Chuyên đề Quy trình kiểm toán nghiệp vụ tín dụng tại ngân hàng thương mại do công ty kiểm toán Việt Nam thực hiện

Mở rộng thị trường dịch vụ Kế toán Kiểm toán. Về lĩnh vực kế toán: sẽ mở rộng diện kiểm toán bắt buộc, ví dụ như Doanh nghiệp Nhà nước có vốn điều lệ từ 10 tỷ đồng trở lên: Công ty trách nhiệm hữu hạn, xí nghiệp tư vấn có vốn 5 tỷ (10 tỷ) đồng trở lên. . . thừa nhận giá trị của báo cáo tài chính đã được kiểm toán. Về dịch vụ tư vấn: Giảm thiểu việc xử lý trực tiếp của cơ quan quản lý Nhà nước về các vấn đề kế toán, tài chính, thuế, thủ tục đầu tư, cổ phần hoá. . . thay bằng dịch vụ tư vấn của các doanh nghiệp kế toán, kiểm toán. Bản thân các công ty Kiểm toán phải nỗ lực nâng cao chất lượng nhân viên, chất lượng dịch vụ và tham gia nhiều hơn vào quá trình hoàn thiện khuôn khổ pháp lý và quảng bá làm cho nhận thức của toàn bộ xã hội về kiểm toán được nâng cao hơn nữa. Đa dạng hoá các loại hình dịch vụ, gồm: Dịch vụ kiểm toán; Kiểm toán Báo cáo tài chinh; Kiểm toán Báo cáo tài chính vì mục đích thuế; Kiểm toán báo cáo quyết toán dự án; Kiểm toán thông tin tài chính; Soát xét và kiểm tra Báo cáo tài chính theo các thủ tục thoả thuận trước; Dịch vụ tài chính; Tư vấn tài chính; Tư vấn thuế và kinh doanh; Dịch vụ bồi dưỡng đào tạo, thực hành kế toán, kiểm toán; Các dịch vụ liên quan khác; Các dịch vụ này phải từng bước đạt được các tiêu chuẩn khu vực và Quốc tế. Đổi mới chương trình đào tạo bỗi dưỡng kế toán, kiểm toán trong các trường Đại học, nâng cao chất lượng thi tuyển kiểm toán viên, hợp tác với các tổ chức quốc tế để đào tạo và thi tuyển kiểm toán viên Việt Nam đạt trình độ quốc tế. . .

doc71 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1462 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Quy trình kiểm toán nghiệp vụ tín dụng tại ngân hàng thương mại do công ty kiểm toán Việt Nam thực hiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh lập kế hoạch như các khách hàng khác. Thư chào hàng được lập trước mỗi mùa kiểm toán. Thư chào hàng trình bày những hiểu biết của kiểm toán viên về Ngân hàng thương mại cổ phần ABC và giới thiệu về VACO. Sau khi được ABC lựa chọn là kiểm toán viên, VACO tiến hành tìm hiểu khách hàng trên các khía cạnh hệ thống kiểm soát nội bộ, tính liêm trực của ban giám đốc, tình hình hoạt động kinh doanh… công việc này được thực hiện bằng việc trả lời các câu hỏi trên AS/2. Sau khi trả lời toàn bộ câu hỏi này phần mềm sẽ đưa ra mức rủi ro kiểm toán cho khách hàng ABC là thấp ( thông thường có ba mức đánh giá: cao, tương đối cao và thấp). Tiếp đó kiểm toán viên xác định mức trọng yếu kế hoạch bằng việc nhập doanh thu của Ngân hàng vào ô yêu cầu của phần mềm AS/2. Việc tính toán mức độ trọng yếu này đưp Mức doanh thu trong năm 2002 của ABC là: từ đó phần mềm đưa ra mức trọng yếu kế hoạch (PM: Planning Material) là: Từ kết quả giai đoạn này, kiểm toán viên tiến hành xây dựng các chỉ tiêu cần thiết như MP, Threshold …để phục vụ cho công việc kiểm toán ở các khoản mục sau đó. Đối với khoản mục hoạt động tín dụng, kiểm toán viên tiến hành kiểm toán dựa trên những đánh giá trong giai đoạn lập kế hoạch, đồng thời trong quá trình thực hiện kiểm toán viên tiến hành thu thập thêm những thông tin cần thiết để phục vụ cho công việc của mình. Trước khi tiến hành kiểm toán số dư khoản mục cho vay của ABC, kiểm toán viên thường tiến hành phân tích sơ bộ. Đây là công việc quan trọng nhằm phục vụ cho việc xác định chương trình kiểm toán chi tiết. Số liệu để tiến hành phân tích được tập hợp từ Bảng cân đối số phát sinh của Ngân hàng và số liệu của năm trước. Từ nguồn số liệu này, kiểm toán viên tiến hành so sánh số liệu của năm nay với năm trước trên các chỉ tiêu tuyệt đối và tương đối. Chỉ tiêu tuyệt đối là hiệu của số dư năm nay với số dư năm trước, còn số tuyệt đối chính là tỷ lệ phần trăm(%) của chỉ tiêu tuyệt đối với số dư năm trước (bảng số 1). Thông qua kết quả của thủ tục phân tích sơ bộ này, kiểm toán viên nhận thấy khoản nợ khó đòi cho vay ngắn hạn, cho vay ngắn hạn bằng ngoại tệ và nghiệp vụ cầm đồ là có biến động lớn. Nguyên nhân của sự biến động này là do trong năm qua ngân hàng mở rộng quy mô cho vay với mức lãi suất ưu đãi hơn năm trước. Nguồn thông tin này được thu thập bằng cách phỏng vấn cán bộ công nhân viên của Ngân hàng. Bên cạnh đó, những biến động nhỏ cũng cần phải được rà soát tìm hiểu nguyên nhân hoặc phân tích chi tiết trong quá trình kiểm toán chi tiết, bởi vì giữa các số liệu của một khoản mục tổng hợp có thể bị bù trừ cho nhau. Nhưng trong giai đoạn này kiểm toán viên chủ yếu tập chung vào các số dư có biến động lớn. Từ những phân tích sơ bộ này kiểm toán viên xây dựng chương trình kiểm toán phần hành nghiệp vụ hoạt động tín dụng. Chương trình này được xây dựng mang tính tổng quát và hướng dẫn những thủ tục kiểm soát cũng như thủ tục cơ bản cần phải thực hiện. Chương trình kiểm toán là một phần quan trọng của cuộc kiểm toán. Giúp kiểm toán viên đi được đúng hướng cần kiểm tra, giảm thiểu chi phí, nâng cao hiệu quả. Việc lập có thể dựa trên kinh nghiệm của kiểm toán viên, hoặc kết quả của cuộc kiểm toán năm trước. Nhìn chung, chương trình kiểm toán ít có thay đổi lớn đối với khách hàng truyền thống như Ngân hàng ABC. Bảng số 1: Bảng phân tích sơ bộ số dư TK cho vay của ABC Chương trình kiểm toán gồm các bước cơ bản sau: Tìm hiểu và soát xét tổng quát hoạt động tín dụng của chi nhánh trong năm 2001 Kiểm tra các chỉ tiêu an toàn trong hoạt động tín dụng Tìm hiểu và kiểm tra hệ thống nghiệp vụ Tiến hành kiểm tra hệ thống đối với các quy trình sau: Kiểm tra hệ thống cho vay Kiểm tra hệ thống việc theo dõi nợ vay và lãi vay theo các điều khoản trong HĐ tín dụng Kiểm tra việc quản lý tài sản thế chấp Kiểm tra hệ thống thu nợ Kiểm tra hệ thống cho vay đồng tài trợ 4- Các thủ tục kiểm toán cơ bản Gửi thư xác nhận Kiểm tra chi tiết số dư nợ (kiểm tra hồ sơ tín dụng) Kiểm tra trích lập dự phòng cho các khoản vay và xoá nợ Kiểm tra việc thu hồi nợ quá hạn. Phân tích nguyên nhân tăng giảm Phỏng vấn khách hàng và kiểm tra các tài liệu liên quan để đánh giá khả năng thu hồi các khoản nợ khó đòi, nợ khoanh, nợ chờ xử lý... Trong mỗi bước đều có những hướng dẫn cụ thể để về nguồn tài liệu thu thập, loại tài liệu cần thu thập để thực hiện kiểm toán. Đồng thời cách thức xử lý tài liệu và cách kiểm tra cũng được chỉ rõ trong mỗi bước này. Qua việc thu thập các báo cáo kiểm tra, phân tích của Ban lãnh đạo Ngân hàng, kiểm toán viên nhận thấy rằng công việc kiểm tra giám sát của Ban lãnh đạo đối với hoạt động kinh doanh là kịp thời và tích cực. Trong