Chuyên đề Quản lý nhà nước đối với sở hữu trí tuệ nhãn hiệu hàng hóa của Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam (National office of intellectual property of Viêt Nam) tại địa bàn Hà Nội

Vấn đề quản lý nhãn hiệu hàng hóa ở Việt Nam vẫn luôn là một vấn đề mang tính thời sự và là khó khăn rất lớn để Việt Nam hòa nhập vào quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra trên mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội. Còn rất nhiều vấn đề, rất nhiều khía cạnh trong quản lý nhãn hiệu cần đi sâu mà chuyên đề chưa thể nghiên cứu càng chứng tỏ ý nghĩa và tầm quan trọng của lĩnh vực này đối với đời sống kinh tế xã hội. Kinh tế Việt Nam hàng năm tăng trưởng trên 8 %, đi liền với nó là doanh nghiệp Việt Nam và nước ngoài hàng năm cũng tăng cao, càng gây ra áp lực lớn trong quản lý nhãn hiệu. Thiết nghĩ, nếu khả năng quản lý của chúng ta dường như một chú rùa trước một cuộc đua với con thỏ mà nếu chúng ta không mạnh dạn thay đổi, mạnh dạn đổi mới tìm ra những phương thức quản lý hiệu quả hơn, học tập và vận dụng các mô hình quản lý hiện đại và phù hợp thì khoảng cách đó sẽ chẳng bao giờ được rút ngắn. Bài viết không tránh khỏi nhiều lập luận còn yếu, tầm nhìn hạn chế chưa bao quát và khả năng phân tich còn hạn chế. Rất mong được các thầy góp ý và sửa chữa để bài viết của em có chất lượng hơn. Em xin chân thành cảm ơn !

doc60 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1650 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Quản lý nhà nước đối với sở hữu trí tuệ nhãn hiệu hàng hóa của Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam (National office of intellectual property of Viêt Nam) tại địa bàn Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n ra phức tạp, sâu rộng và khó kiểm soát. Bản thân người làm chuyên đề khi khảo sát cũng như tìm hiểu cũng thực sự ngạc nhiên là thực trạng của vấn đề này lại lại phức tạp và mang tính thời sự hơn là những nhận định và cái nhìn cục bộ trước đó nhiều đến như vậy. Do đặc thù về địa bàn mà Hà nội là một trong nhưng trọng điểm của vấn đề sở hữu trí tuệ nhãn hiệu hàng hóa. Điểm sáng thì ít nhưng điểm tối lại dễ thấy và nhiều hơn nhiều lần so với những thống kê vì trên thực tế rất khó kiểm soát nếu không có một cơ chế, một nền tảng của pháp chế thực thi và kiểm soát gắn liền với thực tế. Vậy các cơ quan chức năng và một trong số đó là Cục Sở hữu trí tuệ đã quản lý lĩnh vực này thế nào trong những năm gần đây khi mà Việt Nam đã và đang đứng trước quá trình hội nhập nền kinh tế toàn cầu và đã ra nhập WTO ? 2/ Thực trạng quản lý nhà nước đối với SHTT nhãn hiệu trong Cục sở hữu trí tuệ Việt Nam giai đoạn 2005-2007 tại địa bàn Hà Nội 2.1/ Hệ thống các văn bản Luật và dưới luật liên quan đến quản lý SHTT nhãn hiệu hàng hóa a/ Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam ban hành năm 2005 Luật Sở hữu trí tuệ - một đạo luật lớn và phức tạp đã được quốc hội thông qua ngày 29/11/2005. Đây là một sự kiện quan trọng đối với hoạt động sở hữu trí tuệ nói riêng và hoạt động quản lý nhãn hiệu nói chung. Nó là một nền tảng lớn để Việt Nam thắng lợi trong quá trình đàm phán ra nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, góp phần thúc đẩy hoạt động sáng tạo khoa học, công nghệ, văn học nghệ thuật và kinh doanh đồng thời là công cụ quan trọng đối với hoạt động quản lý nhãn hiệu của Cục Sở hữu trí tuệ. Chúng ta điểm qua một vài điều quan trọng liên quan đến hoạt động quản lý nhãn hiệu hàng hóa của Cục Sở hữu trí tuệ. Theo điều 3- Đối tượng quyền sở hữu trí tuệ thì nhãn hiệu hàng hóa nằm trong đối tượng quyền sở hữu công nghiệp cần được bảo hộ SHTT. Đối tượng SHCN bao gồm sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, bí mật kinh doanh, nhãn hiệu, tên thương mại và chỉ dẫn địa lý. Tuy vậy vẫn có nhiều người nhầm lẫn rằng bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa là tách biệt hoàn toàn với sở hữu công nghiệp trong khi trên thực tế nó lại là một bộ phận của SHCN. Quyền SHCN là quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng chế, kiều dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh Theo nội dung điều 3 ta thấy khi các sản phẩm được trao đổi, tiêu dùng sẽ phát sinh nhu cầu được bảo hộ nhãn hiệu của hàng hóa đó trong hoàn cảnh ngày càng có nhiều sản phẩm có chức năng và thiết kế giống nhau. Điều này càng làm tăng ý nghĩa và tầm quan trọng của nhãn hiệu trong kinh tế thương mại và đời sống. Điều 6: Căn cứ phát sinh, xác lập quyền sở hữu trí tuệ Quyền sở hữu công nghiệp được xác lập như sau: Quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý được xác lập trên cơ sở quyết định cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo thủ tục đăng ký quy định tại Luật này hoặc công nhận đăng ký quốc tế theo quy định của điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; đối với nhãn hiệu nổi tiếng, quyền sở hữu được xác lập trên cơ sở sử dụng, không phụ thuộc vào thủ tục đăng ký. Như vậy cũng như quyền sở hữu công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa chỉ được công nhận và xác lập quyền sở hữu trí tuệ khi nó được đăng kí bảo hộ tại các cơ quan nhà nước có thẩm quyền như Cục Sở hữu trí tuệ, tuân theo quy định tại luật SHTT và các điều ước quốc tế Việt Nam tham gia như Thỏa ước Marid về đăng kí quốc tế nhãn hiệu hàng hóa, Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp... Nếu nhãn hiệu hàng hóa không đăng kí hoặc đăng kí chậm thì nhãn hiệu đó mất quyền bảo hộ SHTT; bị loại trừ không được tồn tại và lưu hành trong các hoạt động kinh tế và xã hội. Như vậy bộ luật nhấn mạnh vào điều kiện để một nhãn hiệu hàng hóa được bảo hộ sở hữu trí tuệ là phải đăng kí đầu tiên và có đầy đủ điều kiện để thẩm định nhãn hiệu theo quy định của pháp luật. Điều này nghe có vẻ không phức tạp nhưng trên thực tế do sự thiếu hiểu biết và không nắm được luật mà có cá nhân doanh nghiệp bị thiệt hại rất lớn. Điển hình là các nhãn hiệu của Việt Nam bị mất quyền bảo hộ quốc tế hay bị kiện vì vi phạm quyền sở hữu trí tuệ. Trong điều 6 này có một thuật ngữ không phải ai cũng hiểu rõ đó là ”nhãn hiệu nổi tiếng”. Theo giải thích từ ngữ trong bộ luật có ghi” Nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu được người tiêu dùng biết đến rộng rãi trên toàn lãnh thổ Việt Nam”. Tuy nhiên để hiểu rõ nhãn hiệu khi nào trở thành nhãn hiệu nổi tiếng cần có những tiêu chí như đánh giá như :(Theo điều 75 trong bộ luật này) Số lượng người tiêu dùng liên quan đã biết đến nhãn hiệu thông qua mua bán sử dụng hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu hoặc thông qua quảng cáo Phạm vi lãnh thổ mà hàng hóa dịch vụ mang nhãn hiệu đã được lưu hành Doanh số từ việc bán hàng hóa hoặc cung cấp dịch vụ mang nhãn hiệu hoặc số lượng hàng hóa đã được bán ra, lượng dịch vụ đã được cung cấp Thời gian sử dụng liên tục nhãn hiệu Uy tín rộng rãi của hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu; Số lượng quốc gia bảo hộ nhãn hiệu; Số lượng quốc gia công nhận nhãn hiệu nổi tiếng; Giá chuyển nhượng, giá chuyển giao quyền sử dụng, giá trị gop vốn đầu tư cảu nhãn hiệu. Cũng bởi những tiêu chí đánh giá này mà sự thừa nhận nó lại không phụ thuộc vào thủ tục đăng kí mà lại dựa trên cơ sở sử dụng. Đây là điểm khác biệt mà người làm kinh tế cũng như các nhà hành pháp và lập pháp cần quan tâm. Điều 72. Điều kiện chung đối với nhãn hiệu được bảo hộ Nhãn hiệu được bảo hộ nếu đáp ứng các điều kiện sau đây: - Là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều mầu sắc; - Có khả năng phân biệt hàng hoá, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hoá, dịch vụ của chủ thể khác. Điều 73. Dấu hiệu không được bảo hộ với danh nghĩa nhãn hiệu Các dấu hiệu sau đây không được bảo hộ với danh nghĩa nhãn hiệu: - Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với hình quốc kỳ, quốc huy của các nước; - Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với biểu tượng, cờ, huy hiệu, tên viết tắt, tên đầy đủ của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp của Việt Nam và tổ chức quốc tế, nếu không được cơ quan, tổ chức đó cho phép; - Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với tên thật, biệt hiệu, bút danh, hình ảnh của lãnh tụ, anh hùng dân tộc, danh nhân của Việt Nam, của nước ngoài; - Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với dấu chứng nhận, dấu kiểm tra, dấu bảo hành của tổ chức quốc tế mà tổ chức đó có yêu cầu không được sử dụng, trừ trường hợp chính tổ chức này đăng ký các dấu đó làm nhãn hiệu chứng nhận; - Dấu hiệu làm hiểu sai lệch, gây nhầm lẫn hoặc có tính chất lừa dối người tiêu dùng về nguồn gốc xuất xứ, tính năng, công dụng, chất lượng, giá trị hoặc các đặc tính khác của hàng hoá, dịch vụ Điều 105. Yêu cầu đối với đơn đăng ký nhãn hiệu - Tài liệu, mẫu vật, thông tin xác định nhãn hiệu cần bảo hộ trong đơn đăng ký nhãn hiệu bao gồm: + Mẫu nhãn hiệu và danh mục hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu; + Quy chế sử dụng nhãn hiệu tập thể, quy chế sử dụng nhãn hiệu chứng nhận. + Mẫu nhãn hiệu phải được mô tả để làm rõ các yếu tố cấu thành của nhãn hiệu và ý nghĩa tổng thể của nhãn hiệu nếu có; nếu nhãn hiệu có từ, ngữ thuộc ngôn ngữ tượng hình thì từ, ngữ đó phải được phiên âm; nhãn hiệu có từ, ngữ bằng tiếng nước ngoài thì phải được dịch ra tiếng Việt. + Hàng hoá, dịch vụ nêu trong đơn đăng ký nhãn hiệu phải được xếp vào các nhóm phù hợp với bảng phân loại theo Thoả ước Ni-xơ về phân loại quốc tế về hàng hoá và dịch vụ nhằm mục đích đăng ký nhãn hiệu, do cơ quan quản lý nhà nước về quyền sở hữu công nghiệp công bố. - Quy chế sử dụng nhãn hiệu tập thể bao gồm những nội dung chủ yếu sau đây: + Tên, địa chỉ, căn cứ thành lập và hoạt động của tổ chức tập thể là chủ sở hữu nhãn hiệu; + Các tiêu chuẩn để trở thành thành viên của tổ chức tập thể; + Danh sách các tổ chức, cá nhân được phép sử dụng nhãn hiệu; + Các điều kiện sử dụng nhãn hiệu; + Biện pháp xử lý hành vi vi phạm quy chế sử dụng nhãn hiệu. - Quy chế sử dụng nhãn hiệu chứng nhận phải có những nội dung chủ yếu sau đây: + Tổ chức, cá nhân là chủ sở hữu nhãn hiệu; + Điều kiện để được sử dụng nhãn hiệu; + Các đặc tính của hàng hoá, dịch vụ được chứng nhận bởi nhãn hiệu; + Phương pháp đánh giá các đặc tính của hàng hóa, dịch vụ và phương pháp kiểm soát việc sử dụng nhãn hiệu; + Chi phí mà người sử dụng nhãn hiệu phải trả cho việc chứng nhận, bảo vệ nhãn hiệu, nếu có. b/ Một số nghị định, thông tư liên quan đến SHTT nhãn hiệu * Nghị định số 106/2006/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính về sở hữu công nghiệp. Nghị định này quy định các hành vi vi phạm hành chính về sở hữu công nghiệp, hình thức, mức phạt, thẩm quyền, thủ tục xử phạt và các biện pháp khắc phục hậu quả. Trong nghị định, các hình thức vi phạm, mức phạt, thẩm quyền, thủ tục…đều được quy định một cách chi tiết giúp các cơ quan chức năng có cơ sở, thang đo cụ thể trong các hoạt động đánh giá mức độ vi phạm, mức phạt, tình tiết giảm nhẹ cũng như cách thức để khắc phục hậu quả của hành vi vi phạm. Nghị định này ra đời cũng giúp các cơ quan áp dụng luật không còn bối rối trước hoạt động vận dụng luật vào trong công tác quản lý, giám sát và xử lý các hành vi vi phạm vì vấn đề vi phạm quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam vẫn còn mới mẻ, chưa đi vào được đông đảo ý thức người dân và ngay cả các cán bộ làm luật và áp dụng luật cũng không phải là hiểu hết, hiểu tường tận và có tầm nhìn xa đối với vấn đề sở hữu trí tuệ. Trong nghị định có một điểm đề cập đến tình tiết giảm nhẹ đó là phụ nữ có thai, người già, khuyết tật làm hạn chế khả năng nhận thức và kiểm soát hành vi của mình. Điều này thực sự rất khó hiểu. Chưa có chứng minh cụ thể nào về việc ảnh hưởng đến nhận thức và kiểm soát hành vi của những đối tượng này và hơn thế nữa cũng chưa có quy định cụ thể trong việc giảm nhẹ hình phạt, giạm nhẹ tối đa là bao nhiêu trong khung hình phạt hay được giảm trong tất cả các trường hợp vi phạm…Cũng trong các hình thức xử phạt có một điều đáng chú ý đối với hành vi vi phạm nhãn hiệu hàng hóa đó là mức độ thiệt hại do hành vi vi phạm càng lớn thì mức xử phạt càng tăng. Điều này sát với thực tế về hành vi vi phạm nhằm dăn đe và nghiêm khắc với các hành vi có mức độ vi phạm gây thiệt hại lớn. * Nghị định sô 103/2006/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp Nghị định này quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành các quy định của Luật Sở hữu trí tuệ về việc xác lập, chủ thể, nội dung, giới hạn quyền sở hữu công nghiệp, chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp, đại diện sở hữu công nghiệp và các biện pháp thúc đẩy hoạt động sở hữu công nghiệp. * Nghị định sô 105/2006/ NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quản lý nhà nước về SHTT Nghị định này quy đinh chi tiết, hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, gồm việc xác định hành vi, tính chất và mức độ xâm phạm về quyền sở hữu trí tuệ, xác định thiệt hại, yêu cầu và giải quyết yêu cầu xử lý xâm phạm, xử lý xâm phạm bằng biện pháp hành chính, kiểm soát hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến sở hữu trí tuệ, giám định sở hữu trí tuệ và quy định quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ. * Thông tư số 49/2001/TT-BKHCNMT Thông tư của Bộ Khoa học, công nghệ và môi trường. Sửa đổi, bổ sung một số nội dung của Thông tư số 825/2000/TT-BKHCNMT ngày 3/5/2000 của Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường ban hành Thông tư này nhằm sửa đổi, bổ sung một số nội dung của Thông tư số 825/2000/TT-BKHCNMT ngày 03/5/2000 hướng dẫn thi hành Nghị định số 12/1999/NÐ-CP, như sau: 1. Nội dung sửa đổi, bổ sung Ðiểm 7.3 Thông tư số 825/2000/TT-BKHCNMT được thay thế bằng nội dung mới như sau: 7.3. Cách xác định yếu tố vi phạm c. Yếu tố vi phạm đối với nhãn hiệu hàng hoá, kể cả nhãn hiệu nổi tiếng, và tên gọi xuất xứ hàng hoá có thể thuộc một trong hai dạng sau đây: - Dấu hiệu đóng vai trò nhãn hiệu hàng hoá (chữ cái, chữ số, hình ảnh, biểu tượng, ký hiệu...) hoặc đóng vai trò tên gọi xuất xứ hàng hoá (địa danh), gắn trên hàng hoá, bao bì hàng hoá, phương tiện dịch vụ, giấy tờ giao dịch, biển hiệu, phương tiện quảng cáo và các phương tiện kinh doanh khác, kể cả phương tiện điện tử, trùng hoặc tương tự tới mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu hàng hoá, tên gọi xuất xứ hàng hoá được bảo hộ. - Dấu hiệu đóng vai trò chỉ dẫn thương mại (mọi thông tin dưới dạng chỉ dẫn, lời chú, ký hiệu...) trình bày trên hàng hoá, bao bì hàng hoá, phương tiện dịch vụ, giấy tờ giao dịch, biển hiệu, phương tiện quảng cáo và các phương tiện kinh doanh khác, kể cả phương tiện điện tử, làm cho người tiêu dùng nhầm lẫn về nguồn gốc, mối liên hệ của hàng hoá/dịch vụ với hàng hoá/dịch vụ có nhãn hiệu hàng hoá, tên gọi xuất xứ hàng hoá được bảo hộ. Căn cứ để xem xét yếu tố vi phạm nhãn hiệu hàng hoá là phạm vi bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá, gồm mẫu nhãn hiệu và danh mục hàng hoá, dịch vụ, đã được xác định tại Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hàng hoá, Quyết định chấp nhận bảo hộ nhãn hiệu đăng ký quốc tế, Quyết định công nhận nhãn hiệu nổi tiếng. Căn cứ để xem xét yếu tố vi phạm tên gọi xuất xứ hàng hoá là phạm vi bảo hộ tên gọi xuất xứ hàng hoá, gồm địa danh và hàng hoá, đã được xác định tại Quyết định đăng bạ tên gọi xuất xứ hàng hoá. Ðể xác định một dấu hiệu bị nghi ngờ vi phạm có phải là yếu tố vi phạm hay không, cần phải so sánh dấu hiệu đó với nhãn hiệu/địa danh, đồng thời phải so sánh sản phẩm, dịch vụ mang dấu hiệu đó với sản phẩm, dịch vụ thuộc phạm vi bảo hộ. Chỉ có thể khẳng định yếu tố vi phạm nêu trên trong trường hợp đáp ứng cả hai điều kiện sau đây: - Ðiều kiện thứ nhất: Dấu hiệu bị nghi ngờ vi phạm trùng hoặc tương tự với nhãn hiệu/địa danh thuộc phạm vi bảo hộ. Một dấu hiệu bị coi là trùng với nhãn hiệu/địa danh thuộc phạm vi bảo hộ nếu có cùng cấu tạo (kể cả cách phát âm, phiên âm đối với chữ cái, ý nghĩa), cách trình bày (kể cả màu sắc). Một dấu hiệu bị coi là tương tự với nhãn hiệu/địa danh nếu có một số đặc điểm hoàn toàn trùng nhau hoặc tương tự đến mức không dễ dàng phân biệt với nhau về cấu tạo, cách phát âm, phiên âm đối với chữ cái, ý nghĩa, cách trình bày, màu sắc. - Ðiều kiện thứ hai: Hàng hoá, dịch vụ mang dấu hiệu bị nghi ngờ vi phạm trùng, hoặc tương tự về bản chất hoặc có liên hệ về chức năng, công dụng và có cùng kênh tiêu thụ với hàng hoá, dịch vụ thuộc phạm vi bảo hộ; hoặc hàng hoá, dịch vụ bất kỳ mang dấu hiệu đáp ứng điều thứ nhất đối với nhãn hiệu nổi tiếng gây ấn tượng sai lệch rằng người sử dụng dấu hiệu là chủ sở hữu nhãn hiệu hoặc có quan hệ với chủ sở hữu nhãn hiệu (quan hệ cấp li-xăng, quan hệ trực thuộc về vốn...). b.5/ Thông tư của liên bộ ủy ban khoa học Nhà nước và Bộ Văn hóa – Thông tin – Thể thao và du lịch số 1191- TT/LB ngày 29/6/1991 quy định về việc quản lý nhãn và quảng cáo sản phẩm hàng hóa Điều 2. Sản phẩm, hàng hoá phải đủ các điều kiện sau đây mới được in nhãn hoặc quảng cáo: - Có giấy phép sản xuất, kinh doanh do cơ quan có thẩm quyền cấp; - Sản phẩm, hàng hoá thuộc danh mục bắt buộc đăng ký chất lượng phải được cơ quan Tiêu chuẩn - Đo lường - Chất lượng cấp giấy đăng ký. - Sản phẩm, hàng hoá thuộc danh mục bắt buộc chứng nhận phù hợp tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN) phải được Tổng cục Tiêu chuẩn - Đo lường - Chất lượng cấp giấy chứng nhận phù hợp TCVN. - Sản phẩm, hàng hoá là hoá dược hay thuốc chữa bệnh phải được cơ quan quản lý Y tế cấp giấy phép sản xuất. - Bản thảo nhãn đưa vào in phải có giấy phép hợp lệ của cấp có thẩm quyền. Điều 3. Cơ sở in (nhà in) muốn được in nhãn; tổ chức làm dịch vụ quảng cáo sản phẩm hàng hoá phải có giấy phép do cơ quan có thẩm quyền sau đây cấp: - Bộ Văn hoá - Thông tin - Thể thao và Du lịch cấp cho tổ chức làm dịch vụ quảng cáo và các cơ sở in được in nhãn ở cấp Trung ương. - Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương cấp cho tổ chức làm dịch vụ quảng cáo và các cơ sở in được in nhãn ở cấp địa phương. Các cơ sở in, các tổ chức làm dịch vụ quảng cáo phải tuân thủ các quy chế về công tác quảng các tại Chỉ thị số 738/VP ngày 10-8-1990 của Bộ Văn hoá - Thông tin - Thể thao và Du lịch và quy định của Thông tư này. Điều 6. Cấm mọi tổ chức, cá nhân buôn bán, trao đổi các loại nhãn sản phẩm, nhãn hiệu hàng hoá và bao bì đã in sẵn nhãn sản phẩm hay nhãn hiệu hàng hoá mà không được chủ sở hữu nhãn sản phẩm hay nhãn hiệu hàng hoá cho phép bằng văn bản hợp lệ. c/ Một số hiệp ước quốc tế liên quan đến SHTT nhãn hiệu hàng hóa */ Hiệp ước marid Thoả ước madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu hàng hoá (1891-1979): Thoả ước này được ký tại Madrid năm 1891, trong đó quy định việc đăng ký quốc tế nhãn hiệu tại Văn phòng quốc tế của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) ở Geneva. Theo Thoả ước này thì công dân của một nước thành viên của Thoả ước muốn bảo hộ một nhãn hiệu của mình tại nhiều nước thành viên khác, trước tiên phải đăng ký nhãn hiệu của mình tại Cơ quan Sở hữu công nghiệp quốc gia, sau đó thông qua Cơ quan Sở hữu công nghiệp quốc gia có thể nộp đơn đăng ký quốc tế cho Văn phòng quốc tế của WIPO. Văn phòng quốc tế sẽ công bố đơn đăng ký quốc tế và chỉ rõ những nước thành viên mà người nộp đơn yêu cầu bảo hộ nhãn hiệu của mình (nước được chỉ định). Nước được chỉ định có thời gian 1 năm để xem xét chấp nhận hoặc từ chối bảo hộ nhãn hiệu trên lãnh thổ của mình. Nếu sau 1 năm nước được chỉ định không có ý kiến thì nhãn hiệu coi như được chấp nhận bảo hộ ở nước đó. * Hiệp ước nhãn hiệu Hiệp ước về Luật Nhãn hiệu (TLT), được thông