Chuyên đề Tăng cường công tác quản lý tài chính tại Trung tâm công nghệ thông tin

Qua thời gian thực tập và tìm hiểu tại Trung tâm, em đã hoàn thành đề tài: “Tăng cường công tác quản lý tài chính tại Trung tâm công nghệ thông tin”. Chuyên đề đã thực hiện được các nhiệm vụ: - Nghiên cứu các lý luận chung về công tác quản lý tài chính tại đơn vị sự nghiệp có thu. - Phân tích thực trạng quản lý tài chính tại Trung tâm công nghệ thông tin trên các giác độ: quản lý thu và quản lý chi. Từ đó rút ra những kết quả Trung tâm đã đạt được trong công tác quản lý tài chính và những hạn chế cần khắc phục trong công tác này để thúc đẩy sự phát triển của đơn vị. - Trên cơ sở lý thuyết đã nghiên cứu và thực trạng phân tích, đề ra những biện pháp và kiến nghị đối với Tổng công ty Bưu chính Viễn thông và Nhà nước để tăng cường công tác quản lý tài chính tại Trung tâm.

doc58 trang | Chia sẻ: linhlinh11 | Lượt xem: 613 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Tăng cường công tác quản lý tài chính tại Trung tâm công nghệ thông tin, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ạch tài chính: là công tác kiểm tra được tiến hành sau khi đơn vị đã thực hiện xong kế hoạch được giao. Kiểm tra tài chính trong giai đoạn này nhằm xem xét mức độ hoàn thành kế hoạch. 1.3.5. Các nhân tố chủ quan Con người luôn là trung tâm của bộ máy quản lý, là khâu quan trọng trong việc xử lý các thông tin và ra các quyết định, đặc biệt là các quyết định tài chính. Trình độ của các cán bộ kế toán và của các cán bộ quản lý có ảnh hưởng tới tính kịp thời và chính xác của các quyết định tài chính và như vậy có ảnh hưởng hoạt động chung của đơn vị. Một đặc điểm quan trọng trong công tác tài chính tại các đơn vị sự nghiệp có thu là nguồn vốn được cấp theo nhiệm vụ, theo kế hoạch, vì vậy các cán bộ tài chính có vai trò hết sức quan trọng trong việc định ra nhu cầu tài chính cần thiết để thực hiện các đề tài. Cán bộ tài chính có kinh nghiệm, có khả năng phán đoán tốt sẽ đưa ra được dự toán chính xác, trên cơ sở đó sẽ đảm bảo được nguồn vốn không bị thừa hay thiếu quá nhiều so với nhiệm vụ. Ngoài ra, việc quản lý tài chính có hiệu quả hay không còn phụ thuộc rất nhiều vào tâm lý của cán bộ lãnh đạo và cán bộ tài chính của đơn vị. Nếu những người này không có nhận thức đúng đắn về vai trò của công tác quản lý tài chính, không biết sử dụng tiết kiệm nguồn vốn sẵn có mà khi thiếu chỉ trông chờ xin Nhà nước sẽ làm giảm hiệu quả hoạt động của đơn vị và gây lãng phí ngân sách Nhà nước. Chương 2 Thực trạng quản lý tài chính tại Trung tâm công nghệ thông tin 2.1. Khái quát về Trung tâm công nghệ thông tin 2.1.1. Sự ra đời và phát triển của Trung tâm công nghệ thông tin Bắt đầu từ giữa thế kỉ 20, Công nghệ thông tin nhanh chóng ra đời và khẳng định vai trò to lớn của mình trong phát triển kinh tế. Tại Việt nam công nghệ thông tin mới ra đời được hơn mười năm nên còn rất nhỏ bé với lực lượng phân tán. Các sản phẩm phần mềm phần lớn được thực hiện theo các hợp đồng, gia công theo đơn đặt hàng, sản phẩm trọn gói xuất hiện lẻ tẻ và chưa có khả năng thương mại cao. Khả năng công nghệ thấp, đội ngũ cán bộ chưa được đào tạo theo chiều sâu nên ngành công nghiệp phần mềm của Việt Nam dường như vẫn giậm chân tại chỗ. Để đáp ứng yêu cầu hoạch định chiến lược phát triển kinh tế cho lĩnh vực Công nghệ thông tin, Trung tâm công nghệ thông tin với vai trò là đơn vị đầu ngành trong lĩnh vực Công nghệ thông tin đã được thành lập nhằm phát huy tiềm năng, nội lực, làm chủ công nghệ, gắn kết nghiên cứu, đào tạo và sản xuất kinh doanh. Trung tâm Công nghệ thông tin CDIT được Tổng giám đốc Tổng công ty BCVT Việt nam ký quyết định thành lập số 636/QĐ-TCCB-LĐ ngày 22 tháng 3 năm 1999 trên cơ sở sắp xếp lại hai đơn vị thành viên của các đơn vị trực thuộc Học viện Công nghệ BCVT: - Trung tâm nghiên cứu phát triển phần mềm thuộc Viện Khoa học Kỹ thuật Bưu điện. - Trung tâm đào tạo phát triển phần mềm thuộc Trung tâm Đào tạo BCVT1 (cũ). Khi mới thành lập, Trung tâm chỉ có một cơ sở tại Hà nội với tổng số nhân viên là 40 người. Đến nay sau hơn 5 năm đi vào hoạt động, Trung tâm đã phát triển lớn mạnh với hai cơ sở tại Hà nội và thành phố Hồ Chí Minh với tổng số nhân viên là 180 người. Do hoạt động nghiên cứu của Trung tâm bám sát thực tế sản xuất kinh doanh của ngành nên nhiều sản phẩm của Trung tâm đã được Tổng công ty cho phép triển khai trên phạm vi toàn quốc, ví dụ: - Hệ thống Voicemail – Audiotext đã được triển khai trên 49 tỉnh, thành phố. - Hệ thống tính cước và chăm sóc khách hàng được triển khai trên toàn quốc. - Dự án “Nâng cấp hệ thống mạng máy tính và phần mềm phục vụ sản xuất kinh doanh” đã được triển khai ở cơ quan Tổng công ty và 59 bưu điện Tỉnh, thành phố. - Dự án tin học hoá bưu chính toàn quốc. - Ngoài ra, nhiều sản phẩm của Trung tâm được triển khai ứng dụng tại 59 bưu điện tỉnh, thành phố (Hệ thống thông tin giáo dục; Trung tâm vận hành – bảo dưỡng; Hệ thống sửa chữa – báo hỏng; công ty GPC (Hệ thống nhắn tin ngắn SMS, Bộ Công an, UBND thành phố Hà nội (Chính phủ điện tử) Trong năm 2003, Trung tâm đã ký được một hợp đồng xuất khẩu phần mềm viêcn thông cho tập đoàn Alcatel với trị giá 1 triệu USD, được đánh giá là bước khởi đầu cho việc xuất khẩu các sản phẩm công nghệ thông tin của Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt nam và cũng là của đất nước Việt Nam. Là đơn vị đầu tiên của ngành Bưu điện đạt chứng chỉ ISO 9001 trong bốn lĩnh vực chính: phát triển phần mềm; nghiên cứu phát triển thiết bị Viễn thông; nghiên cứu Khoa học Công nghệ và cung cấp giải pháp Công nghệ thông tin. Những thành tựu mà Trung tâm đã đạt được là rất đáng kể: - Huy chương bạc do Hội vô tuyến điện tử trao tặng cho hệ thống tổng đài TDW-M512 - Huy chương vàng Hội thi “Sáng tạo các sản phẩm điện tử Việt Nam” Và giải nhất giải thưởng VIFOTEC năm 1998 cho sản phẩm tổng đài Vinex 1000 - Giải nhì giải thưởng Sáng tạo KHCN VIFOTEC năm 2000 và Cúp vàng Giải pháp CNTT năm 2002 cho hệ thống tính cước và chăm sóc khách hàng BCSS. 2.1.2. Đặc điểm và hoạt động chủ yếu của Trung tâm Công nghệ thông tin 2.1.2.1. Đặc điểm Trung tâm Công nghệ thông tin là một đơn vị sự nghiệp có thu, do vậy Trung tâm cũng mang đầy đủ những đặc điểm của loại hình đơn vị hành chính sự nghiệp này. Tuy nhiên, do vị trí đặc biệt của mình, đơn vị cũng có những đặc điểm riêng khác biệt với các đơn vị khác - Là một đơn vị trực thuộc Học viện Công nghệ bưu chính Viễn thông, một mô hình thí điểm gắn kết nghiên cứu khoa