghiệp tự xây dựng hệ thống tài khoản cho doanh nghiệp mình, rất có thể do nguyên nhân nào đó mà hệ thống tài khoản áp dụng không phù hợp với những nguyên tắc đã quy định chung, gây khó khăn cho việc áp dụng hệ thống tài khoản vào trong công tác quản lý. 3.2. Hệ thống tài khoản của Pháp. Kế toán Pháp có những đặc điểm riêng sau: +> Thứ nhất: Việc hình thành hệ thống kế toán tài chính và kế toán quản trị là vấn đề được quan tâm hàng đầu nhằm đáp ứng yêu cầu cung cấp thông tin nhanh chóng về tình hình chi phí, thu nhập và kết quả của doanh nghiệp (kế toán tài chính cung cấp thông tin một cách chi tiết tỉ mỉ cũng như kế toán quản trị). +> Thứ hai là: Kế toán tài chính được quy định bắt buộc đối với tất cả các doanh nghiệp, còn kế toán quản trị được thực hiện đến mức độ nào đó là do yêu cầu cụ thể về chỉ tiêu nào đó đối vứi từng doanh nghiệp cụ thể. +> Thứ ba là: Hệ thống tài khoản kế toán của Pháp bao gồm hai loại. Loại sủ dụng cho kế toán tài chính và loại sử dụng cho kế toán quản trị, ký hiệu của mỗi loại tài khoản kế toán khác nhau. Đối với các tài khoản sử dụng cho kế toán tài chính gồm hai chữ số: chữ số thứ nhất thể hiện loại tài khoản, chữ số thứ hai thể hiện thứ tự của tài khoản đó. Đối với các tài khoản sử dụng cho kế toán quản trị có ít nhất là 3 chữ số. Việc lựa chọn các con số để ký hiệu các tài khoản cũng có những ý nghĩa nhất định trong công tác vận dungj tài khoản kế toán . Hệ thống tài khoản kế toán Pháp được chia làm 9 loại trong đó có 8 loại thuộc về tài khoản kế toán tài chính (Bao gồm các tài khoản Nguồn vốn; Các tài khoản tài sản ccó định; Các tài khoản Tồn kho và sản phẩm lao vụ dở dang; các tài khoản thanh toán ; các tài khoản vốn bằng tiền ; các tài khoản chi phí ; các tài khoản thu nhập ; các tài khoản đặc biệt ). Ưu điểm của hệ thống tài khoản kế toán Pháp là cóthể đáp ứng được yêu cầu cung cấp thông tin nhanh chóng về tình hình tài chính, thu nhập và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, cũng như cung cấp thông tin một cách chi tiết cụ thể phục vụ yêu cầu của cán bộ quản lý. Tuy nhiên hệ thống tài khoản này cũng có những mặt tồn tại của nó. Bởi vì hệ thống tài khoản kế toán này bao gồm hai loại , loại dùng cho kế toán tài chính và loại dùng cho kế toán quản trị. Việc quy định hai loại tài khoản này sẽ dẫn tới việc gặp khó khăn trong xây dựng và áp dụng vào trong thực tế bởi vì trong thực tế kế toán quản trị và kế toán tài chính có mối quan hệ qua lại với nhau do đó sẽ có nhiều tài khoản kế toán cần cho cả hai hình thức kế toán này, nếu chia hệ thống tài khoản làm hai loại sẽ dẫn tới hiện tượng trùng lặp về tài khoản trong ghi chép sổ sách kế toán. Mỗi một quốc gia do đặc thù của nền kinh tế nước mình, trình độ quản lý kinh tế ở mức độ khác nhau nên hạch toán tài khoản kế toán nói riêng và kế toán nói chung cũng khác nhau. Tuy nhiên bất kỳ một hệ thống tài khoản nào cũng nhằm mục đích quản lý nền kinh tế tài chính nói chung và quản lý doanh nghiệp nói riêng. Hệ thống tài khoản là phương tiện của hạch toán kế toán, là công cụ của phương pháp tài khoản kế toán để phản ánh toàn bộ tài sản của đơn vị và sự vận động tài sản đó trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Cung cấp các số liệu về tình hình tài chính thu chi của doanh nghiệp cũng như tình hình sản lượng quốc gia và thu nhập quốc dân, để cho các nhà quản lý có thể đưa ra các quyết định chính xác, Nhà nước