qua ngày 27/10/1994, đã có hiệu lực ngày 1/8/1996. TLT được ban hành để đơn giản hóa các thủ tục xin cấp phép, đăng ký và hài hòa thủ tục đăng ký nhãn hiệu giữa các quốc gia khác nhau. TLT đã hài hòa thủ tục của các cơ quan cấp phép đăng ký nhãn hiệu của các quốc gia khác nhau thông qua việc quy định những yêu cầu tối đa mà một bên tham gia có thể đưa ra. TLT dành cho nhãn hiệu dịch vụ - dấu hiệu nhận biết đặc thù của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ để phân biệt với hàng hóa - quy chế “bình đẳng” với nhãn hiệu. Trước đây, nhiều nước dành quy chế pháp lý khác nhau cho nhãn hiệu hàng hóa và nhãn hiệu dịch vụ. TLT đã yêu cầu các quốc gia thành viên đăng ký nhãn hiệu dịch vụ và dành quy chế pháp lý tương tự như nhãn hiệu hàng hóa. Một khía cạnh quan trọng khác của TLT là đem lại lợi ích cho chủ sở hữu nhãn hiệu là cấm các cơ quan cấp phép của các quốc gia thành viên yêu cầu xác thực các hồ sơ và chữ ký đối với các đơn thư xin đăng ký nhãn hiệu. Nhiều quốc gia yêu cầu bất kỳ chữ ký nào nộp kèm trong hồ sơ đăng ký nhãn hiệu cũng cần phải công chứng hoặc phải được hợp pháp hóa phù hợp với luật pháp của quốc gia đó. Theo quy định của TLT, trong hầu hết mọi trường hợp, không cần phải tuân thủ các thủ tục này nữa. Khía cạnh này cho phép người chủ sở hữu nhãn hiệu hoàn tất và nộp hồ sơ xin đăng ký nhãn hiệu nhanh hơn với chi phí thấp hơn. Một lợi thế nữa của TLT là việc hài hòa thời hạn đăng kí nhãn hiệu ban đầu và gia hạn giữa các quốc gia thành viên: TLT quy định thời hạn đăng ký ban đầu là 10 năm, và có thêm 10 năm gia hạn. Các đặc điểm chính khác của TLT còn bao gồm việc giới thiệu hệ thống ứng dụng đăng ký mục đích sử dụng (có bằng chứng chứng tỏ các nhãn hiệu này đã sử dụng trước khi đăng ký); hợp lý hóa thủ tục gia hạn; giảm thiểu những yêu cầu hoàn tất ngày nộp đơn đăng ký và đơn giản hóa thủ tục thay đổi tên và sở hữu hồ sơ và đăng ký nhãn hiệu. Nói tóm lại, TLT nhằm tạo điều kiện thúc đẩy thương mại quốc tế: Điều đó có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với các cá nhân và các doanh nghiệp nhỏ đang tìm kiếm thị trường ở các quốc gia khác. Hiện tại, Ủy ban Thường trực về Nhãn hiệu, Thiết kế công nghiệp và Ký hiệu địa lý WIPO (SCT) đang đàm phán các đề xuất sửa đổi TLT. Ủy ban này kiến nghị Đại hội đồng WIPO tổ chức một hội nghị ngoại giao từ ngày 13-31/3/2006 để xem xét việc thông qua TLT sửa đổi. * Hiệp định thương mại song phương giữa Việt Nam và Hoa Kỳ Phần 3 của Hiệp định đề cập đến quyền SHTT trong đóViệt Nam cam kết thực hiện Hiệp định về Quyền Sở hữu Trí tuệ Liên quan đến Thương mại (TRIPs) của Tổ chức Thương mại Thế giới sau 18 tháng kể từ khi Hiệp định có hiệu lực. Hiệp định song phương về TRIPs này còn có những quy định cao hơn so với hiệp định TRIPs của WTO do còn có những cam kết của Việt Nam về bảo hộ tín hiệu vệ tinh trong vòng 30 tháng 2.2/ Quy trình xét duyệt và cấp văn bằng bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa a/ Quy trinh xét duyệt truyền thống * Điều kiện để được đăng kí nhãn hiệu Tổ chức hoặc cá nhân tiến hành hoạt động sản xuất,kinh doanh hợp pháp có quyền đăng ký  nhãn hiệu  dùng cho hàng hoá hoặc dịch vụ do mình sản xuất hoặc kinh doanh; Tổ chức hoặc cá nhân khác tiến hành hoạt động thương mại hợp pháp có quyền nộp đơn đăng ký nhãn hiệu  do mình đưa ra thị trường nhưng do người khác sản xuất với điều kiện người sản xuất không sử dụng nhãn hiệu đó cho sản phẩm tương ứng và không phản đối việc nộp đơn nói trên; Đối với nhãn hiệu tập thể,quyền nộp đơn thuộc về tổ chức,cá nhân đại diện cho tập thể các cá nhân hoặc chủ thể khác cùng tuân theo quy chế sử dụng nhãn hiệu tương ứng. Quyền nộp đơn,kể cả đơn đã nộp,có thể được chuyển giao cho cá nhân hoặc các chủ thể khác thông qua văn bản chuyển giao quyền nộp đơn. * Hồ sơ đơn đăng ký nhãn hiệu - Hồ sơ đơn đăng ký nhãn hiệu phải bao gồm các tài liệu sau đây: Tờ khai yêu cầu cấp Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu (Tờ khai), làm theo Mẫu do Cục Sở hữu trí tuệ ban hành; Quy chế sử dụng nhãn hiệu, nếu nhãn hiệu yêu cầu bảo hộ là nhãn hiệu tập thể; Mẫu nhãn hiệu; Tài liệu xác nhận quyền nộp đơn hợp pháp, nếu người nộp đơn thụ hưởng quyền nộp đơn của người khác (Chứng nhận thừa kế,Chứng nhận hoặc Thoả thuận chuyển giao quyền nộp đơn,kể cả đơn đã nộp,Hợp đồng giao việc hoặc Hợp đồng lao động,...); Giấy uỷ quyền,nếu cần; Bản sao đơn đầu tiên hoặc Giấy chứng nhận trưng bày triển lãm,nếu trong đơn có yêu cầu hưởng quyền ưu tiên theo Điều ước quốc tế,gồm một (1) bản; Tài liệu xác nhận về xuất xứ,giải thưởng,huy chương,nếu trên nhãn hiệu có chứa đựng các thông tin đó; Chứng từ nộp phí nộp đơn. Bản gốc Giấy uỷ quyền; Bản sao đơn đầu tiên hoặc Giấy chứng nhận trưng bày triển lãm,nếu trong đơn có yêu cầu hưởng quyền ưu tiên theo Điều ước quốc tế,kể cả bản dịch ra tiếng Việt. - Phần mô tả nhãn hiệu trong Tờ khai phải làm rõ khả năng phân biệt của nhãn hiệu,trong đó phải chỉ rõ từng yếu tố cấu thành của nhãn hiệu và ý nghĩa tổng thể của nhãn hiệu. Nếu nhãn hiệu có chứa từ ngữ không phải là tiếng Việt,thì phải ghi rõ cách phát âm (phiên âm ra tiếng Việt) và nếu từ ngữ đó có nghĩa,thì phải dịch nghĩa ra tiếng Việt. - Nếu các chữ,từ ngữ yêu cầu bảo hộ được trình bày dưới dạng hình hoạ như là yếu tố phân biệt của nhãn hiệu,thì phải mô tả dạng hình hoạ của các chữ,từ ngữ đó. - Nếu nhãn hiệu có chứa chữ số không phải là chữ số ả-rập hoặc chữ số La mã, thì phải dịch ra chữ số ả-rập. - Nếu nhãn hiệu gồm nhiều phần tách biệt nhau nhưng được sử dụng đồng thời trên một sản phẩm, thì phải nêu rõ vị trí gắn từng phần của nhãn hiệu đó trên sản phẩm hoặc bao bì đựng sản phẩm. - Danh mục hàng hoá và dịch vụ mang nhãn hiệu trong Tờ khai phải phù hợp với phân nhóm theo Bảng Phân loại Quốc tế về hàng hoá và dịch vụ (Ni-xơ 9). - Mẫu nhãn hiệu gắn trong Tờ khai cũng như các Mẫu nhãn hiệu khác được trình bày rõ ràng với kích thước không được vượt quá khuôn khổ (80 x 80) mm,và khoảng cách giữa hai điểm gần nhau nhất không được nhỏ hơn 15 mm. - Nếu yêu cầu bảo hộ màu sắc,thì Mẫu nhãn hiệu phải được trình bày đúng màu sắc cần bảo hộ. - Nếu không yêu cầu bảo hộ màu sắc, thì tất cả các Mẫu nhãn hiệu đều phải được trình bày dưới dạng đen trắng. * Nộp đơn đăng ký nhãn hiệu - Đơn đăng ký nhãn hiệu được nộp trực tiếp hoặc gửi tới Cục Sở hữu trí tuệ. - Địa chỉ của Cục Sở hữu trí tuệ: Cục Sở hữu trí tuệ, 386 Nguyễn Trãi,Thanh Xuân, Hà Nội Tài khoản: 920.90.006 Kho bạc Nhà nước Thanh Xuân - Tổ chức,cá nhân Việt Nam có quyền tự mình nộp đơn đăng ký nhãn hiệu, hoặc có