Chuyên đề Quản lý nguồn vốn huy động từ tiền gửi tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Hai Bà Trưng

Hoạt động ngân hàng cũng như các loại hinh sản xuất kinh doanh khác, không tồn tại độc lập mà chịu sự chi phối rất lớn của môi trường kinh tế vĩ mô mà cụ thể là pháp luật, chế độ chính sách của Nhà nước. Nhà nước cần tạo ra môi trường kinh tế vĩ mô ổn định - điều kiện tiền đề cơ bản và quan trọng nhất cho mọi sự tăng trưởng nói chung và hoạt động ngân hàng nói riêng. Hiện nay vì nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan mà pháp luật nước ta chưa thực sự đồng bộ, nhiều điều luật có lúc chồng chéo nhau gây khó khăn cho các nhà kinh doanh. Những quy định mới không được hướng dẫn thực hiện rõ ràng cũng ảnh hưởng làm chậm quyết định của các nhà quản trị. Vì vậy, Nhà nước cần có những biện pháp nhằm đảm bảo luật pháp phải được thực hiện một cách nhất quán và triệt để. Riêng đối với hoạt động ngân hàng, trước yêu cầu mới của sự phát triển kinh tế trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế thế giới, Chính phủ cần kịp thời ban hành những văn bản pháp luật phù hợp với tình hình mới đồng thời có sự chi tiết trong hướng dẫn thi hành. Mặt khác cần phải xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật của các cán bộ ngân hàng để duy trì lòng tin của dân chúng vào sự an toàn của hệ thống ngân hàng. Việc ban hành, hướng dẫn và thi hành luật cần có sự thống nhất chặt chẽ. Điều này đòi hỏi phải có sự phối kết hợp giữa các cấp, các ngành hữu quan để đồng thời hoàn thiện và tạo lập các văn bản khác. Sự thay đổi về luật Ngân hàng, đặc biệt là Luật tín dụng cần được phối hợp với những thay đổi tương ứng trong Luật doanh nghiệp, Luật thương mại, vì trong giao dịch kinh doanh của các Tổ chức kinh tế với ngân hàng, nội dung của những bộ luật này có sự gắn bó khăng khít với nhau. Chính phủ cần có những biện pháp đồng bộ để ổn định chính sách tiền tệ, kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đối nội cũng như đối ngoại của đồng tiền. Sự ổn định tiền tệ có tác động rất lớn cho hoạt động ngân hàng nói chung và quản lý vốn, quản lý tiền gửi nói riêng. Trong tình hình hiện nay, lạm phát quá cao đã làm ảnh hưởng đến tâm lý của khách hàng vào giá trị của đồng tiền mà họ đang nắm giữ, lãi suất tiền kiệm không bù đắp nổi mức trượt giá của đồng tiền làm cho nguồn vốn ngân hàng trở nên rất thiếu bền vững. Ổn định chính sách tiền tệ để có nên kinh tế phát triển vững chắc, hạn chế rủi ro trong hoạt động ngân hàng. Việt Nam ra nhập WTO đem lại nhiều thuận lợi và không ít những khó khăn thách thức đối với hoạt động Ngân hàng. Các ngân hàng thương mại nước ta với mạng lưới đa dạng nhưng quy mô nhỏ lẻ sẽ gặp rất nhiều khó khăn khi chủ động hội nhập vào thị trường tài chính khu vực và thế giới nên vẫn cần có sự định hướng từ những chiến lược phát triển và hành lang pháp lý của Nhà nước.

doc80 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2025 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Quản lý nguồn vốn huy động từ tiền gửi tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Hai Bà Trưng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hạn vẫn không có sự thay đổi đáng kể. Tiền gửi không kỳ hạn có quy mô tăng từ 422.887 triệu đồng năm 2005 lên 562.574 triệu đồng năm 2007, tỷ trọng cũng tăng từ 17,49% lên 19,61%. Tiền gửi có kỳ hạn dưới 12 tháng cũng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn nằm trong khoảng 35- 37%. Tiền gửi có kỳ hạn từ 1- 2 năm có quy mô tăng từ 691.417 triệu đồng năm 2005 lên 718.632 triệu đồng năm 2007 nhưng tỷ trọng lại giảm từ 28,61% xuống còn 25,04%. Tiền gửi có kỳ hạn trên 2 năm cũng tăng trưởng về quy mô từ 387.819 triệu đồng lên 583.589 triệu đồng và tỷ trọng cũng tăng đáng kể từ 16,05% lên 20,35% tuy nhiên vẫn chưa đạt yêu cầu vì chỉ tiêu về tỷ trọng vốn trung dài hạn mà chi nhánh đặt ra là 30%. Tốc độ tăng trưởng tiền gửi huy động năm 2007 cao tập trung vào tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi trung dài hạn là biểu hiện tích cực vì tiền gửi không kỳ hạn giúp tiết kiệm chi phí huy động và là nguồn tiền linh hoạt, nếu duy trì được thường xuyên thì cũng tạo điều kiện cho ngân hàng đảm bảo được kế hoạch sử dụng vốn của mình. Ngược lại, tiền gửi trung dài hạn tuy lãi suất huy động cao hơn nhưng có mức độ ổn định cao, ngân hàng có thể yên tâm khi sử dụng để cho vay những dự án có thời hạn dài để thu lãi lớn và giảm thiểu rủi ro. Trong thời gian tới Chi nhánh cần tiếp tục tập trung vào tăng cường huy động vốn trung dài hạn đạt mục tiêu 30% tổng nguồn vốn để đảm bảo chất lượng nguồn vốn phục vụ tốt nhất cho hoạt động đầu tư, cho vay. 2.2.2.4. Phân tích cơ cấu tiền gửi huy động theo loại tiền Giao dịch ngân hàng trong điều kiện hội nhập kinh tế không chỉ sử dụng đồng nội tệ mà còn được thực hiện rất nhiều bằng đồng ngoại tệ. Những biến động của nền kinh tế trong nước và thế giới, những thay đổi trong chính sách kinh tế vĩ mô, lãi suất, tỷ giá; những biến đổi trên thị trường tiền tệ cũng như những bất ổn về chính trị đều ảnh hưởng đến loại tiền nào sẽ được lựa chọn làm phương tiện thanh toán, cất trữ và đầu tư của khách hàng. Hiện nay trong khi nền kinh tế xã hội có nhiều biến động thì tiền không còn là sự lựa chọn hiệu quả nhất song vốn huy động bằng tiền vẫn chiếm tỷ trọng tối đa và việc phân tích cơ cấu tiền gửi bằng nội, ngoại tệ vẫn rất quan trọng không chỉ với hoạt động kinh doanh của ngân hàng mà còn phản ánh một phần nào đó những biến động của thị trường và xu hướng tiết kiệm, niềm tin vào đồng bản tệ của người dân. Bảng 2.9: Cơ cấu tiền gửi huy động theo loại tiền Chỉ tiêu Khoản mục Số tiền (triệu đồng) Tỷ trọng (%) Chênh lệch so với năm trước (triệu đồng) (%) Tiền gửi bằng VNĐ Năm 2005 1.983.642 82,07 _ _ Năm 2006 1.967.063 79,55 - 16.579 - 2,52 Năm 2007 2.420.015 84,35 452.952 4,8 Tiền gửi ngoại tệ (quy VNĐ) Năm 2005 433.297 17.93 _ _ Năm 2006 505.788 20,45 72.491 2,52 Năm 2007 448.916 15,65 - 56.872 - 4,8 Nguồn: Phòng Tổng hợp – Chi nhánh NHCT Hai Bà Trưng Bảng số liệu trên cho thấy sự biến động không ổn định cả về lượng và tỷ trọng tiền gửi bằng VNĐ và ngoại tệ trong tổng vốn huy động. Nhìn chung quy mô vốn huy động vẫn duy trì tăng trưởng trong đó đồng nội tệ luôn chiếm ưu thế hơn so với đồng ngoại tệ (luôn chiếm tỷ trọng khoảng 80% tổng vốn huy động). Năm 2006 huy động tiền gửi bằng ngoại tệ có tốc độ tăng trưởng lớn hơn so với nguồn vốn huy động VNĐ do trong năm lãi suất huy động ngoại tệ tăng. Năm 2007 tỷ giá USD được giữ ổn định và có xu hướng giảm nên việc tích trữ và gửi ngoại tệ cũng giảm sút đáng kể so với năm 2006. Riêng về tỷ trọng, đến cuối năm 2007, tiền gửi ngoại tệ chỉ còn chiếm 15% tổng nguồn vốn, điều này thể hiện sự thiếu hợp lý trong cơ cấu tiền gửi huy động theo loại tiền và có thể dẫn đến giảm khả năng thanh khoản trong ngắn hạn bằng ngoại tệ. Chi nhánh cần tăng cường thu hút được nguồn tiền gửi ngoại tệ tương xứng với tiềm năng của mình. 2.2.3. Sự phù hợp giữa cơ cấu tiền gửi huy động và cho vay Qua phân tích ở trên, chi nhánh đã không ngừng tăng nguồn vốn huy động để phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình tuy nhiên để đảm bảo tăng trưởng bền vững, một nguyên tắc trong hoạt động kinh doanh ngân hàng là phải có sự phù hợp tương ứng giữa lượng vốn huy động và nhu cầu sử dụng. Thừa vốn hay thiếu vốn đều gây bất lợi cho ngân hàng và thể hiện sự thiếu hiệu quả trong công tác quản lý vốn. 2.2.3.1. Phân tích mối quan hệ giữa cơ cấu tiền gửi huy động và cho vay theo kỳ hạn Ÿ Phân tích mối quan hệ giữa nguồn vốn ngắn hạn và cho vay ngắn hạn Theo dõi bảng số liệu trang bên cho thấy huy động vốn ngắn hạn các năm 2005-2007 có sự tăng trưởng khá cao và ổn định trong khi dư nợ tín dụng lại giảm, lượng giảm tuy không lớn nhưng cũng thể hiện hoạt động tín dụng của chi nhánh đang gặp khó khăn. Nguồn vốn ngắn hạn thừa nhiều so với nhu cầu sử dụng vốn ngắn hạn. Thực tế tất cả các ngân hàng thương mại không được phép sử dụng 100% vốn huy động để cho vay và hầu như cũng không xảy ra tình trạng thiếu vốn hoặc nếu có cũng chỉ diễn ra trong thời gian rất ngắn và có biện pháp điều hoà ngay. Bảng 2.10: Tình hình huy động vốn và cho vay ngắn hạn Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu 31/12/2005 31/12/2006 31/12/2007 Huy động vốn ngắn hạn 1.606.233 1.629.555 1.722.768 Dư nợ cho vay ngắn hạn 512.635 474.570 478.034 Phần dư nguồn vốn ngắn hạn 1.093.598 1.154.985 1.244.734 (Nguồn: Báo cáo Tổng kết hoạt động kinh doanh của Chi nhánh 2005- 2007) Lượng dư nguồn vốn ngắn hạn lớn thể hiện sự dồi dào về nguồn vốn ngắn hạn, đây là dấu hiệu tốt đối với hoạt động của Chi nhánh vì nguồn vốn ngắn hạn có tính thanh khoản cao và nên có số dư lớn để đảm bảo an toàn cho hoạt động giao dịch nhất là trong điều kiện có biến động thị trường tài chính có thể dẫn đến khách hàng ồ ạt rút tiền. Tuy nhiên bộ phận tín dụng của Chi nhánh cũng cần có biện pháp làm sao để thực hiện tăng trưởng về dư nợ cho vay bên cạnh việc đảm bảo chất lượng tín dụng, vì nếu lượng vốn dư thừa quá nhiều và trong thời gian liên tục sẽ làm tăng chi phí hoạt động của ngân hàng và làm giảm lợi nhuận. Ÿ Phân tích mối quan hệ giữa nguồn vốn và cho vay trung dài hạn Cũng như nguồn vốn ngắn hạn, nguồn trung dài hạn tuy chưa đạt tỷ trọng yêu cầu nhưng cũng liên tục tăng trong khi dư nợ cho vay trung dài hạn lại tăng giảm thất thường. Bảng 2.11: Tình hình huy động vốn và cho vay trung dài hạn Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu 31/12/2005 31/12/2006 31/12/2007 Huy động vốn trung dài hạn 387.819 412.879 583.589 Dư nợ cho vay trung dài hạn 208.708 192.889 256.609 Phần dư nguồn vốn trung dài hạn 179.111 219.990 326.980 (Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh của Chi nhánh 2005- 2007) Năm 2006, dư nợ tín dụng trung dài hạn giảm là vì đây là năm bắt đầu thực hiện một số quy định mới ban hành của HĐQT- NHCTVN với định hướng là tăng cường chất lượng tín dụng bằng cách nâng cao các tiêu chuẩn tín dụng, sàng lọc khách hàng, do vậy khi áp dụng các doanh nghiệp đã gặp nhiều khó khăn vướng mắc trong thủ tục giấy tờ đảm bảo vay vốn ngân hàng. Trong năm 2007, một số dự án cho vay trung dài hạn đã ký hợp đồng tín dụng nhưng số tiền giải ngân mới đạt 19% và chậm so với tiến độ giải ngân đã đăng ký với ngân hàng nên mức dư nợ tín dụng chưa được cao đúng như tiềm năng của chi nhánh. So sánh giữa lượng huy động và nhu cầu sử dụng vốn trung dài hạn cho thấy vẫn có dư thừa nguồn vốn nhưng lượng thừa không lớn và là hợp lý để đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Nói chung về cơ bản đã có sự phù hợp tương ứng về kỳ hạn giữa nguồn vốn huy động và nhu cầu sử dụng. Vấn đề đặt ra với Chi nhánh là chênh lệch giữa lợi nhuận thu được từ hoạt động tín dụng và chi phí huy động phải đảm bảo kinh doanh có lãi tương xứng với quy mô và vị thế của một ngân hàng thượng mại hàng đầu. Lượng vốn huy động vẫn còn dư thừa khá nhiều và để tránh lãng phí nguồn lực, ngoài việc hưởng lãi suất điều hoà vốn của hệ thống ngân hàng công thương, Chi nhánh cần chủ động tăng cường các hoạt động kinh doanh khác như góp vốn liên doanh, đầu tư chứng khoán, … đồng thời mở rộng khai thác tín dụng trong những ngành nghề mới nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. 2.2.3.2. Phân tích mối quan hệ giữa huy động vốn và cho vay theo loại tiền Việc đảm bảo cân đối giữa nguồn vốn huy động và nhu cầu sử dụng về loại tiền cũng rất quan trọng vì việc lựa chọn loại tiền huy động và cho vay chịu ảnh hưởng của những biến động phức tạp về tỷ giá. Ÿ Phân tích mối quan hệ giữa huy động vốn và cho vay VNĐ Bảng 2.12: Tình hình huy động vốn và cho vay bằng VNĐ Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu 31/12/2005 31/12/2006 31/12/2007 Huy động vốn VNĐ 1.983.642 1.967.063 2.420.015 Dư nợ cho vay VNĐ 547.016 405.508 411.926 Phần dư nguồn vốn VNĐ 1.436.626 1.561.555 2.008.089 (Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh của Chi nhánh 2005- 2007) Trong năm 2006, cả nguồn vốn và dư nợ cho vay VNĐ đều giảm so với năm 2005 nên lượng vốn dư thừa tăng. Năm 2007 huy động vốn VNĐ tăng rất cao (23,02%), dư nợ cho vay tăng so với năm 2006 nhưng vẫn thấp hơn năm 2005. Nguyên nhân là do lãi suất huy động vốn tăng làm tăng lãi suất cho vay, gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc lựa chọn vay vốn ngân hàng để triển khai những dự án kinh doanh mới, điều này dẫn đến lượng vốn dư thừa năm 2007 rất lớn. Do đó bên cạnh việc tăng cường huy động vốn, bộ phận tín dụng của Chi nhánh cần đẩy mạnh công tác cho vay, tìm kiếm khách hàng mới. Ÿ Phân tích mối quan hệ giữa huy động và cho vay ngoại tệ Bảng 2.13: Tình hình huy động vốn và cho vay bằng ngoại tệ quy đổi Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu 31/12/2005 31/12/2006 31/12/2007 Huy động vốn ngoại tệ (quy VNĐ) 433.297 505.788 478.916 Dư nợ cho vay ngoại tệ (quy VNĐ) 193.095 280.973 291.717 Phần dư nguồn vốn ngoại tệ (quy VNĐ) 240.202 224.815 187.199 (Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh của Chi nhánh 2005- 2007) Huy động vốn bằng ngoại tệ trong 3 năm 2005 – 2007 không có sự tăng trưởng ổn định. Năm 2007, huy động tiền gửi ngoại tệ giảm đáng kể so với năm 2006 do tác động của việc giảm tỷ giá USD. Ngược lại, dư nợ cho vay ngoại tệ qua các năm đều tăng dẫn đến giảm lượng dư thừa vốn huy động bằng ngoại tệ. Tuy chưa có sự thâm hụt ngoại tệ tuy nhiên tiền gửi ngoại tệ giảm cho thấy khó khăn của Chi nhánh trong việc thu hút tiền gửi ngoại tệ của khách hàng và