Chuyên đề Thúc đẩy hoạt động xúc tiến xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam

Xúc tiến thương mại là một trong những công cụ quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển thương mại của mỗi quốc gia. Với lợi thế tài nguyên thiên nhiên và khí hậu thuận lợi cho sự phát triển của mặt hàng nông sản cho nên Đảng và Nhà nước ta đã đặc biệt quan tâm và hỗ trợ đến công tác XTTM đối với mặt hàng này để thực hiện thành công mục tiêu công nghiệp hoá - hiện đại hóa đất nước. Các hoạt động XTTM ở cấp quốc gia, doanh nghiệp, Hiệp hội ngành hàng.là một trong những hoạt động góp phần thực hiện thành công mục tiêu chiến lược phát triển xuất khẩu hàng nông sản giai đoạn 2006-2010 và tầm nhìn 2020. Xuất khẩu NLTS vẫn chiếm một phần không nhỏ trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ của nước ta. Tuy nhiên, sau khi hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, mặt hàng nông sản đã gặp phải không ít những khó khăn, trở ngại từ các rào cản kỹ thuật của các nước như: quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm, quy định về bảo vệ môi trường sinh thái, dán nhãn sinh thái Do đó, hoạt động XTTM đối với ngành hàng nông sản lại càng trở nên đặc biệt quan trọng để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu và thu lợi nhuận của doanh nghiệp.

doc68 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1663 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thúc đẩy hoạt động xúc tiến xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t khẩu các mặt hàng thủy sản khác vẫn giảm so với cùng kỳ năm ngoái. + Tôm vẫn đứng đầu về kim ngạch xuất khẩu, chiếm 38,4% tỷ trọng tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu; xuất khẩu 170,3 tấn với kim ngạch đạt 1.354,7 triệu USD, tăng 7,4% về khối lượng và tăng 0,03% về giá trị so với cùng kỳ năm 2008. Ngoài ba thị trường nhập khẩu đạt giá trị cao là Nhật Bản, Mỹ và EU, còn có Hàn Quốc, Trung Quốc, Ô-xtrây-li-a và Ca-na-đa, Ðài Loan (Trung Quốc), Ðức đạt giá trị hơn 50 triệu USD. + Tiếp đến là mặt hàng cá tra, ba sa chiếm tỷ trọng xuất khẩu gần 32%. Mười tháng đầu năm 2009, cả nước đã xuất khẩu đạt kim ngạch 1,12 tỷ USD, giảm gần 9% về khối lượng và giảm 10% về giá trị so với cùng kỳ năm trước. + Ðối với các mặt hàng thủy sản khác, kim ngạch xuất khẩu đều giảm so với cùng kỳ năm ngoái: cá ngừ giảm 1,2% về lượng và 10,2% về giá trị, mực và bạch tuộc giảm 12,9% về khối lượng và 16% về giá trị. Trong khi đó, hàng khô tăng 23,4% về lượng và 7,7% về giá trị kim ngạch. Về thị trường xuất khẩu thủy sản của Việt Nam, trong năm 2009, EU vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất, Nhật Bản đứng vị trí thứ 2, tiếp đến là thị trường Mỹ... Về thị trường của xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam: năm 2008 là 160 thị trường với gần 70 loại sản phẩm khác nhau. Năm 2009 xuất sang 35 thị trường chính, nhưng chủ yếu sang Nhật Bản, Hoa Kỳ. Đứng thứ nhất về kim ngạch xuất khẩu là thị trường Nhật Bản với 760.725.464 USD, chiếm 17,89% tổng kim ngạch; tiếp theo là thị trường Hoa Kỳ với 711.145.746 USD, chiếm 16,73%. Hình 2.9: Top các thị trường chính của xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam giai đoạn 2007-2009 Đơn vị: 1000 USD Nguồn: Tổng cục thống kê Thực trạng hoạt động xúc tiến xuất khẩu hàng nông sản Hoạt động XTTM ở cấp quốc gia Khái quát về Chương trình XTTM trọng điểm quốc gia Trong những năm gần đây, công tác XTTM ngày càng nhận được sự quan tâm, hỗ trợ của Đảng, Nhà nước cũng như các Bộ, ban ngành có liên quan trong việc huy động và sử dụng các nguồn lực để phục vụ cho hoạt động XTXK hàng NLTS, cụ thể: Chương trình XTTM trọng điểm quốc gia năm 2006-2010 có tổng số 30 đơn vị chủ trì chương trình, trong đó có 11 đơn vị ngành nông nghiệp (Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam, Hiệp hội Gỗ và lâm sản Việt Nam, Hiệp hội hồ tiêu Việt Nam, Hiệp hội Lương thực Việt Nam, Hiệp hội Rau quả Việt Nam, Trung tâm tiếp thị triển lãm NN&PTNT, Tổng công ty rau quả nông sản Việt Nam, Hiệp hội cao su Việt Nam, Hiệp hội chè Việt Nam) chiếm gần 37%. Qua 4 năm thực hiện Chương trình XTTM Quốc gia từ 2006-2009, Nhà nước đã hỗ trợ kinh phí cho ngành NLTS nguồn kinh phí khá lớn. Trong giai đoạn 2006-2009, nguồn kinh phí hỗ trợ cho các hoạt động XTTM của ngành này trung bình hàng năm là 26,25%/năm. Số lượng các đề án của ngành này cũng chiếm một tỷ lệ không nhỏ khoảng 34,8% trong 4 năm thực hiện chương trình XTTM quốc gia. Bảng 2.4: Kinh phí hỗ trợ của nhà nước cho hoạt động XTTM ngành NLTS giai đoạn 2006-2009 Năm Đề án Kinh phí NN hỗ trợ Tổng số được phê duyệt Lĩnh vực: nông, lâm, thủy sản Tỷ lệ Tổng số được phê duyệt Lĩnh vực: nông, lâm, thủy sản Tỷ lệ 2006 155 59 38% 144,74 tỷ 40,71 tỷ 28% 2007 159 61 38,4% 174,13 tỷ 41,89 tỷ 24% 2008 123 39 31,7% 122,73 tỷ 30,64 tỷ 25% 2009 141 44 31,2% 179,99 tỷ 50,612 tỷ 28% Nguồn: Cục XTTM Về khu vực thị trường, qua 4 năm thực hiện chương trình XTTM đối với hàng NLTS đã có sự phân chia khá rõ nét giữa các thị trường. Trong đó châu Á vẫn là khu vực chiếm số lượng chương trình XTTM được thực hiện để hỗ trợ cho doanh nghiệp với tỷ lệ là 36%, sau đó là châu Âu (23%), thị trường trong nước (24%). Các thị trường châu Phi và châu Úc vẫn chưa được quan tâm và chú trọng để mở rộng thị trường cho xuất khẩu nông sản của nước ta, đây thực sự là các thị trường tiềm năng và đầy triển vọng trong giai đoạn sắp tới. Hình 2.10: Hoạt động XTXK nông sản phân theo khu vực thị trường giai đoạn 2006-2009 (%) Nguồn: Cục XTTM Tất cả các chương trình đã hỗ trợ được hàng nghìn lượt doanh nghiệp tham gia vào các hoạt động XTTM trong và ngoài nước qua đó các biên bản ghi nhớ, hợp đồng đã được ký kết thành công tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu nông sản. Hoạt động XTXK nông sản cụ thể Bên cạnh công tác quản lý và điều phối các hoạt động XTTM của Việt Nam thì nhà nước cũng phối hợp hoạt động với các tổ chức, hiệp hội và doanh nghiệp trong việc thực hiện các hoạt động XTTM cụ thể như sau: Một là, thực hiện ký kết các hiệp định song phương và đa phương nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp xuất khẩu nông sản nói riêng thâm nhập vào thị trường quốc tế. Về quan hệ hợp tác song phương, từ sau khi mở cửa nền kinh tế đến nay chúng ta đã có quan hệ thương mại với 165 quốc gia và vùng lãnh thổ thuộc tất cả các châu lục, ký hiệp định thương mại Việt – Mỹ năm 2000, Hiệp định đối tác kinh tế Việt – Nhật năm 2008... đã tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp khi thâm nhập vào các thị trường này. Về quan hệ hợp tác đa phương, Việt Nam cũng là thành viên của 63 tổ chức quốc tế và có quan hệ với hơn 500 tổ chức phi chính phủ. Trong tổ chức Liên Hiệp Quốc, Việt Nam đóng vai trò là ủy viên ECOSOC, ủy viên Hội đồng chấp hành UNDP, UNFPA và UPU. Vai trò đối ngoại của Việt Nam trong đời sống chính trị quốc tế đã được thể hiện thông qua việc tổ chức thành công Hội nghị Thượng đỉnh Cộng đồng Pháp ngữ (La Francophonie) năm 1997, Hội nghị cấp cao ASEAN năm 1998, năm 2007 chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Đây là một bước ngoặt lớn trong tiến trình hội nhập với nền kinh tế quốc tế. Đồng thời là thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc nhiệm kỳ 2008-2009. Hai là, hỗ trợ kinh phí và tạo điều kiện thuận lợi cho việc hoạt động XTTM của các hiệp hội ngành hàng, các tổ chức XTTM: Hiện nay, vai trò của các hiệp hội ngành hàng trong hoạt động XTTM của doanh nghiệp là rất lớn. Nhà nước cũng ban hành nhiều văn bản, chính sách hỗ trợ và tạo điều kiện để hoạt động của hiệp hội mở rộng và phát triển hơn nữa. Số lượng các hiệp hội ngành hàng nông sản là 11 hiệp hội chiếm tỷ lệ là 37% trong tổng số các tổ chức XTTM đây là một con số không nhỏ. Hiệp hội cũng là một kênh để các nhà tài trợ cung cấp dịch vụ hỗ trợ kinh doanh cho các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản. Bên cạnh đó, sự phối hợp, liên kết giữa hiệp hội với thương vụ Việt Nam ở nước ngoài, các văn phòng đại diện ở nước ngoài cũng là một kênh thông tin quan trọng giúp doanh nghiệp nhanh chóng nắm bắt và xử lý kịp thời nếu có những sự cố xảy ra trong hoạt động XTXK nông sản của doanh nghiệp. Ba là, cung cấp thông tin, tổ chức các chương trình giới thiệu, quảng bá sản phẩm, tổ chức diễn đàn, hội thảo, đào tạo và tư vấn: Đối với hoạt động này, nhà nước đã có những văn bản hướng dẫn cụ thể về hoạt động cung cấp thông tin, xây dựng cơ sở hạ tầng, ứng dụng thương mại điện tử ở Việt Nam. Các cơ quan cung cấp thông tin của Chính phủ và các bộ ngành như: Cục XTTM, Viện nghiên cứu thương mại, phòng thông tin của các Sở địa phương, đài truyền hình công thương, báo công thương… là những địa chỉ cung cấp thông tin thương mại thiết thực phục vụ doanh nghiệp xuất khẩu. Trong trang web của Cục XTTM có đầy đủ các thông tin về thị trường, ngành hàng, những điều cần biết về các thị trường…Các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản có thể tìm thấy các thông tin đó trên các trang web của các cơ quan của Chính phủ hoặc có thể tìm hiểu về thị trường qua các ấn phẩm báo, tập chí. Bên cạnh đó, Chính phủ và các bộ ngành còn tổ chức cho các cơ quan thông tấn báo chí nước ngoài đến viết bài tuyên truyền, quảng bá về các sản phẩm nông sản của Việt Nam. Tổ chức các diễn đàn, hội nghị, hội thảo, tuần lễ ẩm thực trong và ngoài nước giới thiệu về văn hóa ẩm thực - đất nước - con người Việt Nam, vừa giới thiệu sản phẩm, vừa quảng bá hình ảnh, bên cạnh đó có thể xúc tiến đầu tư và du lịch. Bốn là, tham gia công tác tổ chức các HCTL hàng nông sản trong và ngoài nước: hoạt động này ngày càng được sự tham gia nhiệt tình và đông đảo các các doanh nghiệp trong, ngoài nước vì những lợi ích trực tiếp mà nó mang lại. HCTL là cầu nối giữa các doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp nước ngoài, giữa doanh nghiệp với người tiêu dùng, thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu nông sản, kích cầu tiêu dùng… + Trong nước: Năm 2006 đã tổ chức 08 đợt HCTL, tập huấn, xây dựng cơ sở dữ liệu, ứng dụng thương mại điện tử...Năm 2007 là 09 đợt, năm 2008 là 11 đợt còn năm 2009 là 11 đợt. + Ngoài nước: Năm 2006 đã tổ chức được 36 đợt HCTL, hội nghị, hội thảo, đào tạo, tập huấn nâng cao năng lực… năm 2007 đã tổ chức được 29 đợt, năm 2008 là 17 đợt còn năm 2009 là 23 đợt. Năm là, khảo sát và nghiên cứu thị trường, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. Hoạt động khảo sát thị trường hiện nay thường được kết với tổ chức HCTL qua đó doanh nghiệp tham gia HCTL có cơ hội tìm hiểu về tình hình kinh tế, hoạt động sản xuất của doanh nghiệp đối tác, các điều cần lưu ý khi kinh doanh xuất khẩu tại một thị trường cụ thế, thị hiếu người tiêu dùng… Bên cạnh đó, các cơ quan của Chính phủ và bộ ngành, Cục XTTM, viện nghiên cứu thương mại hàng năm cũng có những cuộc khảo sát các thị trường chính và các thị trường tiềm năng của xuất khẩu nông sản Việt Nam qua đó có thể cung cấp thông tin nhanh chóng, kịp thời phục vụ cho doanh nghiệp xuất khẩu. Công tác đào tạo nguồn nhân lực cũng được Đảng và nhà nước đặc biệt quan tâm, là một trong những công việc quan trọng để thực hiện hoạt động XTTM phục vụ xuất khẩu. Hàng năm ở nước ta vẫn tổ chức các khóa đào tạo chuyên sâu về kiến thức nghiệp vụ như marketing, quản trị kinh doanh xuất nhập khẩu, ứng dụng thương mại điện tử… để nâng cao trình độ của cán bộ làm công tác XTTM ở các tỉnh/thành phố, cử cán bộ đi học tập và trao đổi kinh nghiệm ở nước ngoài, thuê các chuyên gia quốc tế đến giáng dạy ở trong nước. Sáu là, nguồn tài chính cho công tác XTTM của Nhà nước hỗ trợ. Nhà nước đặc biệt quan tâm đến hoạt động hỗ trợ kinh phí cho XTTM từ nguồn thu lấy từ hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp và trích từ các nguồn thu của Nhà nước. Giai đoạn 2007-2008 nền kinh tế Việt Nam chịu ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng và suy thoái kinh tế toàn cầu, chính phủ đặc biệt hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu bằng nhiều biện pháp trong đó có hỗ trợ vốn để thực hiện hoạt động XTXK nông sản của đất nước. Bảng 2.5 : Kinh phí nhà nước hỗ trợ hàng nông sản theo mặt hàng giai đoạn 2006-2009 (tỷ đồng) Năm Tổng kinh phí được NN phê duyệt Kinh phí đối với hàng nông sản Tỷ lệ Kinh phí đối với hàng thuỷ sản Tỷ lệ Kinh phí đối với hàng lâm sản Tỷ lệ 2006 144,74 24,558 17% 7,320 5% 8,923 6% 2007 174,13 17,707 10,17% 10,254 6% 13,929 8% 2008 122,73 10,755 8,76% 13,689 11% 6,196 5% 2009 179,99 17,112 9,5% 12,736 7% 4,143 2% Nguồn: Cục XTTM Theo như bảng 2.5 nguồn kinh phí của nhà nước cho hàng nông sản chiếm tỷ trọng lớn nhất sau đó là hàng thuỷ sản và cuối cùng là hàng lâm sản. Giai đoạn 2006-2009 nguồn kinh phí hỗ trợ của nhà nước cho hàng nông sản ngày càng có xu hướng giảm từ 24.558 tỷ đồng năm 2006 xuống còn 17.112 tỷ đồng năm 2009. Trong khi đó thì lại có xu hướng tăng đối với hàng thuỷ sản từ 7.320 tỷ đồng năm 2006 lên đến 12.736 tỷ đồng năm 2009. Đối với hàng lâm sản, thời gian gần đây nhà nước mới có sự quan tâm và hỗ trợ kinh phí cho mặt hàng này để thúc đẩy xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ nhưng không nhiều như nông sản và thuỷ sản. Hoạt động XTXK nông sản ở các Hiệp hội ngành hàng Hiện nay, Hiệp hội ngành hàng đóng vai trò rất quan trọng, là cầu nối giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp nước ngoài, người tiêu dùng, cung cấp các thông tin cần thiết và kịp thời cho doanh nghiệp xuất khẩu, hỗ trợ và tổ chức các chương trình HCTL chuyên ngành nông sản với quy mô lớn ở trong và ngoài nước, thực hiện khảo sát các thị trưởng mới và tiềm năng đối với xuất khẩu nông sản của Việt Nam. Với vai trò hỗ trợ phát triển ngành công nghiệp chế biến và xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam, VASEP ra đời đã và đang tiến hành nhiều hoạt động đa dạng như: tăng cường quan hệ hội viên và với các đối tác chiến lược, tăng cường quan hệ với Chính Phủ, làm cầu nối giữa doanh nghiệp hội viên với Nhà nước, thông tin thị trường và tổ chức sự kiện, đào tạo tư vấn, xúc tiến thương mại và phát triển thị trường... VASEP đang là tổ chức có vai trò quan trọng trong hoạt động XTTM hàng thủy sản của Việt Nam hiện nay. Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam được thành lập để thường xuyên và định kỳ cung cấp thông tin về giá cả, thị trường, nguyên liệu, các sản phẩm gỗ… cho cộng đồng doanh nghiệp, hỗ trợ các doanh nghiệp quảng bá sản phẩm gỗ thông qua Website, catalogue, CD ROM… tổ chức các lớp học ngắn ngày về kỹ năng thương mại, về tổ chức quản lý sản xuất về chuyên môn nghiệp vụ, tổ chức các đoàn đi khảo sát nghiên cứu thị trường tiêu thụ sản phẩm và tìm kiếm thị trường nguyên liệu gỗ, tổ chức tham gia các hội chợ triển lãm trong và ngoài nước, thực hiện tư vấn phản biện các dự án đầu tư xây dựng các xưởng chế biến gỗ, xây dựng chính sách phát triển công nghệ chế biến gỗ…, tư vấn và hỗ trợ cho cộng đồng doanh nghiệp, thực hiện liên kết hợp tác, hỗ trợ phát huy nội lực trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Điều đó cho thấy, Hiệp hội cũng đóng một vai trò quan trọng trong hoạt động XTTM hàng lâm sản cho doanh nghiệp Việt Nam. Hàng năm, Hiệp hội là đầu mối thực hiện các chương trình XTTM quốc gia về hàng lâm sản. Hình 2.11 : Số lượng đề án XTTM của các hiệp hội NLTS Nguồn: Cục XTTM Nhìn vào hình 2.11 ta thấy Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thuỷ sản là đơn vị hoạt động mạnh và tích cực nhất, tỷ trọng các chương trình XTTM được hiệp hội này thực hiện cũng khá lớn. Tiếp theo, là các hiệp hội như chè, cà phê cao cao, cao su… Trong thời gian từ năm 2006-2009, tỷ trọng chương trình XTTM của VASEP thực hiện chiếm 30% tỷ trọng các chương trình XTTM của Hiệp hội, trong khi đó Hiệp hội chè chiếm 19%, Hiệp hội cà phê ca cao và cao su cùng chiếm 10%, tiếp đến là Hiệp hội gỗ và lâm sản với tỷ lệ là 9%... Qua số liệu dưới ta thấy được sự chênh lệch về số lượng các đề án cho chương trình XTTM giữa các hiệp hội là khá lớn. Một phần cũng là do thiếu năng lực xây dựng và thực hiện đề án của các Hiệp hội làm cho quá trình thẩm định và phê duyệt đề án của các cơ quan bộ ngành gặp nhiều khó khăn. Về cơ cấu nhóm ngành, cũng có sự thay đổi khá rõ nét về số lượng các chương trình XTTM được thực hiện ở các nhóm ngành do sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Việt Nam theo hướng tăng tỷ trọng ngành công nghiệp – dịch vụ trong khi lại giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp. Hình 2.12 : Số lượng đề án XTTM phân theo nhóm ngành hàng Nguồn: Cục XTTM Theo như hình vẽ thì có sự vượt lên rõ rệt của số lượng đề án dành cho lĩnh vực nông lâm sản tuy nhiên trong năm 2008 thì số lượng đề án XTTM về công nghiệp chế biến lại cao hơn hẳn chiếm khoảng 38% tổng số lượng đề án trong năm này. Trong khi đó nhóm hàng xuất khẩu mới lại có xu hướng giảm qua các năm, nếu như năm 2006 là 25 đề án XTTM được thực hiện thì sang năm 2009 chỉ còn là 9 chương trình. Cùng như nhóm hàng xuất khẩu mới thì số lượng đề án XTTM cho NLTS cũng có xu hướng giảm giai đoạn 2006-2009 khoảng 42,6% số lượng đề án XTTM. Căn cứ vào các hình thức XTTM được tiến hành trong 4 năm thực hiện chương trình XTTM trọng điểm quốc gia như khuyến mại, quảng cáo, thông tin thương mại, HCTL, trưng bày giới thiệu sản phẩm… Trong đó HCTL vẫn là một trong những hình thức được thực hiện nhiều nhất và phổ biến nhất hiện nay, đồng thời cũng là hình thức được các hiệp hội ngành hàng chú trọng và quan tâm để xây dựng đề án, chương trình XTTM phục vụ cho doanh nghiệp. Bảng 2.6: Nội dung hỗ trợ XTTM phân theo nhóm hàng năm 2009 Nội dung hỗ trợ Nhóm hàng CN,CB Đa ngành N, L, TS XKM Tổng số Thông tin thương mại 5 2 5 12 Đào tạo, Tư vấn 5 5 3 2 15 Khảo sát thị trường 5 10 9 4 28 XD cơ sở hạ tầng 3 2 2 7 HCTL nước ngoài 18 7 14 2 41 HCTL đa ngành 4 1 5 3 13 HCTL trong nước 7 11 6 1 25 Tổng số 47 38 44 12 141 Nguồn: Cục XTTM Nhìn vào bảng trên ta thấy được đối với nhóm hàng NLTS hoạt động HCTL đã chiếm 31,65% số lượng chương trình HCTL của cả nước còn lại là các nhóm hàng khác, hoạt động khảo sát thị trường (32%), thông tin thương mại là (41,6%), đào tạo (20%)… Một là, công tác thông tin, tư vấn cho doanh nghiệp được xác định là nhiệm vụ trọng tâm của các tổ chức XTTM và hiệp hội ngành hàng. Trong đó, các ngoài các kênh thông tin truyền thống của các bộ ngành thì còn có các trang web của các hiệp hội ngành hàng xuất khẩu nông sản, VCCI, diễn đàn doanh nghiệp, báo TheSaigontimes… Bên cạnh đó, Hiệp hội ngành hàng còn tổ chức các hoạt động phát triển thị trường nông sản: Ở các địa phương, hầu hết các Sở thương mại đều đã có bộ phận XTTM với hoạt động tập trung vào việc hình thành bản tin thị trường nông sản, tổ chức các phiên chợ giống, hội thi sản phẩm, xây dựng thương hiệu sản phẩm nổi tiếng của địa phương mình với du khách trong và ngoài nước, đối tác, doanh nghiệp nước ngoài… Số lượng các thông tin thương mại mà hiệp hội cung cấp cho doanh nghiệp nhiều nhất vào năm 2007 năm nền kinh tế đang rơi vào khủng hoảng thế giới trầm trọng và các doanh nghiệp rất cần các thông tin thương mại về thị trường nước ngoài, những cơ hội và thách thức đối với hàng nông sản của Việt Nam trong giai đoạn khủng hoảng… Giai đoạn 2007-2009 thì số lượng các thông tin thương mại phục vụ doanh nghiệp lại có xu hướng giảm nhưng chất lượng của các ấn phẩm, báo và tạp chí ngày càng mang lại hiệu quả cho doanh nghiệp xuất khẩu. Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam còn thường xuyên phối hợp với hiệp hội tổ chức các chương trình tư vấn cho các hội viên như các chương trình hội thảo chuyên đề về XTTM ngành hàng trong đó tư vấn cho doanh nghiệp kỹ năng và nghiệp vụ đề thực hiện công tác XTXK đối với ngành hàng nông sản, tư vấn cho doanh nghiệp những kỹ năng để thâm nhập, khảo sát một thị trường mới, đồng thời giải đáp các thắc mắc của doanh nghiệp liên quan đến hoạt động XTTM ngành hàng nông sản. Hai là, đối với công tác tổ chức HCTL hàng nông sản: Hàng năm, VCCI tổ chức khoảng trên 200 cuộc hội nghị, hội thảo, toạ đảm với hàng nghìn người tham gia. Đặc biệt trong năm 2009, VCCI đã tổ chức gần 500 cuộc hội thảo, hội nghị, tọa đàm, gặp gỡ tiếp xúc doanh nghiệp Việt Nam và nước ngoài với sự tham gia của hơn 75.000 doanh nghiệp, tổ chức tư vấn cho gần 4.700 lượt doanh nghiệp. Ba là, đối với công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực: VCCI đã tổ chức được hơn 980 lớp đào tạo, tập huấn cho gần 52.000 lượt doanh nghiệp; triển khai mô hình "Vườn ươm doanh nghiệp" tại các địa phương; tăng cường liên kết đào tạo với các Trường Đại học, Viện nghiên cứu, các Tổ chức xúc tiến thương mại uy tín ở trong nước và quốc tế. Hoạt động tôn vinh doanh nghiệp tiếp tục được chuẩn hóa và nâng cao về uy tín, đã thực hiện bình xét, trao Cúp Thánh Gióng cho 100 Doanh nhân Việt Nam tiêu biểu 2009 nhân Ngày Doanh nhân Việt Nam, trao giải thưởng Bông Hồng Vàng cho 36 nữ doanh nhân xuất sắc nhân Ngày quốc tế Phụ nữ 8/3; giải thưởng Thương hiệu nổi tiếng và giải thưởng Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp năm 2009. Hình 2.13 : Số lượng các chương trình đào tạo XTTM đối với hàng nông sản của Việt Nam Nguồn: Cục XTTM Về khu vực thị trường cho hoạt động XTTM hàng nông sản thì chiếm tỷ lệ lớn nhất vẫn là các hoạt động chiếm lĩnh thị trường nội địa, sau đó là thị trường Châu Á, Châu Âu, Châu Mỹ còn châu Phi và châu Úc vẫn còn ít các hoạt động để mở rộng thị trường xuất khẩu. Hình 2.14: Nhóm hàng XTTM phân theo thị trường năm 2009 Nguồn: Cục XTTM Theo như hình 2.14 đối với nhóm hàng NLTS khu vực thị trường chiếm số lượng đề án XTTM nhiều nhất là thị trường nội địa chiếm tới 34% tổng số đề án của ngành NLTS, tiếp sau đó là châu Á với 27%, châu Âu là 18%, Châu Mỹ là 11%, châu Úc và châu Phi cùng là 5%. Hoạt động XTTM ở cấp doanh nghiệp XTTM là một trong những hoạt động đầu tiên và quan trọng tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong việc phát triển xuất khẩu và mở rộng thị trường nông sản nhất là trong bối cảnh khủng hoảng và suy thoái kinh tế toàn cầu hiện nay. Đặc biệt là doanh nghiệp nông sản, do hàng nông sản chịu nhiều ảnh hưởng của các rào cản kỹ thuật của các nước khác về vệ sinh an toàn thực phẩm, môi trường sinh thái… Bên cạnh đó, sự nhận thức về vấn đề này của người nông dân vẫn còn kém. Do đó, để tránh khỏi những rủi ro có thể xảy ra trong quá trình xuất khẩu nông sản, ký kết hợp đồng, biên bản ghi nhớ…thì XTTM là hoạt động mở đường cho doanh nghiệp xuất khẩu. Công tác thị trường và sản phẩm nông sản Cung cấp thông tin, quảng bá sản phẩm: hầu hết các doanh nghiệp đều sử dụng công cụ quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng như báo, đài, truyền hình, tờ rơi…qua đó kích thích nhu cầu tiêu dùng của khách hàng. Đối với thị trường nước ngoài, thông qua quảng cáo doanh nghiệp nước ngoài cũng như người tiêu dùng có thể hiểu được tính năng, công dụng, hiệu quả… của sản phẩm qua đó có được sự lựa chọn tốt nhất đối với các sản phẩm nông sản. Thiết lập các website trên mạng cũng là một công cụ hữu dụng giúp cho các sản phẩm nông sản được tiếp cận nhanh chóng và hiệu quả. Nhưng công cụ này gần đây mới được các doanh nghiệp xuất khẩu chú trọng và đẩy mạnh nhưng mục giới thiệu sản phẩm còn thiếu và sơ sài, trình bày thiếu tính thẩm mỹ... Qua đó, thương hiệu sản phẩm, lo go, banner, slogan của doanh nghiệp cũng được đưa lên các trang web XTTM để quảng bá sản phẩm của mình. Tuy nhiên, chỉ có các doanh nghiệp lớn hiện nay mới quan tâm và có thể làm tốt công việc này. Tham gia các HCTL nông sản trong và ngoài nước Khảo sát thị trường trong và ngoài nước: Đây là một công việc quan trọng giúp cho doanh nghiệp có thể nắm vững được tình hình kinh tế, thị hiếu tiêu dùng, sở thích, phong tục tập quán…của nước nhập khẩu sản phẩm qua đó quảng bá, giới thiệu sản phẩm với đối tác, tìm kiếm cơ hội giao thương, ký kết hợp đồng. Tham gia các HCTL quốc tế hàng nông sản: HCTL là công cụ XTTM được sử dụng phổ biến ở Việt Nam cũng như các nước trên thế giới. Tham gia vào các HCTL có quy mô lớn sẽ tạo sự thu hút, quan tâm của các doanh nghiệp, đối tác nước ngoài do đó được các doanh nghiệp trong nước ủng hộ và hưởng ứng nhiệt tình. Thông qua đó doanh nghiệp có thể giới thiệu với doanh nghiệp nước ngoài, đối tác các sản phẩm nông sản của Việt Nam một cách trực tiếp và hiệu quả về các vấn đề liên quan đến sản phẩm nông sản. Qua đó, doanh nghiệp có thể khắc phục nhược điểm của sản phẩm, tạo hướng đi mới trong việc phát triển và mở rộng thị trường nông sản. Tham gia các diễn đàn, hội thảo quốc gia và quốc tế về các vấn đề liên quan đến nông sản được phối hợp tổ chức với các cơ quan XTTM có uy tín và chất lượng như: Cục XTTM đã có nhiều chương trình hợp tác với các trung tâm XTTM các tỉnh/thành phố thực hiện chương trình hỗ trợ doanh nghiệp đào tạo nguồn nhân lực XTTM. Hiện nay, các doanh nghiệp đã quan tâm đầu tư cho công tác xây dựng và quản lý chất lượng nông sản theo tiêu chuẩn quốc tế, khảo sát và tìm hiểu thị trường, xây dựng và quảng bá thương hiệu,…Nhờ đó mà rất nhiều doanh nghiệp của Việt Nam đã đạt được những thành công nhất định ở trong và ngoài nước như: Cà phê Trung Nguyên, Chè Việt…. Tài chính đối với hoạt động XTTM của doanh nghiệp Doanh nghiệp hầu như gặp khó khăn đối với tài chính phục vụ công tác XTTM. Do nguồn lực tài chính của doanh nghiệp còn hạn chế nên công tác XTTM của doanh nghiệp vẫn chưa được chú trọng. Đặc biệt là các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản, một lĩnh vực có rất nhiếu biến động do các yếu tố khách quan. CHƯƠNG 3 ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG XTTM ĐỐI VỚI HÀNG NÔNG SẢN XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM Những mặt thành công Hệ thống tổ chức XTTM đã được hình thành và phát triển khá mạnh về số lượng, bắt đầu có sự liên kết phối hợp hoạt động từ cấp trung ương đến các địa phương, từ trong nước ra nước ngoài... Đến nay, hầu hết tất các các tỉnh/thành phố đều đã có bộ phận chuyên trách về XTTM: 63 Sở công thương trong đó đã có thêm cả chức năng xúc tiến đầu tư, xúc tiến du lịch, 45 trung tâm XTTM và 27 phòng XTTM ở các tỉnh/thành phố, 67 Hiệp hội ngành hàng trong đó có 16 hiệp hội ngành hàng về nông sản, các cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan Thương vụ và các trung tâm giới thiệu sản phẩm Việt Nam tại nước ngoài đang đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ doanh nghiệp về thông tin thị trường, khảo sát, quảng bá thương hiệu, tổ chức hoạt động XTTM ở trong và ngoài nước. Từng bước hình thành đội ngũ những doanh nghiệp năng động, có kinh nghiệm, nhạy bén với sự thay đối của thị trường thế giới. Từng