thể (không bắt buộc) thông qua dịch vụ trung gian của một Tổ chức dịch vụ đại diện sở hữu công nghiệp, thay mặt mình làm và nộp đơn. - Tổ chức, cá nhân nước ngoài không thường trú hoặc không có đại diện hợp pháp,không có cơ sở kinh doanh thực thụ ở Việt Nam nộp đơn thông qua việc uỷ quyền cho Tổ chức dịch vụ đại diện sở hữu công nghiệp. -Lệ phí đăng ký nhãn hiệu có thể được nộp bằng tiền mặt, séc chuyển khoản hoặc uỷ nhiệm chi cho Cơ quan đăng ký nhãn hiệu. * Quá trình thẩm định đơn nhãn hiệu - Thẩm định hình thức Đơn yêu cầu cấp Giáy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hàng hoá phải được xét nghiệm hình thức nhằm xác định xem đơn có đáp ứng các yêu cầu của đơn hợp lệ hay không. Nếu đơn đáp ứng các yêu cầu của đơn hợp lệ,thì Cục Sở hữu trí tuệ xác nhận ngày nộp đơn hợp lệ, số đơn hợp lệ, ngày ưu tiên của đơn và thông báo cho người nộp đơn quyết định chấp nhận đơn. Các yêu cầu của đơn hợp lệ gồm có: Các yêu cầu chung, các yêu cầu cụ thể về hình thức và yêu cầu về tính thống nhất của đơn sở hữu công nghiệp. Thời hạn xét nghiệm hình thức là 01 tháng kể từ ngày đơn đến Cục Sở hữu Trí tuệ. - Công bố đơn Các đơn nhãn hiệu hợp lệ đều được Cục Sở hữu trí tuệ công bố trên Công báo Sở hữu công nghiệp. Công báo này được ấn hành hàng tháng. Bất cứ ai có nhu cầu có thể yêu cầu Cục Sở hữu trí tuệ cung cấp bản in Công báo và phải trả tiền mua Công báo. - Thẩm định nội dung Việc thẩm định nội dung được tiến hành khi đơn đã được chấp nhận là đơn hợp lệ và người nộp đơn đã nộp lệ phí xét nghiệm nội dung theo quy định. Thời hạn thẩm định nội dung đơn nhãn hiệu  là 06 tháng tính từ ngày công bố. Mục đích của việc thẩm định nội dung đơn yêu cầu cấp văn bằng bảo hộ là để xác định đối tượng nêu trong đơn có đáp ứng các tiêu chuẩn bảo hộ mà luật pháp quy định hay không. - Cấp Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu,Đăng bạ Căn cứ vào kết quả thẩm định nội dung,nếu đối tượng nêu trong đơn đáp ứng các tiêu chuẩn bảo hộ, thì Cục Sở hữu trí tuệ thông báo cho Người nộp đơn kết quả thẩm định và yêu cầu nộp lệ phí đăng bạ, lệ phí cấp Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu , lệ phí công bố Văn bằng bảo hộ . Nếu Người nộp đơn nộp các lệ phí nêu trên,thì Cục Sở hữu trí tuệ tiến hành các thủ tục cấp Văn bằng bảo hộ cho Người nộp đơn, đăng bạ và công bố Văn bằng bảo hộ. Nếu Người nộp đơn không nộp lệ phí theo yêu cầu, thì đơn coi như bị rút bỏ. - Gia hạn Nhãn hiệu có thể gia hạn vô số lần bằng việc nộp khoản phí gia hạn theo quy định nhưng việc đăng kí có thể bị đình chỉ hoàn toàn hoặc đối với một số hàng hóa dịch vụ nhất định nếu nhãn hiệu đó không được sử dụng trong thời hạn cụ thể theo quy định của luật pháp về nhãn hiệu Số đơn đăng kí và đơn được cấp văn bằng bảo hộ nhãn hiệu ở Việt Nam giai đoạn 2005-2007.( Bao gồm cả đơn đăng kí quốc gia và đơn đăng kí quốc tế ) Đối tượng Tiếp nhận đơn Cấp văn bằng/chấp nhận bảo hộ Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Nhãn hiệu hàng hoá 18018 23.086 27.074 9760 12287 20044 Tăng so với năm trước 28,13% 17,12% 25,89% 63,13% Số đơn tiếp nhận Văn bằng bảo hộ được cấp Số lượng đơn đăng kí và đơn được cấp văn bằng bảo hộ nhãn hiệu tại Hà nội giai đoạn 2005-2007 Đối tượng Tiếp nhận đơn Cấp văn bằng/chấp nhận bảo hộ Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Nhãn hiệu hàng hoá 3796 4969 5937 1676 2258 3929 Tăng so với năm trước 30.90% 19,48% 34.73% 74% Số lượng đơn tiếp nhận Số văn bằng bảo hộ được cấp b/ Hệ thống quản trị sở hữu công nghiệp-IPAS Trước năm 2000, Việt Nam chưa có một hệ thống quản trị tổng hợp về sở hữu công nghiệp mà mới chỉ có một hệ thống đơn lẻ, rời rạc phục vụ cho từng nhóm công việc với mục đích hẹp. Việc phối với, trao đổi giữa các hệ thống đó rất giới hạn bởi thiếu sự đồng bộ. Để khắc phục các khiếm khuyết trên, dự án MOIPA xây dựng Hệ thống quản trị sở hữu công nghiệp ( IPAS – Industrial property administration system ). Hệ thống IPAS đã áp dụng kĩ nghệ thông tin hiện đại để quản lý tất cả các quy trình xử lý đơn sở hữu công nghiệp từ khi nộp đơn cho đến xét nghiệm hình thức, công bố đơn, đăng bạ, cấp văn bằng bảo hộ trong đó có quản lý nhãn hiệu hàng hóa, cũng như theo dõi hiệu lực cho các nhà quản lý và những người quan tâm đến đơn sở hữu nhãn hiệu hàng hóa. Hệ thống IPAS gồm những chức năng chính : * Nhập dữ liệu Cho phép nhập, lưu giữ các thông tin thư mục và ảnh quét của tài liệu đơn, mẫu nhãn hàng, ảnh, kiểu dáng…Chức năng này có phần mềm nhận dạng tiếng Việt (ORC) hỗ trợ người dùng nhập dữ liệ nhanh chóng. Khi có công văn, tài liệu bổ sung liên quan đến đơn, các tài liệu đó cũng được nhập nhờ chức năng này. * Xét nghiệm hình thức Cho phép xét nghiệm viên kiểm tra, hiệu chỉnh các thông tin về đơn, ra các thông báo liên quan đến kết quả xét nghiệm theo các mẫu công văn chuẩn thống nhất. Chức năng này cũng hộ trợ ghi nhân các thông tin liên quan đến tài liệu đối chứng khi xét nghiệm nội dung đơn. Việc phê duyệt và gửi công văn được thực hiện trên máy, các công văn đã gửi được lưu trữ trong cơ sở dữ liệ để xét nghiệm viên và mọi người quan tâm có thể xem lại. Ngoài ra các chức năng này còn cho phép theo dõi thời hàn xét nghiệm nhằm hỗ trợ xét nghiệm viên và những người quản lý nắm chắc tiến độ giải quyết công việc do mình quản lý. * Công bố đơn Cho phép lấy thông tin để công bố theo đúng các quy định pháp luật. Các trang công báo được tạo tự động từ cơ sở dữ liệu, vì thế độ chính xác đảm bảo cao. Các thông tin công bố như số Công báo, ngày công bố được cập nhạt vào cơ sở dữ liệu. * Đăng bạ Cho phép theo dõi các đơn đã có kết luận được bảo hộ, thông báo bổ sung lệ phí, ra quyết định cấp văn bằng, đăng, in Văn bằng và công bố quyết định cấp văn bằng bảo hộ theo đúng quy định * Các chức năng khác Ngoài các chứng năng trên, Hệ thống IPAS còn nhiều chức năng khác như khiếu nại (đêr tạo các công văn và ghi nhận các công văn liên quan đến kết quả giải quyết khiếu nại); tra vấn (Xem xét thông tin về đơn hoặc văn bằng); Quản trị Hệ thống (quản lý, cấp quyền cho người dùng và thay đổi thông tin hệ thống); Thống kê (Thực hiện nhiệm vụ thống kê theo các yêu cầu khác nhau) và Sửa đổi, gia hạn, theo dõi hiệu lực Văn bằng bảo hộ. Tất cả các chức năng trên được giao cho các bộ phận, người dùng khác nhau thực hiện, nhưng kết quả công việc được ghi nhận vào một Hệ thống thống nhất. Bộ phận này có thể dùng, tham khảo kết quả, thông tinh từ bộ phận khác, nhờ đó việc xử lý đơn được thống nhất, chuẩn xác và nhanh chóng Sơ đồ hệ thống IPAS (ảnh scan) c/ Hệ thống nộp đơn điện tử phi