năm vừa qua Ngân hàng không có nghiệp vụ hoạt động nằm ngoài khung quy định của Ngân hàng Nhà nước và Quy chế của Ngân hàng. Để công việc kiểm toán được tiến hành một cách thuận lợi, kiểm toán viên tiến hành thu thập, tìm hiểu quy trình nghiệp vụ tín dụng của Ngân hàng. Đọc và soát xét qui trình xét duyệt cho vay và gia hạn nợ, quy trình giải ngân, theo dõi nợ vay và thu hồi nợ gốc và lãi tiền vay, trên giác độ an toàn và hiệu quả. Kết quả của công việc này được trình bày trong giấy tờ làm việc với tên gọi "Ghi chú hệ thống". Quy trình tín dụng của ABC được thực hiện một các chặt chẽ cụ thể, tuân theo Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN của Ngân hàng Nhà nước. Tiếp nhận hồ sơ từ khách hàng Kiểm tra hồ sơ và thẩm định Kiểm tra thực tế đối với khách hàng Thẩm định và lập tờ trình về kết quả thẩm định Phê duyệt khoản vay Hoàn thiện thủ tục vay Thao tác và nhập các dữ liệu vào máy tính Giải ngân Mở hồ sơ nghiệp vụ Kiểm tra và đánh giá sử dụng tiền vay Quản lý, xử lý các khoản vay Kết thúc, giải chấp Tổng kết và lưu trữ hồ sơ Bảng số 1: Bảng phân tích sơ bộ Sơ đồ 2: Ghi chú hệ thống - Quy trình tín dụng tại Ngân hàng ABC. Ngoài ra kiểm toán viên cũng cần phải tìm hiểu cách chính sách kế toán và điều kiện hoạt động kinh doanh của Ngân hàng để làm cơ sở cho việc soát xét của mình. Qua tìm hiểu kiểm toán viên thu được một số kết quả sau: Hệ thống kế toán của Ngân hàng TMCP ABC được áp dụng một cách thống nhất theo Quyết định số 435/1998/QĐ-NHNN2 ngày 25/12/1998 của Thống Đốc Ngân hàng Nhà nước. Nghiệp vụ tín dụng được theo dõi trên hệ thống các tài khoản cấp I và các tài khoản chi tiết phù hợp với tình hình hoạt động của Ngân hàng. Chính sách lập dự phòng của ABC thực hiện theo Quyết định 488/2000/QĐ-NHNN5 ngày 27/11/2000 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước VN. Trong đó quy định việc trích lập dự phòng trên cơ sở phân loại tài sản có. ABC là Ngân hàng thương mại cổ phần nhỏ, chất lượng tín dụng tương đối tốt, tuy nhiên việc phát triển các dịch vụ ngân hàng chưa tốt, chưa bắt kịp với tốc độ phát triển của thị trường nên ảnh hưởng đến khả năng huy động vốn cũng như việc mở rộng hoạt động của Ngân hàng. Thị trường Ngân hàng Việt Nam hiện nay bắt đầu bước vào giai đoạn cạnh tranh gay gắt. Các ngân hàng trong nước đặc biệt là các ngân hàng cổ phần đứng trước sức ép bắt buộc phải mở rộng phạm vi cũng như mức độ hoạt động để giành thị phần. Các ngân hàng trong nước đang chạy đua trong việc phát triển dịch vụ ngân hàng, phát triển công nghệ ngân hàng... từ đó tăng cường vốn huy động và mở rộng quy mô hoạt động. Điều này cũng ảnh hưởng không nhỏ đến chính sách tín dụng của ABC. Hơn nữa hiện nay Việt Nam có khoảng 50 ngân hàng thương mại cổ phần, 4 ngân hàng thương mại quốc doanh và trên 10 ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài. ABC không chỉ chịu sức ép cạnh tranh với các ngân hàng thương mại cổ phần khác mà còn chịu sức ép của các ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài. Chính vì vậy, vị thế cạnh tranh của ABC chưa cao do hạn chế về khả năng phát triển dịch vụ ngân hàng và gia tăng nguồn vốn. Dựa trên hướng dẫn của chương trình kiểm toán kết hợp với những hiểu biết về khách hàng, kiểm toán viên tiến hành chọn mẫu các khách hàng vay của Ngân hàng trên "Sao kê chi tiết nghiệp vụ cho vay và thu nợ của Phòng Tín dụng" (bảng số 2) để kiểm tra. Mục tiêu của việc chọn mẫu này là nhằm phục vụ cho việc kiểm tra hệ thống và kiểm tra chi tiết. Do đó mẫu được chọn phải đảm bảo một số yêu cầu nhất định. Chọn mỗi tháng 4 mẫu theo nguyên tắc: Mẫu chọn phải bao gồm các thành phần kinh tế: Doanh nghiệp Nhà nước, Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, Công ty cổ phần, Công ty Trách nhiệm hữu hạn, Doanh nghiệp tư nhân, cá nhân. Mẫu chọn phải rải đều theo các hình thức cho vay: Cho vay VND hoặc ngoại tệ, Cho vay ngắn hạn hoặc trung dài hạn, cho vay theo món, cho vay theo hạn mức, cho vay thế chấp sổ tiết kiệm, cho vay tiêu dùng... Chọn mẫu có số dư lớn. Sau khi hoàn thành việc chọn mẫu, kiểm toán viên yêu cầu Phòng Kế toán và các phòng ban có liên quan cung cấp tài liệu để thực hiện việc kiểm tra. Đối với mỗi mẫu được chọn, kiểm toán viên tiến hành kiểm tra để phục vụ cho việc đưa ra ý kiến của từng công việc cụ thể. I - Kiểm tra hệ thống nghiệp vụ cấp tín dụng( bảng số 3) Đơn xin vay Phương án kinh doanh, các hồ sơ pháp lý, báo cáo tài chính của bên vay Tờ trình phân tích năng lực hoạt động, tài chính khả năng trả nợ của cán bộ tín dụng Phê duyệt tờ trình theo phân cấp (của trưởng phòng tín dụng, Ban giám đốc, Biên bản họp hội đồng tín dụng, xin phép đối với các khoản vay đặc biệt) Hợp đồng tín dụng đã được ký kết (ngày của hợp đồng tín dụng phải sau ngày của tờ tín dụng) Giá trị của khoản vay so với giá trị tài sản thế chấp Lãi suất cho vay theo thoả thuận giữa hai bên Đề nghị giải ngân của khách hàng đã được ngân hàng chấp thuận, ngày (giải ngân), nhận nợ không trước ngày ký hợp đồng tín dụng. Chứng từ giải ngân (giấy nhận nợ) có đầy đủ chữ ký của người có thẩm quyền của bên vay và cho vay kiểm tra hạch toán khoản vay tại phòng kế toán II- Kiểm tra việc theo dõi nợ vay và lãi vay (bảng số 4) Kiểm tra việc theo dõi của Phòng tín dụng đối với khoản nợ vay (theo dõi trên hợp đồng tín dụng hoặc trên sổ riêng (nếu có) Theo dõi nợ vay tại Phòng kế toán (các thông tin về khoản vay tại Phòng kế toán thống nhất với thông tin về khoản vay tại Phòng tín dụng). Biên bản kiểm tra tình hình sử dụng vốn vay hoặc các chứng từ thay thế khác. Kiểm tra việc tính lãi và theo dõi lãi vay tại Phòng tín dụng Kiểm tra việc hạch toán và theo dõi lãi vay (hạch toán nội ngoại bảng tại Phòng kế toán) Kiểm tra việc hạch toán ngoại bảng các khoản nợ qua hạn và lãi chưa thu. Đối với trường hợp gia hạn nợ, giãn nợ, kiểm tra đơn xin gia hạn, tờ trình và phê duyệt thời gian gia hạn phù hợp với quy chế cho vay hoặc phải có sự cho phép của Ngân hàng Nhà nước. III- Kiểm tra việc quản lý tài sản thế chấp (bảng số 5) Biên bản định giá tài sản thế chấp và các giấy tờ bổ trợ (giấy phép sử dụng, quyền sở hữu ….) Hợp đồng thế chấp tài sản, đối chiếu giá trị với biên bản định giá Kiểm tra việc đánh giá năng lực bảo lãnh (đối với bên bảo lãnh), hợp đồng Kiểm tra lưu giữ, bảo quản, ghi nhận tài sản thế chấp. IV- Kiểm tra hệ thống thu nợ ( bảng số 6) Kiểm tra chứng từ thu nợ Ghi nhận và hạch toán của kế toán Cập nhật trong hồ sơ tín dụng. V - Kiểm tra hệ thống cho vay đồng tài trợ ( bảng số 6) Kiểm tra hợp đồng đồng tài trợ với các ngân hàng khác Đối chiếu số tiền giải ngân với