tiềm ẩn rủi ro tỷ giá. Chi nhánh cần có biện pháp tăng cường huy động vốn ngoại tệ để đáp ứng nhu cầu tín dụng của khách hàng và phục vụ các hoạt động kinh doanh khác về ngoại tệ. Tóm lại, xét về cơ cấu loại tiền thì số dư nguồn vốn luôn lớn hơn dư nợ cho vay đối với từng loại tiền cho thấy Chi nhánh không gặp khó khăn về vốn. Song nguyên nhân lại không phải do sự tăng trưởng cao của vốn huy động mà chủ yếu là do dư nợ tín dụng chưa đạt mong muốn. Trong thời gian tới, bên cạnh việc tăng cường huy động vốn, chi nhánh cần tập trung phát triển hoạt động tín dụng để sử dụng vốn được tốt hơn. 2.2.4. Phân tích chi phí huy động và chênh lệch lãi suất đối với các loại tiền gửi Nguồn vốn dồi dào là cơ sở cho các hoạt động của ngân hàng diễn ra trôi chảy, nhưng ngân hàng phải chi trả lãi cho việc duy trì và phát triển nguồn vốn huy động của mình. Để hoạt động kinh doanh có lãi đòi hỏi ngân hàng phải tối thiểu hoá chi phí huy động vốn, làm sao để huy động nguồn vốn lớn nhất với chi phí thấp nhất. Chi phí huy động vốn của ngân hàng gồm chi phí trả lãi và các khoản chi phí khác (chi phí tiền lương, chi phí quản lý, chi tài sản,…). Bảng 2.14: Cơ cấu chi phí huy động vốn và chi trả lãi cho tiền gửi Năm Chỉ tiêu 2005 2006 2007 Lượng (triệu đồng) Tỷ trọng(%) Lượng (triệu đồng) Tỷ trọng (%) Lượng (triệu đồng) Tỷ trọng (%) Chi trả lãi TG không kỳ hạn Các khoản huy động có kỳ hạn 131.994 8.137 123.857 47,1 6,2 93,8 159.593 8.132 151.461 66,0 5,1 94,9 166.039 9.280 156.759 79,1 5,6 94,4 Chi phí khác 148.006 52,9 82.231 34,0 43.776 20,9 Tổng chi phí huy động vốn 280.000 100 241.824 100 209.815 100 (Nguồn: Phòng Tổng hợp – Chi nhánh NHCT Hai Bà Trưng) Bảng số 2.14 cho thấy tình hình chi trả các khoản chi phí cho các tài khoản tiền gửi khác nhau. Nhìn chung tổng chi phí huy động vốn giảm qua các năm, đây là dấu hiệu đáng mừng trong khi nguồn vốn liên tục tăng trưởng song có thể nhận thấy rằng chi phí trả lãi chiếm tối đa tỷ trọng trong tổng chi phí huy động vốn và ngày càng tăng, tốc độ tăng rất lớn. Năm 2005 chi trả lãi chỉ chiếm 47,1% tổng chi phí thì năm 2007 đã tăng lên 79,1%. Đây là kết quả của những nỗ lực nhằm giảm các chi phí khác của Chi nhánh, song có một thực tế là chi phí huy động trên các tài khoản tiền gửi ngày càng tăng. Nguồn vốn huy động tiền gửi không kỳ hạn tuy có tỷ trọng ngày càng cao trong tổng vốn huy động song tỷ trọng chi phí trả lãi cho nguồn vốn này lại giảm, điều này cho thấy ngân hàng tập trung khá nhiều vào việc đẩy lãi suất huy động tăng cao, đây là nguyên nhân làm tăng chi trả lãi, tăng tổng chi phí của ngân hàng. Về lâu dài, nếu không có được sự gia tăng tương ứng trong lãi suất cho vay thì lợi nhuận của ngân hàng sẽ giảm. Ÿ Chênh lệch lãi suất bình quân: Để đánh giá chi phí trả lãi cho nguồn vốn huy động, ta sử dụng chỉ tiêu chênh lệch lãi suất bình quân. Chênh lệch lãi suất bình quân được tính như sau: Chênh lệch lãi suất bình quân = Lãi suất bình quân đầu ra – Lãi suất bình quân đầu vào Trong đó: - Lãi suất bình quân đầu ra là tỷ lệ giữa tổng lãi phải thu theo cam kết chia cho tổng số sử dụng vốn bình quân. - Lãi suất bình quân đầu vào là tỷ lệ giữa tổng lãi phải trả theo cam kết chia cho tổng nguồn vốn huy động bình quân. Lãi suất huy động, lãi suất cho vay và chênh lệch lãi suất bình quân của Chi nhánh được phản ánh trong bảng sau: Bảng 2.15: Lãi suất bình quân của chi nhánh các năm 2005 – 2007 Đơn vị: %/tháng Chỉ tiêu 2005 2006 2007 Lãi suất huy động bình quân 0,62 0,7 0,87 Lãi suất cho vay bình quân 0,94 0,98 1,12 Chênh lệch lãi suất bình quân 0,32 0,28 0,25 (Nguồn: Phòng Tổng hợp, Chi nhánh NHCT Hai Bà Trưng) Thời gian qua, Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) liên tục tăng lãi suất USD, trong khi đó, lãi suất USD trong nước đã được tự do hoá từ tháng 06/2001 nên luôn theo sát và chịu ảnh hưởng khá lớn của lãi suất trên thị trường quốc tế. Khi lãi suất trên thị trường USD tăng thì tất yếu lãi suất USD của các ngân hàng thương mại trong nước cũng tăng theo. Lãi suất USD liên tục tăng trong điều kiện chỉ số giá tiêu dùng trong nước tăng cao đã tạo áp lực cho lãi suất huy động bằng VNĐ tăng lên nhằm tạo khoảng cách lãi suất giữa VNĐ và USD, hạn chế sự dịch chuyển tiền gửi của khách hàng từ VNĐ sang USD. Thêm nữa, cạnh tranh bằng lãi suất là biện pháp cạnh tranh có tính chất truyền thống của các ngân hàng nhằm níu giữ và thu hút khách hàng gửi tiền. Lãi suất huy động tăng tạo áp lực buộc các ngân hàng thương mại phải điều chỉnh tăng lãi suất cho vay. Tuy nhiên, điều này lại gây khó khăn cho các đối tượng khách hàng có nhu cầu vay vốn, có khả năng làm giảm lợi nhuận của các ngân hàng, mặt khác lãi suất cho vay tăng cao cũng làm tăng khả năng gia tăng nợ khó đòi, đây là rủi ro lớn đối với các NHTM. Trong tình hình đó, Chi nhánh cũng thường xuyên có những điều chỉnh về lãi suất sao cho phù hợp với thị trường và đảm bảo được những mục tiêu kinh doanh đã đề ra. Nếu cuối năm 2005 lãi suất huy động của ngân hàng cho kỳ hạn 12 tháng là 8,7% năm thì đến cuối năm 2007 đã tăng lên 11,5% năm. Qua bảng trên cho thấy lãi suất huy động vốn bình quân tăng rõ rệt trong 3 năm 2005 – 2007 khiến cho lãi suất cho vay bình quân buộc phải tăng theo dẫn đến chênh lệch lãi suất bình quân giảm cho thấy chạy đua lãi suất hoàn toàn không có lợi cho ngân hàng. 2.3. Đánh giá kết quả hoạt động quản lý nguồn vốn huy động từ tiền gửi tại chi nhánh NHCT Hai Bà Trưng. 2.3.1. Kết quả đạt được Trên địa bàn thành phố Hà Nội có hơn 100 chi nhánh ngân hàng và các tổ chức tín dụng đang hoạt động, mức độ cạnh tranh ngày cang gay gắt, nhưng với những ưu thế của một trong bốn ngân hàng thương mại quốc doanh hàng đầu Việt Nam với mạng lưới chi nhánh rộng và số lượng khách hàng truyền thống là các doanh nghiệp ở các khu vực thành thị, phục vụ công thương nghiệp; trong 3 năm vừa qua Ngân hàng Công thương Việt Nam nói chung và chi nhánh Hai Bà Trưng nói riêng đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận. Quy mô nguồn vốn huy động của Chi nhánh liên tục tăng qua các năm đáp ứng được nhu cầu sử dụng cho vay trong đó giữ ưu thế về tỷ trọng vẫn là nguồn vốn huy động từ tiền gửi dân cư đã tạo cho ngân hàng một nguồn vốn ổn định. Dư nợ tín dụng của Chi nhánh tuy không tăng trưởng như mong đợi nhưng chất lượng tín dụng ngày càng được nâng cao theo đúng chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Nếu như năm 2005 là năm bộc lộ chất lượng tín dụng yếu kém tồn tại của nhiều năm trước để lại, sang năm 2006 các khoản nợ xấu vẫn tiếp tục phát sinh, các khoản nợ cơ cấu lại hết thời hạn phải chuyển quá hạn, trích dự phòng rủi ro cho các khoản nợ xấu trong 2 năm lên tới 176.942 triệu đồng thì sang năm 2007 chất lượng tín dụng đã được quản lý chặt chẽ, các khoản nợ nhóm 2, nợ xấu giảm lớn nên Chi nhánh đã được hoàn trích dự phòng rủi ro là 48.182 triệu đồng. Nợ xấu chỉ còn chiếm 0,07% (năm 2006 là 2,4%). Bộ phận quản lý rủi ro mới được thành lập và đã đi vào hoạt động khá hiệu quả giúp ngăn ngừa rủi ro tín dụng, đảm bảo hoạt động an toàn. Năm 2007 cũng là năm có chênh lệch thu chi có lãi với số lãi cao nhất từ trước tới nay (156.374 triệu đồng). 