trực tuyến Hệ thống nộp đơn điện tử phi trực tuyến được quản lý bằng phần mềm E-Filing (Phần mềm nộp đơn điện tử) cung cấp cho người dùng những công cụ giúp tạo đơn điện tử, lưu trữ đơn. Phần mềm hỗ trợ phương thức chuyển đơn trực tuyến cũng như sử dụng phương pháp sao dữ liệu đơn vào CD_R, đĩa mềm. * Ích lợi Phần mềm đảm bảo những đơn được tạo ra đáp ứng được yêu cầu theo mẫu chuẩn của NOIP. Phần mềm sử dụng các định dạng XML, cung cấp khả năng tra cứu toàn diện. Cuối cùng và cũng quan trọng nhất, phần mềm E-filing giúp rút ngắn quá trình tạo và nộp đơn. Người nộp đơn có thể nhanh chóng biết đơn đang ở trạng thái nào trong quá trình xử lý. * Tính năng Phần mềm E-Filing hỗ trợ ngươi dùng rất nhiều tính năng hữu ích: In đơn đăng ký . Tính toán các loại phí và lệ phí theo các thông số nhập vào trong đơn Đáp ứng các yêu cầu về dữ liệu đơn lưu trữ dạng thông thường và dạng tệp nén Cho phép sửa đổi dữ liệu nhập vào đơn (bao gồm hình ảnh và văn bản) Hỗ trợ nhập dữ liệu điện tử vào hệ thống Cung cấp chức năng quét ảnh và tài liệu, đồng thời cho phép chuyển dữ liệu dạng file ảnh scan sang đúng định dạng chuẩn của NOIP. Hỗ trợ mã ngôn ngữ TCVN-3 và UTF-8 Cung cấp chức năng lọc dữ liệu, tổng hợp báo cáo. Người dùng (các vai trò trong hệ thống) E-Filing hỗ trợ những người dùng sau: Nhân viên: -       Quản lý bản đơn nháp: Người dùng có vai trò là thành viên có thể quản lý tất cả các đơn vừa mới tạo hoặc sửa. Khi đơn ở trạng thái bản nháp, hệ thống cho phép người dùng thành viên xem chi tiết đơn, sửa, xoá đơn. -       Kết thúc quá trình chuẩn bị đơn: thành viên có thể quản lý toàn bộ bản nháp đơn và chuyển trạng thái sang đơn chờ duyệt. -       Quản lý đơn đã nộp: người dùng quản lý các đơn đã nộp có thể xem chi tiết từng đơn. -       Báo cáo thống kê: Người dùng được hỗ trợ in, chỉnh sửa định dạng báo cáo thống kê -       Quản lý dữ liệu danh mục: người dùng có thể quản lý các dữ liệu (Country, Province, IP Agent, IPC Class, Nice Class. Vienna Class, Locarno Class, Fee, Attachment Document Type Quản lý: Người dùng với vai trò quản lý được cấp quyền sử dụng chức năng duyệt đơn. Nguồn : Cục Sở hữu trí tuệ -  Duyệt đơn: Quản lý và duyệt các đơn. -  Quản lý dữ liệu danh mục: Người dùng có thể quản lý các loại dữ liệu danh mục như danh mục quốc gia, tỉnh thành; danh mục phí, lệ phí và tài liệu đính kèm; danh mục phân loại (phân loại Nice, Vienna, Locarno) 2.3/ Hệ thống quản lý thông tin về nhãn hiệu hàng hóa Ngày 2/2/2007, tại Hà Nội, Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA) phối hợp với Cục Sở hữu trí tuệ đã tổ chức Hội thảo lần thứ nhất Dự án "Ứng dụng thông tin sở hữu trí tuệ tại Việt Nam". Được sự đồng ý của Chính phủ Việt Nam, tiếp theo Dự án "Hiện đại hoá quản trị sở hữu công nghiệp", Chính phủ Nhật Bản đã tiếp tục tài trợ cho Cục Sở hữu trí tuệ thực hiện Dự án "Ứng dụng thông tin sở hữu trí tuệ tại Việt Nam (UTIPINFO) từ 01/01/2005 đến 31/03/2009. Mục tiêu của Dự án này là tạo điều kiện cho quá trình xử lý đơn và cung cấp thông tin sở hữu công nghiệp tới công chúng tốt hơn. Ngày 2 tháng 2 năm 2007, tại Hà Nội, Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA) phối hợp với Cục Sở hữu trí tuệ đã tổ chức Hội thảo lần thứ nhất Dự án "Ứng dụng thông tin sở hữu trí tuệ tại Việt Nam". Tham dự Hội thảo có Ông Nakagawa Hiroaki, Trưởng Đại diện Văn phòng Việt Nam của Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản, Ông Phạm Phi Anh, Phó Cục trưởng Cục Sở hữu trí tuệ, một số đại diện của các Sở Khoa học và Công nghệ, Tổ chức đại diện sở hữu công nghiệp khu vực Hà Nội và một số trường Đại học. Lần đầu tiên, thư viện điện tử về sở hữu công nghiệp (IP Lib) tại địa chỉ đã được giới thiệu và trình diễn. Thư viện này bao gồm tất cả các đơn sở hữu công nghiệp được nộp vào Cục Sở hữu trí tuệ từ năm 1982 đến nay đã được công bố trên Công báo Sở hữu công nghiệp (vào khoảng 130.000 đơn các loại và hơn 90.000 văn bằng bảo hộ) và theo dự kiến được cập nhật thường xuyên. Thư viện điện tử IP Lib này là nguồn thông tin pháp lý đầy đủ nhất và là nguồn thông tin khoa học công nghệ có giá trị về tình trạng bảo hộ sở hữu công nghiệp tại Việt Nam. Công chúng có thể sử dụng IP Library để kiểm tra sơ bộ khả năng bảo hộ của đối tượng dự định nộp đơn yêu cầu bảo hộ sở hữu công nghiệp, theo dõi tình trạng đơn đã được nộp. Hội thảo cũng đã giới thiệu về một Hệ thống nữa do Dự án UTIPINFO xây dựng là Hệ thống nộp đơn điện tử phi trực tuyến (IPFile) và tiến tới nộp đơn trực tuyến (dự kiến sẽ thực hiện vào quý I năm 2009). Các đại biểu tham dự Hội thảo đã rất quan tâm đến các thành quả của Dự án này, vì những Hệ thống thư viện điện tử và Hệ thống nộp đơn điện tử sẽ tạo điều kiện tốt cho phát triển các dịch vụ điện tử trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ. Cũng trong thời gian này, Cục Sở hữu trí tuệ vừa cùng Hội Sở hữu trí tuệ Việt nam ra mắt trang web nhanhieuviet.com, nó trở thành phương pháp nhanh nhất để các doanh nghiệp có thể nộp đơn đăng ký tại các nước mình muốn xuất khẩu hàng hóa sang. TS. An Khang, Chủ tịch Hội Sở hữu trí tuệ Việt Nam cho biết, đến thời điểm này đã có gần 80 doanh nghiệp đăng ký trở thành thành viên của mạng Nhãn hiệu Việt. Với sự bảo trợ của Cục sở hữu trí tuệ, trang điện tử này sẽ trở thành diễn đàn về nâng cao nhận thức của việc sở hữu trí tuệ. 2.4/ Hoạt động thanh tra, kiểm tra của Cục Tại địa bàn Hà Nội, khi tiến hành thanh tra hầu như mọi chủng loại hàng hóa từ các sản phẩm tiêu dùng thông thường đến những sản phẩm gia dụng, đặc dụng như mỹ phẩm, dược phẩm...đều có hàng nhãi nhãn hiệu, nhãn hiệu không rõ xuất xứ hay có nhiều dấu hiệu vi phạm về sở hữu trí tuệ nhãn hiệu hàng hóa. Những cơ sở sản xuất vi phạm thường có quy mô sản xuất nhỏ, làm ăn manh mún không có được những sản phẩm cạnh trạnh với các sản phẩm khác. Tình trạng vi phạm trắng trợn, tràn lan đối với những sản phẩm đã được cấp giấy chứng nhận đăng kí nhãn hiệu hàng hóa trên địa bàn. Đây chính là hình thức “núp bóng” những nhãn hiệu đã tạo dựng được uy tín và hành vi vi phạm này gây thiệt hại không ít cho các doanh nghiệp làm ăn chân chính. Đụng vào đâu và ở lĩnh vực nào liên quan đến sáng tạo và về mẫu mã, kiểu dáng, người ta cũng có thể thấy sự sao chép và lợi dụng những nhãn hiệu có sẵn một cách trắng trợn. Các cơ sở nhỏ lẻ cũng dựa vào các "đại gia" mà kiếm sống, có bột giặt TOMOT bên cạnh Omo, có nước suối đóng chai Lavile bên cạnh Lavie. Hay như công ty Haipharco đã sản xuất và cho lưu thông một sản phẩm thuốc Hoạt huyết dưỡng não có bao bì ngoài và vỉ thuốc giống hệt với sản phẩm thuốc Hoạt huyết dưỡng não của Traphaco, dễ dàng gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng khi họ không chú ý và thậm chí dẫu có chú ý cũng không phải là dễ phát hiện ra sự khác nhau đó. Tuy nhiên, đây mới chỉ là sự lợi dụng của những cái tên. Trên thị trường Hà Nội có những sản phẩm có chung một công dụng, có nhãn mác giống y hệt nhưng chỉ thay đổi vài chi tiết nhỏ vẫn được bày bán công khai. Mặc dù số vụ vi phạm trên thực tế rất cao nhưng theo thống kê của Cục SHTT thì cả nước có 306 vụ (2004); 324 vụ (2005); 344 vụ (2006) và 368 vụ (2007) khiếu nại việc vi phạm quyền SHTT về nhãn hiệu hàng hóa. Điều này cho thấy ngay cả khi biết nhãn hiệu hàng hóa của mình bị xâm phạm thì các doanh nghiệp Việt Nam tỏ ra lúng túng trong việc khiếu nại cũng như có hành vi ngăn chặn các xâm phạm đó. Và vì vậy càng làm cho tình hình vi phạm trở lên nghiêm trọng và phạm vi ảnh hưởng ngày càng lớn. Bên cạnh đó việc xử lý vi phạm lại tỏ ra yếu và chưa mạnh tay, theo thống kế chỉ có khoảng 20% số vụ vi phạm bị xử lý và chủ yếu là phạt cảnh cáo và hành chính, với số tiền rất ít hầu như không đáng kể, không có tác dụng dăn đe hay ngăn chặn. Trong hoạt động thanh tra bên cạnh việc phân công và bổ nhiệm chức năng giám sát cho từng bộ phận phòng, cán bộ trong Cục thì Cục cũng thường xuyên phối hợp với các cơ quan chức năng khác như Cục Quản lý thị trường, Cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng, cơ quan Công an,…giúp nâng cao hiệu quả trong hoạt đông thanh tra, giám sát các doanh nghiệp, tổ chức về nhãn hiệu hàng hóa. Tuy nhiên, vẫn được đánh giá là khâu yếu nhất bởi sự phối hợp giữa các cơ quan này vẫn thiếu tính linh hoạt, còn chưa nhất quán và thống nhất trong các hoạt động quản lý và ràng buộc nhau khá nhiều trong hệ thống quyền hạn của các cơ quan. 2.5/ Đánh giá, kết luận * Về hệ thống luật pháp Để luật đi vào đời sống cần có những Thông tư, Nghị định hướng dẫn thi hành luật. Như vậy đôi khi các văn bản do Bộ, ngành soạn thảo thường ảnh hưởng lớn đến nội dung, cách thức thực thi pháp luật nên thực tế là luật lại không có hiệu quả thực thi bằng Nghị định, thông tư, hơn thế nữa nghị định thông tư thường do cá nhân soạn thảo, khó tránh được ý kiến chủ quan. Và đây cũng là kẽ hở để nhiều cá nhân quản lý và có những hành động theo lợi ích cá nhân, dễ nảy sinh các hành vi tham nhũng. Bên cạnh đớ Luật chưa đi sâu vào được trong cuộc sống do tính thiếu thực tiễn và khả năng áp dụng của các đạo Luật Việt Nam nói chung và Luật SHTT nói riêng. Nếu là những người am hiểu luật, có hoạt động trong các lĩnh vực đó thì các từ, ngữ, cụm từ ngữ họ nắm rất rõ nhưng luật SHTT là một đạo luật rất mới mẻ dù nó đã có từ năm 2005, nhưng với đa số người dân Việt Nam nó vẫn còn là một trong những đạo luật rắc rối, giải thích các thuật ngữ còn chưa cặn kẽ, dễ gây hiểu lầm đối với cả người thực thi chứ chưa nói gì đến người dân. Trong Luật SHTT tuy có quy định chi tiết các cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động quản lý nhãn hiệu hàng hóa xong nó vẫn đang là phiền hà bởi chính quy định không rõ ràng, chưa thực sự phân tách được quyền hạn của các cơ quan này làm cho hiệu quả thực thi còn kém như hiện nay. * Về hoạt động quản lý nhãn hiệu của Cục Sở hữu trí tuệ Không thể phủ nhận những thành tựu mà Cục Sở hữu trí tuệ đã đạt được trong suốt chặng đường phát triển hơn 25 năm vừa qua. Cục Sở hữu trí tuệ đã tiếp nhận, xử lý và cấp văn bằng bảo hộ cho hàng trăm ngàn nhãn hiệu, mang lại giá trị thực tiễn to lớn về kinh tế và quản lý cho xã hội. Tuy nhiên đứng trước những khó khăn chung và thách thức của giai đoạn phát triển mới mà hoạt động quản lý của Cục Sở hữu trí tuệ không tránh khỏi những vấn đề còn làm chưa tốt, chưa hiệu quả và thậm chí còn yếu kém. Thứ nhất, thời gian tiếp nhận cho đến khi cấp giấy chứng nhận còn quá dài. Để thẩm định xong hình thức mất một tháng, sau đó là mất 6 tháng để thẩm định nội dung. Trừ phi là những nhãn hiệu nổi tiếng có vòng đời dài còn hầu hết nhãn hiệu đều có vòng đời ngắn, nhanh chóng bị thay thế. Nếu đợi chờ được thậm định xong trong thời gian lâu như vậy thì sẽ gây rất nhiều khó khăn về sản xuất, cạnh tranh và tính sống còn đối với sản phẩm của doanh nghiệp. Nếu có thể thì tiến hành thẩm định nội dung và hình thức chỉ qua một cửa, một khâu và tận dụng công nghệ cũng như thư viện thông tin để đẩy nhanh khâu thẩm định. Thứ hai, hoạt động thanh tra, kiểm tra còn làm chưa mạnh, chưa sâu sát thực tế và còn thiếu nhiều chế tài hỗ trợ cho hoạt động này. Mỗi khi tiến hành thanh tra kiểm tra một cơ sở, một doanh nghiệp, ngay chính người đi thanh tra kiểm tra còn lúng túng nói gì đến các doanh nghiệp. Thứ ba, sự phối hợp giữa Cục và các cơ quan chức năng khác vẫn còn nhiều bất cập, điều này có thể hiểu một phần do hệ thống tổ chức của Nhà Nước Việt Nam còn chưa phù hợp, mỗi cơ quan lại có những quy định, quy tắc cũng như đặc thù khác nhau làm cho mỗi khi có sự phối hợp giữa họ thì lại càng nảy sinh sự rắc rối và rườm rà. Hiện nay, ở Việt Nam có tới 6 cơ quan thực thi quyền sở hữu trí tuệ và đã có sự phân công chức năng, nhiệm vụ của từng ngành nhưng vẫn tồn tại thực tế là năng lực của các cán bộ hiện vừa yếu lại vừa thiếu. Các ngành chức năng hoạt động chưa thực sự hiệu quả, chồng chéo, sự phối hợp còn hạn chế. Nhiều cơ quan tham gia nhưng mỗi cơ quan lại áp dụng những trình tự thủ tục về sở hữu trí tuệ khác nhau. Chưa có quy định thống nhất của Chính phủ nên các doanh nghiệp khi bị xâm hại đến giải quyết tại các cơ quan chức năng bị đòi hỏi nhiều thủ tục gây phiền hà. Thứ tư, hệ thống quản lý thông tin nhãn hiệu hàng hóa còn bộc lộ một số bất cập như hệ thống tra cứu chưa nhanh, cách phân loại còn cồng kềnh hay điển hình những tiêu chuẩn để xác định và quản lý nhãn hiệu còn chưa tốt vd như nhãn hiệu VN contro và vinacontro gây ra sự tranh chấp giữa hai cơ quan này vì nó lại được cùng một nơi cấp, giống nhau cả về con dấu… Chương III Kiến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về SHTT nhãn hiệu hàng hóa 1/ Hệ thống luật pháp Khi ban hành luật càn nghiên cứu và ban hành cả thông tư, hướng dẫn do chính người làm luật soạn thảo ra, có như vậy tính nhất quán, thống nhất mới được đảm bảo, tránh sự giải thích tùy tiện của các Bộ, Ban, Ngành và không làm cho Luật bị biến dạng và có hiệu lực hơn với cuộc sống. Đơn giản hơn các điều, giải thích dễ hiêur và thay các cụm từ mang tính học thức quá nhiều và nên tham khảo nhiều hơn nữa ý kiến đóng góp của người dân và cả các nươc đã có đạo luật về SHTT trên