các điều khoản trong hợp đồng đồng tài trợ. Kiểm tra các nghiệp vụ đảm bảo tín dụng theo các điều khoản hợp đồng cho vay đồng tài trợ. Những vấn đề này được tham chiếu trên giấy tờ làm việc của kiểm toán viên (ký hiệu "x" để chỉ rằng tài liệu tương ứng tham chiếu của khoản cho vay đó là tồn tại). Trong quá trình thực hiện việc kiểm tra mọi lưu ý về khoản cho vay đều được kiểm toán viên lưu ý ngay trên giấy tờ làm việc để phục vụ cho việc soát xét để tổng hợp và hình thành thư quản lý. Đồng thời với việc kiểm tra chi tiết tài liệu có sẵn kiểm toán viên cần gửi thư xác nhận số dư của tài khoản cho vay theo nguyên tắc là chọn số dư lớn. Từ sổ sao kê tín dụng, kiểm toán viên chọn mẫu để tiến hành gửi thư xác nhận (bảng số 7). Thư xác nhận phải được kiểm toán viên theo dõi từ khâu lập đến khâu gửi và nhận. Công việc này rất quan trọng vì bằng chứng kiểm toán được cung cấp từ bên ngoài tin cậy hơn những bằng chứng do khách hàng cung cấp. Nhưng trong quá trình gửi thư xác nhận có thể tồn tại những lý do mà không nhận được thư xác nhận. Lúc đó, kiểm toán viên có thể gửi xác nhận lần hai hoặc tiến hành các thủ tục kiểm toán bổ sung như thu thập "giấy xác nhận số dư tài khoản" (bảng số 8) của Ngân hàng lập vào cuối kỳ gửi cho khách hàng của mình. Đồng thời cần ghi chú để làm cơ sở để đưa ra ý kiến ngoại trừ khi lập báo cáo kiểm toán. Đối với khoản lập dự phòng, kiểm toán viên tiến hành xem xét việc theo dõi và trích lập dự phòng của Ngân hàng có phù hợp với quy định của Ngân hàng Nhà nước hay không, đảm bảo rằng các khoản cho vay không có khả năng thu hồi đã được lập dự phòng. Kiểm tra tính nhất quán của chính sách lập dự phòng, kiểm tra các chứng từ bổ trợ cho việc xoá nợ. Qua việc kiểm tra khoản dự phòng kiểm toán viên kết luận rằng việc trích lập dự phòng tại ABC được tiến hành một cách thường xuyên và đúng với quy định. Đối với khoản dự phòng năm nay kiểm toán viên đã thu thập được Quyết định trích lập dự phòng của Tổng Giám đốc Ngân hàng cho khách hàng Công ty TNHH Hùng Sơn giá trị 1.625.319.000 VND ( bảng số 9). Giá trị của khoản này khớp với số liệu trên Báo cáo tài chính. Như vậy, sau khi hoàn thành các thủ tục kiểm tra hệ thống và thủ tục kiểm tra chi tiết kiểm toán viên tiến hành soát xét lại toàn bộ công việc đã thực hiện. Kết quả của các thủ tục cho thấy hệ thống tín dụng của Ngân hàng TMCP ABC hoạt động hiệu quả đảm bảo quản lý được rủi ro trong hoạt động cho vay, số liệu trình bày trên báo cáo tài chính về nghiệp vụ tín dụng là trung thực và hợp lý. Bảng số 7 : Mẫu thư xác nhận Ngân hàng thương mại cổ phần abc 14- Đào Duy Anh - Đống Đa - Hà Nội Tel: (84) 4 567890 Fax: (84) 4 123456 Ngày 02 tháng 02 năm 2003 Thư xác nhận Kính gửi: Ông/Bà: Giám đốc Công ty thương mại Phương Đông Địa chỉ: 67 Lê Duẩn - Hai Bà Trưng - Hà Nội Thưa Quý Ngài! Để phục vụ cho cuộc kiểm toán Báo cáo tài chính của chúng tôi, đề nghị Quý Ngài xác nhận trực tiếp tới kiểm toán viên của chúng tôi: Nguyễn Văn X - Kiểm toán viên Công ty Kiểm toán việt nam Số 8 Phạm Ngọc Thạch - Đống Đa - Hà Nội ĐT : 84.4.8524123 Fax: 84.4.8524143 Dư nợ gốc Tài khoản tiền vay tại ngày 31/12/2002 của Quý Ngài theo các khế ước số 7654 tại Ngân hàng chúng tôi là 1.234.000.000 VND . Nếu vì một lý do gì mà Quý Ngài không xác nhận được, xin Quý Ngài thông báo trực tiếp tới Kiểm toán viên của chúng tôi chi tiết của sự chênh lệch. Chúng tôi đánh giá cao sự hợp tác của Quý Ngài Trân trọng cảm ơn! Trần Hùng A Tổng Giám đốc Phần xác nhận: Số dư khoản phải thu của chúng tôi theo khế ước số 7654 tại ngày 31/12/2002 là Một tỷ hai trăm ba mười tư triệu đồng 1.234.000.000 VND Ngày 07 02/2003 Tên : Nguyễn Minh Phương Chữ ký: Chức vụ: Giám đốc Thư xác nhận chỉ phục vụ cho mục đích kiểm toán Báo cáo tài chính, không phục vụ cho bất cứ mục đích nào khác Bảng số 8: Mẫu "Giấy xác nhận số dư tài khoản" Ngân hàng thương mại cổ phần abc 14- Đào Duy Anh - Đống Đa - Hà Nội Tel: (84) 4 567890 Fax: (84) 4 123456 Giấy xác nhận số dư tài khoản Đến ngày 31/12/2002 Mã khách hàng : 00043 Tên khách hàng: Công ty TNHH Phương Nam Địa chỉ: 12 Giải Phóng - Hai Bà Trưng - Hà Nội Số tài khoản Tên loại tài khoản Số dư 2313 30 99 0012 Cho vay ngắn hạn bằng đồng Việt Nam Nợ 2,500,000,000.00 VND 3219 30 99 0012 Cho vay trung hạn bằng đồng Việt Nam Nợ 3,500,000,000.00 VND 4313 30 99 0012 Tiền gửi của khách hàng trong nước bằng đồng Việt Nam Có 6,750,000.00 VND Xin quý khách vui lòng gửi lại cho phòng Kế toán Ngân hàng trước ngày 25-1-2003 Xin cám ơn sự hợp tác của Quý khách! Xác nhận của khách hàng (Ký tên, đóng dấu) Ngày 31/12/2002 Kế toán trưởng Ngân hàng tm cổ phần abc Số 98/2002/QĐ-TGĐ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Độc lập - Tự do - Hạnh phúc Bảng số 9: Mẫu Quyết định trích lập dự phòng. Hà Nội ngày 29/12/2002 Quyết định của tổng giám đốc ngân hàng t.m.c.p abc (V/v sử dụng dự phòng đã trích lập để bù đắp cho khoản vay nợ quá hạn không có khả năng thu hồi của Công ty TNHH Hùng Sơn) tổng giám đốc - Căn cứ Quyết định số 488/2000/QĐ-NHNN5 ngày 27/11/2000 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về việc phân loại tài sản "có", trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động Ngân hàng của TCTD; Căn cứ "Quy chế tổ chức quản trị điều hành Ngân hàng TMCP ABC" ban hành theo Quyết định số 128/QĐ-HĐQT ngày 12/4/1997 của Chủ tịch Hội đồng quản trị; Căn cứ Quyết định số 355/2001/QĐ-HĐQT ngày 23/7/2001 của Chủ tịch HĐQT về việc thành lập Hội đồng xử lý rủi ro trong hoạt động ngân hàng; Căn cứ đề nghị của Phòng Kế hoạch và Dịch vụ Ngân hàng; Quyết định Điều 1: Trích lập quỹ dự phòng rủi ro đã lập trong năm tài chính 2002 theo Quyết định số 550/2002/QĐ-TGĐ để bù đắp số nợ gốc không có khả năng thu hồi của Công ty TNHH Hùng Sơn (theo hợp đồng tín dụng số 12 ngày 25/3/1999 và Hợp đồng tín dụng số 34 ngày 23/8/1999) với số tiền là: 1.625.319.000 Đồng (Một tỷ sáu trăm hai mươi năm nghìn ba trăm mười chín nghìn đồng). Điều 2: Hạch toán chuyển toàn bộ nợ phải thu của khách hàng nói trên sang theo dõi ngoại bảng. Điều 3: Quyết định này có hiệu lực kể từ ngày ký. Trưởng Phòng tín dụng, Phòng Kế toán và Phòng Kế hoạch và Dịch vụ ngân hàng chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này. Tổng giám đốc Trần hùng a 3- Thực hiện kiểm toán nghiệp vụ tín dụng tại Ngân hàng ADC cho năm tài chính 2002: Ngân hàng ADC (Ngân hàng) là ngân hàng liên doanh giữa một ngân hàng của Việt Nam và một ngân hàng của Hàn Quốc. Ngân hàng được thành lập theo Quyết định số 10/NH-GP với vốn điều lệ là 10.000.000 USD trong đó bên Việt Nam là 5.000.000 USD và bên Hàn Quốc là 