bước nâng cao chất lượng và trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý cũng như cán bộ làm công tác XTTM của các doanh nghiệp... Góp phần tăng cường nhận thức cho các cấp quản lý cũng như doanh nghiệp trong hoạt động XTTM để mở rộng thị trường nhất là các thị trường mới là tiềm năng cho nông sản Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Số lượng các đề án XTTM của các hiệp hội ngành hàng nông sản ngày càng tăng và hoàn thiện hơn so với trước đây. Do đó số lượng đề án được hội đồng thầm định phê duyệt qua các năm ngày càng tăng và được đánh giá khá cao trong những năm gần đây. Thông tin thương mại cũng là một công cụ đặc biệt quan trọng đối với các doanh nghiệp khi muốn hợp tác, kinh doanh. XTTM đã cung cấp những thông tin và định hướng về thị trường đến các cơ quan quản lý và người sản xuất kinh doanh. Từ đó, góp phần quan trọng trong việc mở rộng thị trường tiêu thụ NLTS, làm cầu nối cho sản xuất và tiêu thụ, thúc đẩy sản xuất phát triển. Từng bước chủ động điều tiết thị trường khi có biến động bất lợi: hạn chế sự phụ thuộc quá mức vào những thị trường truyền thống ví như mặt hàng cá tra, cá basa của Việt Nam. Từng bước triển khai các hoạt động XTTM mang tính chiều sâu (tổ chức sự kiện, xây dựng và quảng bá thương hiệu chung, trao đổi, thỏa thuận với các nước để thuận lợi hóa thương mại...) làm cầu nối và tạo cơ hội cho doanh nghiệp tiếp cận, mở rộng thị trường. Những mặt tồn tại Về nguồn nhân lực: Số lượng cán bộ thực hiện công tác XTTM còn thiếu và yếu. Đội ngũ cán bộ XTTM ở các tỉnh/thành phố vẫn còn tồn tại 2 hạn chế lớn đó là trình độ chuyên môn nghiệp vụ và ngoại ngữ. Hiện nay, ở các địa phương rất khó khăn trong việc thu hút nguồn nhân lực cho hoạt động XTTM có trình độ cao và kỹ năng giỏi. Bên cạnh đó, kỹ năng tiếng anh chuyên ngành để làm cầu nối thực hiện XTTM giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp nước ngoài còn là một vấn đề cần phải quan tâm, đào tạo để nâng cao trình độ. Do công việc này cần đến sự phối hợp, liên kết, ký kết các hợp đồng…với các đối tác nước ngoài. Về khả năng liên kết, phối hợp hoạt động: Hiện tại công tác XTTM hàng nông sản của chúng ta vẫn còn rời rạc, không có sự gắn kết và thiếu tính thống nhất giữa các hiệp hội ngành hàng với các doanh nghiệp, người nông dân... Do đó, ảnh hưởng đến khâu tiêu thụ sản phẩm cho người sản xuất và xuất khấu. Bên cạnh đó, việc kết nối các đối tác trước và tổ chức tiếp xúc tại hội chợ lại hạn chế, các đoàn khảo sát thường mang tính chất du lịch nhiều hơn là việc tìm kiếm cơ hội kinh doanh thực sự. Về năng lực thẩm định đối tác: Các tổ chức XTTM chủ yếu chỉ có khả năng đưa tin cơ hội giao thương nhưng lại không có năng lực thẩm định đối tác kinh doanh, cung cấp thông tin mang tính đại trà thay vì thông tin theo yêu cầu, tổ chức hoặc tham gia các hội chợ triển lãm. Về khả năng cung ứng dịch vụ XTTM: Nhu cầu của doanh nghiệp đa dạng và phong phú nhưng năng lực cung cấp các dịch vụ của các tổ chức XTTM thì lại vô cùng hạn chế. Mới chỉ có thể cung cấp các dịch vụ nào có nhu cầu thấp và dễ triển khai, ít tạo hiệu quả và giá trị gia tăng cho doanh nghiệp. Cơ sở hạ tầng phục vụ công tác XTTM nói chung và đối với xúc tiến xuất khẩu nông sản nói riêng còn rất nghèo nàn và sơ sài. Hiện nay, các địa điểm chuyên dụng để tổ chức HCTL ngành hàng nông sản ở các địa phương hầu như là không đạt các tiêu chuẩn quốc tế và thường được tổ chức tại các nhà văn hoá, công viên… hoặc nếu có địa điểm đạt yêu cầu quốc tế thì chỉ tập trung ở các thành phố lớn như Hà Nội, TPHCM, Đà Nẵng. Bên cạnh đó, điều kiện về mặt bằng, bố trí gian hàng, không gian trưng bày… vẫn còn sơ sài và thiếu tính thẩm mỹ. Hệ thống máy tính, công nghệ hiện đại phục vụ công tác XTTM còn cũ và thiếu thốn ở các tỉnh/thành phố. Công tác thông tin, dự báo còn hạn chế, nhất là thông tin, dự báo đến tận người sản xuất kinh doanh về yêu cầu của thị trường, về xu hướng biến động giá cả, thị hiếu của người tiêu dùng... XTTM nông sản chưa tương xứng với yêu cầu ngày càng cao của cạnh tranh thương mại quốc tế, nhất là trong bối cảnh hội nhập hiện nay đã gây không ít khó khăn cho thị trường xuất khẩu nông sản. Hầu hết các doanh nghiệp chưa chủ động trong công tác xúc tiến mở rộng thị trường, mới chỉ một số doanh nghiệp lớn nhất định quan tâm, chủ động trong công tác XTTM. Hoạt động hội chợ triển lãm được sự tham gia, hưởng ứng của rất nhiều doanh nghiệp do những lợi ích mang lại như số lượng các HCTL ngày càng nhiều, số lượng doanh nghiệp đăng ký tham gia cũng lớn. Tuy nhiên, hoạt động HCTL vẫn còn hạn chế về nội dung, quy mô nhỏ và hạn chế về số lượng doanh nghiệp tham gia, thiếu tính chuyên nghiệp, thiếu nghiêm túc... Mỗi năm, kinh phí của Nhà nước cấp cho hoạt động XTTM nông nghiệp quá ít, chỉ khoảng trên 10 tỷ. Thiếu kinh phí quảng bá, nhiều mặt hàng nông sản ít có cơ hội được biết đến rộng rãi, ảnh hưởng phần nào đến việc tiêu thụ sản phẩm. Mới được chú trọng ở một số nhóm ngành hàng như thủy sản, đồ gỗ. Hầu hết doanh nghiệp thiếu tích cực trong việc tham gia các hoạt động XTTM; chưa chủ động nghiên cứu phát triển sản phẩm, đặc biệt là sản phẩm giá trị gia tăng, phù hợp với thị hiếu tiêu dùng của từng thị trường; thụ động chờ khách hàng đặt hàng nên dễ bị lệ thuộc về mẫu mã và giá cả. Nguyên nhân Chưa có chiến lược tổng thể cho sự phát triển hoạt động XTTM từ cấp Trung ương đến các địa phương một cách thống nhất và đồng bộ. Cán bộ làm công tác XTTM còn thiếu, ít kinh nghiệm Nguồn thông tin phục vụ công tác XTTM không được cung cấp 1 cách đầy đủ và chính xác, không được cập nhật thường xuyên do đó gây khó khăn cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Kinh phí dành cho công tác XTTM còn hạn hẹp và các văn bản pháp luật liên quan đến tài chính cho XTTM còn nhiều bất cập. Hầu hết các doanh nghiệp nông sản đều có kinh phí ít hoặc không được chú trọng cho hoạt động XTTM. Chưa có sự phối hợp giữa các Hiệp hội ngành hàng, doanh nghiệp và người nông dân. Chưa có kinh nghiệm trong việc tổ chức các hoạt động XTTM mang tầm cỡ quốc tế, thiếu tính chuyên nghiệp và chiều sâu. CHƯƠNG 4 MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY HOẠT ĐỘNG XTXK HÀNG NÔNG SẢN CỦA VIỆT NAM Giải pháp thúc đẩy hoạt động xúc tiến xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam Nhóm giải pháp từ phía Nhà nước và các Bộ ngành Nhóm giải pháp về cơ chế chính sách Căn cứ vào Luật Thương mại sửa đổi năm 2005, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 279/2005/QĐ-TTg ngày 3 tháng 11 năm 2005 về Chương trình XTTM quốc gia. Sau đó, ngày 21 tháng 5 năm 2009 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 80/2009/QĐ-TTg sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế xây dựng và thực hiện Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia giai đoạn 2006-2010 ban hành kèm theo Quyết định số 279/2005/QĐ-TTg ngày 03 tháng 11 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ. Đây là chương trình XTTM được xây dựng theo định hướng về thị trường, ngành hàng xuất khẩu của Chiến lược xuất khẩu thời kỳ 2006 - 2010 và được Nhà nước hỗ trợ kinh phí thực hiện với mục tiêu nhằm tăng cường hoạt động XTTM, phát triển thị trường xuất khẩu; tạo điều kiện xây dựng cơ sở vật chất, hạ tầng phục vụ công tác XTTM, đồng thời thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Trong thực tế hoạt động XTTM đối với hàng nông sản còn nhiều hạn chế. Các hoạt động khuyến mại, quảng bá, hội chợ triển lãm, hội chợ ẩm thực... chưa được thực hiện một cách đồng bộ và chuyên nghiệp. Những lợi ích từ hoạt động XTTM mang đến cho doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu nông sản chưa nhiều. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp và người nông dân vẫn chưa chú trọng đến công tác XTTM. Do đó, Chính phủ, Bộ NN&PTNT, Bộ công thương và các Bộ ngành liên quan cần sớm xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý văn bản cụ thể cho hoạt động XTTM đối với hàng nông sản như chính sách hỗ trợ về kinh phí hoạt động, về hỗ trợ về cơ sở hạ tầng, về nguồn nhân lực... Nhóm giải pháp về hệ thống tổ chức Thực hiện thể chế hóa lại hệ thống XTTM từ trung ương đến địa phương, nhằm đảm bảo sự phối hợp, liên kết sâu hơn, chỉ đạo thông suốt với nhau hơn nhằm nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của hoạt động XTTM. Thực hiện cải cách thủ tục hành chính thông thoáng, các thủ tục liên quan đến nguồn kinh phí cấp cho hoạt động XTTM được tạo điều kiện thuận lợi để phát triển các hoạt động XTTM hàng nông sản. Chủ động, nhanh chóng nắm bắt và thực hiện các quy định cam kết trong thương mại quốc tế và các quy định của luật pháp Việt Nam. Cập nhật thường xuyên các thông tin, quy định của quốc tế liên quan đến mặt hàng NLTS. Xây dựng cơ chế kiểm tra, kiểm soát thị trường, có chế tài xử phát nghiêm khắc đối với các hành vi vi phạm quyền sở hữu trí tuệ, buôn bán hàng giả. Thường xuyên có các cuộc thanh tra, kiểm tra tình hình hoạt động công tác của hệ thống tổ chức, trình độ năng lực của nhân viên... Hệ thống các tố chức XTTM trong nước và nước ngoài hiện nay đang ngày càng phát triển cả về số lượng và chất lượng. Tuy nhiên, thì việc liên kết hợp tác giữa các đơn vị trong nước với nhau cũng như với các cơ quan đại diện ở nước ngoài còn rất bất cập. Điều đó cũng gây ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động xuất khẩu nông sản của các doanh nghiệp như thực hiện các hoạt động ký kết hợp đồng, tham gia các hội chợ triển lãm...Do đó cần có những giải pháp như sau: - Tăng cường liên kết thông qua hội nghị giao ban XTTM thường niên. - Tổng hợp hoạt động XTTM trên cả nước. - Tăng cường liên kết, phối hợp hoạt động với các cơ quan thương vụ của Việt Nam tại nước ngoài. Nhóm giải pháp về phát triển nguồn nhân lực Tăng cường công tác đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức của các Bộ, ngành có chuyên môn giỏi, am hiểu thị trường để thực hiện tốt việc XTTM. Thuê chuyên gia trong và ngoài nước để tư vấn phát triển xuất khẩu và tư vấn thiết kế mẫu mã sản phẩm, nâng cao chất lượng giá trị gia tăng hàng NLTS xuất khẩu. Tạo môi trường làm việc năng động, chuyên nghiệp và có các chính sách ưu đãi về tiền lương, thưởng đối với các cán bộ làm công tác XTTM có kinh nghiệm, chất lượng và hiệu quả cao. Có kế hoạch đào tạo và đào tạo lại đội ngũ nhân lực làm công tác XTTM theo các yêu cầu của công việc và nhiệm vụ phát triển sản phẩm của doanh nghiệp. Nhóm giải pháp về thông tin thị trường Về phát triển thị trường - Tổ chức tham gia học tập, tham quan việc XTTM của một số nước giàu kinh nghiệm về XTTM trên thế giới như Nhật Bản, Hàn Quốc... - Chủ động nghiên cứu đề xuất các chương trình XTTM phù hợp với các sản phẩm của vùng đã sản xuất ra để trình Chính phủ; thực hiện tốt việc đàm phán để Chính phủ ký các hiệp định song phương và đa phương với các nước. - Hỗ trợ doanh nghiệp trong việc đăng ký thương hiệu hàng hoá trên thị trường thế giới, giới thiệu quảng bá sản phẩm thong qua các văn phòng đại diện của Việt Nam tại nước ngoài, hỗ trợ công tác khảo sát thị trường mới tiềm năng cho xuất khẩu nông sản. - Linh hoạt và chủ động theo dõi kịp thời những diễn biến của thị trường qua đó có các biện pháp hỗ trợ đối với doanh nghiệp. - Hỗ trợ doanh nghiệp trong việc nghiên cứu triển khai, áp dụng khoa học kỹ thuật vào việc phát triển thị trường, đăng ký thương hiệu hàng hóa để phát triển sản phẩm, quảng bá sản phẩm trên thế giới. - Tổ chức cho các doanh nghiệp tham gia HCTL ở trong và ngoài nước. - Thiết lập các trung tâm giới thiệu trưng bày sản phẩm nông, lâm, thủy sản ở các thị trường lớn như Trung Quốc, Nhật Bản, Nga, Mỹ... - Hỗ trợ doanh nghiệp tham gia vào hệ thống các kênh phân phối hàng nông lâm thủy sản qua đó ổn định và giữ vững được thị trườg. Về thông tin tuyên truyền - Ưu tiên triển khai thực hiện các dự án nhằm tăng cường năng lực thông tin thương mại hàng nông, lâm, thủy sản thuộc Chương trình XTTM quốc gia. - Tăng cường truyên truyền quảng bá nhằm phổ biến về chủ trương, đường lối, chính sách phát triển kinh tế xã hội, thông tin tổng hợp và có tính dự báo trung và dài hạn về thị trường nông sản thế giới và của Việt Nam. - Có biện pháp quảng bá và hướng dẫn tiêu dùng hàng nông, lâm, thủy sản của Việt Nam ngay tại thị trường Việt Nam. - Xây dựng và tổ chức mạng lưới thông tin quốc gia đáp ứng các yêu cầu về thông tin thương mại phục vụ doanh nghiệp NLTS. Nhóm giải pháp về nâng cao năng lực tài chính - Chính phủ cần có chính sách hỗ trợ kinh phí cho hoạt động XTTM một cách ổn định để đảm bảo hoạt động hiệu quả. Do đó để đảm bảo kinh phí XTTM cho ngành nông nghiệp đạt mức tối thiểu là 0,03 - 0,05% doanh thu xuất khẩu NLTS. - Đối với việc tổ chức hội chợ, quảng bá sản phẩm hàng hóa trong nước cũng như ngoài nước, giao cho các tổ chức, doanh nghiệp thực hiện triển khai theo yêu cầu, nội dung của Bộ, ngành chuyên môn. Phần chi phí do doanh nghiệp đảm nhận, Nhà nước chỉ hỗ trợ một phần khi hội chợ thành công. - Về kinh phí thực hiện tuyên truyền chính sách chế độ của nhà nước về XTTM và các thông tin liên quan đến thị trường trên các phương tiện thông tin đại chúng, Nhà nước hỗ trợ 100% kinh phí để cho các tổ chức, doanh nghiệp. - Về kinh phí quảng bá thương hiệu, quảng cáo sản phẩm và XTTM của các đơn vị, doanh nghiệp được Nhà nước xem xét hỗ trợ một phần khi sản phẩm tiêu thụ có hiệu quả. - Tăng cường hợp tác quốc tế và tranh thủ các nguồn tài chính từ các tổ chức quốc tế cho hoạt động XTTM. - Đổi mới cơ chế chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tăng cường chi phí cho hoạt động XTTM. Nhóm giải pháp về hoàn thiện và phát triển cơ sở hạ tầng Quy hoạch hạ tầng XTTM trên cả nước một cách hợp lý và hiện đại để phục vụ cho hoạt động HCTL nói chung và các hoạt động XTTM khác nói riêng. Ưu tiên đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho thương mại điện tử phục vụ công tác XTTM ngành nông sản. Tập trung xây dựng các trung tâm triển lãm hàng nông sản tầm cỡ quốc tế, đầu tư cho việc thuê mặt bằng, trang thiết bị, gian hàng trưng bày... Tăng cường hợp tác quốc tế để tận dụng các nguồn lực về vốn, công nghệ, nhân lực...cho việc phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ tốt công tác XTTM hàng nông sản. Nhóm giải pháp từ phía Hiệp hội ngành hàng Nhóm giải pháp từ phía doanh nghiệp Xây dựng chiến lược và kế hoạch sản phẩm xuất khẩu của doanh nghiệp mình đề tạo chỗ đứng ổn định tại thị trường nước nhập khẩu nông sản. Xây dựng chính sách mặt hàng chủ lực của doanh nghiệp, cần tập trung sản xuất và kinh doanh một mặt hàng có lợi thế để giúp doanh nghiệp chiếm lĩnh được thị phần và thị trường của nước nhập khẩu mặt hàng nông sản. Mặt hàng xuất khẩu đó phải phù hợp với thị trường nước nhập khẩu như về mẫu mã, bao bì, tiêu chuẩn chất lượng, thị hiếu người tiêu dùng, kiểu dáng, đóng gói… Nâng cao chất lượng sản phẩm nông sản từ khâu sản xuất, nuôi trồng, chế biến và xuất khẩu. Tất cả các quá trình đều phải được kiểm tra, giám sát chặt chẽ đảm bảo các tiêu chuẩn chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm phù hợp với các quy định của WTO, tiêu chuẩn của nước nhập khẩu sản phẩm. Thường xuyên cập nhật các thông tin về tình hình kinh tế, tình hình sản xuất và kinh doanh của đối thủ cạnh tranh, doanh nghiệp đối tác, thị hiếu người tiêu dùng nước nhập khẩu… thông qua các thông tin thương mại, tư vấn về XTTM của Chính phủ và bộ ngành, các tổ chức XTTM có uy tín và thương hiệu, các Hiệp hội ngành hàng. Tham gia tích cực các HCTL chuyên ngành ở trong và ngoài nước qua đó giới thiệu sản phẩm, tìm kiếm đối tác, trao đổi thông tin về thị trường, đồng thời đàm phán ký kết các hợp đồng, biên bản ghi nhớ quan trọng. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực: hàng năm cử cán bộ nhân viên tham gia các khoá đào tạo về marketing xuất khẩu, nghiệp vụ kinh doanh ngoại thương, kỹ năng về XTTM…do các cơ quan của Chính phủ tổ chức hay do các chuyên gia có uy tín từ nước ngoài giảng dạy. Về xây dựng và hoàn thiện cơ sở hạ tầng: Một số đề xuất, kiến nghị thúc đẩy hoạt động XTTM đối với hàng nông sản Một số đề xuất, kiến nghị đối với Nhà nước và các Bộ ngành liên quan Đối với hoạt động của thương vụ Việt Nam ở nước ngoài Các thương vụ Việt Nam tại nước ngoài nên cử đại diện tham gia các hiệp hội, ngành hàng của nước sở tại có quan hệ nhập khẩu nhiều hàng NLTS của Việt Nam. Bởi thực tế, nhiều thông tin quan trọng chỉ có thể nắm được nếu là thành viên của hiệp hội, ngành hàng đó. Ngoài ra, cần phải đổi mới, đẩy nhanh việc xét duyệt, áp dụng cơ chế linh hoạt trong công tác XTTM mới đáp ứng tình hình kinh tế đang có những biến động bất lợi. Đối với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Cần sớm hoàn thiện đề án về “Chương trình xúc tiến thương mại ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn giai đoạn 2009-2015 và xây dựng định hướng hoạt động XTTM của ngành cho giai đoạn 5 năm tiếp theo 2016-2020” trình Chính phủ phê duyệt để có thể đẩy mạnh hoạt động xúc tiến xuất khẩu các sản phẩm nông sản đạt các mục tiêu đã đề ra. Bộ NN&PTNT cần có cơ chế gắn kết giữa các chương trình xúc tiến hàng nông sản của Bộ với chương trình XTTM quốc gia do các Hiệp hội ngành hàng nông nghiệp chủ trì thực hiện, tránh chồng chéo, trùng lắp, giảm nguồn lực, đảm bảo sử dụng nguồn ngân sách hỗ trợ đạt hiệu quả cao nhất. Đối với Bộ Tài Chính Thông báo nhanh chóng và kịp thời nguồn Ngân sách quốc gia cho hoạt động XTTM, đồng thời cần đơn giản hóa các thủ tục hành chính, tạo hành lang pháp lý thông thoáng thuận lợi cho việc thanh quyết toán cho các đơn vị chủ trì. Bên cạnh đó, có thể áp dụng thương mại điện tử để phục vụ cho các hoạt động của Bộ. Đối với các Sở, ban, ngành địa phương Hàng năm, thông báo về chương trình XTTM quốc gia của Bộ Công Thương với các tổ chức, doanh nghiệp. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền để các doanh nghiệp trong tỉnh/địa phương có điều kiện tìm hiểu, lựa chọn, đăng ký tham gia và hưởng lợi từ chương trình XTTM quốc gia. Một số đề xuất, kiến nghị đối với các Hiệp hội ngành nông sản Cần nâng cao tính chuyên nghiệp cũng như năng lực xây dựng, tổ chức thực hiện các chương trình XTTM quốc gia, nâng cao vai trò, vị thế của Hiệp hội ngành hàng đối với doanh nghiệp trong nước. Chủ động làm hồ sơ quyết toán theo đúng thời gian qui định và hướng dẫn của cơ quan quản lý về tài chính. Một số đề xuất, kiến nghị đối với các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản Cần tích cực hưởng ứng, nghiêm túc tham gia để hưởng lợi và có ý kiến phản ánh, đề xuất kiến nghị cho các cơ quan quản lý để chương trình XTTM quốc gia đạt kết quả tốt hơn. Bên cạnh đó, cần xây dựng và hoàn thiện kế hoạch xuất khẩu phù hợp với từng thị trường, mặt hàng cụ thể. KẾT LUẬN Xúc tiến thương mại là một trong những công cụ quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển thương mại của mỗi quốc gia. Với lợi thế tài nguyên thiên nhiên và khí hậu thuận lợi cho sự phát triển của mặt hàng nông sản cho nên Đảng và Nhà nước ta đã đặc biệt quan tâm và hỗ trợ đến công tác XTTM đối với mặt hàng này để thực hiện thành công mục tiêu công nghiệp hoá - hiện đại hóa đất nước. Các hoạt động XTTM ở cấp quốc gia, doanh nghiệp, Hiệp hội ngành hàng...là một trong những hoạt động góp phần thực hiện thành công mục tiêu chiến lược phát triển xuất khẩu hàng nông sản giai đoạn 2006-2010 và tầm nhìn 2020. Xuất khẩu NLTS vẫn chiếm một phần không nhỏ trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ của nước ta. Tuy nhiên, sau khi hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, mặt hàng nông sản đã gặp phải không ít những khó khăn, trở ngại từ các rào cản kỹ thuật của các nước như: quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm, quy định về bảo vệ môi trường sinh thái, dán nhãn sinh thái… Do đó, hoạt động XTTM đối với ngành hàng nông sản lại càng trở nên đặc biệt quan trọng để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu và thu lợi nhuận của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, ở Việt Nam hoạt động XTTM ở các ngành, các cấp và các doanh nghiệp vẫn còn nhiều mâu thuẫn và bất cập trong quá trình thực hiện. Bên cạnh đó, cơ sở hạ tầng, đội ngũ nhân lực, dịch vụ XTTM, nguồn ngân sách phục vụ hoạt động XTTM còn ít và mang lại hiệu quả chưa cao. Do đó, trong thời gian tới Chính phủ, các bộ ban ngành cần có các giải pháp để đổi mới nâng cao hiệu quả hoạt động XTTM từ đó thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của nước ta nói chung và hoạt động xuất khẩu NLTS nói riêng. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Cục chế biến thương mại NLTS và nghề muối - Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn (2009), Dự án xây dựng chương trình XTTM ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn giai đoạn 2009-2015 và định hướng đến năm 2020. Cục Xúc tiến thương mại – Bộ Công thương, Tổng hợp báo cáo kết quả thực hiện Chương trình XTTM trọng điểm quốc gia năm 2006 - 2009. Đỗ Đức Bình, Nguyễn Thường Lạng (2005), Giáo trình kinh tế quốc tế, Nxb Lao động Xã hội, Hà Nội. Nguyễn Việt Hòa, Bài phát biểu về “Thực trạng tổ chức, thực hiện hoạt động XTTM của ngành nông nghiệp theo chương trình XTTM quốc gia”, Phòng Chính sách phát triển xuất khẩu, Cục XTTM. Nghị định số 37/2006/NĐ-CP ngày 04 tháng 4 năm 2006 của Chính phủ quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động xúc tiến thương mại và các quy định pháp luật hiện hành về hoạt động khuyến mại; Quy định số 279/2005/QĐ-TTg ngày 03 tháng 11 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ về ban hành Quy chế xây dựng và thực hiện Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia giai đoạn 2006-2010; Quyết định số 12/2006/QĐ-BTM ngày 28 tháng 02 năm 2006 của Bộ Thương mại về việc ban hành Quy chế làm việc của Hội đồng thẩm định Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia giai đoạn 2006-2010. Tô Xuân Dân (1998), Chính sách kinh tế đối ngoại Lý thuyết và kinh nghiệm quốc tế, Nxb Thống kê, Hà Nội. Thông tư liên tịch số 07/2007/TTLT-BTM-BTC ngày 06 tháng 7 năm 2007 của liên Bộ Thương mại – Tài chính hướng dẫn thực hiện một số điều về khuyến mại và hội chợ, triển lãm thương mại quy định tại Nghị định số 37/2006/NĐ-CP ngày 04 tháng 4 năm 2006 của Chính phủ quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động xúc tiến thương mại. Các trang web: www.vietrade.gov.vn www.agroviet.gov.vn www.gso.gov.vn www.customs.gov.vn www.mof.gov.vn www.agritrade.com.vn www.vasep.com.vn www.vietfores.org DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT Bộ NN&PTNT: Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn HCTL: Hội chợ triển lãm NLTS: Nông lâm thủy sản XTTM: Xúc tiến thương mại XTXK: Xúc tiến xuất khẩu TPHCM: Thành phố Hồ Chí Minh VFA: Hiệp hội Lương thực Việt Nam VAFEC: Trung tâm Tiếp thị Triển lãm Nông nghiệp và PTNT VASEP: Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam Vietfores: Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam WTO: Tổ chức thương mại thế giới DANH MỤC BẢNG BIỂU MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ CỦA NHÀ NƯỚC VỀ XTTM VÀ HỆ THỐNG CÁC TỔ CHỨC XTTM TẠI VIỆT NAM 4 1.1. Tổng quan về công tác quản lý của nhà nước về XTTM 4 1.1.1. Tổng quan chung 4 1.1.1.1. Khái niệm 4 1.1.1.2. Chức năng 4 1.1.1.3. Đối tượng quản lý Nhà nước về XTTM 4 1.1.2. Khái quát thực trạng hoạt động quản lý của nhà nước về XTTM 5 1.1.3. Một số đánh giávề công tác quản lý nhà nước về XTTM 7 1.1.3.1. Ban hành các văn bản như luật, quyết định, thông tư, nghị định của Nhà nước, Chính phủ và các Bộ ngành có liên quan để quản lý hoạt động XTTM 7 1.1.3.2. Đối với công tác quản lý các Chương trình XTTM trọng điểm quốc gia nói chung và các chương trình XTTM đối với ngành hàng nông sản của Việt Nam 8 1.1.3.3. Điều phối các chương trình HCTL, tiếp nhận đăng ký các chương trình khuyến mại cho doanh nghiệp 9 1.2. Hệ thống các tổ chức XTTM tại Việt Nam 10 1.2.1. Ở cấp quốc gia 10 1.2.2. Các tổ chức XTTM và các hiệp hội ngành hàng 12 1.2.3. Các tổ chức kinh doanh dịch vụ XTTM 12 1.2.4. Các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh 12 CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XÚC TIẾN XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN CỦA VIỆT NAM 14 2.1. Khái quát tình hình sản xuất và xuất khẩu nông sản giai đoạn 2001 - 2009 14 2.1.1. Tình hình sản xuất 14 2.1.1.1. Tình hình sản xuất chung 14 2.1.1.2. Tình hình sản xuất ngành nông lâm thuỷ sản 15 2.1.2. Tình hình xuất khẩu 20 2.1.2.1.Tình hình chung …………………………………...20 2.1.2.2.Tình hình xuất khẩu một số mặt hàng NLTS chủ yếu21 2.2. Thực trạng hoạt động xúc tiến xuất khẩu hàng nông sản 30 2.2.1. Hoạt động XTTM ở cấp quốc gia 30 2.2.1.1.Khái quát về Chương trình XTTM trọng điểm quốc gia 30 2.2.1.2.Hoạt động XTXK nông sản cụ thể 32 2.2.2. Hoạt động XTXK nông sản ở các Hiệp hội ngành hàng 36 2.2.3. Hoạt động XTTM ở cấp doanh nghiệp 43 2.2.3.1. Công tác thị trường và sản phẩm nông sản 44 2.2.3.2. Tham gia các HCTL nông sản trong và ngoài nước 44 2.2.3.3. Tài chính đối với hoạt động XTTM của DN 45 CHƯƠNG 3. ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG XTTM ĐỐI VỚI HÀNG NÔNG SẢN XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM 46 3.1.Những mặt thành công 46 3.2.Những mặt tồn tại 47 3.3.Nguyên nhân 49 CHƯƠNG 4. MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY HOẠT ĐỘNG XTXK HÀNG NÔNG SẢN CỦA VIỆT NAM 51 4.1. Giải pháp thúc đẩy hoạt động xúc tiến xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam 51 4.1.1Nhóm giải pháp từ phía Nhà nước và các Bộ ngành 51 4.1.1.1. Nhóm giải pháp về cơ chế chính sách……………… 51 4.1.1.2.Nhóm giải pháp về hệ thống tổ chức ………………. 52 4.1.1.3. Nhóm giải pháp về phát triển nguồn nhân lực…….. 53 4.1.1.4.Nhóm giải pháp về thông tin thị trường…………….. 53 4.1.1.5.Nhóm giải pháp về nâng cao năng lực tài chính…... 55 4.1.1.6.Nhóm giải pháp về hoàn thiện và phát triển CSHT.. 55 4.1.2.Nhóm giải pháp từ phía Hiệp hội ngành hàng 56 4.1.3.Nhóm giải pháp từ phía doanh nghiệp 56 4.2. Một số đề xuất, kiến nghị thúc đẩy hoạt động XTTM đối với hàng nông sản 57 4.2.1. Một số đề xuất, kiến nghị đối với Nhà nước và các Bộ ngành liên quan 57 4.2.1.1. Đối với hoạt động của thương vụ Việt Nam ở nước ngoài 57 4.2.1.2. Đối với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 57 4.2.1.3. Đối với Bộ Tài Chính 58 4.2.1.4. Đối với các Sở, ban, ngành địa phương 58 4.2.2. Một số đề xuất, kiến nghị đối với các Hiệp hội ngành nông sản 59 4.2.3. Một số đề xuất, kiến nghị đối với các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản 59 KẾT LUẬN 60

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25739.doc
Tài liệu liên quan