có thể để ra được các chính sách đầu tư, phát triển kinh tế hợp lý. 4. Hoàn thiện hệ thống tài khoản và những biện pháp để phát huy vai trò của phương pháp tài khoản kế toán trong công tác kế toán. Trong những năm qua cùng với sự phát triển của nền kinh tế , cùng với sự thay đổi cơ chế kinh tế, hệ thống tài khoản kế toán của Việt Nam đã không ngừng đổi mới về cả nội dung cũng như kết cấu, góp phần tích cực vào việc tăng cường và nâng cao chất lượng quản lý tài chính quốc gia, quản lý doanh nghiệp. Tuy nhiên do xu thế toàn cầu hoá, cũng như các cuộc cách mạng khoa học công nghệ diễn ra với tốc độ cao, trong khi đó điều kiện kinh tế nước ta còn thấp, nền kinh tế thị trường chưa thực sự phát triển, trình độ qủn lý thấp, kinh nghiệm chưa nhiều do đó không tránh khỏi những thiếu sót trong công tác kế toán nói chung và khi xây dựng hệ thống tài khoản kế toán nói riêng. Nhưng không vì những nguyên nhân trên mà làm mất đi vai trò của kế toán đối với nền kinh tế quốc dân. Chúng ta đang từng bước cải cách triệt để, toàn diện hệ thống kế toán Việt Nam để có thể đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế thị trường và các tiêu chuẩn của liên đoàn quốc tế về kế toán. Qua những kiến thức về phương pháp tài khoản kế toán mà em đã tiếp thu được, em xin phép trình bày một số ý kiến đóng góp để hoàn thiện hệ thống tài khoản kế toán để đưa ra các biện pháp phát huy vai trò của phương pháp tài khoản kế toán . Trong thời gian qua nền kinh tế đã có những bước tiến đáng kể, để đạt được kết quả đó là dựa trên đường nối chính sách mà Đảng đã ban hành phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường . Một trong những quyết định hợp lý đó là việc ban hành luật thuế giá trị gia tăng . Chế độ tài chính – kế toán đã có sự thay đổi kịp thời áp dụng luật thuế giá trị gia tăng như thay đổi về cách hạch toán chiết khấu thanh toán khi bán hàng, mua hàng…Tuy nhiên do luật thuế giá trị gia tăng mới được đưa vào áp dụng trong hơn hai năm qua nên khi bổ sung vào hệ thống tài khoản kế toán còn có một số yếu tố chưa hợp lý là: Thuế giá trị gia tăng khi áp dụng có liên quan mật thiết tới các yếu tố đầu vào và đầu ra của quá trình sản xuất. Nừu số thuế giá trị gia tăng mà doanh nghiệp phải nộp cho nhà nước (liên quan tới đầu ra của sản xuất lớn hơn số thuế giá trị gia tăng được khấu trừ liên quan tới đầu vào của sản xuất ). Thì số chênh lệch này doanh nghiệp phải nộp cho nhà nước, ngược lại nếu số thuế giá trị gia tăng được khấu trừ lớn hơn só thuế phải nộp cho nhà nước liên tục trong 3 tháng thì doanh nghiệp sẽ được nhà nước hoàn thuế. Khai thác tính ưu việt này một số doanh nghiệp đã bằng cách hợp thức hoá các chứng từ giả, hạch toán sai để cho số thuế giá trị gia tăng được khấu trừ càng nhiều để rút tiền từ Ngân sách nhà nước. Một ví dụ điển hình là công ty cổ phần Hạ Long (Ha Long Canfoco) lập các bộ hồ sơ chứng từ giả để rút ruột của nhà nước hơn 7 tỷ đồng thuế giá trị gia tăng. Có thể nói một nguyên nhân cơ bản ở đây là do sự cố tình làm sai trái của một số cán bộ với tư cách là người quản lý, lợi dụng việc khấu trừ thuế giá trị gia tăng để kiếm lợi bất chính. Từ đó cho ta thấy khi xây dựng các tài khoản 133 – “Thuế giá trị gia tăng được khấu trừ ”và tài khoản 3331 - “Thuế giá trị gia tăng phải nộp”. Cần phải tôn trọng các nguyên tắc hạch toán khi hạch toán hai loại tài khoản này. Những năm đầu thế kỷ 21 Việt Nam được coi