5.000.000 USD, thời gian hoạt động là 20 năm. Do vậy khách hàng chủ yếu của Ngân hàng là các doanh nghiệp liên doanh với Hàn Quốc, các doanh nghiệp 100% vốn từ Hàn Quốc và các dự án do Hàn Quốc tài trợ. Chính vì vậy khách hàng Việt Nam chiếm tỷ lệ nhỏ trong số vốn cho vay. Đây là khách hàng mà Công ty Kiểm toán Việt Nam thực hiện kiểm toán năm đầu tiên. Cũng như quy trình kiểm toán các ngân hàng mà VACO đã áp dụng, đối với ADC trình tự kiểm toán cũng được thực hiện theo một quy trình thống nhất. Để xác định được hướng kiểm tra kiểm toán viên tiến hành tập hợp số liệu để phân tích sơ bộ số dư nghiệp vụ tín dụng. Số liệu này được tập hợp từ Bảng cân đối số phát sinh của Ngân hàng. Từ nguồn số liệu này, kiểm toán viên tiến hành so sánh số liệu của năm nay với năm trước trên các chỉ tiêu tuyệt đối và tương đối. Chỉ tiêu tuyệt đối là hiệu của số dư năm nay với số dư năm trước, còn số tuyệt đối chính là tỷ lệ phần trăm(%) của chỉ tiêu tuyệt đối với số dư năm trước (bảng số 10). Qua bảng phân tích sơ bộ cho thấy khoản góp vốn cho vay số dư là không(0), kiểm toán viên nhận được sự giải thích từ Ngân hàng rằng đó là khoản cho vay bằng VND mà ADC kết hợp với Ngân hàng ngoại thương Việt Nam cho Công ty Nhật Quang vay và đã được thanh toán gốc vào tháng 11/2002. Từ kết quả phân tích kiểm toán viên tiến hành tập hợp bảng sao kê tín dụng (List of loan- bảng số 11) để chọn mẫu kiểm tra hệ thống, kiểm tra chi tiết và gửi thư xác nhận. Việc chọn mẫu được tiến hành theo nguyên tắc số lớn. Đối với ADC, qua tìm hiểu kiểm toán viên ghi nhận được một số đặc điểm được trình bày trong ghi chú hệ thống như sau: Từ khi thành lập ADC không có một khoản vay quá hạn, điều này có được là nhờ chính sách về đảm bảo tiền cho vay một cách nghiêm ngặt. Quy trình cho vay đối với một khách hàng mới được thực hiện theo một trình tự như sau: Khách hàng lập Đơn xin vay vốn, kèm theo Báo cáo tài chính. Ngân hàng tiến hành thẩm định trực tiếp: khảo sát tại đơn vị, gặp ban giám đốc của khách hàng, xem quy mô sản xuất kinh doanh, nhân viên, nhà xưởng… Cán bộ tín dụng lập bảng phân tích theo mẫu của Ngân hàng Trình các cấp xem xét phê duyệt. Lập thư chấp nhận cho vay gửi khách hàng. Ký hợp đồng tín dụng, cầm cố thế chấp tài sản: Chỉ giải ngân sau khi đã hoàn thành thủ tục cầm cố thế chấp tài sản. Công chứng Hợp đồng, Sở địa chính (nếu thế chấp đất), Đăng ký giao dịch bảo đảm. Giải ngân: khách hàng lập Đơn xin nhận nợ gửi tới Ngân hàng sau đó Ngân hàng chuyển tiền trực tiếp tới người hưởng. Trong thời gian cho vay, để quản lý khoản vay, Ngân hàng tiến hành kiểm tra sau giải ngân bằng các hình thức đến thăm và thu thập Báo cáo tài chính hàng quý. Hầu hết các khách hàng đều vay có thế chấp, chỉ có 1 khách hàng vay tín chấp (khách hàng VAS) do 3 năm liền có lãi, thị trường lớn và không có nợ quá hạn tại bất cứ ngân hàng nào. Điều kiện cho vay tín chấp của ADC là ba năm liền có lãi; Xuất nhập khẩu trên ba triệu USD, dư tiền gửi trên 1 triệu USD. Mọi khoản cho vay đều phải thống nhất một nguyên tắc chung nhất: có mục đích sử dụng đúng, có nguồn tài trợ và tiền thu được thì chuyển qua ngân hàng. Công tác tài chính và công tác kế toán của Ngân hàng cũng áp dụng theo những quy định của nhà nước. Tuy nhiên, được sự đồng ý của Bộ Tài chính trong một số báo cáo tài chính Ngân hàng được dùng đơn vị tiền tệ là USD, mọi số dư đều được quy đổi ra USD. Về công tác kế toán đối với nghiệp vụ tín dụng thực hiện theo Quyết định số 435/1998/QĐ-NHNN2 ngày 25/12/1998 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Khi giải ngân, Phòng tín dụng hạch toán dư nợ vay. Không có dự phòng cho nợ khó đòi, nợ quá hạn vì không có nợ quá hạn, không khách hàng nào có dấu hiệu khó đòi. Lãi thu vào cuối tháng, được trừ trực tiếp vào tài khoản tiền gửi của khách hàng. Việc quản lý hồ sơ được ADC mở hai bộ đối với mỗi khách hàng để theo dõi. Bộ hồ sơ thứ nhất mang tính pháp lý, lưu các tài liệu liên quan dến khách hàng và các tài liệu phê duyệt khoản vay, hạn mức cho vay…Các tài liệu trong hồ sơ được lưu và đánh số thứ tự, có chữ ký kiểm soát của cán bộ tín dụng, trưởng phòng, phó giám đốc và giám đốc. Đánh giá chung hồ sơ được lưu rất khoa học, đầy đủ và được kiểm soát chặt chẽ. Trên cơ sở những phân tích và kết quả đạt được về ADC, kiểm toán viên tiến hành kiểm tra hệ thống và kiểm tra chi tiết theo các tiêu chí đã được đưa ra để đảm bảo kiểm soát rủi ro kiểm toán. Các bước cần kiểm tra được tham chiếu trên giấy tờ làm việc, dựa vào kết quả của kiểm tra hệ thống và kiểm tra chi tiết kiểm toán viên có thể kết luận rằng tài khoản tín dụng của ADC được phản ánh hợp lý. Đối với trường hợp Ngân hàng ADC không có khoản cho vay nào quá hạn nên không phải lập dự phòng do vậy không cần phải thu thập tài liệu để đánh giá việc lập dự phòng của ADC. Từ bảng tổng hợp khách hàng có số dư nợ lớn do ADC cung cấp, kiểm toán viên đối chiếu với bảng sao kê và tiến hành gửi thư xác nhận (bảng số 16). Thư xác nhận này được lập mẫu chung cho các cuộc kiểm toán của VACO. Kiểm toán viên phải theo dõi chặt chẽ quá trình gửi thư xác nhận để phục vụ mục đích làm bằng chứng cho việc đưa ra ý kiến trong báo cáo kiểm toán. Từ kết quả đạt được kiểm toán viên kết luận tài khoản cho vay của Ngân hàng ADC được phản ánh trung thực hợp lý. Bảng số 16: Mẫu thư xác nhận của ADC Ngân hàng liên doanh ADC 14- Thái Hà - Đống Đa - Hà Nội Tel: (84) 4 312310 Fax: (84) 4 312344 Ngày 02 tháng 02 năm 2003 Thư xác nhận Kính gửi: Ông/Bà: Giám đốc Công ty BH Samsung Địa chỉ: 65 Lê Trọng Tấn - Đống Đa - Hà Nội Thưa Quý Ngài! Để phục vụ cho cuộc kiểm toán Báo cáo tài chính của chúng tôi, đề nghị Quý Ngài xác nhận trực tiếp tới kiểm toán viên của chúng tôi: Nguyễn Văn X - Kiểm toán viên Công ty Kiểm toán việt nam Số 8 Phạm Ngọc Thạch - Đống Đa - Hà Nội ĐT : 84.4.8524123 Fax: 84.4.8524143 Dư nợ gốc Tài khoản tiền vay tại ngày 31/12/2002 của Quý Ngài theo Hợp đồng vay số 3256 tại Ngân hàng chúng tôi là 2.544.000 USD. Nếu vì một lý do gì mà Quý Ngài không xác nhận được, xin Quý Ngài thông báo trực tiếp tới Kiểm toán viên của chúng tôi chi tiết của sự chênh lệch. Chúng tôi đánh giá cao sự hợp tác của Quý Ngài Trân trọng cảm ơn! Đặng Việt Phương Tổng Giám đốc Phần xác nhận: Số dư khoản phải thu của chúng tôi theo khế ước số 7654 tại ngày 31/12/2002 là Hai triệu năm trăm bốn mươi tư nghìn đô la Mỹ 2.544.000USND Ngày 07/ 02/2003 Tên : Nguyễn Tiến Hưng Chữ ký: Chức vụ: Giám đốc Thư xác nhận chỉ phục vụ cho mục đích kiểm toán Báo cáo tài chính, không phục vụ cho bất cứ mục đích nào khác 3. Nhận xét về việc thực hiện kiểm toán