Chuyên đề Thực tế triển khai nghiệp vụ bảo hiểm khống chế giếng trong hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí ở PVIC

- Trên cơ sở của sự giới thiệu công ty đã chủ động gặp gỡ khách hàng mới và tự giới thiệu về mình. - Đối với khách hàng truyền thống tham gia bảo hiểm lâu dài công ty có các hỗ trợ về quản lý rủi ro, đề phòng và hạn chê tổn thất . - Công ty có những chính sách ưu đãi về phí đối với khách hàng tham gia bảo hiểm trọn gói, trả phí ngay từ đầu, - Tổ chức các cuộc gặp gỡ, hội nghị, hội thảo khách để giới thiệu nghiệp vụ. - Tư vấn cho khách hàng về loại hình bảo hiểm phù hợp cho tình hình thực tế của khách hàng, giải quyết các thắc mắc của khách hàng về các vấn đề nảy sinh trong quá trình hoạt động. Bên cạnh đó PVIC gặp không ít những khó khăn như: - Số lượng khách hàng tham gia bảo hiểm trọn gói còn ít, chỉ chiếm khoảng 25%. - Việc quảng cáo giới thiệu dịch vụ bảo hiểm của công ty còn hạn chế, việc quảng cáo giới thiệu nghiệp vụ mới và những ưu đãi về phí của PVIC chỉ dừng lại ở trong nước và một số công ty nước ngoài có quan hệ hợp tác với PVIC như công ty tái bảo hiểm, công ty môi giới bảo hiểm. Để có được sự phát triển vững mạnh, công tác khách hàng của công ty cần được chú trọng hơn nữa: - Công ty cần phải tiến hành quảng cáo, thông báo rộng rãi cho khách hàng biết đến bao gồm cả nghiệp vụ cũng như các ưu đãi về phí để khuyến khích khách hàng tham gia và tham gia theo các nghiệp vụ có chính sách ưu đãi theo mục đích của công ty. - Thực hiện tốt dịch vụ sau bán hàng: Tư vấn khách hàng cách đề phòng hạn chế tổn thất, trích một phần phí của nghiệp vừa bảo hiểm cho khách hàng để làm công tác đề phòng hạn chế rủi ro cho khách hàng. Khi hết hạn hợp đồng PVIC phải nhanh chóng gửi giấy thông báo hết hạn hợp đồng cho khách hàng biết và mời khách hàng tiếp tục tái tục hợp đồng hoặc tham gia nghiệp vụ mới phù hợp hơn - Cần tiếp tục duy trì các cuộc hội nghị, hội thảo khách hàng để giới thiệu về nghiệp vụ bảo hiểm khống chế giếng các điều kiện điều khoản để khách hàng có thể xem xét hiểu rõ bản chất, so sánh lợi hại khi tham gia. - Công ty cần kiến nghị với nhà nước mở rộng danh mục đầu tư sang các thành phần khác mang tính ổn định, tạo điều kiện cho công ty bảo hiểm lựa chọn được hình thức đầu tư phù hợp. - Vì nghiệp vụ này có tầm quan trọng sống còn đối với công ty bảo hiểm nên PVIC một mặt cần đào tạo và bổ sung kiến thức cho cán bộ đầu tư, cần thực sự quan tâm phát triển một mặt trưng dụng và ưu đãi với cán bộ đầu tư . - Công ty nên đầu tư vào những hình thức đầu tư ngắn hạn và đa dạng hoá danh mục đầu tư vì trước mắt vốn hoạt động của công ty không nhiều, kinh nghiệm hoạt động đầu tư chưa cao. Song bên cạnh đó cần có kế hoạch cho các hình thức đầu tư dài hạn vì về lâu dài công ty cần có một hoạt động đầu tư ổn định. Công ty nên đầu tư vào lĩnh vực địa ốc. Minh chứng trên thế giới cho thấy, đầu tư vào địa ốc về lâu dài luôn mang lại nguồn lợi lớn, không những doanh thu cao mà đây còn là một hình thức quảng cáo cho công ty mà không phải mất chi phí cho hình thức quảng cáo này. - Thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời vào tháng 8/2000 là một cơ hội mới cho hoạt động đầu tư của các công ty bảo hiểm nói chung và PVIC nói riêng.

doc72 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1265 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực tế triển khai nghiệp vụ bảo hiểm khống chế giếng trong hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí ở PVIC, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hoạt động cũng như tạo tâm lí an tâm cho khai thác tham gia bảo hiểm. Khó khăn: Tuy rằng dự thảo luật đã được quốc hội thông qua song vẫn chưa chính thức được ban hành. Hiện tại các doanh nghiệp bảo hiểm trong đó có PVIC vẫn hoạt động theo luật doanh nghiệp nói chung và các quy định về chuyên ngàn bảo hiểm. Do mới thành lập nên cán bộ có chuyên môn sâu còn thiếu, điều này gây khó khăn trong việc đàm phán với khách hàng, môi giới bảo hiểm, nhà nhận tái bảo hiểm. Trong các năm hoạt động từ khi thành lập cho đến nay PVIC luôn phát huy năng lực và hạn chế những khó khăn để đạt được kết quả tối ưu nhất. Trong 5 năm hoạt động công ty đã đạt được kết quả khai thác của nghiệp vụ bảo hiểm khống chế giếng như sau: Bảng kết quả hoàn thành kế hoạch khai thác nghiệp vụ bảo hiểm khống chế giếng từ 1996 – 2000 Đơn vị : USD STT Năm Phí bảo hiểm kế hoạch Phí bảo hiêm thực hiện Hoàn thành (%) Phí BHDK Tỉ trọng 1 1996 1.350.000 1.710.720 127 4.405.665 38.83 2 1997 1.275.000 1.593863 125 4.948.384 32.21 3 1998 745.000 766.815 103 3.955.407 19.4 4 1999 655.000 674.497 103 3.005.461 22.08 5 2000 765000 787.768 102 3.510.182 22.44 Nguồn :PVIC Nhận xét : Năm 96 công ty bắt đâu đi vào hoạt động và tiến hành triển khai các nghiệp vụ bảo hiểm trong đó có bảo hiểm khống chế giếng với mức phí thực hiện đạt 1.710.720 USD vượt 27% so với kế hoạch đặt ra là 1.350.000 USD. Đây là một sự khởi đầu tốt đẹp cho nghiệp vụ này, là năm có doanh thu phí bảo hiểm bảo hiểm khống chế giếng cao nhất từ trước đến nay. Năm 1997 do tình hình thực tế của khu vực và thế giới có ảnh hưởng tới giá dầu thô làm cho giá dâù thô giảm xuống, điều này có ảnh hưởng trực tiếp đến nghiệp vụ bảo hiểm khống chế giếng của PVIC. Năm 1997 kế hoạch khai thác nghiệp vụ bảo khống chế giếng là 1.275.000 USD giảm đi 75.000 USD so với năm 96 tương ứng với 5.55%. Song do có những thuận lợi mang lại từ việc bảo hiểm cho hai hợp đồng là RUBY và Rạng Đông nên kì thực hiện PVIC đạt 1.593.863 USD, hoàn thành 125% kế hoạch đề ra. Năm 1998 ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực, nhiều nhà đầu tư rút ra khỏi khu vực không loại trừ cả lĩnh vực dầu khí, làm cho vốn đầu tư vào dầu khí giảm mạnh từ 3 tỉ USD xuống con 1.44 tỉ USD, giá dầu thô tiếp tục giảm. do ảnh hưởng của các điều kiện khách quan ở trên, PVIC đã đề ta kế hoạch