học, đào tạo và sản xuất kinh doanh trong một số Tổng công ty lớn theo Nghị quyết TW2 khoá VIII. Chính vì vậy, trung tâm cũng thực hiện việc thực hiện đồng thời cả ba nhiệm vụ: nghiên cứu, đào tạo và sản xuất. - Ngoài việc chịu sự quản lý của Học viện, Trung tâm còn chịu sự quản lý của Tổng công ty Bưu chính Viễn thông, một doanh nghiệp Nhà nước lớn. Điều này khiến cho đơn vị hoạt động vừa theo Quy chế tài chính của Tổng công ty và chịu sự quản lý khá chặt chễ của đơn vị chủ quản này. - Là một đơn vị sự nghiệp có thu trực thuộc một Tổng công ty Nhà nước chuyên về Bưu chính – Viễn thông nhưng Trung tâm lại đi sâu vào nghiên cứu lĩnh vực Công nghệ thông tin không chỉ phục vụ cho ngành mà còn phục vụ cho toàn xã hội. Lĩnh vực hoạt động chủ yếu của Trung tâm cũng là lĩnh vực mà Nhà nước quan tâm phát triển hàng đầu hiện nay nên Trung tâm cũng nhận được nhiều sự quan tâm của Nhà nước và Chính phủ. 2.1.2.2. Hoạt động chủ yếu của Trung tâm Là một đơn vị trực thuộc Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông, Trung tâm công nghệ thông tin có chức năng nghiên cứu, ứng dụng khoa học thuộc lĩnh vực công nghệ thông tin phục vụ chuyên ngành bưu chính viễn thông với những nhiệm vụ cụ thể sau: - Nghiên cứu tạo ra các sản phẩm phần mềm phục vụ cho phát triển công nghiệp bưu chính viễn thông, phục vụ quản lý, khai thác, vận hành mạng lưới bưu chính viễn thông, các phần mềm phục vụ công tác đào tạo tiến tới có những phần mềm xuất khẩu; - Cử cán bộ tham gia giảng dạy về công nghệ thông tin ở các cấp bậc đào tạo do Học viện công nghệ bưu chính viễn thông đảm nhiệm, gắn công tác sản xuất kinh doanh với công tác đào tạo theo chủ trương của Nhà nước và của Tổng công ty Bưu chính viễn thông Việt Nam. Với những nhiệm vụ như vậy, đơn vị đã tích cực triển khai các hoạt động đa dạng * Hoạt động nghiên cứu khoa học – thực hiện đề tài Là một đơn vị dẫn đầu trong lĩnh vực bưu chính viễn thông nên đây được coi là hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất mang lại những thành công lớn và chứng tỏ được tiềm lực dồi dào của Trung tâm. Các hoạt động nghiên cứu khoa học được triển khai tại Trung tâm rất đều đặn và theo các hướng chính: - Nghiên cứu theo nhiệm vụ được Tổng công ty – Học viện giao hay còn gọi là dưới dạng đề tài nghiên cứu. Đây có thể coi là hoạt động theo cơ chế đăng kí với Tổng công ty thông qua các đề tài nghiên cứu khoa học hàng năm. Các đề tài được giao cho đơn vị là các đề tài cấp Bộ hoặc cấp Tổng công ty. Nếu xét một cách đơn thuần ở góc độ sự nghiệp, hoạt động nghiên cứu này tương đối ổn định vì các sản phẩm đầu ra là các đề tài nghiên cứu theo nhiệm vụ được bảo đảm gần như chác chắn là có nơi tiêu thụ. Tuy vậy, chất lượng nghiên cứu theo loại hình này tương đối thấp. - Phát huy nguồn lực về con người và kỹ năng nghiên cứu chuyên sâu, Trung tâm đã chủ động triển khai các hoạt động nghiên cứu nhằm giải quyết các vấn đề xuất phát từ nhu cầu thực tế mạng lưới. Hình thức triển khai được thực hiện thông qua các hợp đồng kinh tế. - Một vấn đề được Trung tâm rất chú trọng nữa là việc xây dựng, nâng cấp đội ngũ và tiềm năng khoa học công nghệ. Đây là những nghiên cứu có tính chất đón đầu, nghiên cứu để nâng cao kiến thức cho cán bộ công nhân viên trong công tác nghiên cứu và tiếp cận công nghệ mới. Đây là hình thức đầu tư đầy rủi ro vì hoạt động trong lĩnh vực đặc thù công nghệ cao và thay đổi nhanh chóng, yếu tố con người là vô cùng quan trọng. Công tác đào tạo bồi dưỡng và kiện toàn đội ngũ là một yêu cầu thường xuyên, liên tục nhằm tránh nguy cơ tụt hậu và thất bại trong cạnh tranh. * Công tác đào tạo Theo chức năng, Trung tâm công nghệ thông tin được ký kết và thực hiện các Hợp đồng về đào tạo, nghiên cứu khoa học kỹ thuật và các dịch vụ khác liên quan tới nghiệp vụ của Trung tâm. Để hoạt động sản xuất kinh doanh thực sự có hiệu quả trong điều kiện cạnh tranh, Trung tâm đã chủ động trong việc tìm kiếm thị trường, khách hàng tiềm năng, các đối tác và đặc biệt là năng lực và điều kiện kinh doanh để ứng dụng các kết quả nghiên cứu của mình một các chủ động, thực tế và có hiệu quả. Để đáp ứng nhu cầu phát triển của Ngành, hoạt động đào tạo công nghệ thông tin đã được Trung tâm triển khai theo cả hai hướng: đào tạo diện rộng để nâng cao mặt bằng tin học chung kết hợp với đào tạo chuyên sâu để đạt trình độ cao. Về đào tạo diện rộng, trung tâm đã biên soạn được 10 giáo trình về công nghệ và sản phẩm của Trung tâm, trực tiếp giảng dạy các giáo trình kể trên cho các cán bộ tin học của 17 tỉnh, thành phố; đào tạo nâng cao trình độ tin học cho cán bộ của 21 Bưu điện tỉnh, thành phố. Về đào tạo nâng cao, đào tạo chuyên sâu, Trung tâm đã được các hãng lớn trên thế giới như: CISCO, ORACLE, Microsoft, IBM, SUN MicroSystem chọn làm đối tác đào tạo cho họ và hãng Sylvan Prometric-hãng chuyên cung cấp dịch vụ khảo thí quốc tê, uỷ quyền tổ chức các kỳ thi lấy chứng chỉ quốc tế tại Việt nam. Năm 2003, Trung tâm đã tổ chức được 17 lớp học với 554 học viên, trong đó 93% học viên tốt nghiệp loại khá trở lên. Kết quả đào tạo của Trung tâm được các hãng nước đánh giá cao và đề nghị mở rộng qui mô. Hoạt động này đã góp phần đào tạo nguồn nhân lực công nghệ thông tin cho Tổng công ty, bước đột phá quan trọng trong chuyển đổi mạng viễn thông Việt nam hiện nay sang mạng thế hệ sau trên cơ sở công nghệ IP và mở ra hướng nâng cao chất lượng đào tạo đại học về công nghệ thông tin củ Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông đạt trình độ khu vực và thế giới. Các hoạt động đào tạo của Trung tâm đã bám sát chủ trương gắn kết giữa nghiên cứu và đào tạo, góp phần nâng cao mặt bằng tin học chung cho Ngành, tạo thuận lợi để triển khai các dự án tin học trong phạm vi toàn quốc, tạo ra một loại hình đào tạo mới có trình động và được thừa nhận quốc tế. Tuy nhiên, đây là công việc ngoài nhiệm vụ kế hoạch được giao, không được huy động vốn, không có nguồn kinh phí riêng để chủ động trong công tác nghiên cứu của mình nên Trung tâm phải rất cố gắng và linh hoạt về nguồn vốn nhưng với quy mô nhỏ và không được ổn định. Các hoạt động sản xuất kinh doanh còn mang tính vụ việc chứ chưa đủ là hoạt động chủ đạo để qua đó một mặt tạo ra các sản phẩm phần mềm chuyên nghiệp, có khả năng ứng dụng cao, một mặt nâng cấp đội ngũ cán bộ. Về phát triển thị trường và triển khai công tác kinh doanh, do là đơn vị sự nghiệp có thu nên theo luật định Trung tâm không được tham gia đấu thầu dù Trung tâm có tiềm năng lớn về công nghệ, kinh nghiêm thực tiễn cũng như có uy tín tốt đối với khách hàng. Do không phải là đơn vị kinh doanh nên việc tuyên truyền, giới thiệu sản phẩm, kinh doanh tiếp thị hay thực hiện các hoạt động xúc tiến sản phẩm không thực hiện được. Vì vậy, việc tìm kiếm các đối tác cũng như khách hàng gặp nhiều khó khăn. 2.2. Thực trạng quản lý tài chính tại Trung tâm công nghệ thông tin 2.2.1. Quản lý thu Kinh phí hoạt động của Trung tâm được hình thành từ các nguồn: - Nguồn ngân sách Nhà nước cấp; - Nguồn do Tổng công ty cấp; - Nguồn từ hoạt động có thu của đơn vị. Tuy nhiên các nguồn thu này có tỷ trọng khác nhau trong tổng nguồn thu của Trung tâm Bảng1: Nguồn thu của Trung tâm công nghệ thông tin năm 2001-2002 Năm Nguồn 2001 2001 Số tiền (VND) Tỷ lệ (%) Số tiền (VND) Tỷ lệ (%) Nguồn ngân sách Nhà nước cấp 260,000,000 1.1 100,000,000 0.3 Tổng công ty cấp 19,889,379,407 81.7 33,775,331,002 84.4 Nguồn thu của đơn vị từ hoạt động SX-KD 4,107,453,025 16.9 5,808,644,085 14.4 Nguồn thu của đơn vị từ hoạt động tài chính hoạt động bất thường 85,665,978 0.4 393,843,985 0.97 Tổng cộng 24,342,498,410 100 40,077,819,072 100 Trong đó, nguồn kinh phí do Tổng công ty cấp chiếm tỷ lệ lớn nhất 81.7% (năm 2001) và 84.4% (năm 2002). Nguồn kinh phí này cũng có xu hướng tăng lên hàng năm phù hợp với khối lượng nhiệm vụ của đơn vị được giao. Năm 2001, Trung tâm nhận được 20 đề tài cấp Bộ và cấp Tổng công ty, trong khi đó năm 2002, Trung tâm nhận được 25 đề tài nghiên cứu. Nguồn kinh phí được cấp theo các đề tài nghiên cứu, kinh phí cấp cho đề tài nào không được sử dụng cho mục đích khác, chính vì vậy nguồn vốn này có tính linh động không cao. Nguồn thu chiếm tỷ trọng lớn thứ hai là nguồn thu từ hoạt động có thu của đơn vị. Nguồn thu tại đơn vị có được nhờ hoạt động tư vấn, khảo sát thiết kế, thi công về lĩnh vực viễn thông và hoạt động tài chính. Nguồn thu này cũng có xu hướng tăng dần qua các năm, chứng tỏ được khả năng phát triển các hoạt động có thu của đơn vị. Nguồn thu này có ý nghĩa hết sức quan trọng, một phần khẳng định sự phát triển của Trung tâm, một phần giúp Trung tâm giải quyết tạm thời những khó khăn về tài chính khi Tổng công ty chưa kịp giải quyết. Nguồn thu này cũng tạo sự chủ động cho đơn vị trong các hoạt động của mình. Nguồn thu thứ ba là nguồn từ ngân sách Nhà nước. Đây là nguồn thu có tỷ trọng thấp nhất (dưới 1% tổng nguồn thu của đơn vị) và không ổn định qua các năm. Nguồn thu này cũng được cấp phát theo các đề tài và các nghiên cứu chiến lược. Nguồn thu của Trung tâm chủ yếu do Tổng công ty và Học viện cấp để thực hiện các đề tài khoa học được giao. Trung tâm không có nguồn vốn tự bổ sung vì hàng năm sau khi hạch toán xong, sau khi thực hiện các nghĩa vụ đối với nhà nước, phần lợi nhuận còn lại của Trung tâm phải nộp lên cho Tổng công ty và Học viện. Hàng năm, từ giữa năm tài chính, Trung tâm phải lập ra danh mục các đề tài thực hiện trong năm, nêu ra kinh phí dự kiến cho mỗi kế hoạch trình lên Tổng công ty. Căn cứ trên bảng kế hoạch do Trung tâm lập ra, Tổng công ty sẽ cấp cho Trung tâm số vốn cần thiết vào đầu năm sau. Theo quy chế tài chính của Tổng công ty, kinh phí giao cho thực hiện đề tài thì không được sử dụng cho các đề tài khác nên thường xảy ra tình trạng lượng tiền mặt gửi tại ngân hàng của Trung tâm khá cao nhưng có những đề tài chưa có kinh phí để thực hiện. Từ thực trạng này ta thấy, ngoài các đề tài được giao, Trung tâm khó có thể tiến hành nghiên cứu triển khai các sản phẩm khác do không có nguồn vốn lưu động. Một trong những chính sách của Trung tâm nhằm tranh thủ được nguồn vốn từ bên ngoài để phục vụ tốt nhất hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị là việc sử dụng các khoản tín dụng thương mại từ các đối tác. Điều này thể hiện qua số lượng các khoản phải trả của Trung tâm luôn cao. Bảng 2: Các khoản phải thu và phải trả của Trung tâm năm 2000-2002 Đơn vị tính: VNĐ Năm Khoản mục 2000 2001 2002 Khoản phải thu khách hàng 335,540,930 1,285,855,374 3,901,902,700 Khoản phải trả người bán 1,777,312,597 3,647,633,099 11,930,700,242 Người mua trả tiền trước 848,494,600 80,000,000 8,940,857,000 Qua bảng số liệu trên có thể thấy, ngoài các nguồn kinh phí chính thức, Trung tâm còn sử dụng nguồn tín dụng thương mại để tạo điều kiện phát triển các hoạt động có thu của đơn vị mình. Nguồn vốn của Tổng công ty cấp cho nhiệm vụ nào không thể được sử dụng cho nhiệm vụ khác, vì vậy cách tốt nhất để có được nguồn vốn cho hoạt động ngoài hoạt động sự nghiệp là tranh thủ nguồn tín dụng thương mại. Nguồn vốn này không chỉ đáp ứng nhu cầu của đơn vị về kinh phí mà còn tạo mối quan hệ hợp tác lâu dài với ban hàng. Trong ba năm (2000-2002), các khoản phải thu và các khoản phải trả của Trung tâm đều tăng lên nhưng các khoản phải trả và khoản mục người mua trả tiền trước có tốc độ tăng lớn hơn rất nhiều. Có thể nói, Trung tâm đã khéo léo trong việc quản lý các nguồn thu nhằm tạo hiệu quả tốt nhất cho hoạt động của mình mà vẫn tuân theo các quy định của Nhà nước cũng như của Tổng công ty. 2.2.2. Quản lý chi Các khoản chi của Trung tâm gồm: - Chi cho cán bộ, công chức, viên chức và lao động hợp đồng: chi tiền công, tiền lương, tiền thưởng, phụ cấp lương, phúc lợi tập thể, các khoản đóng góp trích nộp bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn theo chế độ hiện hành. - Chi quản lý hành chính: chi tiền điện, nước, nhiên liệu xăng dầu, vệ sinh môi trường, mua vật tư văn phòng, dịch vụ công cộng thông tin liên lạc, tuyên truyền, công tác phí, hội nghị phí, cước phí điện thoại, Fax - Chi nghiệp vụ chuyên môn trực tiếp cho hoạt động của đơn vị theo chức năng, nhiệm vụ được giao. - Chi nghiên cứu khoa học và công nghệ thường xuyên theo chức năng của đơn vị. - Chi đào tạo tập huấn thường xuyên, nâng cao trình độ cho cán bộ, công chức trong đơn vị. - Chi thuê mướn: chi thuê phương tiện vận chuyển, thuê nhà, đất, thiết bị các loại, thuê chuyên gia trong và ngoài nước, thuê lao động, thuê mướn khác. - Chi mua sắm sửa chữa thường xuyên: chi mua sắm dụng cụ thay thế, sửa chữa thường xuyên tài sản cố định phục vụ công tác chyuên môn và duy tu bảo dưỡng các công trình cơ sở hạ tầng. - Chi hợp tác quốc tế: đoàn ra, đoàn vào. - Chi thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước, cấp Bộ, ngành; chương trình mục tiêu quốc gia; chi thực hiện nhiệm vụ đặt hàng của Nhà nước; chi vốn đối ứng thực hiện các dự án nước ngoài theo quy định. - Chi đầu tư phát triển gồm: chi đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị, sửa chữa lớn tài sản cố định, chi thực hiện các dự án đầu tư theo quy định. - Chi thực hiện các nhiệm vụ đột xuất được cấp có thẩm quyền giao. Trung tâm đã xây dựng cho mình quy chế chi tiêu nội bộ, phù hợp với Quy chế tài chính của Tổng công ty và phù hợp với đặc điểm của bản thân đơn vị. Quy chế chi tiêu nội bộ được xây dựng hết sức khoa học, tại mỗi khoản mục chi đều có nội dung chi (được phép chi trong trường hợp nào), các chứng từ được thanh toán, đồng thời nêu rõ quy trình thanh toán. Điều này đảm bảo tính chính xác của các khoản chi, đảm bảo thanh toán kịp thời và chính xác cho các hoạt động của đơn vị. Bên cạnh đó còn tạo điều kiện cho công tác kiểm tra, kiểm soát đối với công tác tài chính của đơn vị. Tại đơn vị, công tác quản lý chi được thực hiện theo tháng. Hàng tháng, các cán bộ kế toán tại Trung tâm đều lập báo cáo về tính hình chi tiêu của đơn vị và so sánh với kế hoạch được giao. Đây là công việc rất khoa học, đánh giá được tính chính xác của kế hoạch so với dự kiến để có thể có kế hoạch bổ sung nguồn vốn kịp thời trong trường hợp chưa có nguồn thu bù đắp, đồng thời tham gia các hoạt động tài chính khi nguồn thu tại đơn vị tạm thời vượt quá nhu cầu chi tiêu tại cùng thời điểm. 2.2.3. Đánh giá công tác quản lý tài chính tại Trung tâm công nghệ thông tin 2.2.3.1. Những kết quả đã đạt được Thời gian 5 năm chỉ đủ để cho những đơn vị khác xây dựng những viên gạch đầu tiên, nhưng cũng trong thời gian đó, Trung tâm đã đạt được những thành tựu đáng kinh ngạc. Điều này là do công tác quản lý tại Trung tâm khá tốt. Thứ nhất, Trung tâm đã có những thành tựu rất lớn trong việc đa dạng hoá nguồn thu, đặc biêt đẩy nhanh nguồn thu từ hoạt động có thu của đơn vị, góp phần vào quá trình phát triển chung của Tổng công ty Bưu chính Viễn Thông và của cả đất nước. Thứ hai, Trung tâm đã sử dụng những nguồn thu hết sức hợp lý và tiết kiệm, đồng thời có hoạt động thanh tra, kiểm soát đều đặn theo tháng nên đã tránh được những sai sót về mặt tài chính. Nguyên nhân tạo nên những thành công về mặt tài chính cho Trung tâm trước hết phải kể đến đội ngũ cán bộ tài chính kế toán trong Trung tâm. Các cán bộ này của Trung tâm đều có bằng đại học và được đào tạo chính quy về chuyên ngành của mình. Đây là động lực đầu tiên để công tác của Trung tâm phát triển mạnh. Bên cạnh đó, công nghệ thông tin và đặc biệt là công nghệ phần mềm là ngành được Nhà nước tạo mọi điều kiện thuận lợi để khuyến khích phát triển ngành công nghiệp này. Nhận thức được vai trò và khả năng phát triển của các đơn vị sự nghiệp có thu, cơ chế chính sách của Nhà nước đối với các đơn vị này cũng co nhiều chuyển biến, tạo điều kiện cho đơn vị nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động. Điều này được cụ thể hoá bằng Nghị định số 22/2002/NĐ-CP của Chính phủ về cơ chế quản lý tài chính áp dụng cho các đơn vị sự nghiệp có thu. 2.2.3.2. Hạn chế Bên cạnh những thành công đã đạt được, công tác quản lý tài chính tại Trung tâm công nghệ thông tin vẫn còn có những khó khăn và vướng mắc chưa giải quyết được. * Quản lý thu - Nguồn thu của Trung tâm còn bị hạn chế, với nguồn kinh phí được cấp như hiện nay không thể toạ điều kiện cho Trung tâm mở rộng các hoạt động tương xứng với trình độ phát triển về khoa học và nhân lực của Trung tâm. Trong thời gian qua, Trung tâm đã có những nỗ lực trong việc mở rộng nguồn thu của đơn vị mình nhưng chủ yếu chỉ có nguồn do Tổng công ty cấp, phần còn lại là thu nhập từ các hoạt động có thu của đơn vị, nguồn do ngân sách Nhà nước cấp không đáng kể. Thu từ các hoạt động của đơn vị có tăng hàng năm nhưng vẫn chưa xứng đáng với tiềm năng của Trung tâm. Nguyên nhân lầ do đơn vị chưa Tổng công ty cho phép Trung tâm huy động vốn từ các nguồn khác. Trong khi đó, Trung tâm không được giữ lại các nguồn thu từ hoạt động chuyển giao công nghệ. - Việc sử dụng nguồn kinh phí nhiều khi còn lãng phí. Theo quy chế tài chính của Tổng công ty, kinh phí cho nhiệm vụ nào chỉ được chi dùng cho nhiệm vụ đó, không được dùng cho nhiệm vụ khác ngay cả khi kinh phí đó tạm thời chưa sử dụng tới. Đối với Trung tâm công nghệ thông tin, nguồn kinh phí hiện nay chỉ gói gọn theo các nhiệm vụ được giao (theo các đề tài, nhiệm vụ thường xuyên và đột xuất của Tổng công ty). So với nhu cầu thực tế để có thể có được các sản phẩm chuyên nghiệp, có độ khả dụng cao thì nguồn kinh phí này mới chỉ đáp ứng được phần nào. Việc này còn làm giảm khả năng phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị vì đơn vị hầu như không thể đầu tư chiều sâu về mặt công nghệ và con người do nguồn vốn chỉ gói gọn trong các hợp đồng cụ thể. Do không có nguồn quỹ nghiên cứu riêng nên kinh phí đầu tư thấp, Trung tâm khó có thể đầu tư vào các vấn đề lớn, dài hạn. * Quản lý chi - Công tác tính lương cho cán bộ công nhân viên còn nhiều bất cập. Hiện nay theo Nghị định số 10 quy định khống chế tối đa quỹ tiền lương để trả thu nhập cho người lao động không vượt quá 2,5 lần tiền lương cấp bậc, chức vụ theo quy định đối với đơn vị tự bảo đảm chi phí hoạt động thường xuyên, không quá 2 lần đối với đơn vị tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động thường xuyên. Tuy nhiên do đặc thù của Trung tâm là một đơn vị hoạt động trong ngành Bưu chính viễn thông, giờ làm việc không chỉ là 8 giờ một ngày mà tuỳ theo khối lượng công việc, các cán bộ công nhân viên ở đây thường xuyên phải làm thêm giờ. Vì vậy không thể tính lương cho công nhân theo cách mà Nhà nước tính được, như thế không thúc đẩy được nhân viên làm việc, hiệu quả công việc không cao. - Một vấn đề nữa là vấn đề giảm thuế thu nhập dành cho những người hoạt động trong lĩnh vực phần mềm. Hiện nay chỉ mới có Quyết định của chính phủ mà chưa có thông tư hướng dẫn về việc thực hiện các Quyết định này, gây khó khăn cho công tác tính lương của đơn vị. Nhà nước đã ban hành các quy định về định mức chi cho đơn vị xong Tổng công ty chưa xây dựng và ban hành định mức chi cho hoạt động sản xuất kinh doanh cho Trung tâm. * Ngoài ra, những khó khăn sau cũng gây cản trở trong công tác quản lý tài chính tại Trung tâm - Trung tâm gặp nhiều khó khăn trong việc áp dụng các hình thức quản lý và tổ chức nghiên cứu phát triển theo mô hình tiên tiến và hiệu quả do vướng các quy định và cơ chế quản lý, thực hiện đề tài nghiên cứu hiện hành. - Không có điều kiện quảng cáo, tiếp thị từ đó chiếm lĩnh thị trường, tăng cường sức cạnh tranh. - Sản phẩm sau giai đoạn nghiên cứu, phát triển đã được đưa ra triển khai trên thực tế mạng lưới nhưng do không có chức năng kinh doanh nên chỉ gói gọn trong các hợp đồng cụ thể, không phát huy được hiệu quả cao. - Không thể quy hoạch và quy chuẩn sản phẩm cũng như đội ngũ do thị trường còn nhỏ và rất không ổn định. - Lực lượng lao động có hạn do định biên chỉ được tính theo các nhiệm vụ được Tổng công ty- Học viện giao và cơ chế để có thể thu hút, khuyến khích cán bộ nghiên cứu chuyên sâu còn gặp nhiều khó khăn. - Khó khăn trong việc tìm kiếm và triển khai với các đối tác hợp tác chuyển giao công nghệ, nhất là đối tác nước ngoài do không có chức năng và không được ký hợp đồng chuyển giao công nghệ trực tiếp. Chương 3 Giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường quản lý tài chính tại Trung tâm công nghệ thông tin 3.1. Định hướng phát triển của Trung tâm công nghệ thông tin trong thời gian tới 3.1.1. Chủ trương phát triển và đầu tư cho phát triển công nghệ thông tin ở Việt nam Xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của thời kỳ đẩy mạnh Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá, thực hiện thắng lợi mục tiêu đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm 2020, Đảng và Nhà nước ta chủ trương phát triển mạnh mẽ công nghệ thông tin nhằm thúc đẩy công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và hiện đại hoá các ngành kinh tế, tăng cường năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp; giải phóng mạnh mẽ sức mạnh vật chất, trí tuệ và tinh thần của toàn dân tộc; hỗ trợ có hiệu quả quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; nâng cao cuộc sống của người dân; đảm bảo an ninh quốc phòng; tạo khả năng đi tắt đón đầu trong quá trình Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá Đến năm 2010 mục tiêu của Đảng và Nhà nước đặt ra cho ngành công nghệ thông tin là: công nghệ thông tin đựoc ứng dụng rộng rãi trong mọi lĩnh vực, trở thành một trong những yếu tố quan trọng nhất của sự phát triển kinh tế – xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng; phát triển mạng thông tin quốc gia phủ trên cả nước, với thông lượng lớn, tốc độ và chất lượng cao, giá rẻ; tỷ lệ người dùng Internet đạt mức trung bình trên thế giới. Công nghiệp thông tin trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, có tốc độ và chất lượng cao nhất so với các khu vực khác, có tỷ lệ đóng góp cho tăng trưởng GDP của cả nước ngày càng tăng. 3.1.2 Chiến lược phát triển công nghệ thông tin trong Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam Mục tiêu của Tổng công ty: Phát triển công nghiệp Bưu chính Viễn thông công nghệ cao theo hướng liên kết công nghệ điện tử – tin học – viễn thông – phát thanh – truyền hình. Đổi mới sắp xếp lại cơ cấu tổ chức theo hướng chuyên môn hoá cao, liên kết chặt chẽ giữa các cơ sở công nghiệp nhằm tạo ra các sản phẩm chất lượng cao với trình độ công nghệ tiên tiến. Đẩy mạnh tiếp nhận, chuyển giao công nghệ, đặc biệt là công nghệ phần mềm, phấn đầu đạt tới mục tiêu làm chủ công nghệ, đáp ứng được nhu cầu phục vụ sản xuất trong nước thay thế dần các thiết bị nhập khẩu tiến tới xuất khẩu các sản phẩm ra nước ngoài. Đẩy mạnh phát triển công nghiệp phần mềm, đảm bảo công nghiệp phần mềm phải đựoc coi là một lĩnh vực quan trọng trong công nghiệp Bưu chính Viễn thông để công nghiệp phần mềm không những đáp ứng được nhu cầu tổ chức quản lý có hiệu quả cơ sở hạ tầng thông tin quốc gia và trở thành nguồn doanh thu chính của công nghiệp Bưu chính Viễn thông nói riêng cũng như của sản xuất kinh doanh Bưu chính Viễn thông nói chung. 3.1.3. Định hướng phát triển của Trung tâm Công nghệ thông tin Để từng bước đạt được các mục tiêu đề ra như mong đợi của Tổng công ty và Học viện, Trung tâm công nghệ thông tin đã xây dựng cho mình một định hướng chiến lược phát triển đúng đắn, phát huy tối đa những điểm mạnh, sử dụng và khai thác triệt để những cơ hội, hạn chế tối đa những điểm không thuận lợi và khắc phục dần những hạn chế. Điều này được thể hiện ở các vấn đề then chốt như: - Phấn đấu trở thành đơn vị xuất khẩu phần mềm hàng đầu ở Việt nam. Ngoài các dự án và nhiệm vụ mà Tổng công ty giao, Trung tâm đặt mục tiêu đạt doanh thu từ các hợp đồng chuyển giao công nghệ khoảng 75 tỷ đồng (năm 2004) và tiếp tục tăng trưởng trong các năm tiếp theo. - Trung tâm cũng tiến hành biên soạn các bộ giáo trình đào tạo cấp chứng chỉ quốc tế mà Tổng công ty giao, phục vụ cho nhu cầu học tập và phát triển ngày càng cao của ngành Công nghệ thông tin. Phát triển cơ sở đào tạo cấp chứng chỉ quốc tế không chỉ tại Trung tâm mà còn tiến tới hỗ trợ Trung tâm Đào tạo Bưu chính Viễn thông II trong lĩnh vực này, đồng thời tham gia giảng dạy tại các khoa của Học viện Bưu chính – Viễn thông. - Tiếp tục mở rộng hợp tác với các hãng phần mềm lớn trên thế giới, một mặt để tận dụng ngoại lực cho sự phát triển, một mặt từng bước mở rộng thị trường ra các nước trong khu vực và trên thế giới. - Lấy trọng tâm là công tác xây dựng và phát triển đội ngũ, đặc biệt là công tác đào tạo và tự đào tạo của từng cán bộ trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực lâu dài, nhằm xây dựng được một đội ngũ giỏi về chuyên môn, nhiệt tình và hăng say trong công việc với tinh thần đoàn kết nhất trí cao trong triển khai thực hiện các kế hoạch của Trung tâm. - Quy hoạch và xây dựng được hướng nghiên cứu và phát triển của Trung tâm dựa trên tinh thần: các kế hoạch nghiên cứu phát triển sản phẩm ngắn hạn và trung hạn đều nhằm vào mục tiêu và phục vụ cho định hướng Nghiên cứu và phát triển dài hạn. - Xây dựng, duy trì và hoàn thiện một môi trường và phong cách làm việc công nghiệp, tuân thủ theo các tiêu chuẩn phát triển phần mềm tiên tiến cũng như yêu cầu về chất lượng sản phẩm dịch vụ. Luôn đặt vấn đề chất lượng và uy tín lên hàng đầu và là một tiêu chí nhất quán trong tất cả các công đoạn nghiên cứu và phát triển sản phẩm. - Trực tiếp đưa các kết quả nghiên cứu vào sản xuất kinh doanh phục vụ các yêu cầu của Ngành và toàn xã hội. - Thông qua công việc, nâng cao trình độ và cải thiện dần đời sống của cán bộ công nhân viên, cân bằng thu – chi và đảm bảo tăng dần sự tích luỹ mọi mặt cho định hướng phát triển lâu dài của Trung tâm. Để có thể đáp ứng được nhu cầu phát triển của Trung tâm theo định hướng này, trong thời gian tới cần thiết phải có sự tăng cường trong công tác quản lý tài chính của Trung tâm 3.2. Giải pháp tăng cường quản lý tài chính tại Trung tâm công nghệ thông tin Sau hơn năm năm hoạt động trong khuôn khổ đơn vị sự nghiệp có thu với các chức năng chính là nghiên cứu khoa học và đào tạo, Trung tâm Công nghệ thông tin đã sáng tạo trong việc thực hiện gắn kết ba nhiệm vụ: nghiên cứu khoa học, đào tạo và sản xuất kinh doanh. Song do chưa có chức năng kinh doanh nên hoạt động của Trung tâm chưa mang lại hiệu quả kinh tế – xã hội tương xứng với tiềm năng hiện có của Trung tâm Công nghệ thông tin. Để từng bước tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong viẹc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ mà Tổng công ty và Học viện giao nhất là trong lĩnh vực Công nghệ thông tin – lĩnh vực phát triển hết sức nhanh, cạnh tranh quyết liệt, khoảng cách giữa nghiên cứu và ứng dụng hầu như không có, cần có một số biện pháp nhằm tăng cường công tác quản lý tài chính tại Trung tâm 3.2.1.Tăng cường đội ngũ cán bộ tài chính kế toán Hiện nay đội ngũ kế toán tại Trung tâm gồm 5 cán bộ công nhân viên chia thành ba tổ: tổ kế toán sự nghiệp phụ trách việc quản lý các nguồn thu sự nghiệp và chi sự nghiệp, tổ kế toán kinh doanh chuyên quản lý các nghiệp vụ liên quan tới hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị và tổ kế toán thanh toán. Với số lượng cán bộ ít, phải thực hiện khối lượng công việc rất lớn, nên hiệu quả của công việc nhiều khi chưa cao. Vì vậy, cần bổ sung kịp thời những cán bộ tài chính có trình độ chuyên môn nghiệp vụ để đảm bảo sự hoạt động trôi chảy trong công tác tài chính. Bên cạnh đó, Trung tâm cũng nên thường xuyên cho các nhân viên đi tập huấn nghiệp vụ để nâng cao chuyên môn, đáp ứng mức độ ngày càng phức tạp của công việc. Trong tương lai, để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao, đặc biệt khi đơn vị dần tiến tới tự chủ về mặt tài chính thì việc đào tạo các cán bộ tài chính có chuyên môn giỏi là hết sức cần thiết. Khi được tự chủ về tài chính, đơn vị không khác với các doanh nghiệp thông thường, vì vậy môi trường cạnh tranh sẽ khốc liệt hơn đòi hỏi các cán bộ tài chính phải thật sự giỏi về chuyên môn và có tinh thần trách nhiệm cao. 3.2.2.Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát đối với các hoạt động tài chính của đơn vị Hiện nay, hàng tháng, các cán bộ tài chính ở đây đều tiến hành công tác báo cáo tình hình thực hiện thu chi để làm cơ sở xác định mức hoàn thành kế hoạch. Tuy nhiên, công tác này chủ yếu do chính các cán bộ kế toán đảm nhiệm nên chưa có sự khách quan trong công tác kiểm tra. Với một đơn vị có số lượng nhân viên vào khoảng gần 200 người thì không nên tổ chức một bộ phận kiểm tra riêng mà chỉ cần một cán bộ chuyên trách chức năng này. Điều này không chỉ làm tăng tính khách quan trong các hoạt động kiểm tra quản lý tài chính của đơn vị mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan chức năng liên hệ kiểm tra, thanh tra đối với đơn vị. 3.3. Kiến nghị nhằm tăng cường quản lý tài chính tại Trung tâm công nghệ thông tin: 3.3.1. Kiến nghị đối với Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam Là đơn vị chủ quản của Trung tâm công nghệ thông tin, các quy chế tài chính của Tổng công ty có ảnh hưởng rất lớn tới sự hoạt động của Trung tâm. Hiện nay, Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt nam là đơn vị thuộc Bộ Bưu chính Viễn thông, trong khi đó Bộ chưa tiến hành giao quyền tự chủ cho các đơn vị sự nghiệp có thu một cách đầy đủ theo Nghị định số 10/2002/NĐ-CP. Chính vì vậy, Tổng công ty cũng không có khái niệm giao quyền tự chủ về tài chính đối với đơn vị sự nghiệp có thu trong Tổng công ty. Điều này gây khó khăn cho hoạt động của doanh nghiệp, tạo nên sự bất bình đẳng giữa Trung tâm với các doanh nghiệp khác hoạt động cùng ngành nghề. Để Trung tâm được tự chủ về mặt tài chính, Tổng công ty nên có văn bản hướng dẫn về việc thực hiện Nghị định số 10/2002/NĐ-CP, làm cơ sở cho các hoạt động tài chính của đơn vị sự nghiệp thành viên. 3.3.1.1. Kiến nghị nhằm tăng nguồn thu cho Trung tâm Hiện nay, Trung tâm không có chức năng kinh doanh trong lĩnh vực Viễn thông và Công nghệ thông tin. Điều này gây khó khăn cho đơn vị trong việc tiến hành các hoạt động giới thiệu, xúc tiến sản phẩm, quảng cáo tiếp thị, tìm kiếm đối tác, ký kết hợp đồngNhư vậy để hoạt động dịch vụ có thu của Trung tâm được bình đẳng như các doanh nghiệp khác, từng bước phát huy tiềm năng có sẵn của Trung tâm thì việc cấp chức năng kinh doanh cho Trung tâm là hết sức cần thiết. Điều này cũng từng bước tạo tiền đề cho việc làm quen dần với với việc tự chủ tài chính trong đơn vị, tiến tới giao toàn quyền tự chủ về mặt tài chính cho đơn vị. Có thêm chức năng kinh doanh, Trung tâm sẽ mở rộng hoạt động có thu của mình, tăng thêm nguồn thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị, thực hiện tốt hơn các nhiệm vụ được giao, giảm sự lệ thuộc và kinh phí do Tổng công ty cấp. Ngoài ra, Tổng công ty nên cho phép Trung tâm được sử dụng nguồn kinh phí sự nghiệp tạm thời nhàn rỗi để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị trên cơ sở đảm bảo tốt các nhiệm vụ được giao. Thực tế hiện nay là nguồn kinh phí Tổng công ty cấp cho đơn vị được cấp một lần cho tất cả các nhiệm vụ thực hiện trong năm. Vì vậy có thời điểm, Trung tâm có dư thừa rất nhiều vốn nhàn rỗi tại Ngân hàng và tại quỹ tiền mặt của đơn vị. Trong khi đó, có những hoạt động có thu của đơn vị lại rất khó khăn trong việc huy động vốn nên hiệu quả không cao Tiếp đó, để Trung tâm có thể chủ động hơn trong việc triển khai các hoạt động nghiên cứu đón đầu và chuyển giao công nghệ gắn kết sản xuất và nghiên cứu, Tổng công ty cấp vốn cho Trung tâm hoặc cho Trung tâm vay vốn theo lãi suất ưu đãi. Số vốn cần thiết là khoảng 5 tỷ đồng. Với khả năng của mình, Trung tâm chắc chắn sẽ bảo toàn được nguồn vốn và không ngừng phát triển số vốn được cấp. Trung tâm cũng có thể hoàn trả lại cho Tổng công ty khi Tổng công ty cần huy động. Định kỳ vào cuối mỗi năm tài chính, Trung tâm sẽ báo cáo Học viện và Tổng công ty về tình hình sử dụng và bảo toàn và phát triển nguồn vốn được cấp. - Tổng công ty cũng nên cho phép Trung tâm được chủ động sử dụng nguồn thu từ hoạt động chuyển giao công nghệ, gắn kết nghiên cứu với sản xuất kinh doanh của Trung tâm để thực hiện các hoạt động giới thiệu, xúc tiến sản phẩm, kinh doanh tiếp thị, tìm kiếm thị trường, tìm kiếm các đối tác cũng như khách hàng chuyển giao công nghệ. Đồng thời cho phép Trung tâm được chủ động sử dụng nguồn vốn tự có (được cấp hoặc bổ sung từ lợi nhuận, sử dụng các quỹ, nguồn vốn tái đầu tư từ quỹ khấu hao) và nguồn vay tự huy động để đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm trang thiết bị, phương tiện vận tải, công cụ đồ ding làm việc phục vụ cho hoạt động kinh doanh của Trung tâm. 3.3.1.2. Kiến nghị nhằm tăng cường quản lý chi Tổng công ty cũng nên có những văn bản hướng dẫn cho đơn vị thực hiện các chính sách ưu đãi của Chính phủ đối với các doanh nghiệp sản xuất phần mềm theo Quyết định số 128/QĐ-TTg ngày 20/11/2000 của Thủ tướng Chính phủ. Công nghệ thông tin được Nhà nước coi là một trong những ngành mũi nhọn để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, vì vậy Nhà nước luôn có những chính sách ưu đãi đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này, đặc biệt trong lĩnh vực phát triển phần mềm. Việc ưu đãi được thực hiện trong các ưu đãi về chính sách thuế (thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, thuế nhập khẩu, thuế xuất khẩu, thuế giá trị gia tăng), ưu đãi về chính sách đầu tư, về sử dụng đất và thuê đất, về đào tạo nguồn nhân lực, hạ tầng viễn thông, chính sách bảo hộ và tín dụng và những chính sách nhằm bảo hộ quyền tác giả đối với các sản phẩm phần mềm. Bên cạnh đó, Tổng công ty cần tổ chức nghiên cứu xây dựng và ban hành định mức chi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Trung tâm. Về cơ chế đầu tư, Tổng công ty cấn cho phép đơn vị được chủ động đầu tư ra bên ngoài Trung tâm để liên doanh, liên kết, hợp tác kinh doanh, góp vốn cổ phần và tham gia quản lý điều hành các doanh nghiệp khác mà Trung tâm góp vốn. Cụ thể như: đối với các nguồn lực của Nhà nước cho Tổng công ty giao, Trung tâm được quyền đề xuất lựa chọn đối tác trong và ngoài nước, xây dựng phương án liên doanh, liên kết trình Tổng công ty xem xét và tổ chức thực hiện sau khi được phê duyệt trên cơ sở Quy chế tài chính của Tổng công ty. Đối với các nguồn lực khác, Trung tâm được chủ động quyết định đầu tư ra bên ngoài để góp vốn, liên doanh, liên kết - Tạo điều kiện cho Trung tâm được chủ động lựa chọn thị trường, được kí kết hợp đồng kinh tế trực tiếp với các đối tác nước ngoài để nhập khẩu vật tư, thiết bị hàng hoá và xuất khẩu các sản phẩm dịch vụ của Trung tâm theo Nghị định số 57/NĐ-CP của Chính phủ về hoạt động xuất nhập khẩu, gia công và đại lý, mua bán hàng hoá với nước ngoài. - Cho phép Trung tâm được tự quyết định giá mua, giá bán sản phẩm và dịch vụ do Trung tâm tạo ra trừ những sản phẩm và dịch vụ do Nhà nước định giá. 3.3.2.Kiến nghị đối với Nhà nước Trong những năm vừa qua, Nhà nước đã có nhiều chính sách khuyến khích sự tự chủ về mặt tài chính cho các đơn vị sự nghiệp có thu. Điều này đã được cụ thể hoá bằng Nghị định số 10/2002/NĐ-CP về chế độ tài chính đối với đơn vị sự nghiệp có thu. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện Nghị định này cũng đã nảy sinh một số hạn chế mà chúng ta đã xem xét qua tình hình hoạt động của Trung tâm Công nghệ thông tin. Để cho hoạt động tài chính của Trung tâm nói riêng và của hệ thống các đơn vị sự nghiệp có thu nói chung được hoàn thiện hơn, đảm bảo tự chủ và giảm bớt gánh nặng cho Ngân sách Nhà nước. 3.3.2.1. Thực hiện thống nhất nhận thức về việc thực hiện Nghị định 10/2002/NĐ-CP Nhà nước cần thống nhất về nhận thức đối với các Bộ, ngành về việc giao quyền tự chủ cho các đơn vị sự nghiệp có thu theo tinh thần của Nghị định số 10/2002-NĐ-CP. Hiện nay, sau hơn gần 2 năm thực hiện Nghị định này, mới chỉ có 30 trong tổng số 48 Bộ, cơ quan trung ương thực hiện phân loại và giao quyền tực chủ tài chính cho gần 57% số đơn vị sự nghiệp có thu. Có thể nói, các Bộ, ngành, địa phương chưa có nhận thức đầy đủ về ý nghĩa và mục đích của việc giao quyền tự chủ cho các đơn vị sự nghiệp có thu. Đổi mới cơ chế quản lý đối với các đơn vị này phù hợp với tính chất và đặc điểm hoạt động là hết sức cần thiết và cấp bách nhằm nâng cao thẩm quyền và trách nhiệm của thủ trưởng đơn vị trong việc quản lý biên chế, tổ chức công việc và đặc biệt là công tác quản lý tài chính. Từ đó tạo môi trường và động lực khuyến khích các đơn vị và người lao động phát huy hết tài năng, trí tuệ của mình cung cấp các dịch vụ công ngày càng tốt hơn cho xã hội. Để thực hiện được điều này, Nhà nước cần thực hiện đồng thời các biện pháp như: - Xây dựng những văn bản cụ thể quy định thời hạn giao quyền tự chủ cho các đơn vị sự nghiệp có thu tại các Bộ, ngành chưa thực hiện. Tại mỗi Bộ, ngành, địa phương cần thành lập một Ban chỉ đạo thực hiện Nghị định số 10/2002/NĐ-CP. - Tổ chức những buổi họp hội thảo, giới thiệu những đơn vị đã chuyển đổi thành công sang chế độ tự chủ tài chính để các đơn vị khác học tập và thấy được việc thực hiện Nghị định số 10/2002/NĐ-CP không làm giảm hoạt động của đơn vị, không làm giảm nguồn chi của Ngân sách cho lĩnh vực này mà sẽ tạo sự bình đẳng và phát triển cho tất cả các đơn vị. - Định kỳ tổ chức thực hiện công tác sơ kết, đúc rút kinh nghiệm để chỉ đạo triển khai có hiệu quả, chất lượng, đảm bảo việc giao quyền tự chủ được tiến hành thực sự, không phải bệnh hính thức 3.3.2.2. Tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách quản lý tài chính tại đơn vị sự nghiệp có thu Như chúng ta đã biết, cơ chế quản lý tài chính đối với đơn vị sự nghiệp có thu có vai trò hết sức to lớn, ảnh hưởng công tác quản lý tài chính tại các đơn vị này. Vì vậy, việc tiếp tục đổi mới chính sác quản lý tài chính đối với các đơn vị này là hết sức cần thiết. - Nghị định 10 quy định khống chế tối đa quỹ tiền lương để trả cho thu nhập của người lao động không vượt quá 2,5 lần tiền lương cấp bậc, chức vụ theo quy định hiện hành đối với đơn vị tự bảo đảm chi phí hoạt động thường xuyên và không quá 2 lần đối với đơn vị đảm bảo một phần chi phí. Trên thực tế có nhiều đơn vị có khả năng trả cao hơn mức khống chế trên, hoặc do đặc thù ngành nghề hoạt động (lĩnh vực Công nghệ thông tin, cán bộ công nhân viên thường làm quá 8 tiếng một ngày) nên việc khống chế quỹ tiền lương sẽ không khuyến khích cán bộ công nhân viên làm việc, không khuyến khích đơn vị tăng thu. Để giải quyết vấn đề này có hai biện pháp: + Thứ nhất, nâng mức không chế tối đa quỹ tiền lương cao hơn mức hiện hành. Đơn vị tự bảo đảm toàn bộ chi phí được nâng lên mức không quá 3,5 đến 4 lần. Còn đơn vị bảo đảm một phần chi phí hoạt động thường xuyên được nâng lên không quá 2,5 đến 3 lần. Phương án này vừa tạo điều kiện hơn cho đơn vị trong việc quản lý tiền lương, vừa tạo sự cân bằng tương đối về thu nhập giữa đơn vị có nguồn thu cao với đơn vị có nguồn thu thấp. Tuy nhiên biện pháp này cũng có hạn chế là các đơn vị sự nghiệp có thu chưa thực sự tự chủ trong công tác quản lý quỹ lương. + Thứ hai, không không chế tối đa quỹ tiền lương để khuyến khích đơn vị tăng thu, tự chủ trong việc trả lương cho người lao động phù hợp với công việc và hoàn cảnh của từng đơn vị. Biện pháp này có nhược điểm là tạo nên sự chênh lệch lớn về thu nhập giữa các đơn vị. - Thống nhất hệ thống văn bản pháp luật để tạo điều kiện dễ dàng cho các đơn vị trong việc thực hiện Nghị định số 10/2002/NĐ-CP quy định khi Nhà nước thay đổi chế độ tiền lương, nâng mức lương tối thiểu thì đơn vị có thu tự trang trải phần tiền lương tăng thêm, ngân sách Nhà nước không bổ sung. Tuy nhiên theo Nghị quyết số 03 của Chính phủ về giải quyết nguồn tiền lương thì sau khi đã sử dụng phần kinh phí đơn vị tự thu, kinh phí tiết kiệm được theo quy định nếu còn thiếu sẽ được Ngân sách Nhà nước cấp bổ sung cho đủ mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định. Để thống nhất giữa các văn bản của Chính phủ đồng thời giúp các đơn vị giải quyết kinh phí khi Nhà nước thay đổi chế độ tiền lương, Nhà nước nên sửa đổi Nghị định số 10 theo tinh thần của Nghị quyết 03. - Bổ sung quy định đơn vị được tham gia đấu thầu Để đảm bảo cho hoạt động sản xuất của đơn vị, Nhà nước cần bổ sung thêm quy định về tham gia đấu thầu của đơn vị sự nghiệp có thu. Nghị định số 10 có quy định đơn vị được tham gia các hoạt động dịch vụ với cơ quan ở bên ngoài nhưng trên thực tế việc này hầu như rất khó thực hiện vì các đơn vị sự nghiệp có thu không được cấp giấy phép đăng kí kinh doanh. Trong khi đó, theo quy chế đấu thầu, đơn vị phải có giấy phép kinh doanh về lĩnh vực cung ứng dịch vụ mới được tham gia đấu thầu. Việc không được tham gia đấu thầu trong khi tiềm lực có thể là một trở ngại lớn trong việc mở rộng các hoạt động có thu của đơn vị. Để tạo điều kiện cho các đơn vị sự nghiệp có thu tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh bình đẳng với các loại hình kinh tế khác, Nhà nước cần cho phép các đơn vị sự nghiệp có thu có chức năng nhiệm vụ được cơ quan chủ quản quy định thì được tham gia đấu thầu những gói thầu không hạn chế số vốn tham gia. - Yêu cầu các ngân hàng thương mại cho các đơn vị sự nghiệp có thu vay theo chế độ ưu đãi để giảm gánh nặng cho Ngân sách Nhà nước. Hiện nay, Nhà nước quy định các đơn vị sự nghiệp có thu được quyền vay các ngân hàng thương mại và cũng có quyết định gửi tới các Ngân hàng thương mại về vấn đề này. Tuy nhiên, các đơn vị sự nghiệp có thu là các đơn vị cung ứng các dịch vụ xã hộ và thu một khoản phí hợp lý không vì mục tiêu lợi nhuận, vì vậy các đơn vị này không thể chịu nổi lãi suất tại các ngân hàng vì đây là lãi suất thương mại. Chính vì thế, Nhà nước cần có biện pháp yêu cầu các ngân hàng cho các đơn vị này vay vốn theo lãi suất ưu đãi. Đặc biệt, Nhà nước đã có quy định các đơn vị sản xuất phần mềm có thể được vay vốn từ Quỹ hỗ trợ phát triển. Để tạo điều kiện cho các đơn vị sự nghiệp có thu hoạt động trong lĩnh vực phần mềm như Trung tâm Công nghệ thông tin tiếp cận với nguồn vốn này, Nhà nước cần có những quy định cụ thể về việc vay vốn cho loại hình này. Kết luận Công nghệ thông tin là một trong những lĩnh vực then chốt thúc đẩy sự phát triển và là thước đo sự phát triển của mỗi quốc gia. Với sự phát triển được tính bằng giờ, bằng phút, công nghệ thông tin đã và đang tạo ra sức mạnh to lớn cho những quốc gia nào biết nắm chắc và sử dụng nó. ở Việt nam, phát triển công nghệ thông tin là một chính sách đúng đắn của Nhà nước và đó sẽ là tiền đề để đất nước ta thực hiện thành công quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Khi xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu của người dân càng tăng cao thì các dịch vụ công cộng của Nhà nước lại càng cần phải phát triển để thoả mãn các nhu cầu đó. Chính vì thế, việc thúc đẩy sự phát triển của các đơn vị sự nghiệp nhà nước cũng là một trong những mối quan tâm hàng đầu của Nhà nước và toàn xã hội. Là một đơn vị sự nghiệp có thu hoạt động trong lĩnh vực công nghệ thông tin, Trung tâm Công nghệ thông tin có những lợi thế hết sức to lớn để phát triển. Với sự tồn tại của một đơn vị, năm năm chưa thể coi là một thời gian dài để kiểm nghiệm thành công song với những gì mà Trung tâm đã làm được, có thể khẳng định chắc chắn một điều Trung tâm đang có những thành công đáng kể, góp phần phát triển ngành công nghệ thông tin nói riêng và cho toàn nền kinh tế nói chung. Trong quá trình phát triển, Trung tâm cũng có những thuận lợi và khó khăn. Thuận lợi lớn nhất là Trung tâm luôn nhận được sự quan tâm của lãnh đạo Đảng và Nhà nước cũng như của Tổng công ty. Tuy nhiên để có thể chiếm lĩnh được thị trường và phát triển hơn nữa trong tương lai, Trung tâm cần hết sức quan tâm đẩy mạnh công tác quản lý tài chính. Qua thời gian thực tập và tìm hiểu tại Trung tâm, em đã hoàn thành đề tài: “Tăng cường công tác quản lý tài chính tại Trung tâm công nghệ thông tin”. Chuyên đề đã thực hiện được các nhiệm vụ: - Nghiên cứu các lý luận chung về công tác quản lý tài chính tại đơn vị sự nghiệp có thu. - Phân tích thực trạng quản lý tài chính tại Trung tâm công nghệ thông tin trên các giác độ: quản lý thu và quản lý chi. Từ đó rút ra những kết quả Trung tâm đã đạt được trong công tác quản lý tài chính và những hạn chế cần khắc phục trong công tác này để thúc đẩy sự phát triển của đơn vị. - Trên cơ sở lý thuyết đã nghiên cứu và thực trạng phân tích, đề ra những biện pháp và kiến nghị đối với Tổng công ty Bưu chính Viễn thông và Nhà nước để tăng cường công tác quản lý tài chính tại Trung tâm. Danh mục tài liệu tham khảo Nghị định số 10/2002/NĐ-CP ngày 16/01/2002 về chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu. Thông tư số 25/2002/TT-BTC ngày 21/03/2002 hướng dẫn thực hiện Nghị định số 10/2002/NĐ-CP ngày 16/01/2002 của Chính phủ về chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu. Thông tư liên tịch Bộ Tài chính – Bộ Khoa học & Công nghệ – Bộ Nội vụ số 22/2003/TTLT/BTC-BKH&CN-BNV ngày 24/03/2003 hướng dẫn cơ chế quản lý tài chính đối với các tổ chức khoa học và công nghệ công lập hoạt động có thu. Quyết định số 08/2004/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với các cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công giai đoạn 2004 – 2005. TS. Nguyễn Ngọc Hùng, 2003, Hướng dẫn thực hành kế toán đơn vị sự nghiệp có thu, NXB Thống kê. Quyết định số 128/2000/QĐ-TTCP về một số chính sách và biện pháp khuyến khích đầu tư và phát triển công nghiệp phần mềm. www.vie-publique.fr www.tintucvietnam.com www.vir.com.vn Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNH411.doc
Tài liệu liên quan