nghiệp vụ tín dụng tại ngân hàng thương mại do Công ty Kiểm toán Việt Nam thực hiện. Với sự cạnh tranh gay gắt như hiện nay chất lượng dịch vụ là một vũ khí quan trọng nhất đối với các doanh nghiệp. Bên cạnh một đội ngũ nhân viên giỏi giàu kinh nghiệm, VACO áp dụng một phần mềm kiểm toán AS/2 tiên tiến góp một phần quan trọng tạo nên sự thành công chung của Công ty. Phần mềm AS/2 được thiết kế một cách khoa học giúp kiểm toán viên thuận tiện trong công tác kiểm toán. Qua hai ví dụ trên đã minh hoạ phần nào quy trình kiểm toán nghiệp vụ tín dụng do Công ty Kiểm toán Việt Nam thực hiện dựa trên phần mềm AS/2 tiên tiến. Nhìn chung việc kiểm toán nghiệp vụ tín dụng được thực hiện theo đúng quy trình kiểm toán thông thường bao gồm ba bước: lập kế hoạch kiểm toán, thực hiện kế hoạch kiểm toán, và kết thúc kiểm toán. Những thông tin được thu thập trong quá trình lập kế hoạch kiểm toán được trình bày rõ ràng và cụ thể giúp cho công việc thực hiện kiểm toán sau đó tiến hành một cách thuận lợi. Trong giai đoạn thực hiện kế hoạch kiểm toán, quy trình áp dụng bao gồm: phân tích sơ bộ để chọn hướng kiểm toán, chọn mẫu từ bảng sao kê khách hàng vay, tiến hành kiểm tra hệ thống và kiểm tra chi tiết từ mẫu đã chọn, gửi thư xác nhận. Giai đoạn kết thúc quá trình kiểm toán viên tiến hành tập hợp lại kết quả của giai đoạn trước và đánh giá để đưa ra ý kiến của mình về tài khoản cho vay của đơn vị khách hàng. Như vậy, những công việc kiểm toán nghiệp vụ tín dụng do VACO thực hiện không khác so với các loại hình doanh nghiệp sản xuất khác. Tuy nhiên, công việc kết quả của cuộc kiểm toán tín dụng thường là ý kiến về số dư tài khoản cho vay, chưa đưa ra được ý kiến về rủi ro đối với khoản cho vay này. Nguyên nhân chính là việc VACO chưa tiến hành bước tìm hiểu khách hàng của ngân hàng, chưa phân tích được cơ cấu tín dụng như thế nào mới là hợp lý cho ngân hàng được kiểm toán. Đây là một công việc tốn nhiều thời gian và sẽ đẩy chi phí kiểm toán lên cao. Nhưng đây lại là yếu tố bắt buộc đối với việc đưa ra ý kiến của kiểm toán viên. Đánh giá sự chính xác, hợp lý, hợp lệ của các số dư là một vấn đề quan trọng, nhưng đối với ngân hàng số dư đó tiềm ẩn những rủi ro có thể dự đoán được và không thể lường trước. Rủi ro này không liên quan đến ba loại rủi ro kiểm toán: rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát và rủi ro phát hiện. Công việc đánh giá rủi ro tín dụng là một công việc tách biệt. Công việc này chưa được kiểm toán viên của VACO thực hiện. Điều này sẽ làm cho chất lượng của dịch vụ mà VACO cung cấp sẽ không cạnh tranh được với các công ty khác, và tệ hại hơn nhiều ngân hàng sẽ không chỉ định VACO làm kiểm toán viên. Chính vì vậy, ngay bây giờ Công ty phải tiến hành ngiên cứu thiết kế quy trình đánh giá rủi ro tín dụng đối với các khoản cho vay của khách hàng là các ngân hàng thương mại. Bên cạnh đó, việc phân định không rõ giữa hai bước thủ tục kiểm toán là thủ tục kiểm soát và thủ tục kiểm toán cơ bản. Điều này vô hình chung làm cho công việc kiểm toán thực hiện không có trọng tâm. Vì số mẫu để thực hiện hai thủ tục này là như nhau nên có trường hợp cần thực hiện thủ tục kiểm soát nhiều hơn và thực hiện thủ tục cơ bản ít thì laị không thực hiện. Theo lý thuyết, việc thực hiện thủ tục kiểm soát tốn ít chi phí hơn so với thực hiện thủ tục còn lại. Như vậy trong trường hợp này, kiểm toán viên đã làm việc không nhất thiết phải thực hiện. Trong trường hợp, số thủ tục kiểm toán chi tiết cần tiến hành nhiều hơn thì không thực hiện được, điều này sẽ làm tăng khả năng rủi ro kiểm toán. Nhìn chung, việc thực hiện song song hai thủ tục là một điều khác biệt so với lý luận kiểm toán tài chính. Nói tóm lại quy trình kiểm toán tín dụng đã được VACO thực hiện theo đúng chuẩn mực kiểm toán Việt Nam và các chuẩn mực được chấp nhận khác. Tuy nhiên, để nâng cao chất lượng của dịch vụ Công ty cần phải tiến hành xây dựng một quy trình kiểm toán đánh giá rủi ro tín dụng một cách hợp lý hiệu quả trong phạm vi chi phí cho phép. Phần ba Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy trình kiểm toán nghiệp vụ tín dụng do công ty kiểm toán Việt Nam thực hiện. 3.1 Sự cần thiết phải hoàn thiện quy trình kiểm toán tín dụng. Việt Nam bước vào năm thứ 17 của thời kỳ đổi mới với nhiều thuận lợi cũng như khó khăn. Thuận lợi trước hết đó là nước ta đã đạt được những thành tựu vô cùng to lớn về kinh tế cũng như xã hội kể từ Đại hội Đảng toàn Quốc lần thứ VI. Đây là một bước đột phá mang tầm thời đại của đất nước ta trên con đường tiến lên Chủ nghĩa Xã hội. Trong những năm qua, nền kinh tế nước ta đã có những bước chuyển biến mạnh mẽ cả số lượng và chất lượng. Số lượng doanh nghiệp được thành lập tăng dần góp phần thúc đẩy sự sôi động của hoạt động kinh tế. Một trong những ngành nghề mới được hình thành và đã có những bước phát triển mạnh mẽ đó là ngành kiểm toán. Hơn 10 năm kể từ ngày Công ty Kiểm toán Việt Nam được thành lập, cho đến nay đã tăng lên nhanh chóng về số lượng với chất lượng cung cấp dịch vụ ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên, cùng với xu thế hội nhập toàn cầu hiện nay, các công ty kiểm toán phải chịu một sức ép cạnh tranh rất lớn. Đây là một điều khách quan không thể tránh khỏi. Chính vì vậy yêu cầu cấp bách hiện nay đối với Ngành kiểm toán Việt Nam hiện nay đó là phải có những bước chuyển biến tích cực trong cơ chế điều hành quản lý cũng như chất lượng dịch vụ để có thể đứng vững trên thị trường. Dịch vụ kiểm toán là loại hình dịch vụ hình thành tất yếu của nền kinh tế thị trường. Với chức năng xác minh và bày tỏ ý kiến về thông tin tài chính của các loại hình doanh nghiệp, các hình thức hoạt động kinh tế, kiểm toán đã góp phần làm nền tài chính của một quốc gia trở nên vững mạnh, làm cho hoạt động của doanh nghiệp được cung cấp dịch vụ này trở nên có hiệu quả và một trong những ngành không thể thiếu được dịch vụ kiểm toán đó là ngân hàng. Ngân hàng thương mại là đơn vị ra đời không chỉ với mục đích kinh doanh vì lợi nhuận mà còn là ngành nghề nhằm thúc đẩy hoạt động kinh tế của một quốc gia. Hoạt động chủ yếu của ngân hàng là hoạt động cho vay hay tín dụng. Đây là hoạt động có nhiều rủi ro, khi rủi ro thành hiện thực, không chỉ một ngân hàng bị ảnh hưởng mà cả hệ thống ngân hàng có nguy cơ sụp đổ. Chính vì vậy, sự chính xác trong thông tin tài chính liên quan đến hoạt động tín dụng của ngân hàng là điều quan trọng mang yếu tố bắt buộc. Trước yêu cầu đó, hoạt động kiểm toán tín dụng phải được hoàn thiện để góp phần kiểm soát được rủi ro. Một mặt nâng cao hiệu quả của hoạt động ngân hàng, mặt khác nâng cao chất lượng dịch vụ của ngành kiểm toán Việt Nam trong xu thế hội nhập toàn cầu hiện nay. Thế kỷ hai mươi đã chứng kiến những bước tiến thần kỳ của khoa học công nghệ, sang thế kỷ hai mốt còn nhiều những thành tựu vượt bậc hơn nữa đang ở phía trước. Chính vì vậy, công nghệ kiểm toán cũng vì thế mà có những bước tiến đáng kể góp phần hoàn thiện hơn chất lượng của công tác quản lý và thực hiện kiểm toán. Công ty Kiểm toán Việt Nam đã và đang áp dụng phần mềm kiểm toán AS/2 dựa trên kỹ thuật hiện đại của công nghệ thông tin. Hiệu quả của phần mềm này được đánh giá là hiện đại và góp phần giảm thiểu rủi ro cho mỗi cuộc kiểm toán mà Deloitte Touch Tohmatsu (DTT)hay thành viên của Công ty thực hiện. Đối với kiểm toán ngân hàng DTT cũng có những hướng dẫn cụ thể trong quá trình thực hiện kiểm toán dựa trên sự ứng dụng của phần mềm này. Tuy nhiên với xu hướng phát triển như hiện nay, công nghệ kiểm toán cần phải đuổi kịp sự tốc độ đó để có thể chiếm lĩnh được thị trường, và trong lĩnh vực kiểm toán tín dụng cũng vậy. Hiện nay, để đảm bảo tính chính xác các ngân hàng đều sử dụng công nghệ mạng vào quá trình quản lý của mình. Chính vì vậy hầu hết kiểm toán ngân hàng nói chung hay nghiệp vụ tín dụng nói riêng đều là quá trình kiểm toán trong môi trường máy tính. Từ lý do đó, trong tương lai ngành kiểm toán phải thiết kế để sao cho có thể tận dụng được công nghệ này vào kiểm toán, việc ghi chép bằng tay sẽ giảm thiểu và công việc kiểm toán chỉ việc kết nối với mạng của ngân hàng từ đó tiến hành những thủ tục kiểm toán của kiểm toán viên. Đây là một vấn đề không còn là khó khăn mà đang là một vấn đề mà các công ty kiểm toán đang phải chạy đua để từng bước chiếm lĩnh thị trường kiểm toán hiện nay. Công ty Kiểm toán Việt Nam cho đến nay đã được 12 tuổi, một Công ty kiểm toán hàng đầu của Việt Nam. Tuy nhiên, số lượng khách hàng là ngân hàng chiếm mốt số lượng khá khiêm tốn. Hầu hết các ngân hàng lớn đều chỉ định các công ty kiểm toán nước ngoài là kiểm toán viên cho họ. Một lý do giải thích cho vấn đề này là do ngân hàng có nhiều rủi ro nên phí cao và các ngân hàng không chấp nhận. Theo em, câu trả lời này chưa thoả đáng. Phải chăng VACO chưa chú trọng đến thị trường rất lớn này? hay vì một lý do nào khác. Như vậy, trong tương lai, VACO phải có những bước chuyển biến tích cực để có thể nâng cao chất lượng dịch vụ kiểm toán ngân hàng và đặc biệt là việc hoàn thiện quy trình kiểm toán tín dụng một trong những phần hành có chứa nhiều rủi ro nhất của cuộc kiểm toán. Chất lượng nâng cao kết hợp với việc giảm giá phí cạnh tranh là một điều quyết định cho việc thành công hay không trong việc mở rộng thị trường của Công ty như hiện nay. Nói tóm lại, với xu hướng toàn cầu hoá, sự phát triển của khoa học công nghệ hiện đại, ngành kiểm toán Việt Nam nói chung Công ty Kiểm toán Việt Nam nói riêng cần phải liên tục đổi mới hoàn thiện công nghệ kiểm toán, trong đó có quy trình kiểm toán nghiệp vụ tín dụng. Đó là việc làm tất yếu, một yêu cầu bắt buộc nếu Công ty đạt được chiến lược của mình trong những năm tới là chiếm lĩnh được thị trường trong nước và mở rộng thị trường kiểm toán của Việt Nam ra nước ngoài. Điều đó không còn xa mà ở rất gần trước mắt. 3.2 Phương hướng hoàn thiện chung 3.3 Giải pháp hoàn thiện cụ thể 3.3.1 Xây dựng quy trình đánh giá rủi ro tín dụng Rủi ro tín dụng là khả năng ngân hàng không thu được nợ gốc và lãi từ khoản cho vay hoặc việc thu gốc và lãi không đúng kỳ hạn. Nguyên nhân của rủi ro tín dụng đến từ ba phía: điều kiện khách quan, ngân hàng và khách hàng vay. Trong phần này, ta tập chung vào việc tìm hiểu nguyên nhân do khách hàng gây nên. Rủi ro đến từ khách hàng đối với mỗi khoản cho vay có thể do trình độ năng lực quản lý đầu tư yếu kém khiến đồng vốn vay không phát huy được năng lực dẫn đến kinh doanh thua lỗ và mất khả năng trả nợ; hoặc do sự cố tình gian lận của người đi vay nhằm chiếm dụng nguồn vốn vay. Đây là một sự thất thoát tài sản tiềm ẩn phát sinh từ quá trình cấp tín dụng và kéo dài cho đến khi ngân hàng thu nợ xong. Do vậy đối với mỗi món vay, kiểm toán viên không chỉ khẳng định sự chính xác về số liệu được hình thành từ những tài liệu hợp lý hợp lệ khác mà còn đánh giá được mức độ rủi ro của hoạt động tín dụng và khả năng hạn chế rủi ro đối với nghiệp vụ này. Thông thường để quản lý vấn đề này, các ngân hàng thường yêu cầu người đi vay phải nộp báo cáo tài chính đã được kiểm toán theo năm hoặc theo quý, yêu cầu có tài sản thế chấp, bảo lãnh, thực hiện đồng tài trợ…hoặc các khả năng mới như: bán lại các khoản nợ, sử dụng các nghiệp vụ phái sinh…Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp việc đánh giá khách hàng của ngân hàng thương mắc sai lầm hoặc chủ quan dẫn tới việc đánh giá không chính xác ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của ngân hàng. Chính vì những lý do đó, việc kiểm toán viên đánh giá mức độ rủi ro đối với các khoản nợ tín dụng đó là một điều cần thiết. Để tiến hành việc phân tích kiểm toán viên chủ yếu tập chung vào ba vấn đề chính như: xem xét tình hình kinh tế của khách hàng vay tín dụng; đánh giá phân loại lại hồ sơ cho vay theo tiêu chí chất lượng các khoản vay; xác định mức độ tập chung tín dụng đối với người vay đã hợp lý và có khả năng xảy ra rủi ro hay không. Thực tiễn kiểm toán nghiệp vụ tín dụng tại Công ty kiểm toán Việt Nam, qua quan sát em nhận thấy kiểm toán viên chưa tiến hành việc phân tích đánh giá mức độ rủi ro của đối tượng được cấp tín dụng. Điều này, theo em đó là một khiếm khuyết không nhỏ để góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ của VACO. Từ lý do này em xin đưa ra một ý kiến để góp phần vào việc hoàn thiện quy trình kiểm toán nghiệp vụ tín dụng về khía cạnh đánh giá tình hình kinh tế của khách hàng vay. Trước tiên, kiểm toán viên tiến hành tìm hiểu hệ thống quản lý rủi ro của ngân hàng. Việc tìm hiểu này được thực hiện trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán. Hệ thống quản lý rủi ro là một yếu tố quan trọng trong hệ thống kiểm soát nội bộ của ngân hàng. Do đó để có được những hiểu biết này, kiểm toán viên có thể sử dụng cách thức tìm hiểu hệ thống kiểm soát nội bộ: dùng bảng câu hỏi, lưu đồ, hoặc bản tường thuật. Sau khi xem xét cách thức quản lý rủi ro mà Ban lãnh đạo ngân hàng lựa chọn, kiểm toán viên cần chỉ ra những ưu điểm hoặc nhược điểm của cách thức quản lý này. Trong quá trình kiểm toán hoạt động quản lý rủi ro này, kiểm toán viên cần nắm được mức độ rủi ro có thể chấp nhận được có thoả đáng không. Việc xem xét mức độ bao nhiêu là thoả đáng sẽ không có một mức độ cụ thể. Tuỳ thuộc vào mỗi ngân hàng mà tỷ lệ này sẽ được đưa ra. Nhiều ngân hàng có tiềm lực lớn họ sẵn sàng chấp nhận mức rủi ro cao đề kinh doanh còn các ngân hàng yếu hơn thì ngược lại. Do vậy, kiểm toán viên cần phải có những hiểu biết về vấn đề này. Sau khi có được hiểu biết sơ bộ về việc quản lý rủi ro, kiểm toán viên tiến hành kiểm tra chi tiết. Mẫu chọn có thể là mẫu đã chọn trong quá trình kiểm tra hệ thống và kiểm tra chi tiết. Việc chọn mẫu phải đảm bảo được yêu cầu rằng mẫu được chọn phải bao gồm các khoản vay gặp khó khăn trong việc hoàn trả, các khoản cho vay phải điều chỉnh lại giá trị, các khách hàng phải thấu chi nhiều. Để đưa ra được ý kiến về mức độ rủi ro hợp lý đối với từng khách hàng, kiểm toán viên yêu cầu ngân hàng cung cấp những tài liệu mà ngân hàng có được từ khách hàng vay (như: Báo cáo tài chính đã được kiểm toán, thông tin về việc sử dụng nguồn vốn vay, kết quả của việc thu thập thêm thông tin về tình hình kinh doanh liên quan đến khoản tiền vay…). Từ những báo cáo này, kiểm toán viên tiến hành phân tích các chỉ tiêu tài chính trên báo cáo tài chính để đánh giá khả năng thanh toán của khách hàng. Bên cạnh việc phân tích báo cáo tài chính của khách hàng, kiểm toán viên có thể tiến hành quan sát thực tế cơ sở vật chất của một số khách hàng cùng với cán bộ của ngân hàng. Việc quan sát thực tế này sẽ giúp kiểm toán viên đánh giá một cách chính xác hơn. Sau khi thực hiện công việc đánh giá khả năng thu hồi được các khoản cho vay, kiểm toán viên tiến hành tập hợp kết quả việc trình bày kết quả có thể được thể hiện trên mẫu bảng phân tích tình hình tài chính của người vay (Bảng số ). Bảng này được thiết kế sao cho khi tiến hành soát xét cuối cùng, những người có trách nhiệm có thể hiểu và dễ dàng tham chiếu. Chính vì vậy, các chỉ tiêu của bảng bao gồm thông tin để tính toán các tỷ suất thanh toán như: tổng số tài sản lưu động; tổng số vốn bằng tiền; tổng số nợ ngắn hạn; tổng số nợ phải thu; tổng số nợ phải trả; tổng số doanh thu bán chịu thực; bình quân các khoản phải thu; thời gian của kỳ phân tích; số vòng luân chuyển các khoản phải thu. Các chỉ tiêu này kiểm toán viên có thể thu thập trên bảng cân đối tài sản, bảng thuyết minh báo cáo tài chính. Từ các số liệu trên kiểm toán viên tiến hành tính toán các tỷ suất để đưa ra đánh giá xem khả năng thanh toán theo ba mức độ tốt, chấp nhận được và cần lưu ý. Nếu như có dấu hiệu có rủi ro kiểm toán viên phải trình bày trong báo cáo kiểm toán như một vấn đề ghi chú: "…theo ý kiến của chúng tôi, số dư thể hiện trên tài khoản tín dụng của Ngân hàng ABC đã phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu… ở đây chúng tôi không phủ nhận ý kiến chấp nhận toàn phần như trên, mà chỉ muốn lưu ý người đọc rằng một số khoản cho vay sau có khả năng không thu được gốc và lãi …" Đó là những công việc có thể thực hiện ngay trong giai đoạn hiện tại. Trong tương lai, với sự phát triển của công nghệ thông tin như ngày nay, Công ty Kiểm toán Việt Nam nên xây dựng một phần mềm hiệu quả giúp kiểm toán viên đánh giá được rủi ro tín dụng một cách dễ dàng nhằm giảm chi phí kiểm toán. Điều này là rất cần thiết và góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của VACO trên thị trường kiểm toán đặc biệt là thị trường kiểm toán ngân hàng. 3.1.2. Trình tự thực hiện thủ tục kiểm soát và thủ tục kiểm toán chi tiết. Về mặt lý luận, thực hiện kế hoạch kiểm toán tín dụng cũng bao gồm hai thủ tục được tiến hành đó là thủ tục kiểm soát và thủ tục kiểm toán cơ bản. Thủ tục kiểm soát là quá trình kiểm toán viên dựa trên số mẫu đã chọn để tiến hành đánh giá rủi ro kiểm soát. Ngân hàng là đơn vị kinh doanh tiền tệ trong đó hoạt động tín dụng là hoạt động cơ bản chứa đựng nhiều rủi ro. Khi một ngân hàng có vấn đề trong hoạt động thì nó sẽ ảnh hưởng đến hoạt động của các ngân hàng khác trong một quốc gia hay toàn thế giới. Vấn đề này được gọi là tác động hệ thống của ngân hàng có thể coi như đây là đặc trưng riêng của ngành ngân hàng. Cho nên, mỗi ngân hàng đều phải thiết kế cho mình một hệ thống kiểm soát nội bộ một cách phù hợp để đảm bảo kiểm soát được toàn bộ rủi ro. Do vậy, nhiệm vụ của kiểm toán viên phải đánh giá được mức độ phù hợp của hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng để không chỉ phục vụ cho việc đưa ra mức độ rủi ro kiểm soát nhằm phục vụ cho các giai đoạn kiểm toán sau mà còn phục vụ cho việc viết thư quản lý về việc thiết kế hệ thống kiểm soát của ngân hàng. Để đạt được điều này, kiểm toán viên phải thực hiện với một thái độ cẩn trọng thích đáng. Nếu trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán viên cho rằng rủi ro kiểm soát của đơn vị càng thấp thì số mẫu tiến được chọn để kiểm toán càng lớn và ngược lại nếu đánh giá cao thì nhiều khi kiểm toán viên sẽ phải xem xét khả năng chấp nhận kiểm toán hoặc nếu tiến hành thì số lượng mẫu chọn cho kiểm tra chi tiết ở giai đoạn sau sẽ lớn. Sau khi tiến hành thủ tục kiểm soát đánh giá được rủi ro kiểm soát, kiểm toán viên tiến hành kiểm tra chi tiết, là công việc tốn nhiều thời gian và chi phí. Việc kiểm tra chi tiết này nhằm đánh giá sự chính xác của các số dư. Công việc này bao gồm kiểm tra sự hợp lý, đầy đủ, chính xác của các chứng từ, tài liệu liên quan đến số dư đó. Về mặt lý luận, rủi ro kiểm soát đánh giá ở giai đoạn trước càng thấp thì việc số lượng mẫu chọn để tiến hành thủ tục kiểm toán chi tiết càng nhỏ và ngược lại. Nói chung việc đánh giá hệ thống kiểm soát một cách chính xác sẽ là một bước rất quan trọng góp phần giảm các thủ tục kiểm tra chi tiết từ đó giảm chi phí kiểm toán. Hiện nay, việc thực hiện kế hoạch kiểm toán đối với nghiệp vụ tín dụng được các kiểm toán viên của VACO tiến hành bằng cách gộp cả hai thủ tục kiểm toán vào cùng một mẫu chọn. Công việc này góp phần làm giảm số lượng mẫu phải chọn và công việc được tiến hành mất ít thời gian hơn. Tuy nhiên nếu thực hiện theo cách này rủi ro kiểm toán sẽ không được kiểm soát một cách cụ thể. Thật vậy, khi tiến hành hai thủ tục trên cùng một mẫu chọn kiểm toán viên sẽ phải thực hiện với số mẫu cố định như đã lựa chọn và trong quá trình thực hiện kiểm toán viên phát hiện thấy rằng việc đánh giá rủi ro kiểm soát trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán là chưa chính xác mà rủi ro cao hơn. Lúc này, kiểm toán viên sẽ phải mở rộng quy mô mẫu để thực hiện kiểm toán chi tiết. Như vậy, số mẫu sẽ phải kiểm tra nhiều hơn. Nếu như khi thực hiện kiểm toán chi tiết, kiểm toán viên cho rằng rủi ro kiểm soát thấp hơn so với dự kiến thì kiểm toán viên đã phải thực hiện việc kiểm tra đối với toàn bộ số mẫu đã lựa chọn. Như vậy, công việc kiểm toán sẽ phải thực hiện nhiều hơn so với khối lượng công việc cần thiết phải tiến hành để kiểm soát được rủi ro kiểm toán. Chính vì vậy theo em, trong quá trình thực hiện kiểm toán, kiểm toán viên nên thực hiện các thủ tục kiểm soát và thủ tục kiểm toán cơ bản một cách riêng biệt. Việc thực hiện thủ tục kiểm soát với mục đích nhằm đánh giá rủi ro kiểm soát nên kiểm toán viên chỉ tập chung vào việc kiểm tra, đánh giá quy trình kiểm soát của khách hàng. Đối với các quy trình kiểm toán viên chỉ cần tập chung vào việc xem xét tính đầy đủ của các giấy tờ cần thiết liên quan đến hoạt động này, từ đó đưa ra được mức độ rủi ro kiểm soát. Từ mức độ rủi ro này kiểm toán viên sẽ quyết định số mẫu cần phải kiểm tra chi tiết. Với việc thực hiện một cách tách biệt hai thủ tục này, kiểm toán viên có thể đánh giá một cách chính xác hơn về hệ thống kiểm soát nội bộ của ngân hàng, từ đó có thể cung cấp cho ngân hàng những ý kiến tư vấn về việc hoàn thiện hệ thống kiểm soát phù hợp giảm thiểu được rủi ro và nâng cao chất lượng hoạt động của ngân hàng, một điều mà các ngân hàng mong đợi từ các công ty kiểm toán. Khi khách hàng thoả mãn với dịch vụ mà VACO cung cấp thì có nghĩa kiểm toán viên đã góp phần thực hiện được phương châm kinh doanh của Công ty " vì sự thành công của khách hàng". III.4. Điều kiện để giải pháp phát huy tối đa tác dụng Trước những đòi hỏi của quá trình hội nhập cũng như toàn cầu hoá Việt Nam phải thực hiện một số cải cách về chính sách vĩ mô nhằm thúc đẩy sự phát triển của các ngành kinh tế nói chung và ngành kế toán kiểm toán nói riêng. Ngành kế toán kiểm toán hoạt động chủ yếu dựa trên những quy định của Chính phủ. Do vậy, để h Trước hết, Chính phủ phải ban hành đầy đủ, đồng bộ khuôn khổ pháp lý về kế toán, kiểm toán. Bộ tài chính tiếp tục hoàn chỉnh Luật kế toán trình Chính phủ, Quốc hội công bố; soạn thảo các Nghị định, Thông tư hướng dẫn Luật kế toán để nhanh chóng triển khai thực hiện; hoàn chỉnh cơ bản việc xây dựng và công bố hệ thống chuẩn mực kế toán, hệ thống chuẩn mực kiểm toán trên cơ sở vận dụng chuẩn mực quốc tế phù hợp với trình độ quản lý ở Việt Nam và xu hướng mở cửa hội nhập nhằm đạt được sự công nhận của quốc tế trên các nội dung chính của kế toán, kiểm toán Việt Nam. Giảm dần sự khác biệt giữa chuẩn mực Việt Nam với chuẩn mực Quốc tế. Thứ hai, Chính phủ cần xây dựng, sửa đổi Nghị định về kiểm toán độc lập nhằm nâng cao hiệu quả pháp lý và hiệu quả quản lý Nhà nước đối với hoạt động kiểm toán độc lập tiến đến xây dựng Pháp lệnh hoặc Luật kiểm toán độc lập vào 2010. Hoàn thiện quy chế hoạt động nghề nghiệp của các doanh nghiệp kế toán, kiểm toán trên cơ sở thực hiện Luật kế toán, Nghị định về kiểm toán độc lập như: Qui chế đào tạo, bồi dưỡng, thi tuyển và cấp chứng chỉ kiểm toán viên; quy chế cập nhật kiến thức hàng năm cho kiểm toán đang hành nghề. Qui chế quản lý hành nghề kế toán, kiểm toán của kiểm toán viên và doanh nghiệp kế toán, kiểm toán; quy chế cá nhân hành nghề tự do về kế toán, kiểm toán độc lập. Mở rộng chức năng cho Hội kế toán Việt Nam trong việc tham gia quản lý hành nghề, quản lý đạo đức kiểm toán viên, kế toán viên, thực hiện vai trò kiểm soát chất lượng dịch vụ kế toán, kiểm toán tiến đến giao chức năng công bố chuẩn mực kế toán, chuẩn mực kiểm toán cho Hội kế toán Việt Nam. Đa dạng hoá các loại hình doanh nghiệp kế toán, kiểm toán : Tiếp tục cho phép các Hãng quốc tế vào hoạt động tại Việt Nam dưới hình thức công ty 100% vốn nước ngoài, công ty liên doanh giữa nước ngoài với Việt Nam hoặc công nhận công ty Việt Nam là thành viên của hãng Quốc tế. Thành lập mới các công ty Trách nhiệm hữu hạn, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, công ty hợp danh và xí nghiệp tư nhân,… Hình thành các công ty cổ phần kiểm toán bằng cách chuyển đổi các doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần hay thành lập mới công ty cổ phần (Công ty cổ phần kiểm toán có những điều kiện riêng). Đồng thời chuyển đổi hết Doanh nghiệp Nhà nước kiểm toán sang các hình thức phù hợp. Không thành lập mới doanh nghiệp Nhà nước mới về kiểm toán. Hướng một số công ty kiểm toán chuyên môn hoá lĩnh vực như ngân hàng, dầu khí, công nghệ thông tin. Cho phép cá nhân hành nghề độc lập về kế toán, kiểm toán trên cơ sở nâng cao trình độ kiểm toán viên đạt tiêu chuẩn quốc tế. Mở rộng số lượng và quy mô các doanh nghiệp Kế toán, Kiểm toán Khuyến khích và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Kế toán, Kiểm toán mới thành lập, kể cả doanh nghiệp nước ngoài và trong nước. Khuyến khích các doanh nghiệp kế toán, kiểm toán mở rộng qui mô đạt bình quân 50 lao động trở lên để có lực lượng phát triển chất lượng dịch vụ. Các công ty hiện có nhiều Chi nhánh, văn phòng ở các Tỉnh, Thành phố hướng chuuyển đổi thành Công ty mẹ, Công ty con hoặc tách các bộ phận tư vấn độc lập. Giảm thiểu các văn phòng, chi nhánh quá nhỏ bé. Mở rộng thị trường dịch vụ Kế toán Kiểm toán. Về lĩnh vực kế toán: sẽ mở rộng diện kiểm toán bắt buộc, ví dụ như Doanh nghiệp Nhà nước có vốn điều lệ từ 10 tỷ đồng trở lên: Công ty trách nhiệm hữu hạn, xí nghiệp tư vấn có vốn 5 tỷ (10 tỷ) đồng trở lên. . . thừa nhận giá trị của báo cáo tài chính đã được kiểm toán. Về dịch vụ tư vấn: Giảm thiểu việc xử lý trực tiếp của cơ quan quản lý Nhà nước về các vấn đề kế toán, tài chính, thuế, thủ tục đầu tư, cổ phần hoá. . . thay bằng dịch vụ tư vấn của các doanh nghiệp kế toán, kiểm toán. Bản thân các công ty Kiểm toán phải nỗ lực nâng cao chất lượng nhân viên, chất lượng dịch vụ và tham gia nhiều hơn vào quá trình hoàn thiện khuôn khổ pháp lý và quảng bá làm cho nhận thức của toàn bộ xã hội về kiểm toán được nâng cao hơn nữa. Đa dạng hoá các loại hình dịch vụ, gồm: Dịch vụ kiểm toán; Kiểm toán Báo cáo tài chinh; Kiểm toán Báo cáo tài chính vì mục đích thuế; Kiểm toán báo cáo quyết toán dự án; Kiểm toán thông tin tài chính; Soát xét và kiểm tra Báo cáo tài chính theo các thủ tục thoả thuận trước; Dịch vụ tài chính; Tư vấn tài chính; Tư vấn thuế và kinh doanh; Dịch vụ bồi dưỡng đào tạo, thực hành kế toán, kiểm toán; Các dịch vụ liên quan khác; Các dịch vụ này phải từng bước đạt được các tiêu chuẩn khu vực và Quốc tế. Đổi mới chương trình đào tạo bỗi dưỡng kế toán, kiểm toán trong các trường Đại học, nâng cao chất lượng thi tuyển kiểm toán viên, hợp tác với các tổ chức quốc tế để đào tạo và thi tuyển kiểm toán viên Việt Nam đạt trình độ quốc tế. . .

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docK0130.doc
Tài liệu liên quan