2.3.2. Tồn tại Bên cạnh những thành công trên, công tác quản lý nguồn vốn từ tiền gửi huy động của Chi nhánh vẫn còn bộc lộ ít nhiều hạn chế. Quản lý nguồn vốn của Chi nhánh chủ yếu vẫn hướng tới những mục tiêu của NHCTVN đã đề ra, đặc biệt chú trọng tuân thủ các quy định của Hội sở chính. Việc này có ưu điểm là đảm bảo an toàn trong hoạt động, tránh phạm những sai lầm, song nó làm giảm tính tự chủ trong hành động, tăng sự phụ thuộc vào quyết định của Hội sở chính và hạn chế sáng tạo. Công tác quản lý nguồn vốn tại Chi nhánh chưa thực sự được chú trọng thực hiện đầy đủ các bước theo đúng quy trình. Hoạt động quản lý thể hiện còn mờ nhạt, chủ yếu chỉ dừng lại ở phổ biến kế hoạch của Hội sở chính và kiểm tra vào cuối kỳ. Tăng trưởng nguồn vốn của chi nhánh so với các chi nhánh khác trên địa bàn thành phố Hà Nội còn rất thấp (xếp thứ 10 trên tổng số 12 đơn vị). Bên cạnh đó dư nợ tín dụng cũng tăng trưởng thấp và không hoàn thành kế hoạch đặt ra của Hội sở chính. Nhiều quỹ tiết kiệm của Chi nhánh còn chật hẹp chưa phù hợp, nơi giao dịch chưa thật sự văn minh, tác phong giao dịch và kỹ năng làm việc của cán bộ còn nhiều bất cập và chưa chuyên nghiệp, tính chủ động trong công tác tiếp thị khách hàng còn chưa cao. Chênh lệch lãi suất bình quân của Chi nhánh giảm. Điều này sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận của Chi nhánh. Chi nhánh cần tăng cường hoạt động tín dụng để bù đắp chi phí hoạt động và kinh doanh có lãi. 2.3.3. Nguyên nhân Ÿ Nguyên nhân từ thị trường tài chính và nền kinh tế Ngành ngân hàng chỉ có điều kiện phát triển tốt nhất khi có nền tảng là một nền tài chính vững mạnh. Các quốc gia càng phát triển, nền tài chính càng ổn định thì hệ thống ngân hàng càng to lớn. Ở Việt Nam, thị trường tài chính còn non trẻ, tiềm lực nhỏ bé, các thành phần còn chưa phát triển toàn diện nên chịu ảnh hưởng mạnh của thị trường thế giới. Nhất là sau khi ra nhập WTO, thị trường tài chính cũng như các loại hình sản xuất kinh doanh khác, buộc phải hoạt động tự chủ hơn để phù hợp với yêu cầu hội nhập tự do trong khi các ngân hàng hầu hết có quy mô nhỏ lẻ chưa kịp thích nghi, điều này đã gây trở ngại lớn cho sự phát triển của hệ thống ngân hàng trong nước. Sự phát triển của thị trường chứng khoán đem lại cho người dân sự lựa chọn đầu tư mới cũng khiến cho nguồn vốn huy động của ngân hàng bị ảnh hưởng. Hơn nữa hiện nay các ngân hàng thương mại gồm cả các ngân hàng quốc doanh và các ngân hàng cổ phần đều mở rộng mạnh lưới hoạt động, xây dựng thêm nhiều điểm giao dịch với quy mô khang trang hiện đại và địa điểm thuận tiện hơn đã gây ra sức ép cạnh tranh ngày càng lớn. Đây là khó khăn lớn ảnh hưởng đến thị phần của hệ thống NHCT và của Chi nhánh trên địa bàn quận Hai Bà Trưng. Ÿ Công nghệ thông tin Công nghệ phát triển góp phần giải phóng sức lao động cho con người. Công nghệ ngân hàng hiện đại giúp tăng tốc độ xử lý và tăng sự chính xác trong giao dịch. Ngân hàng tuy đã có những bước tiến lớn trong công nghệ, được trang bị nhiều máy móc, đã có máy tính nối mạng cho tất cả các phòng chức năng, nhưng nói chung vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao trong công việc. Hệ thống máy ATM của ngân hàng do hạn chế về nguồn lực nên vẫn còn ít, không thuận tiện cho khách hàng. Hoạt động thông tin tiếp thị cũng chưa được chú trọng, ngân hàng vẫn chưa quan tâm đến việc sử dụng những phương tiện quảng cáo hiện đại, trong khi vẫn còn một bộ phận không nhỏ người dân còn thiếu hiểu biết về các dịch vụ ngân hàng, đây là đối tượng khách hàng tiềm năng cần khai thác. Ÿ Nguồn nhân lực Hầu hết cán bộ nhân viên làm việc tại Chi nhánh đều có trình độ đại học trở lên. Về cơ bản đây là một nên tảng tốt cho sự phát triển Chi nhánh. Tuy nhiên CBNV còn ít có điều kiện tìm hiểu về các hình thức hoạt động mới trên thị trường thế giới, chưa thích ứng được với những biến động của nền kinh tế thị trường cộng thêm tuổi đời cao. CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ NGUỒN VỐN HUY ĐỘNG TỪ TIỀN GỬI TẠI CHI NHÁNH NHCT HAI BÀ TRƯNG 3.1. Định hướng phát triển chi nhánh NHCT Hai Bà Trưng Căn cứ vào các mục tiêu nhiệm vụ của NHCTVN, được cụ thể hoá tại buổi họp triển khai nhiệm vụ đầu năm 2008, Chi nhánh NHCT khu vực Hai Bà Trưng quyết tâm phấn đấu thực hiện một số chỉ tiêu năm 2008 so với năm 2007 như sau: - Tổng nguồn vốn huy động tăng 10%, đạt 3.150 tỷ vào cuối năm 2008. - Tổng dư nợ và đầu tư tăng 38%, đạt 950 tỷ thời điểm 31/12/2008. - Dư nợ nhóm 2 dưới 40 tỷ. - Tỷ lệ nợ xấu dưới 0,5% tổng dư nợ. - Thu nợ xử lý rủi ro 50 tỷ trở lên. - Thu dịch vụ tăng 20% đạt 6400 triệu. - Trích dự phòng RR dưới 12 tỷ. - Lợi nhuận đã trích dự phòng rủi ro 65 tỷ trở lên. Bên cạnh đó không ngừng đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh, hướng hoạt động nhiều hơn vào các dịch vụ ngân hàng; đẩy mạnh và phát triển cơ sở khách hàng cá nhân và dịch vụ ngân hàng bán lẻ đa dạng, chất lượng và cạnh tranh rộng khắp; phát triển các sản phẩm mới trên nền tảng công nghệ hiện đại; phát triển mạnh mẽ các dịch vụ ngân hàng doanh nghiệp; tập trung phát triển nguồn nhân lực, chú ý xây dựng và phát triển môi trường làm việc văn hoá, chú trọng công tác đào tạo cán bộ. Năm 2008 là năm lĩnh vực hoạt động Ngân hàng Tài chính bước vào hội nhập quốc tế sâu hơn với nhiều NHCP mà các tập đoàn kinh tế mạnh là những cổ đông chiến lược với hàng chục Ngân hàng con 100% vốn nước ngoài v.v… môi trường kinh doanh tuy vẫn có những thuận lợi nhưng cạnh tranh sẽ gay gắt và quyết liệt hơn nhiều so với năm 2007. Chi nhánh NHCT Hai Bà Trưng quyết tâm thực hiện những giải pháp thiết thực để hoàn thành thắng lợi những chỉ tiêu đã đặt ra, giữ vững danh hiệu chi nhánh kinh doanh xuất sắc. 3.2. Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý nguồn vốn huy động từ tiền gửi tại chi nhánh NHCT Hai Bà Trưng 3.2.1. Xây dựng và thực hiện tốt kế hoạch nguồn vốn Kế hoạch về huy động và sử dụng vốn cần phải được xây dựng theo đúng quy trình và dựa trên những căn cứ khoa học. Kế hoạch mà Hội sở chính giao cho từng chi nhánh cũng phải dựa trên những báo cáo phân tích về tình hình hoạt động của chi nhánh đó, nhiệm vụ còn lại của chi nhánh là triển khai kế hoạch theo chỉ tiêu đặt ra của Hội sở chính và để hoàn thành kế hoạch đảm bảo cả về số lượng, chất lượng và ổn định, chi nhánh cần thực hiện những giải pháp sau: w Tăng cường các biện pháp cân đối nguồn vốn và sử dụng vốn Tính cân xứng giữa nguồn vốn và sử dụng vốn là yếu tố quan trọng đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng an toàn và có hiệu quả, thu lợi nhuận cao. Huy động vốn nhất thiết phải gắn liền với sử dụng vốn. Một nguồn vốn dồi dào ổn định là cơ sở vững chắc để hoạt động tín dụng được thực hiện một cách chủ động, giảm rủi ro. Ngược lại, sự tăng trưởng tín dụng một mặt tạo ra những thách thức, có lúc căng thẳng với quy mô nguồn vốn, mặt khác lại thúc đẩy, buộc bộ phận huy động vốn phải có những bước đổi mới mạnh mẽ để theo kịp sự phát triển của tín dụng và lúc đó, hoạt động quản lý nguồn vốn mới thực sự có hiệu quả. Chi nhánh cần thường xuyên phân tích quy mô, cơ cấu nguồn vốn huy động, kết hợp phân tích theo chiều dọc (tỷ trọng của từng loại vốn trong tổng nguồn vốn) và chiều ngang (sự biến động của nguồn vốn theo thời gian), đồng thời phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động huy động vốn trong từng thời kỳ để dự đoán về xu hướng tăng trưởng hay những khó khăn làm giảm sút nguồn vốn trong tương lai. Tiến hành đánh giá cơ cấu nguồn vốn dựa trên một số chỉ tiêu cơ bản như tính thanh khoản, khả năng cho vay trung dài hạn, khả năng chuyển đổi kỳ hạn nguồn vốn, tổng chi phí huy động,… Về mặt kinh tế, sử dụng vốn và huy động vốn có mối quan hệ về doanh thu và chi phí. Vì chi phí kinh doanh của ngân hàng chủ yếu là chi lãi cho các khoản vốn huy động và thu nhập chính của ngân hàng cũng là thu lãi từ các khoản cho vay. Sử dụng vốn hiệu quả đem lại nguồn thu để bù đắp chi phí, đảm bảo kinh doanh có lãi, tạo sự tăng trưởng vững chắc cho hoạt động ngân hàng. w Lựa chọn và thiết lập cơ cấu vốn tối ưu Xác định lựa chọn một cơ cấu vốn hợp lý ngay từ giai đoạn lập kế hoạch tạo tiền đề để ngân hàng thực hiện tốt công tác huy động vốn. Những câu hỏi đặt ra là, trong kỳ kế hoạch ngân hàng cần tập trung huy động vốn kỳ hạn nào? loại tiền nào để tối thiểu hoá chi phí và phù hợp với xu thế chung. Huy động vốn và sử dụng vốn nên có sự tương ứng về kỳ hạn, loại tiền. Về nguyên tắc cần thực hiện huy động vốn kỳ hạn nào thì cho vay kỳ hạn đó, huy động loại tiền nào thì cho vay loại tiền đó. Tuy nhiên điều đó gây ra sự cứng nhắc, có thể gây khó khăn cho hoạt động ngân hàng. Vì vậy cần có sự chuyển hoá kỳ hạn một cách hợp lý: khi ngân hàng trong điều kiện không đủ nguồn vốn trung dài hạn cho các dự án có thời gian dài thì có thể sử dụng cho vay bằng nguồn vốn ngắn hạn nhưng cần tăng cường bù đắp nguồn vốn trung và dài hạn để ngăn ngừa rủi ro về kỳ hạn. Trong trường hợp huy động vốn không đáp ứng đủ nhu cầu cho vay về loại tiền thì tuỳ từng điều kiện cụ thể, ngân hàng có thể quy đổi loại tiền huy động dư thừa để cho vay nhưng phải có biện pháp ngăn ngừa rủi ro lãi suất, tỷ giá. 3.2.2. Nhóm giải pháp về thị trường nhằm tăng cường huy động tiền gửi của khách hàng Để đảm bảo thực hiện kế hoạch đã đề ra, hoàn thành chỉ tiêu huy động vốn về lượng, tỷ trọng và chi phí nhằm tối đa hoá lợi nhuận kinh doanh, khẳng định vai trò chỉ đạo của đội ngũ quản lý, chi nhánh cần thực hiện tốt nhóm giải pháp sau: w Nâng cao chất lượng dịch vụ Dịch vụ là hướng phát triển chiến lược của các tập đoàn toàn cầu. Xu hướng này hình thành nên một nền kinh tế dịch vụ tại các nước phát triển và tại các nước đang phát triển như ở Việt Nam. Hơn nữa, dịch vụ luôn gắn liền với nhu cầu của con người mà nhu cầu của con người là vô hạn. Vì vậy, khả năng phát triển dịch vụ rất to lớn, phạm vi cho các doanh nghiệp khai thác và phát triển dịch vụ là vô tận. Nhiều công trình nghiên cứu cho thấy dịch vụ khách hàng hoàn hảo đã và đang trở thành vũ khí cạnh tranh mang tính chiến lược cho các doanh nghiệp. Các ngân hàng hiện nay đang chạy đua nhau về chất lượng dịch vụ cả về quy mô phát triển, tiềm lực về vốn, bề rộng hệ thống mạng lưới, cũng như chiều sâu công nghệ. Chi nhánh muốn hoạt động hiệu quả cũng phải chú trọng nâng cao chất lượng dịch vụ của mình. Về công nghệ, hiện nay các ngân hàng thương mại đều đang đầu tư mạnh mẽ, đưa khoa học ứng dụng vào thực tế, thông qua đó phát triển thêm nhiều dịch vụ, sản phẩm và quản lý nội bộ chặt chẽ, hiệu quả hơn. Ngân hàng Công thương Việt Nam nói chung và chi nhánh Hai Bà Trưng nói riêng cũng đã từng bước đổi mới và hiện đại hoá công nghệ ngân hàng. Ngân hàng đã sử dụng công nghệ INCAS có thể thực hiện tới 1000 giao dịch/giây, quản trị tới 50 triệu tài khoản khách hàng và hỗ trợ thực hiện giao dịch qua hệ thống 24h/ngày. Quy trình giao dịch về séc, lệnh thanh toán và hạch toán các tài khoản khách hàng... được xử lý theo hướng tập trung hoá và tự động hoá, giảm rủi ro, đảm bảo xử lý nhanh gọn và khoa học. Nhờ đó Chi nhánh đã triển khai được nhiều sản phẩm dịch vụ mới như thanh toán hoá đơn, mua thuê bao trả trước, quản lý tài khoản qua Internet Banking. Song KHCN biến đổi từng ngày từng giờ mà việc đầu tư đổi mới công nghệ tại chi nhánh không thể thực hiện một sớm một chiều, vì vậy ngân hàng cần có sự quan tâm và đầu tư thích đáng của các cấp và được sự ủng hộ của toàn thể cán bộ nhân viên. Chất lượng dịch vụ còn phụ thuộc vào môi trường, cảnh quan xung quanh bao gồm: thiết kế và bố trí quầy dịch vụ phục vụ khách hàng sao cho thuận tiện nhất. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến việc thu hút khách của ngân hàng. Việc thiết kế bao gồm bố trí trong ngân hàng, thiết bị, đồ đạc, không gian, màu sắc,... tất cả những yếu tố đó có thể tạo nên không khí thân thiện và giúp việc loại bỏ “hàng rào ngăn cách” giữa khách hàng và nhân viên ngân hàng, một vài dịch vụ nhỏ trong khi chờ đợi cũng là một cách thu hút khách hàng hiệu quả. Hiện nay nhiều quỹ tiết kiệm của Chi nhánh còn chật hẹp chưa phù hợp, nơi giao dịch còn chưa thật sự văn minh gây ảnh hưởng tiêu cực đến ấn tượng của khách hàng. Hệ thống phân phối và quy trình giao dịch thuận tiện và hiệu quả như hồ sơ vay vốn rõ ràng, dễ hiểu, cung cấp sản phẩm cho vay một cách nhanh chóng là một biểu hiện của dịch vụ tốt. Một số yếu tố khác như giờ mở cửa, khả năng cung ứng dịch vụ, vị trí thuận tiện v.v... cũng là yếu tố bổ trợ thêm làm tăng chất lượng dịch vụ. w Quảng cáo Một trong những cách thường dùng nhất cho việc thu hút khách hàng là quảng cáo. Quảng cáo là việc sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng để truyền đi những tin tức về sản phẩm, dịch vụ hoặc hoạt động ngân hàng cho khách hàng của mình. Ngân hàng có thể sử dụng nhiều hình thức quảng cáo khác nhau hướng đến từng đối tượng khách hàng như sách báo, truyền thanh, truyền hình, một số tập san, tạp chí chuyên ngành. Thực tế hiện nay NHCT Việt Nam nói chung và chi nhánh NHCT Hai Bà Trưng nói riêng, dường như còn đang ỷ lại vào vị thế là một trong 4 Ngân hàng thương mại hàng đầu, nhưng không thể vì thế