Chuyên đề Tăng cường huy động vốn tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Bình Lục - Hà Nam

Đầu tiên, như đã đề cập ở trên, trong năm vừa qua nền kinh tế có nhiều biến động lớn gây ảnh hưởng đến các hoạt động của các NHTM, nhất là hoạt động huy động vốn. Do đó, chính phủ và các bộ ngành liên quan cần nỗ lực hơn nữa trong việc ổn định nền kinh tế, đẩy lùi lạm phát, ổn định giá trị nội tệ. Khi tiền tệ ổn định, người dân sẽ yên tâm gửi tiền vào ngân hàng nhiều hơn, hoạt động huy động vốn cũng như các hoạt động khác của ngân hàng cũng sẽ phát triển một cách dễ dàng hơn. Thứ hai, do tình hình kinh tế xã hội phát triển nhanh chóng, nhiều quan hệ xã hội mới phát sinh trong nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải được điều chỉnh bằng pháp luật. Tuy vậy, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan mà hệ thống pháp luật nước ta chưa thật sự đồng bộ, chưa thực sự là chỗ dựa pháp lý cho các nhà kinh doanh, nhất là trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, một lĩnh vực có tốc độ phát triển mạnh mẽ. Do đó, xin kiến nghị với Chính phủ và các bộ nghành có liên quan cần có những biện pháp thiết thực nhằm đảm bảo pháp luật được thực hiện một cách đúng đắn, nhất quán và triệt để, bảo vệ quyền lợi của ngân hàng và khách hàng. Do tính chất đặc thù của lĩnh vực ngân hàng là kinh doanh tiền tệ, chính phủ cần tăng cường hơn nữa pháp chế trên lĩnh vực này để đáp ứng kịp thời yêu cầu mới của sự phát triển kinh tế trong thời kỳ công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước, hội nhập kinh tế thế giới. Chính phủ cần ban hành kịp thời những văn bản pháp luật quy định và hướng dẫn thi hành những điều luật mới phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội trong nước và quốc tế. Thứ ba, có thể nhận thấy, các kênh huy động vốn của Việt Nam vẫn chưa thực sự phát triển, chưa thực sự là kênh cung cấp nguồn vốn huy động cho các NHTM. Thị trường chứng khoán tuy có sư phát triển mạnh mẽ nhưng chưa đi vào ổn định, thời gian gần đây còn lâm vào tình trạng suy thoái, chưa hình thành thị trường trái phiếu chuyên việt, chưa tạo điều kiện cho các NHTM có thể phát hành các giấy tờ có giá một cách thuận lợi và hiệu quả. Chính vì vậy, Chính phú và các bộ ngành liên quan cần tăng cường hơn nữa trong việc phát triển thị trường vốn và thị trường tiền tệ, tổ chức, thành lập thị trường trái phiếu chuyên việt để các NHTM có thể thu hút được nhiều hơn nguồn vốn huy động. Thứ tư, việc Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO tạo điều kiện cho các NHTM có thể huy động được các nguồn vốn từ thị trường quốc tế. Do đó, chính phủ và các bộ ngành có liên quan cần tạo điều kiện thuận lơi cho các tổ chức tài chính cũng như các NHTM có cơ hội tiếp xúc với các nguồn vốn từ nước ngoài bằng cách thông thoáng hệ thống rào cản thương mại. khuyến khích các NHTM thu hút vốn ở thị trường quốc tế. Nếu mở rộng được kênh huy đông vốn này, không những các NHTM tìm được nguồn vốn huy động mà còn giúp nâng cao hình ảnh cũng như vị thế của Việt Nam trong con mắt bạn bè quốc tế.

doc70 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1508 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Tăng cường huy động vốn tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Bình Lục - Hà Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
huyện Bình Lục phấn đấu đạt các chỉ tiêu cơ bản theo thông báo KHKD năm 2007, Đề án phát triển kinh doanh giai đoạn 2005-2015 của NHNo Việt Nam phê duyệt và định hướng phát triển kinh doanh của NHNo huyện Bình Lục đề ra đó là: Một là: Tập trung huy động nguồn vốn, đặc biệt là nguồn vốn huy động từ dân cư, các TCKT, TCTC và tổ chức xã hội khác. Chú trọng huy động nguồn vốn trung và dài hạn cả nội và ngoại tệ. Hai là: Tập trung khai thác và mở rộng cho vay các thành phần kinh tế làm ăn có hiệu quả, dự án khả thi, tình hình tài chính lành mạnh, đáp ứng đầy đủ quy định về vay vốn chú trọng khai thác đầu tư đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa, các hộ sản xuất. Tiếp tục tìm mọi giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng, rà soát hoàn chỉnh hồ sơ 100% khách hàng đang còn dư nợ. Tập trung tìm mọi giải pháp thu hồi nợ đã xử lý rủi ro.. Ba là: Tập trung triển khai nâng cao chất lượng phục vụ các loại hình dịch vụ, sản phẩm dịch vụ toàn diện có hiệu quả, thị hiếu trong cơ chế thị trường. Bốn là: Tập trung triển khai toàn diện có hiệu quả, chất lượng cao công tác quảng cáo, quảng bá toàn diện kịp thời các mặt hoạt động nghiệp vụ ngân hàng, các loại hình dịch vụ, sản phẩm công nghệ hiện đại có hiệu quả, thị hiếu trong cơ chế thị trường nhằm nâng cao thương hiệu uy tín của NHNo huyện Bình Lục nói riêng và NHNo VN nói chung. Năm là: Tiếp tục xây dựng và thực hiện kế hoạch đào tạo, đào tạo lại toàn diện các mặt nghiệp vụ tín dụng, kế toán, thanh toán quốc tế.... đặc biệt là nâng cao trình độ ngoại ngữ, tin học, khai thác chương trình công nghệ hiện đại trong hoạt động kinh doanh ngân hàng nhằm đáp ứng tốt quy chuẩn cán bộ ngân hàng chuẩn bị hội nhập trong khu vực và quốc tế. Thực hiện đề án kinh doanh 2005-2015, chi nhánh đã lên kế hoạch phát triển chung trong năm 2009 như sau: - Tiếp tục giữ vững và phát huy kết quả kinh doanh trong năm 2008. - Tổng nguồn vốn tăng 10% - 15% so năm 2008. - Tổng dư nợ đạt tăng 10% - 15% so năm 2008. Trong đó, nợ từ nhóm 3 đến nhóm 5 : Từ 1,5% đến 2,5 % Tổng dư nợ. Bám sát chỉ tiêu kế hoạch tăng trưởng tín dụng, tiếp tục chuyển dịch cơ cấu đầu tư, nâng tỷ trọng cho vay ngắn hạn, chiếm tư 35% đến 40% tổng dư nợ. Trích và xử lý rủi ro số nợ còn tồn đọng đúng quy định của TW, hạn chế tới mức tối đa nợ tồn đọng phát sinh mới. Kiên quyết thu hồi các khoản nợ đến hạn cả gốc và lãi, nợ từ nhóm 2 đến nhóm 5. Tập trung thu hồi nợ đã xử lý rủi ro của các thành phần kinh tế, đặc biệt nợ của các đối tượng vay tiêu dùng đặc biệt cương quyết thu hồi phát mại tài sản thế chấp của khách hàng còn dư nợ. Mở rộng đầu tư quan hệ tín dụng đặc biệt là cho vay các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp nhỏ và vừa, các dự án đồng tài trợ khả thi, hạn chế rủi ro trong đầu tư tín dụng, từng bước nâng cao chất lượng, lành mạnh hoá chất lượng tín dụng. Thực hiện nghiêm túc QĐ 493 của NHNN. - Phấn đấu có đủ Quỹ thu nhập để chi lương tối đa theo thông báo và quy định của NHNo Việt nam. - Mở thêm và nâng cao chất lượng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng đưa tỷ lệ thu dịch vụ tăng 12% đến 15% so năm 2008. 2. Định hướng hoạt động huy động vốn Từ định hướng phát triển chung của ngân hàng cũng như xem xét, dự báo tình hình kinh tế trong năm 2009, Chi nhánh đã xây dựng các kế hoạch cụ thể cho hoạt động huy động vốn trong năm 2009 như sau: - Tổng nguồn vốn tăng 10% - 15% so năm 2008 tức là khoảng từ 40 tỷ đồng. Triển khai tiếp việc nâng cấp toàn diện các chi nhánh đặc biệt PGD có đủ điều kiện hoạt động các nghiệp vụ huy động vốn. - Mở rộng màng lưới huy động vốn có chọn lọc nhằm nâng kết cấu nguồn huy động dân cư chiếm từ 30 đến 35% tổng nguồn, tiếp thị vận động thêm nhiều khách hàng về mở tài khoản giao dịch và vay vốn tại Chi nhánh. - Tiếp tục thu hút các nguồn tiền gửi từ các TCKT, đảm bảo thực hiện khả năng thanh toán nhanh nhạy, chính xác. - Đa dạng hóa các sản phẩm tiền gửi, tổ chức các hoạt động khuyến mãi để thu hút khách hàng. - Phát triển thêm các dịch vụ đi kèm tiền gửi để thu hút nguồn vốn. - Triển khai ứng dụng tốt chương trình hiện đại hoá ngân hàng, tiếp tục nâng cấp và bổ sung các phần mềm mới trong giao dịch với khách hàng (IPCAS), chương trình gửi nhiều nơi rút nhiều nơi, phần mềm kết nối thanh toán, chương trình giao dịch qua mạng Internet, SMS, VNStopUp…, nhằm cung cấp dịch vụ tiện ích tốt nhất cho khách hàng, nâng cao khả năng cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh. 3. Giải pháp tăng cường huy động vốn tại Chi nhánh NHNN&PTNN Bình Lục Hoạt động huy động vốn là một trong những hoạt động chính và có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự sống còn cũng như phát triển của các NHTM. Nhất là trong nền kinh tế nước ta những năm gần đây, trước sự bùng nổ của hệ thống NHTM thì sự cạnh tranh trong việc thu hút vốn lại càng gay gắt hơn bao giờ hết. Năm 2008 cũng như những tháng đầu năm 2009 đã chứng kiến cuộc chạy đua lãi suất huy động của hệ thống các NHTM. Điều này càng chứng tỏ tầm quan trọng của hoạt động huy động vốn trong các NHTM. Chi nhánh NHNo & PTNT huyện Bình Lục cũng không nằm ngoài xu hướng chung đó. Đối mặt với rất nhiều khó khăn trong nền kinh tế hiện đại, chi nhánh luôn nhận thức rõ tầm quan trọng của hoạt động huy động vốn và luôn đặt nó làm nhiệm vụ trung tâm trong mọi thời kỳ. Có thể thấy hoạt động huy động vốn của ngân hàng trong những năm qua có tăng trưởng nhanh nhưng vẫn tồn tại nhiều mặt hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng cũng như vị thế của một chi nhánh có lịch sử hoạt động và bề dày uy tín lâu dài đến thế. Do đó, để tăng cường huy động vốn, ngân hàng phải đưa ra những giải pháp thực sự hiệu quả. Với những kiến thức đã được học tại nhà trường cùng với thời gian thực tập tại NHNo & PTNT huyện Bình Lục, em xin được đưa ra một số giải pháp bao gồm nhóm giải pháp chủ yếu và nhóm giải pháp bổ trợ như sau. 3.1 Nhóm giải pháp chủ yếu 3.1.1 Nâng cao công tác dự báo tình hình kinh tế Nền kinh tế quốc tế và trong nước những năm gần đây có rất nhiều sự biến động mạnh mẽ. Có thể thấy trong năm 2008 và những tháng đầu năm 2009, nền kinh tế đã ghi nhận rất nhiều sự biến động sâu sắc. Nền kinh tế thế giới đang bước vào giai đoạn suy thoái của chu kỳ kinh tế. Mỹ, trung tâm kinh tế tài chính có sức chi phối lớn trên toàn cầu bước vào cuộc khủng hoảng tín dụng nhà đất, ảnh hưởng của nó còn lan tới cả châu Âu, châu Á rộng lớn… Và không chỉ trên thị trường tín dụng, sự suy thoái này còn lan rộng trên cả thị trường chứng khoán, thị trường hối đoái…Giá dầu, giá vàng tăng mạnh, với việc cắt giảm lãi suất của Cục dự trữ liên bang Mỹ FED thì giá USD có xu hướng giảm nhưng vẫn có những biến động thất thường. Việt Nam cũng không nằm ngoài cơn bão suy thoái đó. Các chỉ số của nền kinh tế trong năm 2007 có nhiều điểm tiêu cực. Mặc dù tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao và vẫn duy trì được mức tăng trưởng cũ là 8,48% nhưng tỷ lệ lạm phát tăng cao, chỉ số giá tiêu dùng tháng 12/2007 tăng đến 12,63% so với cùng kì năm ngoái. Hơn thế nữa, chỉ số giá tiêu dùng vẫn tiếp tục leo thang vào những tháng đầu năm 2008, quý I/2008, chỉ số giá tiêu dùng tăng hơn 16% so với cùng kì năm ngoái. Bên cạnh đó, trong năm 2007, Việt Nam nhập siêu gấp 2,7 lần năm 2006, trong khi giá cả hàng hóa quốc tế đều tăng mạnh. Bên cạnh đó, thị trường chứng khoán cũng đang bước vào trên đà suy thoái. Điều này dẫn đến việc NHNN phải thực hiện các nghiệp vụ thị trường mở, tăng lãi suất chiết khấu, tỷ lệ dự trữ bắt buộc… Các động thái này đã làm ảnh hưởng lớn đến các nghiệp vụ của NHTM, nhất là hoạt động huy động vốn. Lãi suất huy động thay đổi liên tục. Đối với nội tệ, tháng 2/2008 ghi nhận cuộc chạy đua lãi suất của các NHTM để thu hút lượng vốn lớn để mua tín phiếu bắt buộc, đối với ngoại tê, lãi suất giảm mạnh vào tháng 2/2007, tăng mạnh vào tháng 6/2007, giảm vào các tháng cuối năm 2007 nhưng đến bây giờ lại có xu hướng tăng mạnh. Như vậy, có thể thấy, để có thể hoàn thành kế hoạch huy động vốn đã đề ra trong tình trạng nền kinh tế nhiều biến động như hiện nay, Chi nhánh cần nâng cao công tác phân tích, dự đoán, dự báo toàn bộ nền kinh tế quốc tế nói chung, Việt Nam nói riêng, hoạt động tài chính ngân hàng và hoạt động huy động vốn. Thứ nhất, để làm tốt công tác này trước tiên ngân hàng cần có một đội ngũ chuyên gia phân tích, dự báo chuyên nghiệp. Hiện nay, đây chỉ là một nhiêm vụ của phòng kế hoạch, bởi vậy, Chi nhánh nên thành lập riêng phòng phân tích chịu trách nhiệm báo cáo đối với ban lãnh đạo để có thể kịp thời thông báo và có những biện pháp điều chỉnh kịp thời trước những biến động đó. Thứ hai, để quá trình phân tích được tiến hành một cách hiệu quả thì cần thu thập một lượng thông tin chính xác và đủ lớn. Thông tin được thu nhập phải là nguồn số liệu từ nhiều nguồn, nhiều loại, bao gồm cả trong nước và quốc tế. Thứ ba, cần phải sử dụng các phương pháp phân tích và dự báo thích hợp. Kết hợp nhiều phương pháp để đưa ra các kết quả có độ chính xác cao nhất. Công tác phân tích, dự báo kinh tế vẫn chưa thực sự được ngân hàng chú trọng, phát triển. Do đó, trong tương lai, Chi nhánh cần phải chú trọng nhiều hơn trong việc phát triển, đào tạo nhân lực, phát triển công tác này, để có thể có các chiến lược, kế hoạch hoạt động chủ động, thích ứng với những biến động của nền kinh tế. 3.1.2 Giải pháp về sản phẩm huy động vốn Đa dạng hóa các hình thức huy động vốn Đa dạng hóa các hình thức huy động vốn chính là việc đưa ra các sản phẩm dịch vụ mới, hoàn thiện các sản phẩm dịch vụ đang lưu hành bằng việc đưa thêm các tính năng mới của sản phẩm tiếp cận được nhiều đối tượng khách hàng hơn, tính năng ưu việt hơn. Có như vậy thì khi khách hàng tìm đến với ngân hàng, họ có nhiều sự lựa chọn hơn để phù hợp với lợi ích của mình và thuận tiện cho lúc chi trả. Khi khách hàng cảm thấy ngân hàng chính là nơi cung cấp dịch vụ làm cho họ hài lòng nhất thì khách hàng sẽ tiếp tục tìm đến với ngân hàng. Tùy từng đối tượng khách hàng và chiến lược phát triển khách hàng của Chi nhánh mà phải nghiên cứu các sản phẩm huy động vốn khác nhau. Có thể thấy đối tượng khách hàng chính của ngân hàng trong những năm trở lại đây là các tổ chức kinh tế. Hầu hết các khoản tiền gửi này là tiền gửi thanh toán nên mặc dù chi phí vốn rẻ nhưng độ ổn định của nguồn vốn không cao. Do đó, ngân hàng cần tập trung hơn trong việc thu hút nguồn tiền gửi từ các đối tượng khác, đặc biệt là tiền gửi tiết kiệm của tầng lớp dân cư, để nâng cao độ ổn định của nguồn vốn. Thứ nhất, Đối với khách hàng cá nhân, hiện tại NHNo & PTNT huyện Bình Lục có các hình thức như tiết kiệm thông thường, tiết kiệm dự thưởng, tiết kiệm gửi góp, tiết kiệm bậc thang và tiền gửi tiết kiệm bằng hiện vật. Để phù hợp hơn với nhu cầu của nhiều đối tượng khách hàng thì chi nhánh nên có các sản phẩm tiền gửi với nhiều kỳ hạn khác nhau và rút tiền linh hoạt. Phát triển các sản phẩm tiết kiệm bậc thang về số tiền gửi, các loại thẻ thanh toán… các hình thức này có kỳ hạn ngắn nhưng giúp ngân hàng tăng lượng vốn huy động trong dân cư và khuyến khích tiết kiệm… Ngân hàng có thể đưa ra hình thức tiết kiệm rút gốc linh hoạt, tiết kiệm hưu trí, tiết kiệm mua ô tô, nhà cửa, du học, tiết kiệm nhân thọ…Các hình thức này có kỳ hạn thường rất dài nên có thể đem lại nguồn vốn ổn định cho ngân hàng. Hiện nay, tiền gửi huy động được của Chi nhánh có kỳ hạn khá thấp. Bởi vậy các hình thức huy động này là một trong những giải pháp quan trọng để tăng số lượng cũng như kỳ hạn thực tế của nguồn huy động. Thứ hai, đối với khách hàng là doanh nghiệp, hộ kinh doanh thì đặc điểm của đối tượng này là có ít tiền nhàn rỗi dài ngày trong khi công việc kinh doanh đòi hỏi họ thường xuyên bận rộn. Do đó, đối tượng này thường quan tâm hơn đến dịch vụ gửi tiền và lĩnh tiền hơn là lãi suất. Vì vậy, việc thu nhận và chi trả tiền mặt cho đối tượng này thường yêu cầu một khoảng thời gian nhanh chóng. Từ thực tế trên, ngân hàng có thể bổ trí thêm một số các phòng giao dịch trên địa bàn huyện để dễ dàng giao dịch và cung cấp các dịch vụ gửi – rút tiền, thanh toán và các dịch vụ khác kèm theo, nhanh chóng đáp ứng ngay yêu cầu của các đối tượng này. Việc áp dụng hình thức này có thể làm tăng chi phí ở mức độ nhất định nhưng đổi lại ngân hàng sẽ thu hút được lượng vốn rẻ do chủ yếu đây là tiền gửi không kỳ hạn. Sau một thời gian, khi công việc này đi vào hoạt động, số lượng khách hàng tăng lên thì số dư tiền gửi không kỳ hạn sẽ tăng lên nhanh chóng và với chi phí bình quân ngày càng giảm. Thứ ba, chi nhánh có thể tăng cường huy động vốn bằng cách phát hành trái phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi…. một cách có quy mô và khối lượng lớn với nhiều hình thức kỳ hạn cũng như thanh toán lãi linh hoạt hơn nữa để thu hút vốn trong và ngoài nước. Lợi thế của chi nhánh là có bề dày hoạt động lâu năm nên ít nhiều cũng tạo được uy tín và niềm tin trong lòng khách hàng. Do đó, việc phát hành các công cụ tài chính này sẽ có nhiều thuận lợi đối với chi nhánh và hấp dẫn đối với khách hàng. Thứ tư, chi nhánh còn có thể kết hợp huy động với cho vay, nhất là cho vay tiêu dùng. Trong nền kinh tế phát triển, thu nhập bình quân cao thường đi kèm với xu hướng tiêu dùng cũng gia tăng mạnh. Hiện nay, những người có công việc ổn định, thu nhập cao, đều đặn là rất nhiều, tuy nhiên họ không thể có ngay một khoản tiền nhất định để mua sắm những hàng hóa đắt đỏ. Nếu như họ cam kết gửi tiền tiết kiệm tại ngân hàng cho đến khi đạt được một tỷ lệ nhất định nào đó của số tiền mua hàng hóa, chi nhánh có thể chấp nhận cho vay nốt phần còn lại và được đảm bảo bằng chính hàng hoá mà khách hàng định mua. Số tiền vay được khách hàng chi trả trong một khoảng thời gian thỏa thuận. Việc triển khai phương thức này sẽ vừa hỗ trợ hoạt động huy động vốn, lại hỗ trợ hoạt động cho vay tiêu dùng, một hoạt động mà hiện nay chi nhánh còn chưa chú trọng và phát triển. Bằng cách đa dạng hóa hình thức huy động vốn, chi nhánh có thể tăng lượng khách hàng mở tài khoản, từ đó có thể tăng khả năng huy động vốn đồng thời có thể nắm bắt thêm các nhu cầu dịch vụ vốn đa dạng của khách hàng, tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong việc lựa chọn các hình thức đầu tư thích hợp. Sử dụng linh hoạt lãi suất huy động Từ tháng 7/2002, Ngân hàng Nhà nước thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận cho phép các ngân hàng có quyền tự định giá các sản phẩm của của mình. Điều này cho phép các ngân hàng với tiềm lực vốn lớn có lợi thế hơn trong việc huy động vốn. Do đó, đối với NHNo & PTNT Việt Nam nói chung và chi nhánh NHNo huyện Bình Lục nói riêng thì việc sử dụng cơ chế lãi suất linh hoạt có nhiều thuận lơi hơn so với các ngân hàng khác trên địa bàn Hà Nam. Mặt khác, do hoạt động trong mảng ngân hàng dành cho các đối tượng dân cư phần đa có thu nhập thấp trong nhiều năm nên ngân hàng cũng được ưu tiên trong việc quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc của NHNo là 10% trong khi các ngân hàng khác là 11% đối với tiền gửi có kỳ hạn dưới 12 tháng. Điều này càng tạo điều kiện thuận lợi hơn cho ngân hàng trong việc giảm chi phí huy động vốn, từ đó có thể huy động vốn với lãi suất cao hơn, linh hoạt hơn so với các ngân hàng khác trên địa bàn Hà Nam. Tuy nhiên, đối với ngân hàng, lãi suất huy động là một khoản chi phí, còn đối với khách hàng, lãi suất lại là khoản tiền họ kỳ vọng có được sau khi gửi vào ngân hàng, là khoản tiền mà ngân hàng trả cho họ do việc sử dụng vốn. Thời hạn tiền gửi càng dài thì lãi suất chi trả lại phải càng cao. Hơn thế, nguyên tắc xác định lãi suất là lãi suất đối với tiền gửi phải thực dương. Tức là khi đưa ra mức lãi suất phải đảm bảo cho người gửi tiền những lợi ích thỏa đáng, có như vậy mới tạo tiền đề cho việc huy động mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội. Nhưng ngân hàng là một doanh nghiệp hoạt động với mục tiêu lợi nhuận, do đó khi xác định lãi suất đầu vào tất yếu phải phụ thuộc vào lãi suất đầu ra. Mà lãi suất cho vay đối với các doanh nghiệp phải đảm bảo thấp hơn tỷ suất bình quân của nền kinh tế. Bởi vậy, quản trị lãi suất phải bao gồm cả quản trị lãi suất đầu vào và đầu ra, đảm bảo bù đắp chi phí, bù đắp rủi ro và giữ mưc chênh lệch lãi suất đầu vào và đầu ra đảm bảo kinh doanh có lãi. Hơn thế nữa, chính sách lãi suất phải được xây dựng dựa trên việc phân tích đánh giá đúng thị trường, đối tượng, phải có sự khác biệt theo từng khách hàng, theo quy mô và kỳ hạn của từng khoản tiền, có như vậy mới đặt ra được các mức lãi suất thích đáng, đảm bảo lợi ích của tất cả khách hàng lại không gây ra lãng phí xã hội. Ngân hàng không những có thể sử dụng lãi suất linh hoạt với từng kỳ hạn, từng gói sản phẩm tiền gửi mà còn có thể sử dụng công cụ này đối với từng đối tượng khách hàng. Các khách hàng lớn, thường xuyên, là đối tác giao dịch lâu dài thì có thể khuyến khích bằng cách trả lãi suất cao hơn, có nhiều ưu đãi hơn so với các khách hàng khác. Tuy nhiên, ngân hàng cũng cần phải đảm bảo khách hàng luôn cảm thầy được ngân hàng quan tâm đặc biệt, thực sự cảm thấy thoải mái khi giao dịch với ngân hàng. Bên cạnh đó, để chủ động trong việc sử dụng tiền, các khách hàng có thể mở một hay nhiều tài khoản tiền gửi khác nhau. Chi nhánh có thể ưu đãi bằng cách cộng dồn các số dư tài khoản tiền gửi của khách hàng, từ đó đưa ra các hình thức ưu đãi đối với khách hàng, làm cho khách hàng không bị ràng buộc về quy mô khoản tiền gửi mà vẫn hưởng lãi suất cao hơn. Một vấn đề lớn cần đặt ra là trong việc sử dụng công cụ lãi suất một cách có hiệu quả nhất là phải giảm chi phí huy động vốn trong khả năng có thể. Chi phí huy động vốn bao gồm lãi phải trả cho người gửi tiền và các loại chi phí quản lý, kiểm đếm, chi phí tiến hành các loại giấy tờ, thủ tục khác… Giảm được các loại chi phí này tạo điều kiện cho ngân hàng có thể giảm được chi phí huy động vốn từ đó có thể nâng cao lãi suất huy động để cạnh tranh thu hút khách hàng. Ngân hàng có thể cắt giảm những khoản chi phí không cần thiết bằng cách đơn giản hóa thủ tục gửi tiền, thanh toán hay cung ứng các dịch vụ nhưng vẫn phải đảm bảo các nguyên tắc an toàn trong giao dịch. Bên cạnh đó, ngân hàng cần phải nâng cao nghiệp vụ cho nhân viên, thao tác nhanh nhẹn, tăng tốc độ phục vụ giảm tối thiểu thời gian nhàn rỗi, sự hướng dẫn của nhân viên phải tận tình, chu đáo và chính xác để khách hàng tránh nhầm lẫn khi điền vào đơn gây lãng phí về vật chất và thời gian. Hơn thế nữa, ngân hàng cũng có thể hạn chế về chi phí quản lý, chi phí văn phòng… bằng cách kiện toàn bộ máy tổ chức cán bộ công nhân viên, đơn giản gọn nhẹ, cắt bỏ những vị trí không cần thiết hoặc điều chuyển, bố trí nhân viên làm những vị trí đúng với năng lực và trình độ chuyên môn của mình, tránh trường hợp nhiều người làm việc của một người và làm sai việc. Tăng cường công tác quản lý để thúc đẩy, giám sát nhân viên làm đúng nhiệm vụ của mình trong thời gian làm việc, không làm việc riêng hay nghỉ ngơi trong giờ làm việc. Học tập mô hình tổ chức quản lý và kỷ luật của các nước tiên tiến như Nhật Bản, Mỹ, châu Âu và áp dụng một cách phù hợp vào ngân hàng mình. Ban lãnh đạo cần kêu gọi và đề nghị, khuyến khích và giám sát nhân viên thực hành tiết kiệm, chống lãng phí văn phòng và những chi phí không cần thiết. Tích cực khen thưởng và kỷ luật thích đáng, đúng mực, đúng đối tượng đối với các cá nhân, phòng ban vi phạm điều lệ. Có thể nói, lãi suất là con dao hai lưỡi đối với hoạt động huy động vốn của ngân hàng. Lãi suất cao có thể thu hút được nhiều khách hàng tìm đến với dịch vụ của ngân hàng nhưng lại làm tăng chi phí huy động vốn đối với ngân hàng và có tác động lớn đến nền kinh tế. Do đó, sử dụng công cụ lãi suất phải thật sự khéo léo và linh hoạt để mang lại hiệu quả hoạt động cao nhất. Đa dạng hoá các dịch vụ ngân hàng Như đã nói ở trên, việc sử dụng lãi suất là con dao hai lưỡi tác động vào hoạt động kinh doanh của ngân hàng và ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế. Sử dụng lãi suất như một thứ vũ khí cạnh tranh là một biện pháp tốt nhưng chưa phải là tối ưu. Vì thế, ngân hàng cần tiếp cận với một nguồn vốn ổn định, bền vững là nguồn vốn có được từ tiền gửi. Việc ngân hàng đa dạng hoá các dịch vụ ngân hàng làm thu hút nhiều hơn khách hàng sử dụng, từ đó có thể làm tăng quy mô nguồn vốn huy động và tăng lợi nhuận cho ngân hàng từ các khoản phí dịch vụ. Thứ nhất, đẩy mạnh đa dạng hoá nghiệp vụ thanh toán qua ngân hàng như thanh toán tiền điện, điện thoại, nước, học phí, bảo hiểm… cho các cá nhân. Hơn thế nữa, ngân hàng có thể kết hợp với các doanh nghiệp để trả lương, bảo hiểm qua tài khoản, chủ động liên kết với các nhà cung cấp để giành quyền thanh toán cho người tiêu dùng… Thứ hai, để thu hút khách hàng sử dụng dịch vụ của mình, ngoài các dich vụ đã triển khai như phone banking, ATM (24/24)…, ngân hàng nên mở các dịch vụ mới như home banking, internet banking… phát triển các loại thẻ thanh toán nhằm vào từng đối tượng cụ thể như thẻ thanh toán dùng cho các doanh nhân, cho các quý bà, cho giới trẻ năng động… phù hợp với từng loại đối tượng. Thứ ba, chi nhánh có thể triển khai hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt như thẻ thanh toán hoặc chuyển tiền… tại những trung tâm mua sắm, đông dân cư để khai thác tối đa tiềm năng của thị trường, chống lãng phí, thất thoát. Để thực hiện, chi nhánh cần tăng cường kết hợp vói các siêu thị, trung tâm thương mại, kết hợp với các chương trình quảng cáo, khuyến mãi rầm rộ để thu hút khách hàng…. Các hình thức khuyến mãi có thể áp dụng như giảm phí hay thậm chí là tặng thẻ, không yêu cầu duy trì số tiền tối thiểu trong thẻ, tặng quà nhân dịp lễ tết… Các hình thức khuyến mãi trên có thể trước mắt làm tăng thêm chi phí của ngân hàng nhưng lại có tác dụng thúc đẩy các hoạt động dịch vụ về lâu về dài. 3.1.3 Chính sách khách hàng  Trong những năm vừa qua đánh dấu bằng sự phát triển vượt bậc của ngành ngân hàng. Số lượng các ngân hàng càng ngày càng gia tăng với quy mô vốn tự có lớn. Khách hàng có rất nhiều sự lựa chọn ngân hàng để thực hiện giao dịch. Do đó, tiếp cận với khách hàng là một yêu cầu bức bách đặt ra trong việc tăng cường huy động vốn. Bởi vậy, chi nhánh cần xây dựng và triển khai mô hình huy động hướng tới khách hàng, chủ động tìm đến khách hàng, tìm hiêu tâm lý, đặc điểm, nhu cầu của khách hàng và thực hiện phân nhóm khách hàng. Có thể nhận thấy, khách hàng tìm đến ngân hàng thuộc nhiều thành phần khác nhau và với mục đích khác nhau. Do đó, ngân hàng cần phải nghiêm cứu đặc điểm từng đối tượng khách hàng, lập chiến lược hướng đến từng đối tượng khách hàng cụ thể trong từng giai đoạn, và xác định nhu cầu cũng như tiêu chí của từng nhóm đối tượng khách hàng. Với đối tượng khách hàng là doanh nghiệp có nguồn thu nhập hoặc tiền nhàn rỗi nhiều trong một thời gian ổn định như tiền hàng hóa tạm thời nhàn rỗi, tiền trả lương chưa đến hạn... đồng thời đối tượng này thường xuyên sử dụng các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng với số lượng lớn. Mục tiêu của họ đối với các khoản tiền gửi vào ngân hàng là nhằm bảo vệ an toàn tài sản và thanh toán khi cần. Do đó, để có được những khách hàng lớn này, ngân hàng cần phải chú trọng tìm đến giới thiệu, duy trì mối quan hệ làm ăn lâu dài. Đây là đối tượng có tầm hiểu biết khá cao trong xã hội nên khả năng thích ứng với các dịch vụ ngân hàng rất nhanh chóng. Vì vậy, ngân hàng hoàn toàn có thể tư vấn để đối tượng này tiếp xúc với các dịch vụ thanh toán khác nhau thanh toán thẻ, rút tiền qua máy ATM... Ngân hàng cần gia tăng số lượng khách hàng này để tránh tập trung vào một số khách hàng lớn dễ gây rủi ro và phụ thuộc vào khách hàng. Với đối tượng khách hàng là người dân đến mở sổ tiền gửi tiết kiệm hoặc mở tài khoản tiền gửi thanh toán cá nhân. Đặc điểm của nhóm khách hàng này là có nguồn tiền nhàn rỗi nhỏ lẻ nhưng ổn định, thường được gửi với thời hạn dài, lực lượng của nhóm khách hàng này thường đông đảo. Đối với họ thì lợi nhuận và độ an toàn được đặt lên hàng đầu. Khi lựa chọn, họ thường tìm đến các ngân hàng có lãi suất chi trả cao và uy tín lớn. Ngân hàng cần đưa ra các hình thức huy động hợp lý đối với đối tượng khách hàng này như các hình thức tiền gửi tiết kiệm được đảm bảo bằng đôla hoặc vàng, các hình thức khuyến mãi lớn và thiết thực ...  Đối với khách hàng có thu nhập cao thì họ thường có nhu cầu sử dụng các dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt của ngân hàng. Do đó, chi nhánh nên thiết kế các sản phẩm riêng, đáp ứng với từng nhu cầu của từng khách hàng hoặc nhóm khách hàng như sản phẩm dành cho doanh nhân, cho các quý bà, cho giới trẻ năng động....  Bên cạnh đó, chi nhánh cần có các chính sách để giữ chân các khách hàng truyền thống bằng cách chú trọng hơn đến công tác tiếp xúc khách hàng. Ngân hàng cần có một đội ngũ thường xuyên quan tâm, hỏi han, chúc mừng trong các dịp lễ tết, sinh nhât... để duy trì mối quan hệ gần gũi và thường xuyên đối với khách hàng. Đồng thời chi nhánh cần nâng cao hơn nữa chất lượng phục vụ, giảm thiểu các thủ tục khi giao dịch, tạo điều kiện thuận lợi về thời gian giao dịch cho khách hàng nhưng vẫn đảm bảo các nguyên tắc duy trì an toàn ngân hàng. Xây dựng văn hóa giao dịch: nhanh, hiệu quả, văn minh, để lại trong lòng khách hàng một hình ảnh tốt đẹp. Để chính sách khách hàng thật sự mang lại hiệu quả thì đội ngũ giao dịch viên, đối tượng trực tiếp tiếp xúc với khách hàng, thể hiện bộ mặt của ngân hàng phải thực sự được tập huấn về công tác nghiệp vụ đối với từng đối tượng khách hàng, tư vấn sản phẩm phù hợp vói nhu cầu của khách hàng, tiếp thu ý kiến khách hàng để phát triển sản phẩm cho phù hợp, đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng.  Ngoài ra, để tiết kiệm thời gian của các nhân viên ngân hàng trong giao dịch, chi nhánh cần thành lập thêm phòng tư vấn khách hàng làm nhiêm vụ hỗ trợ cho các nhân viên giao dịch trong việc tiếp xúc với khách hàng. Việc thành lập phòng tư vấn thể hiện sự quan tâm và coi trọng khách hàng của ngân hàng, tạo ấn tượng sâu sắc đối với khách hàng vì sự chăm sóc nhiệt tình của ngân hàng đối với mình. 3.1.4 Tăng cường hoạt động Marketing ngân hàng Marketing ngân hàng là quá trình tư duy hướng tới lợi nhuận. Marketing ngân hàng là một hệ thống tổ chức quản lý của đơn vị để đạt được mục tiêu của mình, bằng nhận thức, tiến hành công việc thông qua kế hoạch hóa, kiểm soát nguồn của cải vật chất nhằm thích ứng với môi trường, thị trường để thỏa mãn nhu cầu lựa chọn của khách hàng để đạt được mục tiêu sinh lợi cao nhất. Do đó, tổ chức Marketing ngân hàng không chỉ làm tăng vốn mà còn làm tăng lợi nhuận của ngân hàng, hỗ trợ tất cả các dịch vụ của ngân hàng. Vì vậy, để hoạt động marketing mang lại hiệu quả cao thì cần phải tổ chức hoạt động này một cách toàn diện và sâu rộng trên nhiều mặt: Thứ nhất, Chi nhánh cần có chiến lược quảng cáo sâu rộng bằng việc đạt được các chứng chỉ chất lượng, quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng như phát thanh, truyền hình, internet, tạp chí, thiết kế băng rôn, áp phích quảng cáo, khẩu hiệu, in tờ rơi với kích thước gọn nhẹ và bắt mắt. Các dịch vụ cần được quảng cáo cụ thể chứ không chỉ chung chung về chi nhánh. Cụ thể trong một thời điểm nhất định thì chú trọng quảng cáo đến một dịch vụ cụ thể nhất định, nhất là các dịch vụ mới. Chi nhánh cần xây dựng một hình ảnh gần gũi và thân thuộc đối với các đối tượng khách hàng. Thứ hai, chi nhánh cần thực hiện văn minh thương mại. Đối với ngân hàng thì văn minh thương mại là điều vô cùng quan trọng vì nó giúp khách hàng cảm thấy thoái mái, tiện dụng khi sử dụng dịch vụ ngân hàng và luôn thấy thỏa mãn về các dịch vụ được cung cấp. Do đó, chi nhánh cần đưa yếu tố văn hóa vào marketing ngân hàng, tạo ra nét riêng trong thái độ phục vụ cũng như đồng phục, tạo ra phong thái làm việc chuyên nghiệp và năng động. Thứ ba, chi nhánh cần có đội ngũ nhân viên Marketing chuyên nghiệp, tích cực đầu tư hơn nữa cho quảng cáo sản phẩm, tìm hiểu nhu cầu khách hàng. Đội ngũ Marketing phải thực sự đi sâu sát vào từng đối tựợng khách hàng, tìm hiểu nhu cầu, tiếp cận, và giới thiệu sản phẩm cho từng khách hàng. Hơn thế, để thực hiện thành công Marketing trong ngân hàng, ngoài bộ phận chuyên trách thì cần phải sự đóng góp công sức của toàn bộ các cán bộ nhân viên của chi nhánh. Chi nhánh cần chú trọng bồi dưỡng nghiệp vụ Marketing trong nội bộ, đặc biệt là những nhân viên tại quầy, những người trực tiếp tiếp xúc với khách hàng. Chính sự hiểu biết, phục vụ tận tình của nhân viên là phương thức quảng cáo tốt nhât, với chi phí thấp nhất, tạo hình ảnh tốt về chi nhánh trong tâm trí khách hàng.  Thứ tư, chi nhánh phải thường xuyên tổ chức các buổi giao lưu, hội nghị khách hàng, các chương trình chăm sóc khách hàng, tiếp cận với từng cơ sở để giải đáp thắc mắc, cung cấp thông tin chính xác về hoạt động của chi nhánh... nhất là khi ngân hàng định tung ra thị trường một loại sản phẩm dịch vụ mới. Hoạt động này nếu được tổ chức thường xuyên thì đây là cơ sở tốt để nắm bắt nhu cầu, tiến hành phân tích, dự đoán nhu cầu các phân đoạn thị trường để đưa ra các chiến lược xúc tiến, giá, phân phối phù hợp nhất.  Thứ năm, chi nhánh cần tăng cường các hình thức khuyến mãi như tặng quà, quay số trúng thưởng, các cuộc thi tìm hiểu sản phẩm... qua đó nhằm thu hút sự chú ý của khách hàng và cũng nhằm giới thiệu sản phẩm. Trên thực tế, nhiều ngân hàng có lãi suất chi trả thấp hơn nhưng có chính sách marketing phù hợp và hoạt động có hiệu quả với nhiều ưu đãi hấp dẫn thì vẫn được nhiều khách hàng chọn lựa. Hiện nay, hoạt động Markting của chi nhánh mới chỉ là một hoạt động của phòng chăm sóc khách hàng và chưa được thực hiện một cách toàn diện và triệt để. Vì vậy, để nâng cao hoạt động Marketing thì chi nhánh cần phải thành lập một phòng Marketing riêng biệt để hoạt động Marketing được mở rộng và nghiên cứu sâu sắc hơn. 3.1.5 Tăng cường chất lượng nguồn nhân lực  Đối với mọi ngành nghề thì yếu tố con người luôn đóng vai trò quan trọng hàng đầu quyết định sự thành bại của mọi hoạt động. Vì thế, việc xây dựng một đội ngũ cán bộ có trình độ, am hiểu về nghiệp vụ, năng lực cao, có phẩm chất đạo đức tốt sẽ không chỉ góp phần nâng cao hiệu quả huy động vốn mà còn tạo ra sự phát triển bền vững cho ngân hàng. Xây dựng đội ngũ cán bộ này không phải là công việc một sớm một chiều mà phải là quá trình lâu dài từ tuyển dụng cho tới đào tạo. Thứ nhất, cần phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngay từ khâu tuyển dụng, lựa chọn những thí sinh có đủ năng lực, trình độ chuyên môn về ngoại ngữ, vi tính, có đạo đức, phẩm chất tốt, tác phong nhanh nhẹn. Chi nhánh cần đưa ra các tiêu chí tuyển lựa theo tính chất từng công việc cụ thể, tránh kiểm tra dàn trải, không liên quan đến công việc cần tuyển, coi trọng kết quả kiểm tra, phỏng vấn trực tiếp chứ không dựa bằng cấp. Bên cạnh đó, chi nhánh cũng cần phải yêu cầu các ứng viên thời gian thử việc để kiểm nghiệm thực tế. Thứ hai, sau khi tuyển dụng cán bộ, chi nhánh cần tập trung đào tạo chuyên sâu các nghiệp vụ truyền thống, đồng thời cập nhập thêm các kiến thức mới, những sản phẩm và công nghệ của ngân hàng hiện đại. Chiến lược đào tạo phải xác định rõ đôi tượng đào tạo, nội dung đào tạo và thời gian đào tạo cho thích hợp. Đào tạo cần được tập trung theo nhũng chuyên ngành nhất định, đào tạo một cách toàn diện, tránh đào tạo tràn lan, không xác định, tránh lãng phí thời gian, nhân lực và tiền bạc. Ngoài ra, trong thời đại hiện nay, trình độ chuyên môn thôi chưa đủ mà cần phải có cái nhìn sâu sắc và toàn diện. Do đó, việc đào tạo phải kết hợp với việc tổ chức các buổi hội thảo, giao lưu tìm hiểu chính sách pháp luật, khách hàng, thông tin kinh tế... Đào tạo trong nước kết hợp với đào tạo nước ngoài để có thể tiếp cận với các công nghệ thông tin hiện đại và học hỏi phương pháp hoạt động tiên tiến. Hơn thế nữa, đào tạo trình độ chuyên môn nghiệp vụ thôi vẫn chưa đủ, việc đào tạo này còn phải kết hợp với việc đào tạo thái độ tiếp xúc với khách hàng, nghiệp vụ tư vấn cho khách hàng và xây dựng hình ảnh người cán bộ ngân hàng lịch sự, cởi mở và cư xử đúng đắn.  Thứ ba, ngân hàng cần bố trí những cán bộ có trình độ chuyên môn và tư cách đạo đức vào những vị trí công việc phù hợp nhằm đảm bảo đúng người đúng việc, khai thác tối đa tiềm năng của mỗi cá nhân, phát huy triệt để thế mạnh và năng lực của họ. Thứ tư, chi nhánh cần xây dựng chính sách lương, thưởng phân minh rõ ràng, thực hiện chế độ khuyến khích cả mặt vật chất và tinh thần, phát động phong trào thi đua trong toàn chi nhánh. Đồng thời, phải có chế độ kỷ luật và phê bình thích đáng đối với những cán bộ làm sai nguyên tắc, cán bộ tha hóa biến chất. Việc đào tạo cán bộ ngân hàng là một công việc hết sức quan trọng và có lợi ích lâu dài. Do đó, chi nhánh cần tổ chức và theo dõi sát sao công việc này để đạt hiệu quả cao nhất. 3.2 Nhóm giải pháp bổ trợ 3.2.1 Hiện đại hóa công nghệ ngân hàng Trong thời đại hiện nay, công nghệ đóng vai trò vô cùng quan trọng. Công nghệ làm giảm sức lực của con người, nâng cao hiệu quả sản xuất, tăng độ chính xác của từng nghiệp vụ… Ngân hàng là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tài chính tiền tệ, lĩnh vực luôn đòi hỏi độ nhanh nhạy và chính xác. Để phù hợp với sự phát triển của ngành ngân hàng thì các loại công nghệ phục vụ trong ngành này cũng phải thường xuyên thay đổi và hoàn thiện. Nó không chỉ giúp ngân hàng nâng cao hiệu quả hoạt động, phát huy các tiềm lực, mà còn giúp nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ cung cấp cho khách hàng, nhờ đó nâng cao uy tín và mở rộng thị phần. Do đó, Công nghệ là đòn bẩy của sự phát triển, là điều kiện để ngân hàng tạo ra sự khác biệt trong quá trình cạnh tranh, là nền tảng để phát triển sản phẩm mới, đa dạng hóa các hoạt động, mở rộng phạm vi. Bởi vậy, đối mới công nghệ ngân hàng không chỉ là một giải pháp mà còn là một yêu cầu cấp bách để ngân hàng có thể thực hiện tốt các nghiệp vụ của mình, trong đó có hoạt động huy động vốn. Trước hết, để giải quyết về đổi mới công nghệ, Chi nhánh cần đánh giá lại thực trạng công nghệ đang sử dụng tại đơn vị là như thế nào, có phù hợp với trình độ năng lực của công nhân viên hay không, có phù hợp với nhu cầu của khách hàng hay không, hệ thống công nghệ đang sử dụng có thực sự vận hàng hết công suất là hiệu quả hay không, việc đổi mới công nghệ có phù hợp với trình độ nhân viên hay không, khi triển khai các nghiệp vụ mới, các sản phẩm dịch vụ mới thì cần đầu tư vào loại công nghệ nào, chi phí cho việc đổi mới công nghệ là bao nhiêu, có phù hợp với Chi nhánh hay không… Từ đó, ngân hàng phải đề ra kế hoạch mua sắm đổi mới, tích lũy vốn đầu tư vào công nghệ, đào tạo đội ngũ cán bộ để sử dụng hiệu quả về trước mắt cũng như lâu dài. Tuy nhiên, việc đổi mới công nghệ phải là một quá trình lâu dài, không phải là vấn đề một sớm một chiều có thể giải quyết được. Chi nhánh không được nóng vội trong việc đổi mới công nghệ, tránh tình trạng máy móc mua về không sử dụng được để hao mòn, mất hết giá trị. Việc đổi mới công nghệ còn cần phải kết hợp với việc tuyển dụng cũng như đào tạo nguồn nhân lực để có thể mang lại hiệu quả tích cực. 3.2.2 Mở rộng mạng lưới hoạt động Ngân hàng là một tổ chức mang tính chất cung cấp các dịch vụ. Do đó, việc tiếp cận với các đối tượng khách hàng mang một ý nghĩa vô cùng quan trọng. Để tiếp cận với nhiều khách hàng, chi nhánh cần mở rộng thêm mạng lưới chi nhánh phục vụ để dễ dàng thu hút được nhiều hơn nguồn tiền gửi. Trong thời đại cạnh tranh gay gắt như hiện nay, các ngân hàng đua nhau phát triển mạng lưới chi nhánh và phòng giao dịch một cách rầm rộ gây khó khăn cho Chi nhánh trong việc mở rộng mạng lưới hoạt động. Do vậy, việc mở rộng mạng lưới chi nhánh cần phải được thực hiện một cách kỹ càng chu đáo để mang lại hiệu quả cao. Trước hết, Chi nhánh cần mở rộng mạng lưới tại những nơi có tiềm năng thu hút tiền gửi nhung chưa được phát hiện. Muốn thực hiện được điều này, chi nhánh cần phải tổ chức các cuộc thăm dò thị sát các khu vực, xác định đối tượng khách hàng, dự đóan tình hình phát triển kinh tế của khu vực về lâu về dài, từ đó khoanh vùng để tiến hành xem xét quá trình mở rộng mạng lưới. Thứ hai, để thu hút được nhiều khách hàng, chi nhánh có thể mở thêm các phòng giao dịch ở những nơi đông đúc dân cư, chợ, các khu phố mua sắm buôn bán… Đặc điểm của địa bàn hoạt động của Chi nhánh là khu vực nông thôn, hiện tại chưa có các phòng giao dịch, chi nhánh của các NHTM khác, nên ngân hàng có lợi thế về uy tín hoạt động cũng như lợi thế cạnh tranh trên địa bàn. Bởi vậy nên mở rộng mạng lưới hoạt động để nắm bắt khách hàng, trước khi các NHTM và các tổ chức tài chính khác bắt đầu mở chi nhánh hoạt động ở đây. Thứ ba, ngân hàng nên thành lập một ban chuyên trách về phát triển mạng lưới hoạt động để có thể chuyên nghiệp hóa và nâng cao hiệu quả quá trình phát triển mạng lưới này. Thứ tư, việc phát triển mạng lưới hoạt động cần phải kết hợp với các hoạt động khác như hoạt động Marketing, hoạt động nghiên cứu phát triển sản phẩm… để đưa ra sự phát triển đồng bộ và kết hợp hiệu quả. Ví dụ như ngân hàng đang có một kế hoạch phát triển sản phẩm dành cho người nông dân thì nên mở rộng mạng lưới chi nhánh tại các khu dân cư nông thôn. Thứ năm, việc phát triển mạng lưới thường gây ra những chi phí ban đầu tốn kém, do đó, chi nhánh cần tích cực trong việc đàm phán, chủ yếu sử dụng các hình thức đi thuê hoạt động hoặc đi thuê tài chính với việc ký kết hợp đồng mang tính chất lâu dài. 3.2.3 Củng cố, nâng cao uy tín, tạo lòng tin đối với khách hàng Hoạt động huy động vốn của ngân hàng được tồn tại và phát triển trên cơ sở lòng tin của ngân hàng. Chữ tín đối với các ngân hàng là vô cùng quan trọng. Có thể thấy, rất nhiều các ngân hàng bị phá sản chỉ vì mất lòng tin đối với khách hàng. Với hệ thống NHTM cổ phần nhiều và áp dụng mức lãi suất cao hơn như hiện nay, việc cạnh tranh của chi nhánh phải dựa vào uy tín của mình. Thứ nhất, uy tín của ngân hàng có được nhờ lịch sử hoạt động. Đây là một thế mạnh của Chi nhánh do sự tồn tại của chi nhánh đã được gần 12 năm, đi cùng với bao nhiêu bước thăng trầm của nền kinh tế. Do đó, ít nhiều chi nhánh cũng đã gây dựng được lòng tin đối với khách hàng trên đìa bàn tỉnh. Thứ hai, uy tín của ngân hàng có được nhờ quản lý được tốt rủi ro thanh khoản và hoạt động trong nghiệp vụ thanh toán. Để có thể thực hiện tốt điều này, Chi nhánh cần phải thực hiện thanh toán nhanh chóng với độ chuẩn xác cao, thông báo kịp thời cho khách hàng khi hoàn tất thanh toán cũng như khi xảy ra sự cố trong thanh toán để cùng khách hàng giải quyết. Ngoài ra, việc quản lý tốt rủi ro thanh khoản cũng đem lai cho ngân hàng khả năng thanh toán trước sự biến động của lãi suất cũng như thị trường. Để làm tốt điều này thì cần sự phối hợp của toàn bộ cán bộ công nhân viên ngân hàng, từ phòng kế hoạch cho tới các phòng trực tiếp tiếp xúc với khách hàng. Từ đó, xây dựng được lòng tin đối với người gửi tiền. Thứ ba, nâng cao uy tín, hình ảnh của ngân hàng còn nhờ vào hoạt động Marketing ngân hàng. Chi nhánh cần phát huy hiệu quả của công tác tuyên truyền quảng bá, xây dựng hình ảnh gần gũi quen thuộc trong lòng dân chúng. Đưa ra các khẩu hiêu, tôn chỉ, biểu tượng dễ nhớ, dễ thuộc, bắt mắt để có thể thu hút khách hàng. Cập nhập và đổi mới thường xuyên trang web thông tin điện tử của ngân hàng tạo sự tiện ích cho khách hàng trong việc tra cứu thông tin cũng như hiểu biết thêm về ngân hàng, qua đó tiết kiệm được chi phí. Bên cạnh đó, ban lãnh đạo ngân hàng cũng phải thường xuyên tiếp xúc với UBND, HĐND xã, phường, quận để thông qua các cuộc họp địa phương để tranh thủ giới thiệu về ngân hàng. Thứ tư, uy tín cho Ngân hàng còn phụ thuộc nhiều vào ảnh hưởng của các tin đồn lan truyền trong dân chúng. Có thể nhận thấy hậu quả của các tin đồn là người dân đua nhau đến rút tiền. Trong một thời điểm, nguồn tiền dự trữ của ngân hàng không thể đáp ứng được hết nhu cầu rút tiền của khách hàng. Do đó, có thể gây ra sự sụp đổ của Chi nhánh. Vì thế, Chi nhánh cần quản lý tốt các thông tin bên trong cũng như bên ngoài chi nhánh, kịp thời ứng phó các tình huống nhạy cảm, quản lý và ngăn chặn các nguồn thông tin thất thiệt bên ngoài. Để tăng cường hoạt động huy động vốn của chi nhánh thì cần thiết phải kết hợp không chỉ có phòng nguồn vốn và khối giao dịch viên mà đòi hỏi cần phải có sự kết hợp cũng như vận hành đồng bộ của toàn bộ chi nhánh và trên tất cả các lĩnh vực. Với những giải pháp nêu trên, em huy vọng có thể đóng góp một phần bé nhỏ, mang tính chất tham khảo thêm cho các cô chú, anh chị trong Chi nhánh để có thể hoàn thành được tốt kế hoạch mà chi nhánh có thể đặt ra. 4. Kiến nghị Để hoạt động huy động vốn của ngân hàng phát triển thì không những đòi hỏi sự cố gắng nỗ lực của ngân hàng mà còn đòi hỏi sự khuyến khích, giúp đỡ của các nhân tố khác. 4.1 Kiến nghị với chính phủ và bộ ngành có liên quan Đầu tiên, như đã đề cập ở trên, trong năm vừa qua nền kinh tế có nhiều biến động lớn gây ảnh hưởng đến các hoạt động của các NHTM, nhất là hoạt động huy động vốn. Do đó, chính phủ và các bộ ngành liên quan cần nỗ lực hơn nữa trong việc ổn định nền kinh tế, đẩy lùi lạm phát, ổn định giá trị nội tệ. Khi tiền tệ ổn định, người dân sẽ yên tâm gửi tiền vào ngân hàng nhiều hơn, hoạt động huy động vốn cũng như các hoạt động khác của ngân hàng cũng sẽ phát triển một cách dễ dàng hơn. Thứ hai, do tình hình kinh tế xã hội phát triển nhanh chóng, nhiều quan hệ xã hội mới phát sinh trong nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải được điều chỉnh bằng pháp luật. Tuy vậy, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan mà hệ thống pháp luật nước ta chưa thật sự đồng bộ, chưa thực sự là chỗ dựa pháp lý cho các nhà kinh doanh, nhất là trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, một lĩnh vực có tốc độ phát triển mạnh mẽ. Do đó, xin kiến nghị với Chính phủ và các bộ nghành có liên quan cần có những biện pháp thiết thực nhằm đảm bảo pháp luật được thực hiện một cách đúng đắn, nhất quán và triệt để, bảo vệ quyền lợi của ngân hàng và khách hàng. Do tính chất đặc thù của lĩnh vực ngân hàng là kinh doanh tiền tệ, chính phủ cần tăng cường hơn nữa pháp chế trên lĩnh vực này để đáp ứng kịp thời yêu cầu mới của sự phát triển kinh tế trong thời kỳ công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước, hội nhập kinh tế thế giới. Chính phủ cần ban hành kịp thời những văn bản pháp luật quy định và hướng dẫn thi hành những điều luật mới phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội trong nước và quốc tế. Thứ ba, có thể nhận thấy, các kênh huy động vốn của Việt Nam vẫn chưa thực sự phát triển, chưa thực sự là kênh cung cấp nguồn vốn huy động cho các NHTM. Thị trường chứng khoán tuy có sư phát triển mạnh mẽ nhưng chưa đi vào ổn định, thời gian gần đây còn lâm vào tình trạng suy thoái, chưa hình thành thị trường trái phiếu chuyên việt, chưa tạo điều kiện cho các NHTM có thể phát hành các giấy tờ có giá một cách thuận lợi và hiệu quả. Chính vì vậy, Chính phú và các bộ ngành liên quan cần tăng cường hơn nữa trong việc phát triển thị trường vốn và thị trường tiền tệ, tổ chức, thành lập thị trường trái phiếu chuyên việt để các NHTM có thể thu hút được nhiều hơn nguồn vốn huy động. Thứ tư, việc Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO tạo điều kiện cho các NHTM có thể huy động được các nguồn vốn từ thị trường quốc tế. Do đó, chính phủ và các bộ ngành có liên quan cần tạo điều kiện thuận lơi cho các tổ chức tài chính cũng như các NHTM có cơ hội tiếp xúc với các nguồn vốn từ nước ngoài bằng cách thông thoáng hệ thống rào cản thương mại. khuyến khích các NHTM thu hút vốn ở thị trường quốc tế. Nếu mở rộng được kênh huy đông vốn này, không những các NHTM tìm được nguồn vốn huy động mà còn giúp nâng cao hình ảnh cũng như vị thế của Việt Nam trong con mắt bạn bè quốc tế. 4.2 Kiến nghị với Ngân hàng nhà nước Ngân hàng nhà nước là cấp lãnh đạo trực tiếp đối với các NHTM, với vai trò quản lý, điều chỉnh mọi hoạt động của NHTM, mọi tác động của Ngân hàng nhà nước vào thị trường đều có ảnh hưởng đến các nghiệp vụ của NHTM nói chung và nghiệp vụ huy động vốn nói riêng. Vì thế, Ngân hàng Nhà nước cần xây dựng và hoàn thiện chính sách tiền tệ một cách đồng bộ và hiệu quả, sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ một cách linh hoạt nhằm điều hòa hợp lý lượng tiền lưu thông trong nền kinh tế, thực hiện chính sách lãi suất tự do theo thị trường, thiết lập và duy trì sự ổn định tiền tệ để khách hàng an tâm gửi tiền vào ngân hàng, từ đó các ngân hàng có thể tăng cường được nguồn vốn huy động. Hơn nữa, Ngân hàng Nhà nước cần hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến lĩnh vực huy động vốn. Các văn bản cần linh hoạt, thông thoáng, phù hợp với thực tế và được áp dụng thống nhất tại các ngân hàng. Hơn nữa, trước tình hình tỷ giá biến động mạnh gây khó khăn cho các hoạt động kinh doanh của ngân hàng và doanh nghiệp, Ngân hàng Nhà nước cần theo dõi chặt chẽ những dấu hiệu của thị trường, từ đó đề xuất và kịp thời thực hiện các chính sách tiền tệ phù hợp, linh hoạt nhằm ổn định thị trường ngoại tệ. Bên cạnh đó, cũng như kiến nghị đối với Chính phủ và các bộ ngành có liên quan, Ngân hàng Nhà nước cũng cần phải tạo điều kiện cho các NHTM có thể dễ dàng huy động vốn trên các thị trường tiền tệ và thị trường vốn bằng cách mở rộng thêm các loại giấy tờ có giá phát hành, phát triển mở rộng thị trường, thông thoáng cho các NHTM trong việc huy động vốn từ thị trường quốc tế. Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước cần tạo điều kiện thuận lợi cho các NHTM áp dụng khoa học công nghệ ngân hàng, cho phép và khuyến khích các NHTM cải tiến công tác thanh toán, kỹ thuật trình độ công nghệ theo định hướng chung của Ngân hàng Nhà nước để có thể thanh toán nhanh chóng, chính xác, an toàn và tiện lợi, có như vậy mới có thể tạo niềm tin cho khách hàng, từ đó mới thu hút được các nguồn tiền trong dân cư và các tổ chức kinh tế. Ngân hàng còn có thể giúp các NHTM trong việc đào tạo đội ngũ nhân viên ngân hàng, đưa ra tiêu chuẩn đánh giá nhân viên để các NHTM có thể bám sát, giúp đỡ các NHTM trong việc đưa cán bộ ra nước ngoài đào tạo hoặc tham quan ngân hàng nước bạn trong khu vực và quốc tế. Như đã biết, lãi suất có ảnh hưởng lớn đến hoạt động huy động vốn của các NHTM. Do đó, khi đẩy mạnh nghiệp vụ thị trường mở, một công cụ phổ biến để điều hành chính sách tiền tệ thì Ngân hàng Nhà nước nên sử dụng các biện pháp có ít tác động trực tiếp đến lãi suất của các NHTM, gây ra những khó khăn trong hoạt động huy động vốn cũng như cho vay. Cuối cùng, Ngân hàng Nhà nước cần tạo một môi trường lành mạnh để các NHTM có thể cùng nhau cạnh tranh phát triển một cách bình đẳng, phát huy được thực chất năng lực cạnh tranh của từng ngân hàng, nhất là giữa các ngân hàng thương mại quốc doanh và ngân hàng thương mại cổ phần. 4.3 Kiến nghị với NHNN&PTNN Việt Nam NHNN&PTNN Việt Nam là cấp lãnh đạo đối với chi nhánh NHNN&PTNN huyện Bình Lục, vì thế mọi đính hướng phát triển cũng nhưng mọi thay đổi trong các hoạt động của NHNN&PTNN Việt Nam đều có tác động đến chi nhánh NHNN&PTNN huyện Bình Lục. Thứ nhất, Hội sở chính nên triển khai kịp thời và hướng dẫn cụ thể việc thi hành các văn bản, các quy định, quyết định, chỉ thị của Ngân hàng Nhà nước và NHNN&PTNN Việt Nam về hoạt động của ngân hàng nói chung và hoạt động huy động vốn nói riêng, tạo điều kiện cho Chi nhánh luôn hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và bám sát các mục tiêu, định hướng của ngân hàng cấp trên. Thứ hai, Hội sở chính cần tăng chỉ tiêu huy động vốn cho Chi nhánh để tạo động lực thúc đẩy cho chi nhánh huy động vốn nhiều hơn. Thứ ba, Hội sở chính cần tăng cường vai trò kiểm tra, kiểm soát nội bộ với Chi nhánh. Hoạt động này phải được diễn ra thường xuyên, toàn diện và chính xác để phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp vi phạm, phòng ngừa rủi ro lớn xảy ra. Thứ tư, Hội sở chính cần phải tiến hành và hiện đại hóa hệ thống công nghệ thông tin của toàn hệ thống, thực hiện quản lý thông tin theo hướng đồng bộ trên toàn bộ hệ thống. Mọi giao dich được cập nhập vào một nguồn chung và đăng tải trên toàn hệ thống. Bên cạnh đó, Hội sở chính cũng phải đưa công nghệ, thiết bị mới để phát triển đa dạng các loại hình dịch vụ ngân hàng, tăng hiệu quả kinh doanh và năng lực kinh doanh của toàn hộ hệ thống. Thứ năm, Hội sở chính có thể đại diện toàn bộ hệ thống mở rộng hoạt động tuyên truyền, quảng cáo hình ảnh của ngân hàng thông qua các hình thức quảng cáo, tài trợ cho các chưong trình văn hóa xã hội… để thương hiệu và các sản phẩm của ngân hàng được quảng bá rộng rãi trong và ngoài nước. Thứ sáu, đề nghị Hội sở chính tăng mức lãi suất điều chuyển vốn cho Chi nhánh để khuyến khích Chi nhánh huy động vốn hơn và để có thể cạnh tranh được với các ngân hàng và tổ chức tài chính khác trong cùng khu vực. Để Chi nhánh có thể nâng cao hoạt động huy động vốn thì đòi hỏi không chỉ nỗ lực của bản thân Chi nhánh mà còn đòi hỏi sự giúp đỡ, khuyến khích từ Chính phủ, các bộ ngành có liên quan, Ngân hàng Nhà nước và ngân hàng cấp trên. KẾT LUẬN Việt Nam gia nhập vào WTO, nghĩa là phải thực hiện các cam kết song phương, đa phương, mở cửa thị trường tài chính Ngân hàng, không hạn chế việc cung cấp dịch vụ tài chính Ngân hàng của các nhà cung cấp nước ngoài. Sự hội nhập này tác động trực tiếp tới hệ thống Ngân hàng thương mại ở Việt Nam trong cả lĩnh vực quản lý Nhà nước và lĩnh vực kinh doanh tiền tệ. Với xuất phát điểm còn nhiều hạn chế như hiện nay, hệ thống Ngân hàng thương mại sẽ phải đối mặt với nhiều rủi ro lớn, nếu như không được nhanh chóng củng cố, cơ cấu lại, đổi mới lại cơ chế họat động và phải được trang bị đầy đủ kiến thức, công cụ cần thiết ... để có thể vận hành, tồn tại, phát triển lành mạnh trong một môi trường khốc liệt toàn cầu. Trong năm mươi năm xây dựng và trưởng thành, Chi nhánh NHNN&PTNN huyện Bình Lục đã đạt được những thành quả nhất định, tạo được uy tín đối với khách hàng và đóng góp một phần không nhỏ trong sự phát triển chung của tỉnh Hà Nam. Tuy nhiên, do những nguyên nhân đến từ các yếu tố bên trong và bên ngoài ngân hàng, hoạt động của Chi nhánh vẫn chưa tương xứng với tiềm năng phát triển của mình. Huy vọng rằng trong tương lai, Chi nhánh sẽ giữ vững và tiếp tục phát huy những thành tích của mình, hạn chế nhược điểm để là lá cờ đầu vững mạnh trong hệ thống NHNN&PTNN Việt Nam nói riêng và hệ thống các ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy giáo PGS – TS Từ Quang Phương, cô chú, anh chị tại NHNN&PTNN huyện Bình Lục đã giúp em hoàn thành Chuyên đề thực tập này. Em xin chân thành cảm ơn!

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21752.doc
Tài liệu liên quan