khai thác là 745.000 USD, song trong kì thực hiện công ty vẫn đạt 766.815 USD, vượt 3% so với kì kế hoạch đề ra. Điều này khẳng định sự nỗ lực cố gắng của PVIC Năm 1999 Việt Nam vẫn tiếp tục chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực, các nhà đầu tư tiếp tục rút khỏi thị trường Việt Nam đồng thời do thị trường cạnh tranh bằng cách giảm phí làm cho mức phí tiếp tục giảm và đã giảm đến mức thấp nhất trong 10 năm qua. Trước tình hình khó khăn của thị trường và được sự đồng ý của Tổng công ty dầu khí Việt Nam, kế hoạch khai thác năm 1999 là 655.000 USD và kì thực hiên PVIC đạt là 674.497 USD hoàn thành 103% kế hoạch đề ra. Đến năm 2000 thị trường trong nước và thế giới ổn định, mức phí bảo hiểm khống chế giếng bắt đầu tăng và dần dần đạt tới mức ổn định. Kì thực hiện phí đạt mức 787.768 USD so với kì kế hoạch là 765.000 USD, tức là chỉ đạt gần 103% so với kế hoạch. Tuy rằng kì này mức phí bảo hiểm khống chế giếng có xu hướng tăng lên cao hơn so với năm 1999 nhưng so với những năm 1996 và 1997 mức phí này vẫn thấp, chỉ chiếm tỉ lệ 22.44% trong tổng phí bảo hiểm dầu khí trong đó năm 1996 chiếm 38.83 % đạt tỉ lệ cao nhất, đến năm 1997 tỉ lệ này giảm còn 32.21 % Cho dù phí bảo hiểm khống chế giếng có giảm đi do những tình hình khách quan và chủ quan mang lại song nó vẫn chiếm tỉ lớn trong bảo hiểm dầu khí, là một nghiệp vụ quan trọng, cơ bản của nghiệp vụ bảo hiểm dầu khí. Theo như phân tích ở trên ta thấy trong những năm hoạt động PVIC luôn đạt được hiệu quả kinh doanh trong khâu khai thác của nghiệp vụ bảo hiểm khống chế giếng thể hiện ở tỉ lệ hoàn thành kế hoạch luôn hoàn thành vượt mức kế hoạch đề ra từ 3 – 27 %. Với con số tuyệt đối là 22.678 USD dến 360.720 USD. Để hiểu kĩ hơn những thay đổi trong các năm về khâu khai thác nghiệp vụ bảo hiểm khống chế giếng, ta xem xét bảng sau: Bảng kết quả khai thác nghiệp vụ bảo hiểm khống chế giếng STT Chỉ tiêu 1996 1997 1998 1999 2000 1 Số đơn 14 8 7 9 8 2 Mức trách nhiệm 518.400 488.960 255400 280000 256000 3 Phí bảo hiểm 1710720 1593862 766815 674497 787768 Nhận xét Năm 1996 tuy mới bước vào hoạt động song công ty cũng đã khai thác được 14 hợp đồng bảo hiểm khống chế giếng có tổng mức phí cao nhất trong 5 năm hoạt động vừa qua. Tuy nhiên mức trách nhiệm chỉ là 518.400.000USD về số tuyệt đối thì lớn nhất nhưng nếu tính trung bình cho từng đơn thì lại không phải là cao nhất, điều này phản ánh một thực tế rằng các khách hàng còn e sợ vì đây là công ty mới thành lập kinh nghiệm còn chưa nhiều và cán bộ chuyên môn còn thiếu. Năm 1997, do tin tưởng hoạt động của PVIC trong năm 1996 , khách hàng bắt đầu tham gia trọn gói với mức trách nhiệm cao hơn song số đơn bảo hiểm giảm xuống điều này được giải thích là do bắt đầu có sự ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực làm cho một số nhà đầu tư nước ngoài rút khỏi thị trường làm cho số lượng hợp đồng tham gia giảm xuống từ 14 đơn năm 1996 xuống còn 8 đơn năm 1997 tức là giảm 42.8 %. Năm 1998 số đơn bảo hiểm tiếp tục giảm đồng thời mức trách nhiệm cũng giảm theo. Xét theo con số tuyệt đối thì số đơn giảm xuống 1 đơn song mức trách nhiệm giảm 233.560.000 USD giảm đigần một nửa so với năm 1997 đồng thời với nó mức phí thu được cũng giảm đi hơn một nửa. Đây không phải là nguyên nhân chủ quan của PVIC mà là nguyên nhân khách quan do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực mang lại. Năm 1999 tuy số đơn tăng lên 2 đơn so với năm 1998, mức trách nhiệm cũng tăng song phí bảo hiểm vẫn giảm điều này cho thấy: Vẫn còn chịu sự khủng hoảng tài chính khu vực. Do những rủi ro xảy ra trên thế giới trong thời gian qua là tương đối cao đặc biệt là nghiệp vụ bảo hiểm khống chế giếng, mức chịu đựng rủi ro trên thị trường thế giới giảm xuống đồng thời với sự cạnh tranh khốc liệt giữa các công ty bảo hiểm trên thế giới làm cho mức phí giảm xuống và đến năm 1999 thì giảm xuống ở mức thấp nhất trong vòng 10 năm qua. Năm 2000 đã có dấu hiệu trở lại của một thị trường sôi động tuy số đơn bảo hiểm giảm xuống một đơn so với năm1999 nhưng mức trách nhiệm cũng đạt được là 2.560.000 USD và phí bảo hiểm khống chế giếng tăng lên so với năm 1999 đạt là 787.768 USD 2. Khâu tái bảo hiểm. Rủi ro xảy ra đối với mọi lĩnh vực là điều không thể tránh khỏi do vậy nhu cầu bảo hiểm là cần thiết đối với mọi lĩnh vực, mọi hoạt động trong đó không loại trừ cả công ty bảo hiểm thậm chí rủi ro xảy ra đối với công ty bảo hiểm còn lớn hơn rất nhiều do bản chất của hoạt động bảo hiểm là chấp nhận rủi ro, kinh doanh rủi ro, bởi vậy công ty công ty bảo hiểm cũng cần có sự bảo vệ cho mình tránh khỏi rủi ro bằng nhiều cách: đồng bảo hiểm, tái bảo hiểm, tự bảo hiểm … trong đó phổ biến là phương pháp tái bảo hiểm. Phương pháp tái bảo hiểm là sự bảo hiểm cho những rủi ro mà Người bảo hiểm này gánh chịu cho Người bảo hiểm khác tức là công ty bảo hiểm gốc chuyển một phần hay nhiều phần rủi ro cho một hay nhiều công ty bảo hiểm và công ty tái bảo hiểm khác để nhăm: Phân tán rủi ro chống phá sản cho công ty bảo hiểm gốc. Tái bảo hiểm một phần phí để đảm bảo khả năng chi trả bồi thườngnếu rủi ro xảy ra phù hợp với khả năng tài chính đồng thời có thêm thu nhập từ hoa hồng tái bảo hiểm. Với những điều kiện chủ quan và khách quan đưa lạ, tái bảo hiểm là nghiệp vụ quan trọng của PVIC đặc biệt là trong bảo hiểm khống chế giếng bởi vì thứ nhất: công ty mới thành lập, kinh nghiệp chưa nhiều, đồng thời nguồn vốn còn ít chưa đủ khả năng tài chính để đảm nhận toàn bộ hợp đồng bảo hiểm vì giá trị bảo hiểm cho một đơn bảo hiểm khống chế giếng là rất lớn, gấp nhiều lần vốn kinh doanh của công ty Thứ hai: tuy nghiệp vụ bảo hiểm khống chế giếng nhiều năm qua chưa xảy ra tổn thấtnào song đây lại là nghiệp vụ mang tính tích tụ rủi ro. Rủi ro nếu xảy ra sẽ rất lớn, ngoài giá trị bảo hiểm còn nhiều giá trị liên quan vượt quá khả năng tài chính của công ty. Cũng do