là một điểm đầu tư an toàn nhất trên thế giới, do đó có nhiều nhà đầu tư từ nước ngoài đã đầu tư vào Việt Nam, dưới nhiều hình thức, đầu tư hiện vật, hoặc đầu tư tài chính. Kế toán đã sử dụng các tài khoản kế toán sau: Tài khoản 121 – “Đầu tư chứng khoán ngắn hạn ”; Tài khoản 128 “Đầu tư ngắn hạn khác ”; Tài khoản 221 - “Đầu tư chứng khoán dài hạn ” ; Tài khoản 222 - “Góp vốn liên doanh”; Tài khoản 228 - “Đầu tư dài hạn khác ” và một số tài khoản khác. Qua nội dung của các tài khoản kế toán phản ánh các hoạt động kinh tế đầu tư tài chính của doanh nghiệp, chúng ta thấy hoạt động góp vốn liên doanh và góp vốn liên kết kinh tế của doanh nghiệp với các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế khác đều là những hoạt động sử dụng vốn bằng tiền và tài sản của doanh nghiệp đầu tư vào doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế khác. Tuy nhiên trong hệ thống kế toán doanh nghiệp hiện hành, hoạt động góp vốn liên doanh được sử dụng một tài khoản riêng để ghi chép phản ánh - Tài khoản 222: “Góp vốn liên doanh”. Trong khi đó hoạt động góp vốn liên kết kinh tế lại không tổ chức một tài khoản riêng để ghi chép phản ánh hoạt động góp vốn liên kết kinh tế. Mà lại quy định ghi chép và phản ánh hoạt động này chung với hoạt động đầu tư tài chính ngắn hạn trong tài khoản 128 - “Đầutư ngắn hạn ”. Trong hệ thống kế toán doanh nghiệp hiện hành quy định phươngpháp kỹ thuật hạch toán kế toán hoạt động đầu tư tài chính trên các tài khoản kế toán chưa có sự phù hợp nhất quán giữa kế toán hoạt động đầu tư tài chính ngắn hạn và hoạt động đầu tư tài chính dài hạn, chưa có sự phân biệt hoạt động đầu tư chứng khoán và kinh doanh chứng khoán. Với Tài khoản 139 – Dự phòng phải thu khó đòi, theo nguyên tắc hạch toán, căn cứ để ghi nhận là một tài khoản nợ phải thu khó đòi là: - Nợ phải thu đã quá hạn thanh toán từ hai năm trở nên kể từ ngày đến hạn thu nợ được ghi trong hợp đồng kinh tế, theo em quy định này có thể nới rộng hơn đối với nghành nông nghiệp, bởi vì trong lĩnh vực nông nghiệp do chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố tự nhiên nên sẽ dễ dẫn tới trường hợp nông dân bị mất mùa và không thể thanh toán các khoản nợ đúng hạn. Ngoài ra trong thời gian qua còn một số tài khoản kế toán sử dụng để phản ánh vật tư hàng hoá không có sự nhất quán về tên gọi của tài khoản kế toán với nội dung kinh tế, gây khó khăn cho việc tổ chức công tác kế toán như tài khoản 151 – “Hàng mua đang đi trên đường ”; Tài khoản 156 – “Hàng hoá ” . Để khắc phục các hạn chế nêu ở trên cần phải quy định lại nội dung kết cấu các tài khoản trên nhằm đảm bảo tính đúng đắn và nhất quán của nó . Một yếu tố quan trọng để đảm bảo hiệu quả của công tác kế toán đó là trình độ của đội ngũ kế toán trong doanh nghiệp. Cần phải tăng cường đào tạo và đào tạo lại để nâng cao trình độ tay nghề của đội ngũ nhân viên kế toán, bên cạnh đó đầu tư thêm các trang thiết bịkỹ thuật vật chất nhằm phục vụ công tác kế toán mang lại hiệu quả cao. Tổng kết Trong quá trình học tập tại trường, thì đây là lần đầu tiên chúng em được tiếp xúc với một môn học chuyên nghành. Hạch toán kế toán có thể được gọi là một trong những môn cơ sở, đóng vai trò là nền tảng của chuyên nghành kế toán . Qua môn học này đã giúp cho sinh viên khoa kế toán kiểm toán nói riêng và sinh viên trường tài chính nói chung có cách nhìn tổng quát về công việc của mình trong tương lai và hiểu được vai trò của nghề kế toán. Khi nghiên cứu môn học này ta thấy sự cần thiết của hạch toán kế toán. Có thể coi hạch toán kế toán như là một công cụ đắc lực của người quản lý bởi vì hạch toán kế toán chính là những hoạt động quan sát đo lường tính toán và ghi chép của con người đối với các hoạt động kinh tế xảy ra trong quá trình tái sản xuất xã hội để nhằm thu thập và cung cấp thông tin phục vụ cho công tác quản lý các hoạt động kinh tế. Bất kỳ một doanh nghiệp hay một nền kinh tế nào đều phải tiến hành hạch toán. Nếu không có hạch toán, doanh nghiệp hay nền kinh tế không thể có được các thông tin, dữ kiện cần thiết phục vụ cho công tác quản lý do đó sẽ sản xuất không có hiệu quả hoặc nền kinh tế mất ổn định. Bên cạnh đó chúng ta còn có thể tiếp cận với từng phương pháp khoa học của môn học hạch toán kế toán. Phương pháp chứng từ kế toán, phương pháp tính giá, phương pháp tổng hợp cân đối kế toán và phương pháp tài khoản kế toán. Mỗi phương pháp có những mặt tích cực riêng tổng hợp các phương pháp này tạo thành một hệ thống các phương pháp khoa học giúp cho hạch toán kế toán có thể phát huy vai trò và chức năng của mình. Đặc biệt một trong các phương pháp trên – phương pháp tài khoản giữ vai trò hết sức quan trọng. Thông qua các tài khoản kế toán được sắp xếp theo một trật tự nhất định trong hệ thống tài khoản kế toán và cách ghi phản ánh các nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh vào tài khoản kế toán. Phương pháp tài khoản kế toán đã thể hiện tính khoa học của mình bằng việc phân loại đối tượng kế toán và ghi chép phản ánh kiểm tra một cách thường xuyên liên tục có hệ thống tình hình hiện có và sự vận động của từng đối tượng kế toán - Đây là hai đặc trưng cơ bản của phương pháp tài khoản kế toán. Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa duy vật biện chứng và kinh tế chính trị học phương pháp tài khoản kế toán gắn liền với việc xây dựng kết cấu của tài khoản kế toán một cách khoa học – bao gồm hai phần với cấu trúc hình chữ T để phản ánh đối tượng kế toán ở cả trạng thái tĩnh và trạng thái động trong mối liên hệ giữa các đối tượng kế toán với nhau một cách thường xuyên liên tục có hệ thống. Các tài khoản kế toán được sắp xếp một cách khoa học theo một trình tự nhất định trong hệ thống tài khoản kế toán. Qua môn học này, với tư cách là một sinh viên Học viện Tài Chính em đã được hiểu thêm phần nào về vai trò của một người kế toán trong tổ chức cũng như tầm quan trọng của công tác kế toán. Với mong muốn tìm hiểu sâu hơn về phương pháp tài khoản kế toán, em đã lựa chọn đề tài “Phương pháp tài khoản kế toán và việc vận dụng phương pháp tài khoản kế toán dể xây dựng hệ thống tài khoản kế toán ”. Tuy nhiên do nhận thức còn giới hạn và kinh nghiệm chưa có, nên cách đánh giá chung còn nhiều thiếu sót chủ quan trong bài tiểu luận này. Em rất mong được các thầy cô đóng góp ý kiến đẻ em có thể hoàn thành đề tài này một cách tốt hơn. Để có thể hoàn thành được tiểu luận này em xin chân thành cám ơn thầy giáo Phạm Tiến Bình cùng các thầy cô trong khoa đã giảng dạy, hướng dẫn và tạo điều kiện cho em. Những kiến thức về bộ môn hạch toán mà em đã tiếp thu được, chắc chắn sẽ đóng góp vai trò rất quan trọng trong con đường học tập công tác nghiên cứu sau này. Một lần nữa em xin chân thành cám ơn các thầy cô.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docK1169.doc
Tài liệu liên quan