thê giới mỗi khi ban hành luật. Phân định rõ quyền hạn và chức năng cũng như đưa ra các chế tài đủ mạnh, đủ hiệu quả răn đe giúp các cơ quan thực thi nâng cao hiệu quả giám sát, quản lý và xử lý mỗi khi có tranh chấp, vi phạm về nhãn hiệu gây ra. 2/ Quy trình xét duyệt Trong quy trình xét duyệt cấp văn bằng bảo hộ về cơ bản không có yếu kém trong quy trình xét duyệt, chỉ duy có một điều người viết nhận thấy nếu có thể cải thiện sẽ giúp ích và khuyến khích rất nhiều đối với các doanh nghiệp khi họ đi đăng kí nhãn hiệu. Đó là để thẩm định hình thức doanh nghiệp mất 1 tháng, sau đó là mất 6 tháng để thẩm định nội dung. Vậy một nhãn hiệu trừ phi là nhãn hiệu lớn, nổi tiếng thì có vòng đời, tuổi thọ dài còn đa phần chúng có vòng đời ngắn, nhanh chóng bị thay thế do lỗi thời và các yếu tố khách quan khác. Nếu thời gian thẩm định nội dung lớn như vậy sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sản xuất, kinh doanh cũng như tính cạnh tranh của sản phẩm và dẫn đến doanh nghiệp chẳng mặn mà gì với chuyện đăng kí nhãn hiệu với Cục. Rút ngắn thời gian thẩm định mà vẫn đảm bảo tính chính xác và trung thực của thông tin cần phải được chú trọng cải tiến đặc biệt là hướng tới việc giảm bớt rườm rà, thủ tục cho các doanh nghiệp. 3/ Quản lý hệ thống thông tin nhãn hiệu Hiện nay công nghệ thông tin đã chứng tỏ ưu thế vượt trội của nó so với các ứng dụng khác trong đời sống và quản lý. Người nắm giữ được hệ thống thông tin cũng có nghĩa là nắm giữ được chìa khóa của tất cả. Tuy nhiên để quản lý cũng như khai thác tốt hệ thống thông tin đó không phải lúc nào Cục Sở hữu trí tuệ làm tốt vì nếu mọi thứ được kiểm soát tốt, thông tin rõ ràng chính xác thì đã không có nhiều vụ tranh chấp và kiện tụng đối với thông tin nhãn hiệu. Bên cạnh đó, làm cho người dân khai thác tốt hệ thống thông tin có trong Cục cũng là vấn đề chưa giải quyết triệt để. Vì vậy cần đẩy mạnh công tác hiện đại hóa quản lý, ứng dụng công nghệ thông tin vào trong quản lý thông tin nhãn hiệu nhiều hơn, thay thế các khâu, quy trình quản lý truyền thống, dế sai sót. Đơn giản hóa các quy trình lưu trữ cũng giúp quản lý, kiểm tra thông tin dễ dàng và chính xác hơn. Cần thường xuyên cập nhật các tiêu chuẩn trong quản lý thông tin nhãn hiệu vì mỗi một giai đoạn có một cách thức, hệ thống và phân loại thông tin tương đối khác nhau. Cán bộ quản lý nếu ko nắm bắt đươc những thay đổi đó cũng như không thường xuyên được đào tạo nâng cao khả năng sử dụng hệ thống công nghệ thông tin thì dù có được đầu tư về cơ sở hạ tầng công nghệ tốt nhưng con người không theo kịp cũng chẳng mang lại nhiều hiệu quả như mong muốn. 4/ Thanh tra, kiểm tra về nhãn hiệu hàng hóa Nên có một chế tài đủ mạnh, có khả năng răn đe và ngăn ngừa các hành vi xâm phạm và làm giả nhãn hiệu thay vì các chế tài còn yếu và thiếu tính răn đe hiện nay. Khi xét đến hậu quả, chúng ta quy định nếu dưới 30 triệu thì chỉ xử phạt hành chính, không truy cứu trách nhiệm hình sự. Ngẫm thấy cái gì làm chưa tốt nếu không răn đe và có hình phạt nặng sẽ khó có thể tạo ra được một “nếp sống “tuân thủ pháp luật. Điển hình như các phần mềm lậu, nếu suy xét hết hậu quả thì một cửa hàng bán các phần mềm lậu sẽ làm mất mát và thiệt hại không đơn giản là nhỏ hơn 30 triệu như ta thấy. Hơn nữa, thanh tra kiểm tra càng thể hiện tính chất thi hành công lý, cầm cân nẩy mực của Cục vì vậy làm triệt để, làm tới nơi thì sẽ đâu có những cảnh nạn hàng giả tràn lan trên địa bàn Hà Nội như vậy, đâu có để người dân nghi ngờ vào chính những cán bộ đi thanh tra như vậy. Vì vậy làm trong sạch đội ngũ cán bộ thanh tra cũng là vấn đề cần được Cục chú trọng, nâng cao hiệu quả của hoạt động thanh tra của Cục. 5/ Sự phối hợp giữa các cơ quan Sắp xếp lại và tăng cường năng lực của các cơ quan thực thi. Phân công lại chức năng, quyền hạn của từng cơ quan theo hướng bố trí một cơ quan làm đầu mối tiếp nhận, thụ lý các đơn yêu cầu xử lý hành chính, từ đó đề xuất các biện pháp xử lý. Bổ sung, hoàn thiện khung pháp lý có đủ các chế tài xử lý và có hình phạt cao về mức tiền và xử lý tang vật, quy định cụ thể hơn về việc tước giấy phép kinh doanh. Quy định trách nhiệm cho các cơ quan cấp giấy phép, cơ quan phối hợp cưỡng chế sau khi có quyết định xử phạt hành chính. Doanh nghiệp cần chủ động phối hợp thường xuyên, kịp thời với các cơ quan chức năng trong việc đấu tranh chống tệ nạn này. Xây dựng một hệ thống tòa án có khả năng giải quyết các khiếu nại, tố cáo vi phạm sở hữu trí tuệ. Về phía hải quan phải có quy định ghi tên nhãn hàng hóa nhập khẩu trên tờ khai, cơ quan thuế có quy định ghi tên nhãn hàng hóa trên hóa đơn mới coi là hóa đơn hợp lệ chi, như vậy hàng giả khó lưu thông trên thị trường. Kết luận Vấn đề quản lý nhãn hiệu hàng hóa ở Việt Nam vẫn luôn là một vấn đề mang tính thời sự và là khó khăn rất lớn để Việt Nam hòa nhập vào quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra trên mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội. Còn rất nhiều vấn đề, rất nhiều khía cạnh trong quản lý nhãn hiệu cần đi sâu mà chuyên đề chưa thể nghiên cứu càng chứng tỏ ý nghĩa và tầm quan trọng của lĩnh vực này đối với đời sống kinh tế xã hội. Kinh tế Việt Nam hàng năm tăng trưởng trên 8 %, đi liền với nó là doanh nghiệp Việt Nam và nước ngoài hàng năm cũng tăng cao, càng gây ra áp lực lớn trong quản lý nhãn hiệu. Thiết nghĩ, nếu khả năng quản lý của chúng ta dường như một chú rùa trước một cuộc đua với con thỏ mà nếu chúng ta không mạnh dạn thay đổi, mạnh dạn đổi mới tìm ra những phương thức quản lý hiệu quả hơn, học tập và vận dụng các mô hình quản lý hiện đại và phù hợp thì khoảng cách đó sẽ chẳng bao giờ được rút ngắn. Bài viết không tránh khỏi nhiều lập luận còn yếu, tầm nhìn hạn chế chưa bao quát và khả năng phân tich còn hạn chế. Rất mong được các thầy góp ý và sửa chữa để bài viết của em có chất lượng hơn. Em xin chân thành cảm ơn ! Các tài liệu sử dụng trong chuyên đề. Ngoài một số bài viết, số liệu trên một số trang web như Việt báo, báo kinh tế và xã hội, trang tin của Thông tấn xã Việt Nam bài viết sử dụng chủ yếu tài liệu : Báo cáo tổng kết năm 2005; 2006; 2007 Tập san hoạt động sở hữu trí tuệ năm 2005 do Cục sở hữu trí tuệ phát hành nội bộ năm 2006 nhân dịp 25 năm thành lập Cục Tài liệu về hệ thống thông tin IPAS. Tài liệu về phần mềm nộp thư trực tuyến Thống kê các vụ vi phạm nhãn hiệu Bộ sách sở hữu trí tuệ dành cho doanh nghiệp số 1: Tạo dựng một nhãn hiệu ( Kamil Idris-Tổng giám đốc WIPO-Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33121.doc
Tài liệu liên quan