đặc điểm của ngành dầu khí của nước ta còn mới mể, công ty bảo hiểm dầu khí Việt Nam đã hoạt động được 5 năm song mới chỉ là bước đầu phát triển so với thế giới do vậy còn nhiều vướng mắc, đặc biệt là uy tín của PVIC trên thị trường quốc tế còn chưa cao. Vậy hoạt động của nghiệp vụ bảo hiểm khống chế giếng của công ty bảo hiểm PVIC thường được thực hiện thông qua môi giới tái bảo hiểm, có nhiều kinh nghiệm, có uy tín và có mối quan hệ rộng trên thị trường quốc tế. Hiện nay, PVIC đang tiến hành đấu thầu môi giới tái bảo hiểm theo ba phương pháp là: Đấu thầu môi giới tái bảo hiểm hàng năm Đấu thầu môi giới tái bảo hiểm cho mỗi giai đoạn từ 3đến 5 năm. Đấu thầu môi giới lâu dài. Với nhiệm vụ là thực hiện chào tái để thu xếp hợp đồng tái bảo hiểm tìm kiếm nhà đứng đầu nhận tái bảo hiểm có uy tín, khả năng tài chính, đưa ra được mức phí hợp lí và hoa hồng tái bảo hiểm cao. Cung cấp thông tin về nhà đứng đầu nhận tái bảo hiểm cho công ty bảo hiểm gốc. ở mỗi phương pháp đấu thầu trên đều có những ưu nhược điểm nhất định và đối với mỗi một nghiệp vụ khác nhau thì mỗi phương pháp trên đều sẽ phát huy tính tối ưu của nó. PVIC vừa hoạt động trong thời gian ngắn, mức vốn chưa cao cộng với mức chịu đựng rủi ro của thế giới đang giảm còn nhiều biến động và PVIC rất thụ động trong việc đưa ra mức phí với khách hàngbởi vì phải trên cơ sở phí tái bảo hiểm do nhà thầu nhận tái bảo hiểm đưa ra PVIC mới xác định mức phí của mình đối với khách hàng . Cho nên PVIC chủ yếu tiến hành theo phương pháp đấu thầu môi giới tái bảo hiểm hàng năm. Ưu điểm của phương pháp này là: Kiểm nghiệm được giá phí hàng năm Chọn được nhà nhận tái bảo hiểm có mức phí thấp nhất, hoa hồng nhượng tái bảo hiểm cao nhấtvà các điều khoản hấp dẫn Công ty có chủ động trong việc lựa chọn môi giới tái bảo hiểm và nhà nhận tái bảo hiểm. Nhược điểm: Phải tiến hành đấu thầu hàng năm nên tốn kém trong chi phí đấu thầu Không tạo ra được mối quan hệ lâu dài với môi giới và người nhận tái bảo hiểm lâu dài do vậy cũng không nhận được những ưu đãi từ các bên này. Trong trường hợp thị trường khó khăn, có thể công ty phải chấp nhận mức phí tái bảo hiểm cao và hoa hồng nhận tái bảo hiểm thấp. Các bước của hoạt động tái bảo hiểm bao gồm: Chào phí . Ngay khi PVIC và Bảo Việt chấp nhận môi giới tái bảo hiểm thì công ty này sẽ liên hệ với các nhà nhận tái bảo hiểm đã trúng thầu để thu xếp tái bảo hiểm (nếu đây là môi giới tái bảo hiểm do Người được bảo hiểm chỉ định thì môi giới này sẽ liên hệ với các nhà nhận tái bảo hiểm đã trúng thầu để thu xếp tái captive). Thu xếp tái bảo hiểm Do khả năng tài chính nên nghiệp vụ bảo hiểm khống chế giếng có tỉ tái bảo hiểm rất cao thường là 98% và theo tỉ lệ sau: Tái bảo hiểm bắt buộc cho Vina Re tối thiểu là 20% giá trị mỗi đơn. Tái captive (tái bảo hiểm chỉ định) là 50% giá trị mỗi đơn. Tái treaty (tái bảo hiểm cố định) Đây là hợp đồng mở sắn theo dạng mức dôi hoặc số thành với mức hoa hồng nhượng tái bảo hiểm cố định. Tỉ lệ tái bảo hiểm tuỳ theo từng đơn và từng nghiệp vụ khác nhau sẽ có tỉ lệ tái khác nhau. Sơ đồ thu xếp tái bảo hiểm của PVIC 100% phí bảo hiểm gốc PVIC 64% Bảo Việt 36% Captive 50% VinaRe 20% Treaty và tái khác 20-28% Bảng thống kê tái bảo hiểm nghiệp vụ nghiệp vụ bảo hiểm khống chế giếng STT Năm Tổng phí Phí nhượng TBH Tỉ lệ TBH Mức trách nhiệm giữ lại Hoa hồng nhượng TBH Tỉ lệ hoa hồng nhượng TBH 1 1996 1710720 1676505 98 10368.000 196732 11.735 2 1997 1593863 1544453 96.9 15157.760 196938 12.751 3 1998 766815 739976 96.5 8393.000 99609 13.461 4 1999 674497 645493 95.7 12040.000 98935 15.327 5 2000 787768 757045 96.1 9984.000 116539 15.394 Nhận xét : Như ta đã biết trước năm 1999 khi chưa có qui định của bộ tài chính thì tỉ lệ tái bảo hiểm theo hợp đồng tái bảo hiểm chỉ định chiếm tỉ lệ lớn trong tổng phí tái bảo hiểm trên 50% ví dụ như năm 1996 tỉ lệ này chiếm đến 70% trong khi đó tỉ hoa hồng thường thấp hơn so với các hợp đồng tái bảo hiểm khác bởi vì: Do luật đầu tư quy định các nhà thầu dầu khí hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam phải mua bảo hiểm của các công ty bảo hiểm Việt Nam nên các nhà thầu dầu khí buộc phải mua bảo hiểm của PVIC và Bảo Việt nhưng họ lại buộc PVIC/ Bảo Việt phải tái captive cho các nhà bảo hiểm khác một phần vì còn chưa tin tưởng vào PVIC một phần vì đã có mối quan hệ lâu dài với công ty bảo hiểm khác (mà khách hàng muốn tái captive) Do nghiệp vụ tái bảo hiểm của PVIC thường được tiến hành thông qua môi giới nên để không phải trả phí cho môi giới thì công ty phải tái một phần lớn phí bảo hiểm cho môi giới tái bảo hiểm . Tuy nhiên theo quy định mới của bộ tài chính thì: Bắt đầu từ năm 1997 PVIC buộc phải tái bảo hiểm bắt buộc cho Vina Re tối thiểu là 20% tổng phí. Bắt đầu từ năm 1999, không tái cho một nhà nhận tái bảo hiểm hoặc một tổ chức môi giới quá 50% tổng số phí bảo hiểm gốc, nên mức phí tái bảo hiểm captive bắt đầu từ 1999 là 50% tổng phíbảo hiểm gốc. Về tỉ lệ hoa hồng tái bảo hiểm cho Vina Re theo quy định là Năm 1996 là 12% Bắt đầu từ1997 là 15% So sánh giữa tái cho Vina Re và tái treaty thì tái bảo hiểm theo quy định của nhà nước cho VinaRe thì tái cho treaty luôn lơn hơn rất nhiêu do vậy tái bảo hiểm bắt buộc cho Vina Re là thua thiệt cho PVIC ví dụ: Tái treaty năm 2000 có tỉ lệ hoa hông là 24.3 % gấp 1.62 lần so với hoa hồng nhượng tát của Vina Re. Qua số liệu của bảng trên ta thấy mức phí nhượng tái bảo hiểm giảm dần qua các năm từ 1996 – 1999 tương ứng với việc giảm dần của tổng phí thu được song xét về tỉ lệ tái bảo hiểm thì tỉ lệ giảm dần từ 98% năm 1996 xuống còn 95.7% năm 1999. Tính đến năm 2000, do thị trường bảo hiểm năng lượng có sự ổn định, mức phí thu được tăng lên, so với năm 99 tăng 16,79% nhưng tỷ lệtái bảo hiểm cũng tăng lên từ 95,7% năm 99 tăng lên 96,1% năm 2000 điều này không phải là không tốt vì theo con số tuyệt đối thì mức phí giữ lại của năm 2000 vẫn tăng hơn năm 1999 là 1719 USD. Tỷ lệ phí giữ lại qua các năm tăng lên từ 2% đến 4,3%, đây là điểm đáng mừng vì tỷ lệ giữ lại cao chứng tỏ khả năng chịu đựng rủi ro của công ty tăng lên, song nếu so với tổng doanh thu, phí bảo hiểm gốc thì đây lại là một tỷ lệ thấp, điều này cũng dễ hiểu bởi vì thực tế giá trị bảo hiểm của nghiệp vụ này là rất lớn do vậy về con số tỷ lệ giữ lại là thấp, song về con số tuyệt đối lại là rất cao. Mức trách nhiệm giữ lại của PVIC qua các năm là không ổn định, biến đổi từ khoảng hơn 8 triệu USD đến hơn 15 triệu USD tuỳ thuộc vào số giếng của mỗi hợp đồng bảo hiểm dầu khí. Tỷ lệ hoa hồng nhượng tái bảo hiểm liên tục tăng trong các năm, từ 11,74% đến 15,39% chứng tỏ việc công ty lựa chọn phương án đấu thầu môi giới tái bảo hiểm hàng năm cùng với khả năng đàm phán của công ty là có hiệu quả cao. Mặc dù tỷ lệ hoa hồng hàng năm tăng lên song hoa hồng nhượng tái bảo hiểm vẫn giảm tương đối rộng do tốc độ tăng của tỷ lệ hoa hồng nhỏ hơn tốc độ giảm của phí bảo hiểm gốc. Riêng năm 97 phí nhượng tái bảo hiểm tăng lên và mức phí gốc cũng tăng lên đạt 11.6539 USD tăng hơn năm 99 là 17,79%. Để nâng cao chất lượng tái bảo hiểm một khâu quan trọng trong quá trình hoạt động kinh doanh bảo hiểm, đặc biệt là nghiệp vụ bảo hiểm khống chế giếng công ty cần nâng cao uy tín của mình trên thị trường quốc tế thông qua hoạt động kinh doanh có hiệu quả của mình tạo niềm tin cho khách hàng, giảm mức tái bảo hiểm cho Captive, tăng mức phí giữ lại cũng như tái cho Treaty để làm tăng lợi nhuận cho mình. 3. Đề phòng và hạn chế tổn thất : Đề phòng hạn chế tổn thất suy cho cùng là một hình thức tự bảo hiểm cho mình bởi vì nếu thực hiện tốt khâu này sẽ tránh cho công ty phải hạn chế được tổn thất phải bồi thường từ đó công ty sẽ giảm số tiền chi trả bồi thường cho các đối tượng tham gia. Đối với trường hợp tổn thấtmang tính thẩm hoạ hoặc vượt quá khả năng tài chính của công ty thì đây là hình thức hữu hiệu giúp công ty tự bảo vệ mình tránh khỏi nguy cơ rủi ro nêu trên. Vì vậy trong kinh doanh bảo hiểm, công tác đề phòng và hạn chế tổn thất có ý nghĩa quan trọng cả về mặt kinh tế và xã hội. Vấn đề quản lý rủi ro trong kinh doanh bảo hiểm dầu khí của hoạt động đề phòng và hạn chế tổn thất là rất quan trọng vì : Giá trị các giếng tham gia là rất lớn Trong bảo hiểm khống chế giếng rủi ro mang tính tích tụ tức là rủi ro ít xảy ra nhưng nếu gây lên những thiệt hại lớn nhiều khi không thống kê được bằng con số. Trong 5 năm hoạt động của mình bảo hiểm dầu khí Việt Nam PVIC luôn luôn thực hiện tốt khâu này để thể hiện ở thực tiễn hoạt động trong 5 năm, nghiệp vụ bảo hiểm khống chế giếng không hề xảy ra tổn thấthay bất kỳ sự kiện tụng nào. Có được thành quả này là nhờ nỗ lực cũng như sự linh hoạt của công ty trong khâu đề phòng và hạn chế tổn thất. ở khâu này PVIC rất chú trọng đến việc bồi thường tổn thất cho những rủi ro có thể phòng tránh được. Thông qua kết quả giám định của khâu khai thác, PVIC đã đưa ra những biện pháp đề phòng buộc các nhà đấu thầu dầu khí tham gia bảo hiểm phải tuân thủ: Giếng khoan đúng kỹ thuật và phải có các thiết bị phụ trợ để làm giảm các tác động bên ngoài (đặc biệt là động đất, bão, lụt…) Giếng phải được bảo vệ bởi các thiết bị chuyên dùng: van an toàn, các thiết bị chống giếng phụt… cho phép kiểm tra việc khai thác và bảo dưỡng. Bảo dưỡng theo định kỳ các thiết bị máy móc, phục vụ khai thác trực tiếp, khai thác các bộ phận của giếng. Các máy móc thiết bị của giếng phải được thiết kế đúng kỹ thuật và phải được lắp đặt sao cho đảm bảo an toàn cho nhau trong trường hợp rủi ro xảy ra đối với bất kì thiết bị hay máy móc nào Đốivới những rủi ro không không thể tránh khỏi PVIC đã có phương hướng hạn chế tổn thấtđể giảm thiểu rủi ro xảy ra ở mức thấp nhất . trang bị các thiết bị vật chất tại chỗ chống giếng phụt cần thiết tại nơi khai thác. Trang bị các thiết bị thay thế tại chỗ để có thể thay thế trong trường hợp rủi ro xảy ra do sự hư hại của các thiết bị Ngoài ra ở khâu này công ty còn chú trọng việc đào tạo đội ngũ cán bộ quản lí rủi ro một cách nghiêm túc, có hiệu quả. Thường xuyên trau dồi bổ sung kiến thức và cập nhật thông tin về rủi ro. Hiệu quả Với hoạt động của mình PVIC đã đưa lại cho công ty một nguồn thu lớn do không phải bồi thườngcho những rủi ro của nghiệp vụ này, nó minh chứng cho việc PVIC đã thực hiện tốt khâu đề phòng và hạn chế tổn thấtbảo đảm cho 5 năm hoạt động vừa qua không hề có rủi ro phải bồi thườngxảy ra. 4. Khâu giám định và bồi thường tổn thất Khâu này là khâu cuối cùng của hoạt động bảo hiểm khống chế giếng, theo sự sắp xếp của PVIC, nó không những quy định đến uy tín của công ty mà còn quy định đến hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ này bởi vì nếu làm tốt khâu này sẽ làm tăng uy tín của công ty, nếu ngược lại hoặc là sẽ làm giảm uy tín của công ty hoặc là công ty sẽ bị lợi dụng (trục lợi), ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của công ty. ở khâu này giám định đóng vai trò quan trọng quyết định đến việc bồi thườngcó chính xác, kịp thời, khách quan, trung thực, thoả đáng hay không? Thực tế của PVIC cho thấy do sự phức tạp cũng như tính chuyên môn cao trong việc giám định về bảo hiểm khống chế giếng cho nên hầu hết các giám định viên về nghiệp vụ này đều phải thêu của các công ty nước ngoài, đây là một hạn chế cần được khắc phục của công ty. Nhận thức được tầm quan trọng của công tác giám định và bồi thườngtổn thất, tuy rằng không có tổn thất rủi ro nào xảy ra trong 5 năm hoạt động nhưng PVIC vẫn luôn củng cố hoạt động của khâu này như : Lập quỹ dự trữ, dự phòng Đưa ra các quy định trong từng trường hợp Đào tạo đội ngũ giám định viên để dần dần thay thế các giám định viên nước ngoài để giảm chi phí thuê giám định viện. Thông thường giám định khi có sự cố xảy ra được PVIC quy định như sau : khi có sự cố xảy ra có thể dẫn tới khiếu nại đòi bồi thường. Theo đơn bảo hiểm thì người được bảo hiểm phải thông báo ngay cho người bảo hiểm trong vòng 14 ngày kể từ ngày xảy ra sự cố, nếu quá thời hạn kể trên mà người bảo hiểm không nhận được thông báo tổn thất người bảo hiểm không chịu trách nhiệm về tổn thất đó. Sau khi nhận được thông báo tổn thất của người được bảo hiểm, công ty bảo hiểm sẽ nhanh chóng thông báo cho các nhà nhận tái bảo hiểm để chỉ định giám định tổn thất. Hiện nay có hai công ty có uy tín được PVIC chỉ định làm giám định viên là Falconer Bryan & Associates Pte.LTD (FBA) và MathewsDaniel International Ltd. + Địa điểm xảy ra tổn thất +Thời gian xảy ra tổn thất +Nguyên nhân xảy ra tổn thất +Thiệt hại do tổn thấtgây ra +Các chi phí liên quan Sau khi xem xét thực tế, công ty giám định gửi báo cáo giám định của mình tới công ty bảo hiểm gốc và các nhà nhận tái bảo hiểm để xác định : người được bảo hiểm có được hưởng bồi thườngtheo quy định trong hợp đồng hay không (bao gồm cả trách nhiệm và quyền lợi của người được bảo hiểm), phí bảo hiểm sẽ được tính luôn vào vào số tiền bồi thườngrồi phân chia theo tỷ lệ phí. 5. Đánh giá chung về kết quả và hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ bảo hiểm khống chế giếng Bảng kết quả & hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ bảo hiểm khống chế giếng trong hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí tại PVIC TT Chỉ tiêu 96 97 98 99 00 I Tổng doanh thu (USD) 1912420 1797636 880068 776233 904496 1 Doanh thu phí bảo hiểm gốc 1710720 1593863 766815 674497 787768 2 Chuyển nhượng tái bảo hiểm 196732 196938 99609 98935 116539 3 Thu từ hoạt động đầu tư 4890 6723 3562 2730 3106 4 Thu khác 78 112 81 71 83 II Tổng chi (USD) 1802738 1676531 808124 706530 823822 1 Phí nhượng tái bảo hiểm 1676505 1544453 739976 645493 757045 2 Chi kinh doanh 116565 121582 62477 55715 60756 3 Chi khác 9668 10496 5671 5322 6021 III Lợi nhuận (USD) 109682 121105 71944 69703 83674 VI Tỷ suất lợi nhuận 6,08 7,22 8,9 9,86 10,16 Nguồn: công ty bảo hiểm dầu khí PVIC Qua các phân tích trên ta có một cái nhìn bao quát cho việc thực hiện bảo hiểm khống chế giếng trong 5 năm qua của PVIC. Nhìn chung việc thực hiện nghiệp vụ bảo hiểm khống chế giếng trong những năm qua được tiến hành theo trình tự các bước đã được PVIC thực hiện tốt theo từng khâu và cũng đạt được những kết quả khả quan. Nghiệp vụ bảo hiểm khống chế giếng là nghiệp vụ mang tính tích tụ rủi ro đồng thời 5 năm hoạt động là thời gian chưa nhiều để có thể đánh giá được chu kỳ rủi ro của giếng phụt. Do vậy, để đánh giá chính xác kết quả và hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ bảo hiểm khống chế giếng là rất khó khăn, song theo thống kê của bảng nêu trên ta có nhận xét sau về kết quả kinh doanh : Tổng doanh thu có xu hướng giảm dần qua các năm từ 96-99 song đến năm 2000 thì chững lại và có xu hướng tăng lên từ 96-99, tổng doanh thu từ 1912240 USD năm 96 xuống còn 776233 USD giảm đi 1136187 USD tức là giảm hơn một nửa so với năm 96, xu hướng tăng lên của năm 2000 là điều đáng mừng vì tỷ lệ tăng lên là 116,91% so với năm 99. Về nguyên tắc thì khoản thu chủ yếu của công ty bảo hiểm về kết quả kinh doanh ta có thu phí, nguồn chi lớn nhất của công ty bảo hiểm là chi bồi thườngsong nhìn vào bảng trên ta thấydoanh thu phí bảo hiểm gốc chiếm tỷ lệ lớn trong tổng doanh thu, trung bình chiếm 87,79%, trong khi đó hoa hồng hoa hồng nhượng tái bảo hiểm chỉ chiếm trung bình 11,63% nhưng thực chất đây mới là nguồn tu chính của PVIC. Bởi vì tỷ lệ tái bảo hiểm của nghiệp vụ này rất cao từ 95-98%, thậm chí có những trường hợp tỷ lệ phí tái bảo hiểm lên tới hơn 99%, do vậy mức giữ lại là rất thấp tỷ lệ lợi nhuận giữ lại thấp tương ứng (tuy rằng chưa phải bồi thường song nếu có thì chi bồi thườngcũng thấp tương ứng). Doanh thu từ hoạt động đầu tư là nhỏ vì danh mục đầu tư của công ty còn hạn chế mới chỉ dừng lại ở nghiệp vụ gửi ngân hàng hoặc mua trái phiếu chính phủ với lãi suất trung bình 12%/năm. Về hiệu quả kinh doanh ta có: Hiệu quả kinh doanh năm sau cao hơn năm trước thể hiện ở tỷ suất lợi nhuận của PVIC liên tục tăng từ 6,08% năm 96 lên tới 10,16% năm 2000, tuy rằng tốc độ tăng giảm song đây cũng thể hiện năng lực, khả năng, nỗ lực của công ty trong quá trình hoạt động của giai đoạn khó khăn này. Nghiệp vụ bảo hiểm khống chế giếng của PVIC là rất khả quan, khẳng định sự ra đời của PVIC, khẳng định hướng kinh doanh của công ty là đúng đắn phù hợp với thị trường, với nền kinh tế, với ngành dầu khí. Trong thời gian tới Công ty cần phát huy lợi thế của mình để tiếp tục phát triển hơn nữa. Phần III Phương hướng hoạt động kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm khống chế giếng trong hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí trong thời gian tới và kiến nghị. i- Đánh giá chung: 1. Thuận lợi Xem xét lịch sử công ty và quá trình hoạt động của nghiệp vụ bảo hiểm khống chế giếng , có thể rút ra một số đặc điểm thuận lợi cho nghiệp vụ này tại công ty như sau: Thứ nhất: Công nghiệp dầu khí là một ngành khoa học tổng hợp sử dụng tất cả các thành tựu khoa học tiên tiến nhất của nhiều nước trên thế giới. Trong quá trình hoạt động thường xuyên xuất hiện nhiều vấn đề liên quan đến kĩ thuật và công nghệ, xuất hiện ngày càng nhiều những rủi ro gây thiệt hại lớn tương ứng với quy mô cũng như trình độ của nó. Vì vậy, nhu cầu bảo hiểm càng tăng cả về quy mô cũng như giá trị bảo hiểm. Thứ hai: PVIC ra đời luôn được sự chỉ đạo về nhiệm vụ cũng như sự giúp đỡ kinh phí từ phía tổng công ty. Với tầm nhìn vĩ mô, tổng công ty dầu khí Việt Nam luôn chỉ ra định hướng và từ đó giao nhiệm vụ cụ thể và sát thực. Đồng thời tổng công ty còn là nguồn kinh phí quý giá cho những dự án vượt quá khả năng tài chính của công ty. Sau đó tổng công ty có chế độ khen thưởng đích đáng đã là động lực mạnh cho các nhân viên về bảo hiểm đóng góp công sức vào lĩnh vực này. Thứ ba: Là không thể không kể đến nguồn TN dầu khí Việt Nam. Dù rằng không phải ai cũng dễ dàng lợi dụng được TN ,song rõ ràng nguồn TN khoáng sản phong phú đa dạng trữ lượng lớn, chất lượng cao là điều kiện vật chất, một tiền đề hết sức quan trọng giúp PVIC hoạt động ổn định, lâu dài. Cuối cùng là trong những năm đầu triển khai nghiệp vụ bảo hiểm khống chế giếng đã không xảy ra một vụ tổn thất nào phải bồi thường tạo tâm lý ổn định cho nhân viên tiếp tục làm việc đồng thời tạo cơ sở vật chất ban đầu cho công ty, tiếp thu dần các kinh nghiệm cho nghiệp vụ này. Thực hiện bảo hiểm khống chế giếng trong 5 năm qua ở PVK bước đầu đã mang lại những kết quả tốt đẹp, thực tế triển khai nghiệp vụ này trong những năm vừa qua không có tổn thất gây khiếu nại phải bồi thường nào cho công ty song không phải là không có khó khăn thậm chí khó khăn trong công tác này còn mang tính cấp thiết, yêu cầu phải khắc phục càng sớm càng tốt. Tỷ lệ tái bảo hiểm trong nghiệp vụ này rất lớn, thường là từ 94-98% trong tổng phí bảo hiểm thu được từ nghiệp vụ này thậm chí có nhiều trường hợp có giá trị bảo hiểm cao thì mức tái bảo hiểm còn chiếm hơn 98% mức giữ lại chỉ có 2-6%, một tỷ lệ giữ lại quá thấp. Tỷ lệ tái bảo hiểm Captive còn cao trong khi đó tái bảo hiểm theo phương pháp này mang lạihiệu quả rất thấp. PVIC chưa xây dựng được cho mình một biểu phí riêng cho nghiệp vụ này vì vậy rất thụ động trong việc chào phí tới khách hàng và tiến hành cấp đơn bảo hiểm. Cán bộ kỹ thuật có chuyên môn sâu còn thiếu, trong nhiều trường hợp cần thiết công ty phải thuê chuyên viên nước ngoài vừa chi phí tốn kém vừa mất thời gian. 2. Khó khăn. Bên cạnh đó còn có những khó khăn do các điều kiện khách quan mang lại như: Hành lang pháp lý còn bất cập. Khả năng chịu đựng rủi ro ở nghiệp vụ này của thị trường thế giới giảm xuống. ii- Phương hướng hoạt động kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm khống chế giếng của PVIC trong thời gian tới: Trong mỗi năm hoạt động, trên cơ sở đánh giá những điều kiện thuận lợi và thiếu sót còn tồn tại, PVIC có đề ra những phương hướng hoạt động sao cho có hiệu quả nhất cho mình để tạn dụng được tối ưu các điều kiện thuận lợi. Trong năm 2001, phương hướng phát triển của PVIC là : Tăng cường hợp tác quốc tế, tạo mối quan hệ lâu dài đối với các đối tác trong nước (BV, BM,…) và quốc tế. Hoàn thành tốt nghiệp vụ bảo hiểm khống chế giếng cho toàn ngành dầu khí Việt Nam Mở rộng phạm vi khách hàng ra các nước trên thế giới Từng bước nâng cao tỷ lệ giữ lại Gắn hiệu quả kinh tế với việc phát triển kinh doanh, lấy lợi nhuận làm mục tiêu hàng đầu để đánh giá kết quả kinh doanh Từng bước bổ sung & đào tạo cán bộ chuyên môn kỹ thuật cao, ổn điịnh đời sống của công nhân viên chức. iii- Một số đề xuất kiến nghị: 1. Về luật: Hiện nay trên thị trường bảo hiểm thế giới, do sự bất ổn định đồng thời cạnh tranh gay gắt dẫn tới việc giảm phí, thậm chí đến năm 2000, phí bảo hiểm đã giảm tới mức thấp nhất trong 10 năm qua. PVIC là một công ty còn non trẻ, việc giảm phí chung này là khó khăn lớn đối với việc chào phí và kí kết hợp đồng với đối tác. Hầu hết các khách hàng của PVIC đều yêu cầu tái Captive với tỷ lệ khá cao, hơn 50% so với các năm trước đây và từ khi có quy định của Bộ tài chính thì tỷ lệ này luôn là cao nhất 50%. Trong khi đó tỷ lệ tái bảo hiểm bắt buộc do Nhà nước quy định đối với mõi công ty bảo hiểm cho Vinare là 20% tổng phí. Vậy mức còn lại là 30% kể cả phần giữ lại cho công ty và tái Treaty. Thông thường tái Treaty bao giờ cũng có tỷ lệ cao nhất (ví dụ năm 2000 là hơn 24% phí tái bảo hiểm), song phần còn lại tái cho Treaty lại còn rất nhỏ. Các khó khăn bên ngoài cũng như nguyên nhân khách quan còn có nguyên nhân chủ quan như Khách hàng còn chưa tin tưởng vào hoạt động kinh doanh của PVIC cũng như thiếu tin tưởng vào thị trường Việt nam vì chưa có một hành lang pháp lý ổn định bảo vệ người tham giacũng như người bảo hiểm. Luật bảo hiểm đã được quốc hội thông qua, cần nhanh chóng đưa vào thi hành thực tế, tạo hành lang pháp lý an toàn hướng dẫn sự hoạt độngcủa các công ty bảo hiểm đồng thời tạo tâm lý an tâm cho những người tham gia bảo hiểm tại các công ty bảo hiểm Việt nam. Trong thời gian qua các doanh nghiệp bảo hiểm vẫn phải áp dụngcác luật bảo hiểm quy địnhchung cho tất cả các doanh nghiệp trong hoạt động kinh tế và khoa học nói chung. Từ đó có cơ sở để nâng đỡ, bảo hộ một cách hợp lýcác doanh nghiệp bảo hiểm Việt nam còn non trẻ trước các công ty nước ngoài trên thị trường đầy tiềm năng trong nướcvà tạo cơ hội cho sự phát triển cao hơn nữa của các công ty bảo hiểm Việt nam. Hơn nữa, do đặc điểm riêng có của bảo hiểm và sản phẩm của bảo hiểm, đây là sản phẩm vô hình, chỉ khi nào có rủi ro xảy ra mới biết được chất lượng của sản phẩm với lại trong nghiệp vụ bảo hiểm khống chế giếng, giá trị bảo hiểm là rất lớn, rủi ro xảy ra với bất kỳ một nhân tố nào trong bảo hiểm khống chế giếng cũng đưa lại thiệt hại lớn, rủi ro bồi thường do đó cũng rất lớn. Các nhf thầu dầu khí do đó rất e ngại bảo hiểm ở các công ty Việt Nam vì chưa có sự bảo đảm chắc chắn và khách quan của Nhà nước. Nhận rõ tầm quan trọng này Nhà nước đã có một số văn bản, nghị định nghị quyết ban hành điều chỉnh hoạt động kinh doanh bảo hiểm đối với cả công ty bảo hiểm song vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề bất cập vì loại hình công ty này rất khác so với loại hình doanh nghiệp khác) 2. Tăng cường hợp tác: a. Tăng cường hợp tác quốc tế: Hợp tác quốc tế nghiệp vụ bảo hiểm khống chế giếng là một cách hữu hiện giúp một nước đi sau như Việt Nam có thể tiép cận, học hỏi đồng thời có thể tranh thủ được nhiều nguồn tài chính khác nhau cho nguồn ngân quỹ vốn rất eo hẹp của PVIC. Trong thời gian qua PVIC đã tạo cho mình một số khách hàng và đối tác truyền thống : Khách hàng VSP, PIT, JVPC…và một số đối tác truỳên thống như Willis, Inchibuk, Munich Re, Allian, Aon… Một đặc điểm nổi bật trong hợp tác về lĩnh vực bảo hiểm đặc biệt là bảo hiểm dầu khí, ngoài sự giúp nhau về tài chính thì việc hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này sẽ làm nâng cao uy tín của các thành viên. Với một công ty còn non trẻ như PVIC điều này là rất quan trọng. Với tầm quan trọng của hoạt động này, em có một số đề xuất sau để nhằm thúc đẩy hoạt động này phát triển hơn: Phát triển hơn mối quan hệ với các công ty bảo hiểm quốc tế có uy tín, thúc đẩy quá trình hoà nhập với khu vực và quốc tế. Trên cơ sở các mối quan hệ truyền thống đã có, mở rộng hoạt động bảo hiểm của mình ra khu vực và thế giới. Hợp tác trao đổi thông tin nghiệp vụ kỹ thuật với các công ty nước ngoài có kinh nghiệm đồng thời có kế hoạch trao đổi, đào tạo cán bộ chuyên môn kỹ thuật cao Tăng cường tìm kiếm, đối thoại đàm phán và kí kết các hoạt động bảo hiểm với bên nước ngoài… b. Tăng cường hợp tác trong nước: Triển khai nghiệp vụ bảo hiểm khống chế giếng ở PVIC trong những năm qua đã mang lại một nguồn lợi lớn cho cả PVIC và cơ quan hữu quan liên quan. Nếu như hợp tác quốc tế sẽ mang lạicho công ty kinh nghiệm, cải thiện ngân quỹ thì hợp tác trong nước sẽ mang lạicho PVIC khả năng cạnh tranh, tăng mức giữ lạivà giúp đỡ nhau trong vấn đề hợp tác bảo hiểm hay hướng dẫn đào tạo cán bộ. Nên thành lập hiệp hội bảo hiểm trong nước về lĩnh vực bảo hiểm dầu khí. Vì như ta đã biết giá trị bảo hiểm của nghiệp vụ bảo hiểm khống chế giếng là rất lớn do vậy việc hợp tác này sẽ tạo nên sức mạnh tổng hợp, việc đồng bảo hiểm cho các hợp đồng bảo hiểm tăng lên và sẽ làm giảm mức tái bảo hiểm ra nước ngoài, tăng mức giữ lại trong nước. Hiệp hội bảo hiểm được thành lập sẽ bảo vệ quyền lợi của các thành viên, đối với thị trường trong nước tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các thành viên hoạt động kinh doanh, cung cấp thông tin cho nhau đồng thời bảo đảm bí mật thông tin giữa các công ty thành viên. Tién hành trao đổi dịch vụ, kinh nghiệm cho nhau, hợp tác hỗ trợ nhau phát triển. Cần phát triển hơn nữa mối quan hệ hợp tác với các công ty trong nước như Bảo Minh, Bảo Việt, góp phần tạo ra một thị trường bảo hiểm khống chế giếng vững mạnh, có khả năng hoà nhập khu vực và quốc tế. Mở rộng mối quan hệ với các ngành kỹ thuật có liên quan để trao đổi thông ti, nghiệp vụ kỹ thuật, tạo sự gắn bó tin cậy trong hoạt động kinh doanh. Phát triển mối quan hệ lâu dài và tốt đẹp với các cơ quan liên quan như Bộ Kế hoạch và đầu tư, Bộ tài chính, Bộ thương mại…để có được những điều kiện thuận lợi trong hoạt động kinh doanh của mình. 3. Trong đàm phán: Trong lĩnh vực bảo hiểm, đàm phán đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành hợp đồng và xác định mức phí bảo hiểm thoả thuận giữa các bên. Để làm tốt công việc đàm phán với khách hàng PVIC cần phải tận dụng những lợi thế nhất định của mình là công ty bảo hiểm chuyên ngành, tiến hành đàm phán với khách hàng nhằm khai thác được hợp đồng có giá trị và trước hết là khai thác được toàn bộ hợp đồng trong nước. Sau khi đã có được những lợi thế mang lại, khả năng tài chính cũng như kinh nghiệm cho phép PVIC có thể tiến hành đàm phán với các công ty bảo hiểm có liên quan để tăng tỷ lệ phí bảo hiểm của ình lên. Yêu cầu tổng công ty giúp đỡ về vốn, uy tín trong đàm phán với khách hàng hoặc đối tác trong hợp đồng bảo hiểm. 4. Biểu phí: Hiện nay PVIC vẫn áp dụng biểu phí nước ngoài, chưa có biểu phí riêng cho mình nên trong quá trình khai thác đàm phán hoạt động bảo hiểm khách hàng là rất hạn chế và thụ động, mức phí không ổn định, thường thay đổi theo từng biến động của thị trường. Tuy rằng hiện nay PVIC chưa thể xây dựng cho mình một biểu phí mới bởi vì mới bước vào hoạt động, kinh nghiệm chưa nhiều; không có đủ thông tin, uy tín cũng như tiềm lực kinh tế mạnh để tiến hành thực hiện song để đảm bảo cho phát triển lâu dài và vững mạnh thiết nghĩ công ty nên tổ chức kế hoạch điều tra, cập nhật thông tin, học hỏi kinh nghiệm của các công ty có thâm niên trên thế giới để chuẩn bị cho việc xây dựng một biểu phí riêng cho mình trong tương lai (trên cơ sở biểu phí chung của toàn thế giới) 5. Tái bảo hiểm : Trong một mô hình kinh doanh còn mới mẻ với những giá trị lớn, ngay từ những ngày đầu hoạt động PVIC cũng như nhiều công ty khác trên thế giới xác định tái bảo hiểm là hoạt động cơ bản của nghiệp vụ bảo hiểm khống chế giếng. Với một công ty còn non trẻ như PVIC, kinh nghiệm chưa nhiều, nguồn vốn hạn chế thì mức tái bảo hiểm lớn là không thể tránh khỏi để bảo đảm an toàn cho công ty. Song hiện nay qua 5 năm hoạt động về năng lực cũng như tiềm lực công ty đã vững mạnh, mức tái bảo hiểm từ 92-96% là rất lớn cần tận dụng hết thuận lợi và nỗ lực của mình để: Tăng mức giữ lại hợp lý và giảm mức tái bảo hiểm, trước hết để tăng nguồn lợi cho công ty cũng như tăng ngoại tệ cho đất nước. Qua 4 năm hoạt động, nghiệp vụ này không xảy ra tổn thất, đây có thể là cơ sở để PVIC tăng mức giữ lại nhiều hơn cho mình. Đồng thời PVIC luôn được sự hỗ trợ về vốn và uy tín của Tổng công ty dầu khí cho nên đây là điều kiện tốt để công ty tăng mức giữ lại cho mình mà không sợ quá mạo hiểm khi thị trường xảy ra. Để công tác tái bảo hiểm của công ty đạt kết quả tốt, em xin mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị: Kiến nghị với chính phủ cần ban hành nhanh chóng Luật bảo hiểm để có cơ sở điều chỉnh hoạt động kinh doanh và đồng thời chính phủ cần ban hành những quy định bảo vệ quyền lợi cho các công ty bảo hiểm Việt Nam còn non trẻ trước sự cạnh tranh khốc liệt của các công ty bảo hiểm lớn mạnh giàu kinh nghiệm trên thế giới Bộ Tài chính cần tăng tỷ lệ tái bảo hiểm bắt buộc cho VinaRe để tránh thiệt thòi cho PVIC trong hoạt động tái bảo hiểm (vì tỷ lệ tái bảo hiểm cho Treaty hiện nay là 25,7%) Kiến nghị với tổng công ty dầu khí Việt Nam tăng vốn, đảm bảo cho một số hợp đồng lớn để nâng cao uy tín của công ty, tạo lòng tin của khách hàng trên cơ sở đó đàm phán với khách hàng trong việc giảm tỷ lệ tái Captive (có tỷ lệ hoa hồng là thấp nhất ). Về phía công ty : Trước hết phải thực hiện tốt khâugiám định, đề phòng hạn chế thị trường nghiệp vụ bảo hiểm khống chế giếng để đảm bảo giảm thiểu xác suất rủi ro xảy ra, tạo sự an toàn cho phần trách nhiệm giữ lại của mình. Cần có kế hoạch chào tái bảo hiểm linh hoạt và có hiệu quả để tìm ra nhà tái bảo hiểm có uy tín tỷ lệ hoa hồng nhượng tái bảo hiểm theo hình thức khác có tỷ lệ hoa hồng nhượng tái bảo hiểm cao. Cần tạo cho mình ưu thế trong việc đàm phán tái bảo hiểm captive theo hình thức khác có tỷ lệ hoa hồng nhượng tái bảo hiểm cao hơn. Hiện nay công ty có nhận tái bảo hiểm của một số công ty trong nước như BM, BL… cần mở rộng đối tác trong khâu tái bảo hiểm, không chỉ trong nước mà còn của các nước trong khu vực và quốc tế. 6. Về đầu tư. Đầu tư là một chức năng có tầm quan trọng sông còn đối với việc duy trì và phát triển hoạt động của một công ty bảo hiểm. Hoạt động đầu tư của PVIC cho đến này mới chỉ dừng lại ở hoạt động cho ngân hàng vay, mua cổ phiếu, trái phiếu của Chính phủ. Xét về trước mắt, do mới hoạt động nên PVIC còn do dự tìm hiểu thị trường, hoạt động cầm chừng, trước hết muốn ổn định để phát triển và hoàn chỉnh về công tác triển khai các nghiệp vụ của công ty. Cho đến nay đã 5 năm hoạt động tình hình triển khai các nghiệp vụ tương đối ổn định, PVIC đã có hướng mở rộng danh mục đầu tư. Hiện công ty đang tiến hành đàm phán để mua lại một toà nhà cho thuê, đây là bước đầu của sự phát triển của nghiệp vụ đầu tư. Tuy đã có những hoạt động mở rộng danh mục đầu tư, song vẫn còn hạn chế đối với đối với một công ty hoạt động trong lĩnh vực rủi ro có giá trị lớn như PVIC đặc biệt là nghiệp vụ bảo hiểm khống chế giếng, có giá trị bảo hiểm lớn, có tỉ trọng doanh thu cao trong tổng doanh thu phí bảo hiểm gốc của công ty. Hướng hoạt động của công ty trong thời gian tới là giảm mức phí tái bảo hiểm và tăng mức giữ lại lên. Muốn làm được như vậy trước hết PVIC cần có kế hoạch sử dụng có hiệu quả mức giữ lại đó, suy cho cùng thì công ty cần có kế hoạch đầu tư mức giữ lại đó sao cho có hiệu quả. Để đảm bảo cho công tác đầu tư có hiệu quả em xin mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị sau: Kiến nghị với nhà nước nhanh chóng đưa vào áp dụng Luật bảo hiểm đã được Quốc hội thông qua để điều chỉnh hoạt động đầu tư. 7. Nguồn nhân lực: Bảo hiểm khống chế giếng mang tính xã hội hoá và quốc tế hoá cao do vậy trong công tác bảo hiểm nó cũng đòi hỏi cán bộ, công nhân viên có trình độ nhất định về nghiệp vụ này và tình hình thị trường thị trường thế giới nói chung. Vì thị trường bảo hiểm khống chế giếng đối với Việt Nam còn khá mới mẻ ngay cả trên thế giới thì thị trường này cũng chỉ xuất hiện trước đây không lâu, do vậy các tài liệu về nghiệp vụ này còn ít và chủ yếu là tài liệu nước ngoài. Mang tính quốc tế hoá cao nên nghiệp vụ bảo hiểm khống chế giếng đòi hỏi người lao động phải có một trình độ ngoại ngữ nhất định để giao tiếp cũng như để nghiên cứu tài liệu, quan hệ giao dịch với đối tác, khách hàng. Đây cũng là xu hướng chung của thế giới “hội nhập kinh tế”, muốn vậy phải có một ngôn ngữ chung cho mọi người. Trong 5 năm hoạt động vừa qua công tác đào tạo cán bộ của PVIC đã đạt được những kết quả khả quan. Trong công ty phần lớn cán bộ công nhân viên là những người thuộc nhiều chuyên ngành khác nhau, tỷ lệ cán bộ được đào tạo đúng chuyên ngành bảo hiểm chỉ chiếm khoảng 10% song qua các năm hoạt động công ty đã khẳng định được mình, các cán bộ công nhân viên của công ty đã hoàn thành tốt trách nhiệm của mình, có được điều này do: PVIC rất chú trọng việc đào tạo, bổ sung và nâng cao kiến thức về bảo hiểm cho cán bộ công nhân viên, thường xuyên cung cấp thông tin cập nhật về thị trường bảo hiểm trong nước và thế giới, hằng năm công ty có tổ chức các khóa học ngắn hạn và dài hạn ở trong nước và nước ngoài. Tổ chức các cuộc hội thảo về chuyên ngành giữa cán bộ công nhân viên công ty và các chuyên gia giàu kinh nghiệm để trao đổi kiến thức và kinh nghiệm hoạt động. Trong các năm hoạt động vừa qua, với sự nỗ lực của mình trong việc đào tạo, bổ sung kiến thức cho cán bộ công nhân viên, PVIC đã thu được kết quả sau: Tuy cán bộ có chuyên môn về kinh doanh bảo hiểm ít chỉ chiếm gần 10% song qua 3 năm hoạt độngvà phát triển đội ngũ cán bộ công nhân viên của PVIC đã được trang bị một cách cơ bản về kiến thức bảo hiểm trong hoạt động kinh doanh của công ty. Do nắm bắt thị trường một cách nhanh nhạy cập nhật tạo cho cán bộ công nhân viên của PVIC có tác phong kinh tế, sử lí các tình huống kinh doanh của công ty một cách chính xác, linh hoạt đáp ứng được yêu cầu của thị trường Bên cạnh những kết quả đạt được, công ty cũng gặp không ít những khó khăn như: Tuy đã được trang bị kiến thức về bảo hiểm một cách cơ bản, song cán bộ công nhân viên có chuyên môn sâu, có kinh nghiệm về về nghiệp vụ bảo hiểm còn thiếu đặc biệt là nghiệp vụ bảo hiểm khống chế giếng một chuyên ngành tương đối mới đối với thị trường bảo hiểm trong nước. Khâu quản lí và đánh giá rủi ro của nghiệp vụ này còn yếu. Chưa có giám định viên riêng của công ty và hiện tại công ty vẫn phải thuê giám định viên nước ngoài, chi phí tốn kém. Đồng thời không có giám định viên riêng của mình công ty rất bất lợi trong việc đàm phán với khách hàng các nhà nhận tái bảo hiểm và môi giới bảo hiểm. Để khắc phục các hạn chế trên theo em PVIC nên: Đối với cán bộ quản lí cần liên tục bồi dưỡng các kiến thức về quản lí kinh doanh bảo hiểm bên cánh đó không ngừng bổ sung các kiến thức về bảo hiểm, kinh tế thị trường, cập nhật thông tin về mọi mặt. Đối với cán bộ chuyên ngành bảo hiểm: công ty nên tổ chức thường xuyên các lớp đào tạo trong và ngoài nước về lