Chuyên đề Thúc đẩy xuất khẩu giày dép sang thị trường EU của các doanh nghiệp

Đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa nói chung, mặt hàng giày dép nói riêng sang thị trường EU là một vấn đề cấp thiết nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi Việt Nam đã là thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO thì sự biến động trên thị trường thật sự khó nhận biết. Đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng giày dép là một vấn đề hết sức phức tạp, liên quan đến rất nhiều khía cạnh đòi hỏi phải có sự đầu tư một cách thích đáng của các cơ quan ban ngành có liên quan, đây là vấn đề cần được xem xét đánh giá ở tầm vĩ mô. Tuy còn hạn chế nhưng đề tài đã đạt được những kết quả bước đầu: - Trên cơ sở nghiên cứu đánh giá của các chuyên gia và nguồn thông tin thu thập được đề án đã nêu lên được những vấn đề cơ bản về xuất khẩu giày dép sang thị trường EU nêu lên được tiềm năng cũng như vai trò xuất khẩu giày dép đối với sự phát triển kinh tế nước ta, những đặc điểm cũng như yêu cầu của thị trường EU đối với sản phẩm giày dép - Trên cơ sở theo dõi số liệu xuất khẩu trong thời gian gần đây, đề án đã nêu lên thực trạng xuất khẩu giày dép sang thị trường EU thông qua các chỉ tiêu phân tích, đồng thời đánh giá những thành tựu, những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế đó.

doc57 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2316 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thúc đẩy xuất khẩu giày dép sang thị trường EU của các doanh nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
về xuất khẩu dịch vụ, chiếm 43,8% thị phần thế giới (gấp 2,5 lần Mỹ); đầu tư ra nước ngoài chiếm 47% FDI toàn cầu. Điều này cho thấy, EU đã và đang là một thị trường rộng lớn, đầy hứa hẹn đối với cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam trên con đường phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế. Năm 2007, thương mại Việt Nam- EU được đánh giá là rất "năng động", tổng kim ngạch hai chiều đạt 14,23 tỷ USD (tăng 39,26%) vượt mức dự báo trước đó. Trong đó, Việt Nam xuất khẩu 9,1 tỷ USD (tăng 28,2%) và nhập khẩu 5,13 tỷ USD (tăng 64,3%). Tốc độ tăng trưởng nhập khẩu từ EU là tác động mở cửa thị trường của Việt Nam và sự tăng đầu tư của EU vào Việt Nam. Theo Bộ Công Thương, thông qua việc khai thác triệt để các thị trường trọng điểm có kim ngạch lớn gồm Đức, Anh, Pháp, Hà Lan, Bỉ, đồng thời đẩy mạnh xúc tiến thương mại vào các thị trường mới của EU, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào EU năm 2008 có thể sẽ đạt 11,18 tỷ USD, tăng 23,5% so với năm 2007. Bảng 2: Kim ngạch xuất khẩu sang thị trường EU qua các năm Năm 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Kim ngạch xuất khẩu (triệu USD) 3.198 3.919 4.939 5.480 7.045 9.028 So với năm trước 3,88 22,56 26,02 10,96 28,54 28,16 Biểu đồ 2 : Xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam 2002-2007 Đơn vị:( triệu USD) Trong thị trường EU, Việt Nam có quan hệ với nhiều nước. Kim ngạch xuất khẩu sang các nước hàng năm đều tăng. Đặc biệt trong năm 2007, là năm nước ta gia nhập WTO, nước ta phải đối mặt với nhiều thách thức và có nhiều cơ hội. Bảng 3: Xuất khẩu của Việt Nam sang các nước thuộc EU năm 2007 Thị trường Tháng 12/07 (ngàn USD) So tháng 12/06 (%) Năm 2007 (ngàn USD) So năm 2006 (%) Tổng 941.401 -4,96 9.028.338 28,16 Đức 211.813 15,40 1.855.056 28,35 Anh 126.545 14,09 1.431.424 21,34 Hà Lan 119.997 35,29 1.182.144 37,87 Pháp 95.929 16,58 884.351 10,93 Bỉ 88.651 26,47 849.028 23,50 Italia 93.970 18,32 816.849 25,08 Tây Ban Nha 75.085 7,68 759.632 36,13 Ba lan 20.375 12,27 220.890 37,95 Thụy điển 24.471 48,16 202.356 18,36 Đan mạch 15.565 -0,04 138.049 26,04 áo 7.742 -21,57 111.949 14,85 CH Séc 12.780 90,21 102.047 45,59 Phần Lan 9.997 32,92 92.512 34,32 Hy lạp 8.268 35,39 81.805 26,54 Slôvakia 6.288 78,03 71.480 209,87 Hungari 6.467 35,69 62.713 89,80 Bồ Đào Nha 5.892 72,48 52.115 58,90 Bungari 2.630 0,00 35.868 - Rumani 3.642 0,00 32.317 - Sôlôvenhia 2.289 52,91 18.087 57,05 Látvia 842 13,78 8.932 75,69 CH Síp 936 61,38 6.958 18,33 Extônia 662 -99,69 5.787 -27,13 Aixơlen 312 -15,45 4.748 36,52 Manta 253 40,56 1.241 -35,57 Các mặt hàng xuất khẩu sang EU cũng tăng cả về số lượng mặt hàng và về cơ cấu mặt hàng. Bảng 4: Các mặt xuất khẩu sang thị trường EU trong năm 2007 Mặt hàng Tháng 12/2007 (nghìn USD) So tháng12/06(%) Năm 2007 (nghìn USD) So năm 2006 (%) Tổng 941.401 -4,96 9.028.338 28,16 Giày dép các loại 238.839 16,54 2.176.308 11,45 Hàng dệt may 147.455 8,34 1.487.636 20,14 Hàng hải sản 120.459 102,82 911.479 40,69 Cà phê 104.005 3,93 878.873 63,18 Gỗ, sản phẩm gỗ 129.812 135,36 621.197 27,85 Máy vi tính, sp điện tử và linh kiện 37.654 50,03 415.195 50,96 Túi xách, ví, vali, mũ và ô dù 25.760 21,98 247.161 20,55 Sản phẩm chất dẻo 209.258 1.672,17 185.024 77,15 Hạt điều 12.444 71,17 164.527 56,08 Cao su 15.305 -66,44 147.566 -4,12 Sản phẩm mây, tre, cói, thảm 58.407 499,66 119.303 27,28 Sản phẩm gốm sứ 16.084 5,29 116.707 19,12 Sản phẩm đá quý, kim loại quý 5.956 -3,25 88.290 -2,35 Hạt tiêu 6.039 28,08 85.586 37,52 Than đá 0 - 40.633 112,78 Hàng rau quả 4.458 75,30 39.062 49,61 Đồ chơi trẻ em 4.097 90,12 29.203 -7,56 Xe đạp và phụ tùng 2.204 14,61 21.041 -59,54 Mỳ ăn liền 23.400 1.182,19 17.564 27,24 Chè 1.165 -18,53 11.630 7,02 Dây điện và dây cáp điện 859 87,96 9.272 174,48 Thiếc 260 -64,96 5.601 100,47 Gạo 281 307,25 4.894 106,76 Quế 0 - 303 32,89 2.3.2 Kim ngạch xuất khẩu giày dép sang thị trường EU. Hiện nay, EU là thị trường nhập khẩu giày dép của Việt Nam lớn thứ 2 trên thế giới (sau Hoa Kỳ) và được coi là thị trường trọng điểm của Việt Nam. Nhu cầu nhập khẩu giày dép những năm gần đây của thị trường EU khoảng trên 29 tỷ USD/năm. Theo số liệu thống kê, xuất khẩu giày dép của Việt Nam vào thị trường EU đã tăng khá nhanh trong thời gian qua và đạt 2,184 tỷ USD trong năm 2007, tăng 8% so với năm 2006 và chiếm 7,2% kim ngạch nhập khẩu của khu vực này. Nhìn chung, giày dép Việt Nam xuất khẩu vào EU tăng trưởng nhanh về khối lượng và kim ngạch xuất khẩu. Hiện nay, 33 mã hàng giày thể thao và giày mũ da bị áp thuế chống bán phá giá, các chủng loại khác vẫn được hưởng ưu đãi thuế quan. Tuy đạt được tốc độ tăng trưởng khá nhưng nhìn chung, xuất khẩu giày dép của Việt Nam vẫn đang phải đối mặt với nhiều hạn chế như nhiều nguyên liệu đầu vào của ngành da giày phải nhập khẩu từ bên ngoài, khâu tiêu thụ còn phụ thuộc lớn vào đối tác trong liên doanh, khâu nghiên cứu thị hiếu thị trường, thiết kế mẫu mã và phát triển sản phẩm mới còn yếu. Mục tiêu dự kiến của mặt hàng giày dép năm 2008 đối với thị trường EU là đạt kim ngạch 2,7 tỷ USD, tăng 26% so với năm 2007. Bảng 5: Kim ngạch xuất khẩu giày dép 2003-2008 Năm 2003 2004 2005 2006 2007 KH 2008 Kim ngạch (triệu USD) 1605 1782 1810 1951 2184 2700 Biểu đồ 3 : Kim ngạch xuất khẩu giày sang EU Thị phần xuất khẩu - Dưới tác động của vụ kiện bán phá giá giày mũ da, thị phần xuất khẩu giày dép của Việt Nam vào thị trường EU đã bị giảm mạnh. Thống kê mới nhất của Hiệp hội Da giày Việt Nam cho biết, xuất khẩu vào EU chỉ chiếm 50% tổng kim ngạch xuất khẩu giày dép so với tỷ lệ 70% trước đây. Tuy nhiên, EU vẫn là thị trường xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam. Thị phần XK vào thị trường này vẫn chiếm số lượng lớn là do giày dép Việt Nam tiếp tục được hưởng ưu đãi theo hệ thống thuế quan phổ cập khi nhập khẩu vào EU. Cơ cấu sản phẩm Các loại sản phẩm xuất khẩu sang thị trường EU là giày thể thao chiếm tới 40% kim ngạch xuất khẩu, giày vải chiếm gần 20%, giày nữ xấp xỉ 20%, dép chiếm khoảng 15%, giày da 1,5% và các loại sản phẩm khác chiếm 3,5%. Bảng 6 : Cơ cấu các loại sản phẩm xuất khẩu sang EU Loại sản phẩm Tỷ trọng Giày thể thao 40% Giày vải 20% Giày nữ 20% Dép 15% Giày da 1,5% Các loại sản phẩm khác 3,5% Sự thay đổi về cơ cấu sản phẩm: - Các mặt hàng giày có mũ từ da giảm mạnh ( đặc biệt là giày nữ có mũ da) nhiều đối tác chuyển hướng đặt sản xuất giày thể thao công nghệ cao hoặc giày khác có mũ từ giả da nhằm tránh bị ảnh hưởng của việc áp thuế. - Mặt hàng giày vải tăng mạnh, một phần do nhu cầu tiêu dùng tăng, một phần do được duy trì trở lại sau thời gian suy giảm ( bởi các đơn hàng dự trữ hoặc tồn kho). Để đáp ứng nhu cầu giày vải một số doanh nghiệp tập trung khai thác tối đa năng lực sản xuất hiện có, một số doanh nghiệp khôi phục trở lại các dây chuyền sản xuất đã chuyển đổi từ trước đó. Tuy nhiên, yêu cầu về chất lượng và mẫu mã các loại giày vải cao hơn nhiều so với những năm trước đây, đặc biệt là các loại giày vải thời trang. - Sản lượng dép sandals, dép đi trong nhà gia tăng với nhiều mẫu mã đa dạng và phong phú. 2.3.3 Đánh giá hoạt động xuất khẩu giày dép Thành tựu đạt được Thời gian qua hoạt động xuất khẩu giày dép đã đạt được những thành tựu to lớn và ngày càng khẳng định được vị thế của mình trên thị trường trong nước và trên thế giới. Những năm qua ngành luôn tìm cách để nâng cao kim ngạch xuất khẩu, đồng thời nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hoá mẫu mã sản phẩm...nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng. Ngành chủ động khai thác thị trường và chủ động tìm kiếm bạn hàng, đặc biệt là bạn hàng nước ngoài. Xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác xuất khẩu giỏi về nghiệp vụ, chuyên môn và giàu kinh nghiệm. Từng bước xây dựng, áp dụng các tiêu chuẩn kỹ thuật ISO vào quá trình kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm những vấn đề phát sinh trong quá trình xuất khẩu, đặc biệt là sang thị trường EU- một trong những thị trường có yêu cẩu cao về chất lượng và kỹ thuật của sản phẩm. Thuận lợi Ngành giày dép tuy không chủ động được nguồn nguyên liệu để sản xuất giày nhưng lại có ưu thế là nhân công rẻ, kỹ năng làm các loại giày cao cấp, đòi hỏi tay nghề cao nên rất thích hợp cho việc sản xuất chủng loại giày trung và cao cấp vốn đòi hỏi sự tỉ mỉ, cầu kỳ và khéo léo của người thợ. Ngoài ra, dây chuyền sản xuất tương đối tiên tiến, đồng bộ vì được đầu tư mới dẫn đến năng suất cao, cùng với chi phí quản lý thấp, giá gia công rẻ hơn so với các đối thủ cạnh tranh. Khi ngành đã sản xuất được những sản phẩm chất lượng cao sẽ khẳng định được năng lực sản xuất của ngành. Điều đó sẽ giúp cho doanh nghiệp dễ dàng mở rộng khách hàng. Ngoài ra còn có những ưu thế sau: Được EU dành cho quy chế ưu đãi GSP: nhu cầu tiêu dùng lớn, ổn định và ngày càng gia tăng cùng với sự gia tăng giá trị đồng EURO; chất lượng sản phẩm giày dép ngày càng phù hợp và đáp ứng được yêu cầu của người tiêu dùng EU; các nước EU mở rộng tạo thêm nhiều cơ hội để các doanh nghiệp Da Giày Việt Nam xuất khẩu sang EU. Đồng thời thành công của Việt Nam trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại: đây chính là tiền đề giúp cho doanh nghiệp Việt Nam thâm nhập vào thị trường thế giới. Bắt đầu bằng việc Việt Nam gia nhập ASEAN; APEC; AFTA; đặc biệt là việc gia nhập WTO. Ngành đã từng bước hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lý tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất khẩu thuận lợi hơn. Qua thời gian phát triển, ngành đã từng bước thiết lập thị trường cung ứng trong nước cũng như nước ngoài, tạo điều kiện cho việc cung ứng sản phẩm, tạo được các mối quan hệ truyền thống... Ngoài ra, ngành còn đưa ra những phương hướng chung định hướng cho toàn ngành - từ đó giúp doanh nghiệp có định hướng đúng đắn. Ngành thường xuyên tổ chức các cuộc thi thiết kế sản phẩm... tạo điều kiện cho thúc đẩy đa dạng hoá sản phẩm. Đồng thời, thiết lập được hệ thống phân phối của ngành, tạo điều kiện cho hàng hoá lưu thông thuận lợi. Sắp hết thời hạn chống bán phá giá của EU. Theo thông báo của Ủy ban Châu Âu (EC) về thời hạn áp thuế chống bán phá giá đối với giày mũ da có xuất xứ từ Việt Nam và Trung Quốc, nếu không có yêu cầu rà soát, thời hạn áp thuế chống bán phá giá nói trên sẽ kết thúc ngày 7/10/2008. Theo EC, trong thời gian tới, các nhà sản xuất châu Âu có thể nộp đơn yêu cầu rà soát và cần cung cấp đầy đủ các bằng chứng chứng minh nếu không áp thuế chống bán phá giá nêu trên sẽ có khả năng dẫn đến việc tiếp tục hoặc tái diễn bán phá giá và gây thiệt hại đối với ngành sản xuất giày của châu Âu. Trong trường hợp Ủy ban châu Âu quyết định tiến hành rà soát các nhà nhập khẩu, nhà xuất khẩu thì đại diện của nước xuất khẩu và các nhà sản xuất EU có thể tham gia trao đổi, bình luận, và phản bác về những vấn đề nêu trong đơn yêu cầu rà soát. Vụ kiện chống bán phá giá giày mũ da nhập khẩu vào EU từ Việt Nam và Trung Quốc bắt đầu từ năm 2005. Tháng 4/2006, EC đã đề xuất các mức thuế sơ bộ đối với VN là 16,8% và 19,4% với Trung Quốc. Mức thuế này được áp dụng theo từng giai đoạn trong khoảng thời gian 6 tháng, bắt đầu từ mức 4%. Trong vụ kiện này, phía Việt Nam luôn giữ quan điển, doanh nghiệp VN không bán phá giá vào thị trường EU. Việc EC áp dụng mức thuế chống bán phá giá sơ bộ đối với giày có mũ da của VN là không phản ánh đúng thực tế. Lợi thế cạnh tranh của các doanh nghiệp VN là do giá nhân công rẻ và công nghệ hiện đại. Việc áp dụng mức thuế này sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới ngành giày da của VN, đặc biệt là hơn 500.000 lao động và 80% trong số đó là lao động nữ. Ngoài ra, việc áp dụng mức thuế này cũng gây ảnh hưởng không nhỏ tới lợi ích chính đáng của người tiêu dùng ở 27 nước thành viên EU Khó khăn và hạn chế -Phương thức sản xuất. Đặc điểm nổi bật của ngành công nghiệp da giầy Việt Nam là phương thức sản xuất chủ yếu vẫn là gia công cho đối tác nước ngoài, sản xuất phục vụ thị trường trong nước và xuất khẩu trực tiếp còn tương đối hạn chế. Trên 80% các doanh nghiệp Việt Nam là người gia công, nhà thầu phụ cho các hãng lớn. Từ mẫu mã cho đến giá bán hoàn toàn do phía đối tác quyết định, còn thu nhập của doanh nghiệp chủ yếu từ phí gia công sản phẩm. Vì vậy, doanh nghiệp Việt Nam hoàn toàn không được và không có khả năng quyết định giá bán một đôi giầy trên thị trường, không tham gia vào quá trình thương mại, không quyết định đầu vào và đầu ra cho một sản phẩm. Việt Nam hiện có 4 phương thức làm hàng da giầy. Một là, gia công thuần tuý, nghĩa là, nhà máy chỉ nhận vật tư, nguyên liệu được cung cấp từ đối tác nước ngoài, không phải thanh toán tiền vật tư, nguyên liệu và sau khi dùng vật tư, nguyên liệu đó theo qui trình công nghệ đã được chọn sẵn phía nước ngoài, làm ra sản phẩm, rồi xuất giao lại cho phía đối tác nước ngoài và nhận tiền công. Hai là, mua nguyên liệu bán thành phẩm, cũng gần giống phương thức thứ nhất nhưng nhà máy phải tự mua vật tư và thanh toán tiền vật tư. Ba là, sản xuất theo doanh nghiệp gọi hiện nay là hàng FOB, có 2 phương thức khác nhau, thứ nhất là xuất hàng FOB, sản xuất cho các thương hiệu nước ngoài, tiêu thụ ở thị trường xuất khẩu và thứ hai là sản phẩm mang thương hiệu của chính doanh nghiệp đó nhưng phương thức này hiện nay thực hiện được rất ít vì thương hiệu của ta chưa đủ . Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, một mặt ngành giầy không nhận được hỗ trợ của ngành da và các ngành sản xuất nguyên phụ liệu; các doanh nghiệp không nắm bắt được nhu cầu mẫu mã giầy dép là do khâu tiếp cận thị trường yếu không quan hệ trực tiếp được với các nhà nhập khẩu EU vì phụ thuộc vào người trung gian. Mặt khác, các doanh nghiệp chủ yếu làm gia công cho nước ngoài nên chưa quan tâm nhiều đến việc đa dạng hóa, nâng cao chất lượng và cải tiến sản phẩm xuất khẩu, do đó chất lượng sản phẩm giầy dép chưa cao, mẫu mã còn đơn điệu. -Vấn đề về nguyên liệu và máy móc Có 3 loại nguyên liệu chủ yếu để sản xuất da, giầy, là chất liệu da và giả giầy dép, các nguyên liệu phụ trợ như keo dán, chỉ khâu, nút, nhãn hiệu, cót thì đến 70% đến 80% Việt Nam phải nhập khẩu từ các nước châu Á như Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc. Tuy đế giầy, khâu nguyên phụ liệu được các doanh nghiệp Việt Nam chủ động cấu kết, nhưng chỉ đáp ứng được 30% nhu cầu sản xuất của ngành nói chung. Nhiều nguyên liệu nhập khẩu được sản xuất từ Trung Quốc, song giá cả nhập khẩu chính ngạch vẫn rất cao, do đó, các doanh nghiệp phải nhập qua nước thứ 3 (Đài Loan, Hàn Quốc). Hệ thống cung ứng trong nước hiện còn đang rất yếu. Hầu hết nguyên liệu nhập khẩu từ Trung Quốc đều qua con đường tiểu ngạch. Giá nguyên liệu trong nước còn rất cao. Nguyên liệu từ nguồn trong nước chất lượng lại kém, không đạt tiêu chuẩn quốc tế, nhiều nguyên liệu không có sẵn ở Việt Nam như thuộc da. Năm 2006 nhập khẩu da thuộc đạt 545 triệu USD với sản lượng 377 triệu Sqft (Square foot ). Từ năm 2000 ngành công nghiệp sản xuất giầy dép phải nhập khẩu từ 80 -85% nguyên phụ liệu của thế giới, qua một quá trình phát triển đến 2006, riêng sản xuất giầy thể thao với sản lượng chiếm tới 70% sản xuất thì đã chủ động được 70% nguyên liệu tại chỗ. Các nhà máy sản xuất đế, thuộc da, nhựa…. trong nước đã có thể cung ứng đầy đủ. Các doanh nghiệp chỉ phải nhập khẩu những nguyên vật liệu có hàm lượng chất xám cao như Da cao cấp của Ý và một số loại nguyên phụ liệu đặc chủng của Hàn quốc, Đài loan. Như vậy qua 5 năm ngành đã giảm việc nhập khẩu nguyên phụ liệu từ 80% xuống còn 60%. Máy móc thiết bị: Chủ yếu vẫn phải nhập khẩu từ các nước như Ý, Hàn quốc, Đài loan và Trung quốc. Năm 2006 tổng kim ngạch nhập khẩu máy móc thiết bị là 57 triệu USD. - Vấn đề về thương hiệu và hệ thống phân phối Về hệ thống phân phối, có đến hơn 60% các sản phẩm giầy dép Việt Nam là gia công cho phía đối tác nước ngoài dưới hình thức làm theo đơn đặt hàng, với giá nhân công rẻ nên các doanh nghiệp Việt Nam chỉ giao hàng đến các nhà buôn mà không xuất khẩu trực tiếp đến các nhà phân phối chính. Đây là điểm rất yếu của ngành Giầy dép Việt Nam vì đa phần phụ thuộc vào hệ thống phân phối kinh doanh nước ngoài, điều đó đồng nghĩa với việc bị chi phối về sản xuất. Bên cạnh đó việc tập trung quá lớn vào thị trường EU cũng làm cho ngành Giầy dép gặp nhiều khó khăn lúng túng khi thị trường này có biến động bất thường do tranh chấp thương mại. Đó là hậu quả của việc không xây dựng được hệ thống phân phối chiến lược. Hiện nay, một số doanh nghiệp Việt Nam đang tìm hướng chuyển đổi thị trường xuất khẩu để tránh phụ thuộc quá nhiều vào EU. Tuy nhiên, trong 2 năm tới, ngành Giầy dép Việt Nam sẽ vẫn còn nhiều khó khăn, bởi không thể chuyển đổi thị trường nhanh chóng được. Về thương hiệu: Những sản phẩm mang nhãn hiệu "made in Vietnam" không tạo được ấn tượng với người tiêu dùng, bởi người tiêu dùng chỉ quan tâm đến tính cách nhãn hiệu mà họ yêu thích. Một trong những nguyên nhân khiến người tiêu dùng EU không biết đến thương hiệu giầy dép Việt Nam là do các doanh nghiệp không chú trọng đến công tác xây dựng thương hiệu và chưa có chiến lược quảng bá mang tính quốc gia tại các thị trường nước ngoài. Thời gian qua, một vài doanh nghiệp giầy dép lớn ở Việt Nam đã bắt đầu dành kinh phí để phát triển thương hiệu. Tuy nhiên, những thương hiệu đó mới chỉ dừng lại ở thị trường trong nước.Trong những năm tới, cạnh tranh trên thị trường giầy dép quốc tế sẽ rất khốc liệt, doanh nghiệp Việt Nam muốn gia nhập sân chơi thương mại lớn phải xây dựng được thương hiệu cho mình. Mặt khác, phải xác định rằng, xây dựng thương hiệu không chỉ ngày một ngày hai, mà đó là một quá trình bài bản, lâu dài, tốn nhiều công sức và chi phí. Thậm chí, các doanh nghiệp có thể thuê tư vấn nước ngoài để cùng chia sẻ những thông tin và kinh nghiệm của họ... Ngoài ra, với những doanh nghiệp đã bước đầu tạo dựng được thương hiệu tại thị trường nội địa như Biti’s, Bita’s, Thượng Đình, An Lạc... và đã có được những danh tiếng từ thương hiệu của mình, cũng nên tiếp tục có kế hoạch mở rộng uy tín thương hiệu tại thị trường nước ngoài, bởi trong những năm tới, các quốc gia thuộc khu vực châu Á sẽ là điểm ngắm của các nhà nhập khẩu thế giới. Nếu các doanh nghiệp không nắm được thông tin và tận dụng mọi cơ hội để phát triển về mọi mặt, thì một ngày nào đó, nhắc đến các nhà xuất khẩu giầy dép với thương hiệu uy tín sẽ không thể thiếu vắng Việt Nam. CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU GIÀY DÉP SANG THỊ TRƯỜNG EU. 3.1 Định hướng chiến lược của ngành Da Giày Mục tiêu phát triển của ngành giầy dép là trở thành một ngành kinh tế quan trọng phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, góp phần giải quyết việc làm, tăng thu ngoại tệ cho đất nước, đồng thời đảm bảo cho các doanh nghiệp giầy dép phát triển bền vững với công nghệ hiện đại, hệ thống quản lý chất lượng đáp ứng tiêu chuẩn ISO 9000, quản lý môi trường đáp ứng ISO 14000. Cụ thể đến năm 2010, ngành sẽ đạt kim ngạch xuất khẩu 6,2 triệu USD, giải quyết việc làm cho 820.000 lao động, trong đó sản lượng giầy, dép các loại đạt 720 triệu đôi; cặp, túi 80,7 triệu cái và da thuộc là 80 triệu sqft. Mục tiêu của da, giầy Việt Nam vào năm 2010 là sản xuất 720 triệu đôi giầy, dép các loại khoảng 10,7 triệu chiếc cặp, túi xách... Để hoàn thành mục tiêu nói trên toàn ngành da, giầy sẽ phải tăng năng lực sản xuất lớn hơn rất nhiều. Quy hoạch ngành giầy dép khuyến khích mọi thành phần tham gia đầu tư sản xuất nguyên phụ liệu cho ngành giầy dép, kết hợp công nghiệp chế biến da với chăn nuôi công nghiệp-giết mổ tập trung; khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư sản xuất các sản phẩm giầy dép, đồ da để phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu; xây dựng các khu công nghiệp tập trung có đủ điều kiện về hạ tầng và xử lý môi trường để kêu gọi các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia đầu tư. Sản xuất và đầu tư ngành giầy dép trên toàn quốc được bố trí thành 3 vùng, nhằm tạo sự phát triển cân đối theo vùng và lãnh thổ để tận dụng lợi thế về nhân công, nguồn nguyên liệu, đáp ứng chiến lược phát triển kinh tế theo từng giai đoạn. Cũng theo quy hoạch, tổng vốn đầu tư ngành giầy dép giai đoạn 2006-2010 dự kiến là 9.153,50 tỷ đồng, trong đó đầu tư chiều sâu 1.844,20 tỷ đồng, đầu tư phát triển lĩnh vực thuộc da 604,0 tỷ đồng. Ngoài ra, dự kiến ngành còn thu hút 347,76 triệu USD vốn đầu tư nước ngoài. Các doanh nghiệp vốn từ các thành phần kinh tế trong và ngoài nước thông qua các hình thức liên doanh, liên kết, thành lập công ty cổ phần, phát hành cổ phiếu, trái phiếu thông qua thị trường chứng khoán. 3.2 Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu giày dép sang thị trường EU 3.2.1 Về phía doanh nghiệp Doanh nghiệp cần hiểu rõ chính sách thương mại, các định chế, quy định và các yêu cầu sau đây của thị trường EU : Chính sách thương mại: Liên minh châu Âu đang cải cách sâu rộng và toàn diện thể chế và luật pháp cho phù hợp với tình hình mới. Nét đặc trưng trong chính sách thương mại của EU là bảo hộ nông nghiệp, bảo vệ môi trường và bảo vệ sức khoẻ người tiêu dùng. Các yêu cầu về xuất xứ, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm v.v... luôn được thực hiện nghiêm ngặt. Bên cạnh cam kết với các nước thành viên WTO, EU ký nhiều hiệp định thương mại và các hiệp định ưu đãi khu vực và song phương. Bên cạnh các cam kết mở cửa thị trường trong khuôn khổ WTO về nông nghiệp, EU duy trì hạn ngạch áp dụng thuế quan đối với một số sản phẩm, giảm dần trị giá và số lượng các sản phẩm được trợ cấp xuất khẩu. EU áp dụng Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) dành cho 143 quốc gia và 36 vùng lãnh thổ, trong đó các nước chậm phát triển nhất được ưu đãi nhiều hơn theo sáng kiến "Mọi sản phẩm trừ vũ khí". EU áp dụng nhiều biện pháp tác động trực tiếp đến nhập khẩu vào EU như thủ tục hải quan, quy tắc xuất xứ, thuế quan, thuế gián tiếp, giấy phép, biện pháp tự vệ, quy tắc và tiêu chuẩn chất lượng hàng hoá, chống bán phá giá... Tất cả các nước thành viên EU áp dụng chính sách ngoại thương chung đối với ngoại khối. Uỷ ban Châu Âu là người đại diện duy nhất cho Liên minh trong đàm phán, ký các Hiệp định thương mại và dàn xếp tranh chấp trong lĩnh vực này. Chính sách ngoại thương của EU gồm chính sách thương mại tự trị (Autonomous Commercial) và chính sách thương mại dựa trên cơ sở Hiệp định (Treaty based Commercial policy), được xây dựng dựa trên các nguyên tắc không phân biệt đối xử, minh bạch, có đi có lại và cạnh tranh công bằng. Các biện pháp được áp dụng phổ biến trong chính sách này là thuế quan, hạn ngạch, hàng rào kỹ thuật, chống bán phá giá và trợ cấp xuất khẩu. EU đang thực hiện chương trình mở rộng hàng hóa dưới hình thức đẩy mạnh tự do hóa thương mại (giảm dần thuế quan đánh vào hàng hoá XNK và tiến tới xoá bỏ hạn ngạch, GSP). Hiện nay, 27 nước thành viên EU áp dụng một biểu thuế quan chung đối với hàng hoá XNK. Đối với hàng nhập khẩu, mức thuế trung bình đánh vào hàng nông sản là 18%, hàng công nghiệp là 2%. Một số quy định hải quan đối với các hoạt động xuất nhập khẩu: Tự do lưu thông: Hàng hoá nhập khẩu vào EU được tự do lưu thông trên lãnh thổ 27 nước thành viên EU như hàng hoá được sản xuất tại EU sau khi đóng các khoản thuế nhập khẩu quy định. Gia công tại EU: Cho phép hàng bán thành phẩm hoặc nguyên liệu thô được nhập vào EU để gia công và được các nhà sản xuất của EU tái xuất khẩu trong EU mà các nhà sản xuất không cần phải nộp thuế hải quan và VAT đối với hàng hoá đó được sử dụng. Có 2 cách để liên quan đến thuế là miễn thuế hoặc đóng thuế trước và được hoàn thuế. Gia công dưới sự quản lý của hải quan: Nghĩa là hàng hoá được gia công phải chịu mức thuế thấp hơn trước khi đưa vào tự do lưu thông (ví dụ các vật liệu nhựa PVC chịu mức thuế 8,3% có thể gia công thành màn phim với mức thuế chỉ 2,7%). Mức thuế nhập khẩu chênh lệch sẽ dành cho việc bảo tồn hoặc thêm mới các hoạt động gia công tại cộng đồng. Kho Hải quan: Kho hải quan cho phép doanh nghiệp giữ hàng nhập khẩu tại cộng đồng và lựa chọn thời gian đóng thuế hoặc tái xuất hàng hoá. Khối lượng công việc và gia công cho phép đối với hàng hoá lưu kho hải quan được không chế trong phạm vi bảo quản hàng hoá. Tuy nhiên cũng có thể tiến hành gia công để bán vào cộng đồng hoặc gia công dưới sự kiểm soát của hải quan tại kho hải quan. Khu vực tự do: Khu vực tự do là khu vực đặc biệt trên lãnh thổ hải quan EU. Hàng hoá trong khu vực này được miễn thuế nhập khẩu, thuế VAT và các loại thuế nhập khẩu khác. Hàng hoá nhập khẩu được lưu tại khu vực này được coi là chưa nhập khẩu vào cộng đồng, hàng hoá của cộng đồng lưu tại đây được coi là đó xuất khẩu. Đối với hàng nhập khẩu, khu vực tự do được dùng như là nơi lưu kho đối với hàng hoá không có nguồn gốc Cộng đồng cho đến khi hàng hoá này được đưa vào tự do lưu thông. Tạm nhập: Tạm nhập là hàng hoá có thể được sử dụng tại Cộng đồng mà không phải nộp thuế nhập khẩu và thuế VAT theo một số điều kiện nhất định và phải tái xuất theo đúng tình trạng mà hàng hóa được nhập vào. Đối với loại này, EU cho phép sử dụng kê khai bằng lời (nghĩa là trả lời hải quan như trường hợp đối với hành lý xách tay). Tuy nhiên, hải quan có thể yêu cầu liệt kê danh sách hàng hoá để bổ sung cho việc khai bằng lời. Hàng quá cảnh: Luật hải quan EU cho phép hàng hoá được quá cảnh qua lãnh thổ hải quan EU nếu đáp ứng các quy định về thủ tục quá cảnh: - Các bảo lãnh riêng; - Các phương tiện vận chuyển; - Các bản khai theo quy định; - Hoàn thành các thủ tục tại hải quan xuất phát, trên đường và tại điểm đến; - Các thủ tục kiểm soát hàng xuất cảnh. Doanh nghiệp cũng có thể sử dụng các thủ tục quá cảnh được đơn giản hoá gồm: - Sử dụng giấy bảo lãnh toàn diện hoặc gia hạn bảo lãnh; - Sử dụng danh sách vận chuyển đặc biệt; - Sử dụng dấu niêm phong đặc biệt; - Miễn áp dụng các quy định để sử dụng lộ trình theo yêu cầu; - Quy chế người gửi hàng ủy quyền; - Quy chế người nhận hàng ủy quyền; - Các thủ tục đơn giản hoá áp dụng cho việc vận chuyển hàng bằng tầu hoặc các côngtenơ loại lớn; - Các thủ tục đơn giản hoá áp dụng với hàng vận chuyển qua đường hàng không, hàng hải và đường ống. Quy tắc xuất xứ: Cộng đồng châu Âu áp dụng hai loại quy tắc về xuất xứ không ưu đãi và ưu đãi. Quy định của Uỷ ban đang được thực thi và được áp dụng đối với tất cả các công cụ chính sách thương mại không ưu đãi, chẳng hạn các biện pháp tự vệ về thuế quan và thương mại. Các quy tắc ưu đãi được nêu trong các nghị định thư liên quan từng hiệp định thương mại ưu đãi riêng biệt, ví dụ như đối với các nước trong hiệp định mậu dịch tự do, các nước được hưởng ưu đãi GSP... Đặc biệt EU có các yêu cầu chặt chẽ về xuất xứ đối với những trường hợp được hưởng ưu đãi. Một khía cạnh đáng chú ý trong các quy định ưu đãi xuất xứ hàng hóa là hình thức lũy tiến, trong đó các yếu tố đầu vào từ cộng đồng hoặc từ các đối tác khác trong cùng một khu vực thương mại được tính như là các nguyên liệu xuất xứ, chẳng hạn như nguyên liệu và thành phẩm đều cùng nguồn gốc từ các nước trong ACP, hay trong cùng khu vực Hiệp định châu Âu... Thuế quan: Hàng năm Uỷ ban châu Âu sẽ đăng trên Công báo về biểu thuế quan hưởng theo Tối huệ quốc (MFN) đối với tất cả danh mục hàng hoá nhập khẩu vào Cộng đồng. Ngoài ra, doanh nghiệp cần phải có những biện pháp để hoàn thiện khả năng xuất khẩu hàng hoá của doanh nghiệp, dựa trên các nhóm giải pháp sau: Hoàn thiện và đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường Nghiên cứu thị trường là công việc cần thiết đầu tiên đối với bất cứ doanh nghiệp nào trong quá trình kinh doanh. Một doanh nghiệp không thể khai thác hết tiềm năng của mình cũng như không thể thoả mãn tất được nhu cầu của thị của khách hàng nếu không có được đầy đủ thông tin chính xác về thị trường. Thông qua việc nghiên cứu thị trường, doanh nghiệp sẽ nắm được thông tin cần thiết về giá cả, cung cầu hàng hoá và dịch vụ mà doanh nghiệp đang kinh doanh hoặc sẽ kinh doanh để đề ra những phương án chiến lược và biện pháp cụ thể để thực hiện mục tiêu kinh doanh. Để có thể thực hiện tốt công tác nghiên cứu cần phải xây dựng đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn cao. Việc nghiên cứu thị trường càng kỹ thì doanh nghiệp có thể đáp ứng tốt hơn nhu cầu của thị trường. Để thực hiện việc nghiên cứu thị trường, đặc biệt là thị trường EU đạt hiệu quả cao thì cần thực hiện một số biện pháp sau: - Xác định nguồn thông tin và xây dựng hệ thống thông tin đầy đủ về thị trường EU. - Xây dựng và hoàn thiện bộ máy nghiên cứu thị trường. - Lập ngân sách cho hoạt động nghiên cứu thị trường. - Tổ chức các hội nghị khách hàng, triển lãm hàng trong nước cũng như ở nước ngoài, chưng cầu ý kiến của khách hàng về sản phẩm...đặc biệt đối với thị trường EU. - Chú trọng vào hoạt động nghiên cứu marketing . Lựa chọn phương thức thâm nhập thị trường. Kênh phân phối có vai trò hết sức quan trọng trong việc tiêu thụ hàng hoá. Hệ thống phân phối của EU cũng giống như hệ thống phân phối của một quốc giaK, gồm hệ thống bán buôn, bán lẻ...Đồng thời cũng có những siêu thị lớn và các công ty bán lẻ trên thị trường, được hình thành do có quan hệ tín dụng và mua cổ phần của nhau. Trên thị trường, uy tín của doanh nghiệp được đặt lên hàng đầu. Do vậy, các nhà nhập khẩu của EU yêu cầu rất cao về việc thực hiện các điều khoản trong hợp đồng đặc biệt là chất lượng và thời gian giao hàng. Để có thể thâm nhập vào thị trường này thì doanh nghiệp cần: - Có sự liên kết chặt chẽ với cộng đồng người Việt ở EU để đầu tư sản xuất và xuất khẩu vào thị trường này. Đồng thời cần có sự linh hoạt sử dụng các kênh phân phối, sự nhạy bén trong kinh doanh... đáp ứng tốt nhu cầu và đảm bảo sản xuất theo đúng yêu cầu. - Doanh nghiệp có thể liên kết, liên doanh để trở thành thành viên của các công ty xuyên quốc gia EU. Để có thể sử dụng hệ thống kênh phân phối của công ty xuyên quốc gia - khi doanh nghiệp trở thành thành viên của tập đoàn thị tất yếu sẽ được tham gia vào hệ thống kênh phân phối của tập đoàn. Hạ giá thành sản phẩm. Nâng cao nhận thức của mọi thành viên trong từng doanh nghiệp, không chỉ từ đội ngũ lãnh đạo, quản lý mà ngay cả đội ngũ người lao động có ý nghĩa đến việc giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm và nâng cao chất lượng sản phẩm. Đối với thị trường EU, một thị trường với các quốc gia phát triển thì yếu tố hàng đầu quyết định đến hành vi mua của khách hàng đó là chính sách giá cả phải hợp lý với chất lượng của sản phẩm. Gía cả sản phẩm giày trong nước tương đối thấp nên cần phải có chính sách giá hợp lý để có thể cạnh tranh với các đối thủ trên thị trường. Ngoài ra, việc định giá phải đảm bảo được chất lượng, lợi nhuận và đảm bảo tính cạnh tranh của mỗi sản phẩm khi tung ra thị trường. Do vậy cần có những biện pháp phù hợp: - Tận dụng hết công suất máy móc, thiết bị, thời gian lao động, từ đó nâng cao năng suất lao động. Phải thường xuyên áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất nhằm hạ giá thành sản phẩm. - Thực hiện định mức sản phẩm nhằm tiết kiệm nguyên vật liệu,... Thực hiện chống lãng phí điện, nước... - Thực hiện công tác bảo quản hàng tồn kho, nguyên vật liệu tránh mất mát, hư hỏng... Nâng cao chất lượng và đa dạng hoá sản phẩm. Chất lượng sản phẩm là một trong những yếu tố tạo nên sức cạnh tranh của sản phẩm. Khi đời sống ngày càng cao thì yêu cầu chất lượng sản phẩm cũng càng cao. Do đó nâng cao chất lượng sản phẩm chính là nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Cần phải được quan tâm chú trọng, cần áp dụng các biện pháp: - Sản phẩm chất lượng cao hay không phụ thuộc rất nhiều vào nguyên vật liệu đầu vào. Do đó cần phải tăng cường kiểm tra chất lượng nguyên vật liệu, đồng thời phải đảm bảo công tác bảo quản nguyên vật liệu... -Chất lượng còn phụ thuộc nhiều vào dây chuyền công nghệ sản xuất nên phải thường xuyên đổi mới công nghệ. - Phải nâng cao nhận thức cho toàn thể cán bộ công nhân viên trong công ty, đào tạo cán bộ kiểm tra chất lượng sản phẩm. Thực hiện việc sản xuất, quản lý... theo hệ thống quản lý chất lượng đồng bộ của ISO. - Phải thành lập nhóm chuyên gia thiết kế mẫu mã chuyên nghiệp ...đáp ứng kịp thời nhu cầu thị trường. Marketing và tiếp thị. Người tiêu dùng EU ưa chuộng sản phẩm có thương hiệu trên thị trường. Do đó, để khẳng định được thương hiệu của mình trên thị trường thì các công ty phải luôn chú ý đến hoạt động phát triển và khuyếch trương sản phẩm của doanh nghiệp thông qua hoạt động marketing. Nên cần áp dụng các biện pháp vào nâng cao hoạt động marketing: -Cần phải có ngân sách để đầu tư cho hoạt động marketing và xúc tiến bán hàng. - Thường xuyên tham gia các hội chợ, triển lãm trong nước và quốc tế. Đây là cơ hội để quảng cáo và giới thiệu sản phẩm với người tiêu dùng. - Một trong những biện pháp marketing tích cực: thường xuyên thực hiện các đợt khuyến mại, khuyến mãi... cho khách hàng mua sản phẩm, nhằm mục đích khuyến khích người tiêu dùng sử dụng sản phẩm của mình. - Bằng các phương tiện thông tin đại chúng như đài truyền hình, báo chí... để quảng bá tên tuổi của doanh nghiệp. - Với sự phát triển của mạng internet doanh nghiệp cần xây dựng cho mình trang web riêng để thu hút khách hàng đặc biệt là khách hàng nước ngoài. Xây dựng thương hiệu hàng hoá. Một doanh nghiệp khi tham gia vào bất cứ thị trường nào cũng cần phải có thương hiệu của riêng mình. Do vậy việc xây dựng thương hiệu là rất cần thiết đối với doanh nghiệp khi tham gia thị trường quốc tế. Đặc điểm chung của các doanh nghiệp Việt Nam là không chú trọng nhiều tới việc xây dựng thương hiệu nên cần phải thay đổi quan niệm của doanh nghiệp về vấn đề này. Thương hiệu không chỉ là tên sản phẩm mà nó còn thể hiện uy tín sản phẩm cung như của doanh nghiệp trên thương trường. Ngoài ra việc đăng ký thương hiệu cho sản phẩm là rất cần thiết nó tránh việc làm giả hàng hoá, gây thiệt hại cho doanh nghiệp, làm ảnh hưởng tới uy tín của doanh nghiệp. Một làM, các doanh nghiệp phải phát triển sáng tạo nhãn hiệu. Các doanh nghiệp cần trao việc hoạch định chiến lược và sáng tạo nhãn hiệu cho các chuyên gia nhằm mục đích biến mình thành nhà thẩm định, sử dụng các dịch vụ tư vấn như: tư vấn phát triển nhãn hiệu, tư vấn kinh doanh và hoạch định chiến lược, tư vấn về quảng cáo và truyền thông, giám sát nhà cung cấp dịch vụ tư vấn. Việc sử dụng dịch vụ này sẽ đưa lại những điều tốt hơn cho doanh nghiệp. Hai là, xây dựng thương hiệu phải khơi dậy cảm xúc của khách hàng. Để có thể xây dựng được thương hiệu được khách hàng tin cậy cần phải hiểu rõ khách hàng của mình, và luôn lấy sự hài lòng của khách hàng làm trọng tâm cho mọi hoạt động. Ba là, phải coi thương hiệu là công cụ bảo vệ lợi ích của mình. Trước tiên, phải sử dụng thương hiệu đã nổi tiếng của sản phẩm này cho một loại sản phẩm khác hoặc tạo ra một loại sản phẩm mới bổ sung cho sản phẩm đã có để tăng sự hài lòng của khách hàng. Bốn là, nâng cao nhận thức về bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá. Các doanh nghiệp cũng cần nhận thức rằng mình là chủ thể trong các quan hệ sở hữu về trí tuệ. Các nhãn hiệu, kiểu dáng hàng hóa là tài sản của doanh nghiệp. Do vậy, đăng ký độc quyền nhãn hiệu hàng hoá, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của thương hiệu tại thị trường mà doanh nghiệp có chiến lược đầu tư kinh doanh là rất cần thiết. Đổi mới cơ cấu tổ chức quản lý, hoàn thiện kỹ năng quản lý hiện đại của đội ngũ lãnh đạo, quản trị trong các doanh nghiệp. Để đổi mới hoàn thiện hay lựa chọn mô hình tổ chức quản lý kinh doanh thích hợp cần phải thực hiện các biện pháp sau: Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận trong hệ thống tổ chức kinh doanh của doanh nghiệp. Tránh sự chồng chéo, tạo điều kiện cho cán bộ quản lý tập trung đầu tư chuyên sâu và đảm bảo sự hoạt động của các bộ phận trong doanh nghiệp một cách nhịp nhàng. Đảm bảo thông tin nội bộ doanh nghiệp, đây là điều kiện quyết định sự tồn tại của bất cứ doanh nghiệp nào. Đảm bảo thông tin giúp làm cho mọi thành viên hiểu được mục đích của tổ chức. Việc đảm bảo thông tin nội bộ phải tuân thủ các nguyên tắc sau: -Các kênh thông tin phải được hiểu biết cụ thể. Thông tin tương ứng phải được phổ biến rộng rãi cho tất cả mọi người, mọi cấp trong tổ chức được biết rõ ràng. -Thông tin truyền cần trực tiếp ngắn gọn. Tạo điều kiện cho việc xử lý thông tin kịp thời, không bị chậm trễ. - Cần duy trì hoạt động thông tin một cách thường xuyên không bị ngắt quãng. -Mọi thông tin phải chính xác, người truyền đạt thông tin phải thực sự là người nắm chức vụ và quyền hạn lien quan đến thông tin mà người đó truyền đạt. - Duy trì mối quan hệ ngang giữa các bộ phận trong tổ chức. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp. Để có được đội ngũ lao động đủ khả năng đáp ứng được yêu cầu kinh doanh trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt của thị trường mở cửa, cần tập trung thực hiện các giải pháp sau: Tiến hành bố trí hợp lý đội ngũ cán bộ quản lý và lao động hiện có ở các doanh nghiệp. Cần phát hiện người có năng lực, bố trí họ vào những công việc phù hợp với trình độ tay nghề và năng lực của họ. Tạo sự gắn bó về quyền lợi và trách nhiệm của người lao động với doanh nghiệp bằng các chính sách như: đầu tư cho đào tạo, bảo đảm công ăm việc làm cho người lao động kể cả khi có biến động xảy ra, xây dựng chế độ tiền lương tiền thưởng theo khuynh hướng khuyến khích người lao động có những đóng góp tích cực cho sự phát triển của doanh nghiệp. Đa dạng hoá các kỹ năng và đảm bảo khả năng thích ứng của người lao động khi cần điều chỉnh lao động nội bộ doanh nghiệp. Tiêu chuẩn hoá cán bộ, lao động trong doanh nghiệp. Khi xây dựng hệ thống tiêu chuẩn, cần phải tham khảo điều kiện khu vực và đặc thù của Việt Nam, tôn trọng văn hoá kinh doanh của doanh nghiệp. Áp dụng cơ chế bổ xung và đào thải nhân lực để duy trì đội ngũ cán bộ quản lý trong kinh doanh, nhân viên tinh thông nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu cạnh tranh của thị trường. Đồng thời đào tạo cán bộ có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, sử dụng thành thạo vi tính, am hiểu thị trường thế giới và luật lệ buôn bán quốc tế. Hoàn thiện hệ thống thông tin, chủ động áp dụng thương mại điện tử trong điều hành kinh doanh. Để thúc đẩy hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp cần phải xây dựng được hệ thống thông tin như: thông tin về môi trường kinh doanh, thông tin về hệ thống phân phối, giá cả... Để có được hệ thống thông tin trên, đòi hỏi hệ thống thông tin của doanh nghiệp ngày càng được hoàn thiện và có chất lượng cao. Các biện pháp sau giúp xây dựng hệ thống thông tin này: - Xây dựng các chi nhánh nhằm thu được thông tin chính xác, kịp thời về giá cả, chất lượng, điều kiện giao hàng... - Liên kết các bạn hàng truyền thống để họ giúp đỡ về vấn đề thông tin. - Áp dụng biện pháp tin học hoá vào hoạt động kinh doanh thông qua việc hoà mạnh với hệ thống thông tin đã có trên thế giới. Dưới tác động của khoa học công nghệ đặc biệt là công nghệ thông tin đã làm xuất hiện hình thức thương mại tiên tiên - thương mại điện tử. Quy mô của doanh nghiệp Việt Nam còn nhỏ bé nhưng cần phải chủ động áp dụng và phát triển thương mại điện tử nếu không sẽ bị cô lập với thế giới bên ngoài. Để phát triển thương mại điện tử, các doanh nghiệp cần chủ động xây dựng và triển khai áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng quốc tế như: ISO:9000, HACCP, ISO: 14000... vì kinh doanh trên mạng đòi hỏi rất cao về tiêu chuẩn và chất lượng. Gi?i phỏp d? hàng hoỏ cú th? thõm nh?p th? tru?ng. Trong thời gian tới, các doanh nghiệp giày da Việt Nam cần phải làm gì để có nhiều sản phẩm của mình sang thị trường tiềm năng và rộng lớn này?   - Trước tiên tăng nguồn hàng xuất khẩu trực tiếp. Một trong những giải pháp hữu hiệu cho việc tăng nguồn hàng trực tiếp hiện nay được khuyến cáo là các doanh nghiệp giầy nên liên kết lại với nhau để đáp ứng những đơn đặt hàng của EU, cũng như hỗ trợ nhau nâng cao chất lượng, mẫu mã, giảm giá thành. Năm 2004 có một đơn đặt hàng xuất khẩu 1 triệu đôi giầy trực tiếp sang EU nhưng đã không thành vì không có doanh nghiệp nào trong nước đáp ứng nổi. Mặt khác để tăng nguồn hàng xuất khẩu trực tiếp của các nhà sản xuất Việt Nam nên thường xuyên quan hệ với các văn phòng đại diện của EU tại Việt Nam. Các văn phòng này có mạng lưới phân phối rộng ở EU và có thể mang lại nhiều đơn đặt hàng cho các nhà sản xuất khi sản phẩm đáp ứng đủ nhu cầu tìm nguồn hàng của họ.   -Bên cạnh xuất khẩu trực tiếp, để tăng kim ngạch xuất khẩu giầy da Việt Nam sang EU trong năm 2008, các doanh nghiệp cũng cần phải biết chọn cho mình một phân khúc thị trường hợp lý. Việc chọn phân khúc thị trường là để tránh đối đầu với những hàng sản xuất ồ ạt của Trung Quốc, tránh cạnh tranh với những sản phẩm có chất lượng cao của các nước nội khối EU. Phân khúc thị trường Việt Nam được xem là hiệu quả nhất và tránh được các đối thủ kể trên là những sản phẩm có chất lượng tốt nhưng phải mang tính độc đáo, phong cách và kiểu dáng riêng biệt. Có thể đó là những sản phẩm công nghệ cao kết hợp với những chi tiết phức tạp nhờ vào trình độ thủ công.   - Cuối cùng để tăng kim ngạch xuất khẩu giầy vào EU thì khâu tìm hiểu và thăm dò thị trường là không thể thiếu. Cách tốt nhất là các doanh nghiệp tham dự các hội chợ giầy dép tại EU, qua đó để thị trường biết được sản phẩm của mình và mình cũng có thể nhận biết thị hiếu chung của từng nước cụ thể, qua đó cải tiến chất lượng, mẫu mã, công nghệ. Trong một hội chợ triển lãm có hàng trăm ngàn đôi giày, chỉ cần vài đôi có kiểu dáng độc đáo là có thể thu hút sự chú ý của các nhà thu mua hàng của các hãng nhập khẩu lớn ở EU. 3.2.2 Về phía nhà nước. Đổi mới chính sách đầu tư và tín dụng. Nhà nước có sự ưu đãi về vốn và cho vay tín dụng đối với các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá đặc biệt là các doanh nghiệp làm ăn ổn định và có lãi, đạt hiệu quả. Nhà nước có thể cho các doanh nghiệp hưởng ưu đãi về vốn vay như ưu đãi về thời gian thanh toán vốn vay, cho hưởng lãi xuất ưu đãi và cung cấp tín dụng cho các công ty xuất khẩu hàng hoá ra thị trường nước ngoài đạt hiệu quả trong kinh doanh nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tận dụng cơ hội kinh doanh xuất khẩu. Trong nước vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu về nguyên vật liệu của ngành nên một số vẫn phải nhập khẩu. Nhà nước tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thể sử dụng nguyên vật liệu trong điều kiện khó khăn, nhà nước hỗ trợ cho doanh nghiệp khi nhập nguyên liệu cho quá trình sản xuất sẽ có thời hạn thanh toán dài hơn. Các doanh nghiệp khi tham gia hoạt động xuất khẩu hầu như đều phải vay vốn để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh nên thường phải chịu lãi xuất từ đó làm tăng giá thành sản phẩm nên làm giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, vậy nhà nước phải có biện pháp hỗ trợ về vốn và tín dụng. Chính sách pháp lý và chính sách thuế. Để hoàn thiện môi trường pháp lý: trước mắt cần cải cách hành chính, tổ chức định kỳ các diễn đàn trao đổi giữa doanh nghiệp và cơ quan chức năng cũng như chính quyền địa phương, xây dựng một chiến lược phát triển pháp luật, ban hành luật cạnh tranh và chống độc quyền, thành lập uỷ ban Uỷ ban quốc gia về cải cách thể chế. Về lâu dài: cần hình thành khung pháp lý chung cho các loại hình doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, đổi mới một cách cơ bản quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật, đề nghị Quốc hội đổi mới cách tổ chức thảo luận thông qua dự án luật theo phiên họp chuyên ngành, khuyến khích thành lập các tổ chức tự quản của doanh nghiệp và nhân dân như các hiệp hội tiêu dùng, hoàn thiện pháp luật phục vụ hội nhập kinh tế... Biểu thuế của nước ta hiện nay còn rất phức tạp, thuế suất đối với các mặt hàng tiêu dùng còn cao, do đó đây là nguyên nhân dẫn đến tình trạng buôn lậu gây khó khăn cho các doanh nghiệp sản xuất giày trong nước. Tình trạng hàng hoá giá rẻ từ ngoài tràn vào với mức giá rẻ hơn gây khó khăn cho tình hình tiêu thụ, đồng thời việc xuất khẩu da lậu qua biên giới làm cho tinh trạng thiếu nguyên vật liệu trong nước. do vậy nhà nước cần thắt chặt công tác quản lý. Nhà nước cần áp dụng các biện pháp giảm thuế cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu. Nguyên vật liệu của ngành phải nhập khẩu nhiều nên cần nhà nước hỗ trợ về thuế nhập khẩu nguyên vật liệu và thuế xuất khẩu hàng hoá. Xây dựng hạ tầng cơ sở vật chất kỹ thuật. Mọi doanh nghiệp muốn hoạt động được hiệu quả thì Nhà nước cần đầu tư xây dựng và hoàn thiện cơ sở vật chất kỹ thuật như: hệ thống thông tin liên lạc, hệ thống ngân hàng, bảo hiểm, hệ thống giao thông... tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thuận lợi trong việc xuất khẩu hàng hoá. Điều này được thể hiện ngành viễn thông có tốc độ phát triển nhanh, được trang bị công nghệ hiện đại không thua kém các nước trong khu vực. Công suất phát điện hàng năm tăng gấp 3 lần. Mạng đường bay quốc Mọi doanh nghiệp khi đi vào hoạt động thì luôn cần sự giúp đỡ của hệ thống ngân hàng do đó nếu nhà nước xây dựng được một hệ thống ngân hàng hoạt động có hiệu quả, có uy tín, dịch vụ tốt sẽ tạo cho các doanh nghiệp được vay vốn và thanh toán một cách thuận lợi và nhanh chóng, tránh mất thời gian và chi phí của các doanh nghiệp. Nhà nước hỗ trợ việc sản xuất nguyên phụ liệu trong nước. Nguyên phụ liệu của ngành giày da vẫn phải phụ thuộc nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu, các doanh nghiệp sản xuất da giày mới chỉ tập trung ở công đoạn chế biến và lắp giáp. Hệ thống nguyên phụ liệu trong nước vẫn chưa phát triển, các vùng nguyên liệu chưa được quan tâm và đầu tư xứng đáng. Do vậy việc chủ động nguyên vật liệu là rất khó. Đồng thời cũng do không chủ động được nguyên phụ liệu nên việc triển khai thiết kế, đa dạng hoá sản phẩm gặp nhiều khó khăn. Doanh nghiệp muốn nâng cao được hiệu quả kinh doanh xuất khẩu cần được nhà nước hỗ trợ trong việc sản xuất nguyên phụ liệu sản xuất trong nước. Tạo điều kiện xây dựng các vùng chuyên canh, chuyên sản xuất nguyên liệu để phục vụ ngành da giày, từ đó Nhà nước cần tạo mọi điều kiện để doanh nghiệp có thể chủ động nguyên phụ liệu sẩn xuất trong nước, tìm kiếm và tạo ra các nguồn nguyên liệu sản xuất trong nước với giá rẻ . Tóm lại nhà nước cần: -Tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách theo hướng khuyến khích nước ngoài đầu tư vào sản xuất hàng xuất khẩu, góp phần giải quyết khâu yếu nhất hiện nay là không có nhiều hàng để xuất khẩu, không đáp ứng yêu cầu đa dạng của thị trưòng. - Ổn định chính sách kinh tế vĩ mô, đặc biệt ổn định giá đất, điện, nước, cước vận tải và các yếu tố khác liên quan đến giảm giá thành sản xuất để nâng cao năng lực cạnh tranh hàng xuất khẩu. Tiếp tục cấp tín dụng xuất khẩu. - Tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý về thị trường ngoài nước. Xử lý tốt các rào cản thương mai. Mở rộng liên doanh hợp tác với các tập đoàn đa quốc gia để mở rộng thị trường xuất khẩu. Mạnh dạn mở của thị trường dịch vụ để giảm chi phí giao dịch. - Triệt để cải cách thủ tục hành chính theo hướng thuận lợi cho xuất khẩu.. - é? I M? I HO? T D? NG XỲC TI? N THuoNG M? I THEO Hu? NG NÕNG CAO HI? U QU?. T? P TRUNG VàO CỎC TH? TRu? NG Và M? T HàNG TR? NG DI?m, TH? TRu? NG Và mặt hàng mới. KẾT LUẬN Đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa nói chung, mặt hàng giày dép nói riêng sang thị trường EU là một vấn đề cấp thiết nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi Việt Nam đã là thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO thì sự biến động trên thị trường thật sự khó nhận biết. Đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng giày dép là một vấn đề hết sức phức tạp, liên quan đến rất nhiều khía cạnh đòi hỏi phải có sự đầu tư một cách thích đáng của các cơ quan ban ngành có liên quan, đây là vấn đề cần được xem xét đánh giá ở tầm vĩ mô. Tuy còn hạn chế nhưng đề tài đã đạt được những kết quả bước đầu: - Trên cơ sở nghiên cứu đánh giá của các chuyên gia và nguồn thông tin thu thập được đề án đã nêu lên được những vấn đề cơ bản về xuất khẩu giày dép sang thị trường EU nêu lên được tiềm năng cũng như vai trò xuất khẩu giày dép đối với sự phát triển kinh tế nước ta, những đặc điểm cũng như yêu cầu của thị trường EU đối với sản phẩm giày dép - Trên cơ sở theo dõi số liệu xuất khẩu trong thời gian gần đây, đề án đã nêu lên thực trạng xuất khẩu giày dép sang thị trường EU thông qua các chỉ tiêu phân tích, đồng thời đánh giá những thành tựu, những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế đó. Hy vọng với những kết quả bước đầu như trên, đề án sẽ có giá trị thiết thực có thể áp dụng trở thành tài liệu tham khảo hữu ích của các doanh nghiệp cũng như những đối tượng có liên quan. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình Kinh tế thương mại.( GS.TS Đặng Đình Đào, GS.TS Hoàng Đức Thân). Giáo trình Quản trị kinh doanh xuất nhập khẩu ( GS.TS Trần Chí Thành) Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường Châu Âu ( PGS.TS Vũ Chí Lộc) Thị trường EU và khả năng xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam.( GS.TS Trần Chí Thành) MỤC LỤC Trang LỜI NÓI ĐẦU 1 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU 2 1.1 Vai trò và nội dung của hoạt động xuất khẩu. 2 1.1.1 Khái niệm cơ bản. 2 1.1.2 Vai trò của xuất khẩu 3 1.2 Nội dung hoạt động xuất khẩu 4 1.2.1 Nghiên cứu thị trường xuất khẩu. 4 1.2.2 Xác định nhu cầu của thị trường xuất khẩu 6 1.2.3 Ký kết hợp đồng xuất khẩu. 7 1.2.4 Tạo nguồn hàng cho xuất khẩu 8 1.2.5 Tổ chức việc thực hiện xuất khẩu 9 1.2.6 Kiểm tra, giám sát và đánh giá hoạt động xuất khẩu. 9 1.3 Các nhân tố tác động đến hoạt động xuất khẩu 10 1.3.1 Nhân tố bên ngoài ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu. 10 1.3.2 Nhân tố bên trong ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu 14 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU GIÀY DÉP THỜI GIAN QUA 17 2.1 Khái quát về ngành giày dép Việt Nam và đặc điểm thị trường EU 17 2.1.1 Đặc điểm và vai trò hoạt động xuất khẩu giày dép. 17 2.1.2 Đặc điểm thị trường EU 20 2.1.3 Quan hệ Việt Nam -EU 22 2.2 Tình trạng xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam. 24 2.2.1 Hoạt động xuất khẩu của Việt Nam thời gian qua 24 2.2.2 Hoạt động xuất khẩu giày dép thời gian qua. 25 2.3 Xuất khẩu giày sang EU 26 2.3.1 Kim ngạch xuất khẩu sang EU trong những năm gần đây. 26 2.3.3 Đánh giá hoạt động xuất khẩu giày dép 32 CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU GIÀY DÉP SANG THỊ TRƯỜNG EU. 38 3.1 Định hướng chiến lược của ngành Da Giày 38 3.2 Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu giày dép sang thị trường EU 39 3.2.1 Về phía doanh nghiệp 39 3.2.2 VÒ phÝa nhµ n­íc. 49 KẾT LUẬN 53 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 54

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc11227.doc
Tài liệu liên quan