mà không chú trọng đến quảng bá để củng cố thương hiệu của mình. Quảng cáo là hình thức marketing truyền thống và hữu hiệu để Ngân hàng có thể tạo ra dấu ấn riêng nhưng quan trọng nhất vẫn là phải biết khai thác lợi thế của từng phương tiện quảng cáo một cách nghệ thuật. w Khuyến mãi và hậu mãi Đây cũng là những biện pháp mà hiện nay được các ngân hàng sử dụng tương đối phổ biến, những hình thức khuyến mãi đôi khi giá trị không lớn nhưng tạo ra hiệu ứng tốt đối với khách hàng, đặc biệt là các hình thức hậu mãi sau giao dịch. Ngân hàng không nên coi đây là hoạt động khuyến khích khách hàng sử dụng sản phẩm của mình mà nên xem là phương tiện thể hiện sự quan tâm của ngân hàng đối với khách hàng của mình, cần được làm thường xuyên trong một thời gian dài trong suốt quá trình hoạt động chứ không phải vào một thời điểm nào. Nghệ thuật khuyến mãi, tặng quà nhiều khi không ở giá trị của món quà mà là ở ý nghĩa của món quà đối với người được tặng, món quà không những thể hiện được hình ảnh của ngân hàng mà còn phải thực hiện được dụng ý và mục đích của ngân hàng, làm sao để gây được ấn tượng tốt đối với khách hàng. w Tạo dựng các mối quan hệ mật thiết với khách hàng Phát hiện được mục tiêu mục đích của khách hàng mới chỉ là bước đầu của việc xây dựng thị trường. Một chính sách khách hàng hoàn hảo phải là một chính sách biết giữ gìn và phát triển những khách hàng truyền thống, biến khách hàng mới thành khách hàng quen, thu hút ngày càng nhiều khách hàng sử dụng sản phẩm, dịch vụ của mình. Tạo dựng mối quan hệ với khách hàng còn chứa đựng những ý nghĩa và mục đích sâu xa hơn là việc giữ khách hàng. Bởi vì mỗi khách hàng đều có những mối quan hệ xã hội của họ nên chắc chắn những thông tin về sản phẩm của ngân hàng sẽ được nhắc đến trong một lúc nào đó. Thực tế là khi ngân hàng có một sai sót nhỏ trong giao dịch làm ảnh hưởng đến công việc của khách hàng thì lập tức ấn tượng không tốt đó khách hàng sẽ nhớ rất lâu và còn tuyên truyền cho nhiều người khác nhanh hơn rất nhiều những chương trình quảng cáo của ngân hàng, làm ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng. Vì vậy, ngân hàng cần phải cố gắng phục vụ tốt ngay từ đầu trong tất cả các khâu để biến khách hàng trở thành những tuyên truyền viên tích cực cho mình. Khách hàng luôn là những tuyên truyền viên hiệu quả nhất, rẻ nhất nhưng cũng có thể trở thành những kẻ phá hoại mạnh nhất cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng. w Cung cấp thông tin trực tiếp đến khách hàng Để thu hút khách hàng, việc cung cấp những thông tin về thị trường, về các dịch vụ ngân hàng làm cho khách hàng hiểu biết đầy đủ hơn về hoạt động ngân hàng là việc làm cần thiết. Ngân hàng có thể cung cấp thông tin trực tiếp cho khách hàng bằng việc tổ chức hội nghị khách hàng, trong hội nghị phải có mặt những khách hàng lớn, quan trọng. Ngân hàng phải có nội dung gợi ý để khách hàng nói về những ưu nhược điểm của các sản phẩm ngân hàng, những vướng mắc, thiếu sót trong giao dịch, yêu cầu của họ về sản phẩm và nhu cầu trong thời gian tới. Ngân hàng cũng có thể tham gia hội chợ, triển lãm về các sản phẩm và công nghệ ngân hàng, qua đó giới thiệu nhiều hơn về các loại hình dịch vụ của ngân hàng cũng như tính ưu việt của chúng, đây là hình thức cung cấp thông tin đến thị trường tiềm năng rất hữu hiệu. 3.2.3. Nhóm giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Trong các yếu tố hình thành nên chất lượng dịch vụ hoàn hảo, yếu tố con người là quan trọng nhất. Ở bất kỳ một vị trí nào, con người vẫn luôn là yếu tố hàng đầu, quyết định sự thành bại trong mọi hoạt động. Ngân hàng phải tìm cách biến mỗi nhân viên nghiệp vụ của mình thành một thế mạnh thực sự của ngân hàng, thay đổi nhận thức từ một cán bộ công chức sang một nhân viên phục vụ. Bởi vì hầu hết khách hàng đều giao dịch trực tiếp với nhân viên ngân hàng. Mọi cử chỉ, tác phong, hành động của nhân viên ngân hàng đều nằm trong mắt của khách hàng và thực tế khách hàng thường đánh giá ngân hàng qua nhân viên của ngân hàng đó. Do vậy, cần phải có một số giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa trình độ nguồn nhân lực tại chi nhánh. Cụ thể là: Mở các chương trình đào tạo cho cán bộ nhân viên, tập trung đào tạo chuyên sâu các nghiệp vụ truyền thống, đồng thời cập nhật thêm các kiến thức mới, những quy trình công nghệ hiện đại. Chiến lược đào tạo phải xác định rõ đối tượng đào tạo, nội dung đào tạo, quy trình và thời gian đào tạo cho thích hợp. Đào tạo một cách toàn diện nhưng phải tập trung vào năng lực chuyên môn để giải quyết được yêu cầu công việc, tránh đào tạo tràn lan mà kém hiệu quả, lãng phí thời gian, tiền bạc. Ngay từ giai đoạn tuyển dụng, ngân hàng cũng cần chú ý lựa chọn những ứng viên không chỉ đáp ứng đủ yêu cầu về chuyên môn nghiệp vụ, có phẩm chất đạo đức tốt mà còn cần có hiểu biết về xã hội, có khả năng thích ứng và tiếp thu nhanh công nghệ, kiến thức mới. Ngân hàng cần bố trí nhân viên của mình vào vị trí phù hợp với năng lực, trình độ đã được đào tạo và sở trường của họ để khai thác tối đa tiền năng của mỗi cá nhân, phát huy triệt để thế mạnh và nhiệt tình sáng tạo của họ. Xây dựng chế độ khen thưởng phù hợp, thực hiện chế độ khuyến khích cả về vật chất và tinh thần, phát động phong trào thi đua cán bộ giỏi nhằm kích thích tinh thần làm việc tích cực trong từng bộ phận. Đồng thời phải có chế độ kỷ luật và phê bình thích đáng đối với những cán bộ làm việc sai nguyên tắc, những cán bộ tha hoá biến chất gây tổn thất cho ngân hàng. Mặt khác nên có những buổi thảo luận giữa cán bộ quản lý và cán bộ chuyên môn để có thể cùng nhau học hỏi, chia sẻ kinh nghiệm làm việc và tạo ra môi trường làm việc thân thiện, hợp tác. 3.2.4. Nhóm giải pháp về chính sách lãi suất và tối thiểu chi phí huy động Để có thể tăng cường quản lý rủi ro, giảm chi phí huy động vốn trong điều kiện hội nhập hiện nay, chi nhánh cần thực hiện một số giải pháp về lãi suất như sau: Một là, sử dụng chính sách lãi suất huy động hợp lý Lãi suất huy động tức là chi phí của hoạt động nguồn vốn có vai trò quan trọng ảnh hưởng đến kết quả huy động vốn về quy mô và cơ cấu nguồn vốn của ngân hàng. Việc tăng hay giảm lãi suất huy động vốn tuỳ thuộc vào chiến lược kinh doanh của ngân hàng trong từng thời kỳ. Lãi suất của ngân hàng đưa ra cần phải phản ánh đúng quan hệ cung cầu về tiền tệ trên thị trường, theo sát chỉ số biến động của lạm phát và phải có tính cạnh tranh thị trường. Ngân hàng cần phải xác định mức lãi suất hợp lý cho từng loại vốn, đảm bảo hiệu quả kinh doanh cho ngân hàng và hấp dẫn khách hàng, thông thường được xác định tối thiểu như sau: Lãi suất huy động = Lãi suất thực + % Lạm phát Chính sách lãi suất cần sử dụng linh hoạt và phù hợp trong từng thời kỳ, từng địa bàn nơi ngân hàng đặt điểm giao dịch theo hướng nơi nào có tiềm năng huy động được nhiều vốn hơn thì áp dụng lãi suất cao hơn. Tuy nhiên cạnh tranh bằng lãi suất tiềm ẩn rủi ro về sự không ổn định, bền vững của nguồn vốn khi có sự biến động của lãi suất vì thế ngân hàng không nên chạy đua lãi suất theo khuynh hướng tức thời, tiêu cực. Hai là, tối ưu hoá lãi suất tiết kiệm và phát triển các dịch vụ thanh toán, các sản phẩm thanh toán nhằm giảm chi phí vốn đầu vào Với một hệ thống lãi suất tiết kiệm theo nhiều bậc, ngân hàng có thể tạo ra những sản phẩm đa dạng và hấp dẫn hơn để thu hút các khách hàng với lượng tiền gửi lớn, đồng thời có thể giảm chi phí vốn đối với các tài khoản tiền gửi có số dư thấp. Ngân hàng có thể khuyến khích khách hàng gửi tiền tham gia vào các đợt tiết kiệm dự thưởng và đưa ra cơ chế lãi suất cao hơn cho các khoản tiền gửi có kỳ hạn dài; phát triển các sản phẩm thanh toán và quản lý vốn, dịch vụ thẻ để thu hút khách hàng mở tài khoản và sử dụng số dư trên các tài khoản này nhằm giảm chi phí vốn, tăng độ ổn định của nguồn vốn. Ba là, xây dựng và hoàn thiện hệ thống quản lý rủi ro Hiện nay tại chi nhánh đã có phòng quản lý rủi ro nhưng cần có các biện pháp tăng cường nâng cao chất lượng để bộ phận quản lý rủi ro hoạt động hiệu quả, hạn chế tối đa những tổn thất có thể xảy ra và tạo tiền đề cho sự phát triển bền vững của ngân hàng. Cụ thể là: - Xây dựng quy trình quản lý rủi ro theo các mô hình cụ thể, đưa ra những phương án xử lý tình huống khẩn cấp và tổ chức diễn tập để chủ động hơn trong việc quản lý rủi ro. Nghiên cứu việc sử dụng các công cụ phòng vệ rủi ro, xây dựng các hạn mức rủi ro cho từng bộ phận, từng đơn vị trực thuộc và có cơ chế đánh giá, giám sát chặt chẽ, khách quan, nhất quán và toàn diện. - Xây dựng quy chế và triển khai hoạt động của Ủy ban quản lý tài sản Nợ - tài sản Có (ALCO) và Ủy ban quản lý rủi ro, cải tiến hệ thống kiểm tra kiểm soát nội bộ trong từng quy trình nghiệp vụ nhằm giám sát chặt chẽ việc thực hiện quy trình quản lý rủi ro. - Tổ chức thu thập thông tin, xây dựng hệ thống thông tin bên trong và bên ngoài đầy đủ phục vụ cho công tác dự báo và phòng ngừa rủi ro. Xây dựng và triển khai hệ thống thông tin quản trị trên nền tảng của hệ thống kế toán theo tiêu chuẩn quốc tế nhằm tăng hiệu quả quản lý rủi ro. - Chuẩn hóa hoạt động kinh doanh tiền tệ và nguồn vốn, quản lý nguồn vốn tập trung nhằm làm giảm chi phí vốn đầu vào, chi phí thanh khoản và nâng cao hiệu quả của công tác nguồn vốn. 3.2.5. Tăng cường hệ thống kiểm tra kiểm soát nội bộ Kiểm tra, kiểm soát là khâu cuối cùng luôn chiếm một vị trí quan trọng trong mọi quy trình quản lý và được thực hiện bởi công cụ chủ yếu là hệ thống kiểm tra kiểm soát nội bộ (KTKSNB) của đơn vị. Hệ thống KTKSNB được thiết lập để điều hành mọi cán bộ, nhân viên, các phần hành nghiệp vụ. KTKSNB không chỉ giới hạn trong kiểm soát chức năng kinh doanh, tài chính - kế toán mà còn kiểm soát toàn bộ các chức năng khác như: quản trị điều hành bộ máy hành chính tổ chức, nhân sự... Đây là hệ thống các cơ chế, chính sách, quy trình nghiệp vụ, thủ tục được thiết lập tại đơn vị nhằm bảo vệ hữu hiệu và có hiệu quả mọi nguồn lực, ngăn ngừa và phát hiện các hành vi lãng phí, gian lận, sử dụng tài sản sai mục đích hoặc vượt quá thẩm quyền cho phép, đòi hỏi mọi thành viên trong tổ chức phải tuân thủ các chính sách và quy định nội bộ. Trong công tác quản lý tiền gửi, hoạt động kiểm tra kiểm soát cũng đặc biệt quan trọng nhằm đảm bảo các bộ phận liên quan làm việc nghiêm túc, chất lượng. Để hệ nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm tra kiểm soát, Ngân hàng Công thương Việt Nam nói chung và chi nhánh NHCT Hai Bà Trưng nói riêng cần thực hiện những biện pháp sau: - Thường xuyên quán triệt tư tưởng, quan điểm của lãnh đạo NHCTVN: Bộ máy KTKSNB là cánh tay nối dài của Tổng Giám đốc, giúp Tổng Giám đốc phát hiện, ngăn ngừa kịp thời việc không tuân thủ quy trình, quy chế nội bộ có thể dẫn đến rủi ro để nâng cao hiệu quả kinh doanh trong toàn hệ thống, vì “phòng bệnh hơn chữa bệnh”. - Tăng cường công tác KTKSNB định kỳ và đột xuất, nhất là tổ chức các đợt kiểm tra chéo để sớm phát hiện các dấu hiệu sai phạm và có hướng giải quyết dứt điểm, không để kéo dài. Qua đó cán bộ kiểm tra có thể học tập kinh nghiệm lẫn nhau để nâng cao nghiệp vụ và kỹ năng chuyên môn. - Có kế hoạch bồi dưỡng và nâng cao phẩm chất đạo đức của cán bộ kiểm tra, bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ, kỹ năng kiểm tra của từng người, giúp họ có đủ năng lực, trình độ, phẩm chất, đạo đức đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Mặt khác từng cán bộ kiểm tra cũng phải ý thức vai trò, trách nhiệm của mình tự phấn đấu rèn luyện phẩm chất đạo đức, trình độ nghiệp vụ và kỹ năng nghề nghiệp, mới có thể đáp ứng được yêu cầu đổi mới của toàn hệ thống. Thực tế cho thấy nơi nào mà cán bộ kiểm tra không ngại va chạm, không né tránh vụ việc khó khăn, có năng lực, trình độ chuyên môn, chủ động trong KTKSNB và tham mưu tốt cho Ban giám đốc Chi nhánh thì ở đó ít có vi phạm xảy ra và ngược lại. 3.3. Kiến nghị 3.3.1. Kiến nghị đối với Nhà nước Hoạt động ngân hàng cũng như các loại hinh sản xuất kinh doanh khác, không tồn tại độc lập mà chịu sự chi phối rất lớn của môi trường kinh tế vĩ mô mà cụ thể là pháp luật, chế độ chính sách của Nhà nước. Nhà nước cần tạo ra môi trường kinh tế vĩ mô ổn định - điều kiện tiền đề cơ bản và quan trọng nhất cho mọi sự tăng trưởng nói chung và hoạt động ngân hàng nói riêng. Hiện nay vì nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan mà pháp luật nước ta chưa thực sự đồng bộ, nhiều điều luật có lúc chồng chéo nhau gây khó khăn cho các nhà kinh doanh. Những quy định mới không được hướng dẫn thực hiện rõ ràng cũng ảnh hưởng làm chậm quyết định của các nhà quản trị. Vì vậy, Nhà nước cần có những biện pháp nhằm đảm bảo luật pháp phải được thực hiện một cách nhất quán và triệt để. Riêng đối với hoạt động ngân hàng, trước yêu cầu mới của sự phát triển kinh tế trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế thế giới, Chính phủ cần kịp thời ban hành những văn bản pháp luật phù hợp với tình hình mới đồng thời có sự chi tiết trong hướng dẫn thi hành. Mặt khác cần phải xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật của các cán bộ ngân hàng để duy trì lòng tin của dân chúng vào sự an toàn của hệ thống ngân hàng. Việc ban hành, hướng dẫn và thi hành luật cần có sự thống nhất chặt chẽ. Điều này đòi hỏi phải có sự phối kết hợp giữa các cấp, các ngành hữu quan để đồng thời hoàn thiện và tạo lập các văn bản khác. Sự thay đổi về luật Ngân hàng, đặc biệt là Luật tín dụng cần được phối hợp với những thay đổi tương ứng trong Luật doanh nghiệp, Luật thương mại, vì trong giao dịch kinh doanh của các Tổ chức kinh tế với ngân hàng, nội dung của những bộ luật này có sự gắn bó khăng khít với nhau. Chính phủ cần có những biện pháp đồng bộ để ổn định chính sách tiền tệ, kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đối nội cũng như đối ngoại của đồng tiền. Sự ổn định tiền tệ có tác động rất lớn cho hoạt động ngân hàng nói chung và quản lý vốn, quản lý tiền gửi nói riêng. Trong tình hình hiện nay, lạm phát quá cao đã làm ảnh hưởng đến tâm lý của khách hàng vào giá trị của đồng tiền mà họ đang nắm giữ, lãi suất tiền kiệm không bù đắp nổi mức trượt giá của đồng tiền làm cho nguồn vốn ngân hàng trở nên rất thiếu bền vững. Ổn định chính sách tiền tệ để có nên kinh tế phát triển vững chắc, hạn chế rủi ro trong hoạt động ngân hàng. Việt Nam ra nhập WTO đem lại nhiều thuận lợi và không ít những khó khăn thách thức đối với hoạt động Ngân hàng. Các ngân hàng thương mại nước ta với mạng lưới đa dạng nhưng quy mô nhỏ lẻ sẽ gặp rất nhiều khó khăn khi chủ động hội nhập vào thị trường tài chính khu vực và thế giới nên vẫn cần có sự định hướng từ những chiến lược phát triển và hành lang pháp lý của Nhà nước. 3.3.2. Đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Ngân hàng Nhà nước (NHNN) có chức năng quản lý và điều hành hệ thống ngân hàng thương mại, là ngân hàng của các ngân hàng. Nó định hướng cho hoạt động của các ngân hàng thương mại và tác động rất lớn đến chiến lược kinh doanh của các ngân hàng thương mại. Ngân hàng Nhà nước cần xây dựng và hoàn thiện chính sách tiền tệ một cách đồng bộ, sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ một cách linh hoạt để điều tiết hoạt động của thị trường tiền tệ ngân hàng. Đặc biệt Ngân hàng Nhà nước cần hoàn thiện hệ thống các văn bản chế độ, nới lỏng cơ chế quản lý đối với các ngân hàng thương mại để các ngân hàng thương mại được quyền tự chủ trong khuôn khổ nhất định. Hiện nay, những biện pháp can thiệp của ngân hàng Nhà nước với những biến động của thị trường tài chính ngân hàng vẫn chủ yếu là những quyết định hành chính bắt buộc. Cụ thể như trong cuộc chạy đua lãi suất của các ngân hàng cuối năm 2007, đầu năm 2008, khả năng can thiệp để điều chỉnh lãi suất bằng các công cụ gián tiếp, thông qua nghiệp vụ thị trường mở của NHNN là rất hạn chế. Ngân hàng Nhà nước cần có các giải pháp hoàn thiện các công cụ gián tiếp trong điều hành chính sách tiền tệ, hoàn thiện nghiệp vụ thị trường mở để có đủ năng lực điều tiết cung cầu về vốn, điều chỉnh lãi suất tạo thuận lợi cho hoạt động huy động vốn trung và dài hạn của các NHTM; nên tiến tới xóa bỏ việc quy định trần lãi suất đối với tiền gửi bằng USD của pháp nhân. Việc duy trì lãi suất cơ bản như hiện nay là không cần thiết, NHNN cần nghiên cứu để ban hành chính thức lãi suất trên thị trường liên ngân hàng (VNIBOR), coi đây là lãi suất chủ đạo tạo cơ sở điều hành lãi suất trên thị trường. 3.2.3. Kiến nghị với Ngân hàng Công thương Việt Nam Ngân hàng Công thương Việt Nam là cơ quan cấp trên trực tiếp chỉ đạo điều hành chính sách của Chi nhánh NHCT Hai Bà Trưng nên có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của Chi nhánh. Để Chi nhánh hoạt động tốt hơn, phát huy được thế mạnh của mình, vượt lên những khó khăn thì cần có sự hỗ trợ từ phía NHCTVN. Thứ nhất, NHCTVN cần quy định chi tiết kịp thời, cụ thể hơn về các chủ trương chính sách, tránh tình trạng chung chung và phải linh hoạt với từng hoàn cảnh cụ thể, phù hợp với điều kiện về địa bàn hoạt động cũng như nội lực của Chi nhánh. Thứ hai, cần thường xuyên kết hợp với các chi nhánh tổ chức những buổi hội thảo trong nội bộ hệ thống NHCT để vừa nắm được những thông tin về tình hình hoạt động của từng chi nhánh vừa là cơ hội chia sẻ kinh nghiệm trong quá trình hoạt động giữa các chi nhánh. Thứ ba, cần tạo nguồn kinh phí cho chi nhánh triển khai các chương trình đào tạo phát triển nguồn nhân lực. Thứ tư, NHCTVN nên giao quyền tự chủ tự quyết nhiều hơn nữa để chi nhánh chủ động hơn trong các quyết định kinh doanh, hoạt động sáng tạo và hiệu quả hơn. KẾT LUẬN Hoạt động quản lý nguồn vốn nói chung và quản lý tiền gửi tại ngân hàng thương mại nói riêng muốn đạt hiệu quả cao thì cần có sự phối hợp chặt chẽ của ban Giám đốc, các phòng chức năng liên quan trong từng giai đoạn và xuyên suốt quá trình hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Ngân hàng Công thương Chi nhánh Hai Bà Trưng trong những năm qua đã vượt qua những khó khăn, không ngừng đổi mới, phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường và đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước. Quy mô nguồn vốn huy động từ các khoản tiền gửi của ngân hàng không ngừng tăng cao đáp ứng nhu cầu vay vốn đầu tư phát triển kinh tế địa phương, kết quả kinh doanh có lãi, tạo việc làm, nâng cao đời sống cho tập thể nhân viên. Hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp: “Quản lý nguồn vốn huy động từ tiền gửi tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Hai Bà Trưng”, em mong rằng đề tài của mình đã phần nào có được sự thống nhất giữa lý luận và thực tế và có thể đóng góp một cách thiết thực dù là nhỏ bé cho hoạt động quản lý tiền gửi tại Chi nhánh. Để đạt được kết quả tốt nhất trong công tác huy động và sử dụng vốn một cách hợp lý, Chi nhánh cần kết hợp đồng bộ các giải pháp đồng thời cần sự hỗ trợ từ phía Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng Công thương Việt Nam và các tổ chức, các ngành liên quan tạo môi trường thuận lợi cho việc đổi mới, hoàn thiện quy trình quản lý tiền gửi . Em tin tưởng rằng với tinh thần nỗ lực của toàn thể cán bộ nhân viên ngân hàng dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Ban giám đốc, trong thời gian tới NHCT Việt Nam nói chung, Chi nhánh NHCT Hai Bà Trưng nói riêng nhất định sẽ có được những bước chuyển biến mạnh mẽ hơn, nâng cao hiệu quả kinh doanh, tiếp tục khẳng định vị trí hàng đầu trên con đường phát triển của mình. TÀI LIỆU THAM KHẢO Khoa Khoa học quản lý – Giáo trình Khoa học Quản lý tập I - NXB Khoa học và Kỹ thuật 2004 Khoa Khoa học quản lý – Giáo trình Khoa học Quản lý tập II - NXB Khoa học và Kỹ thuật 2004 Báo cáo kết quả kinh doanh chi nhánh NHCT Hai Bà Trưng các năm 2004-2007 TS. Nguyễn Minh Kiều - Nghiệp vụ Ngân hàng thương mại - NXB Thống Kê 2008 PGS.TS. Nguyễn Thị Mùi – Quản trị ngân hàng thương mại – NXB Tài Chính 2006 GS.TS. Lê Văn Tư - Ngân hàng thương mại - NXB Tài Chính 2004 GS.TS. Lê Văn Tư - Tiền tệ-Ngân hàng và thị trường tài chính - NXB Tài Chính 2004 Peter Rose - Quản trị ngân hàng thương mại 2004 Học viện Ngân hàng - Quản trị ngân hàng - NXB Thống Kê 2001 Tạp chí thời báo kinh tế Một số luận văn của các Khoá 43, 44, 45 Webside:

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc12340.doc
Tài liệu liên quan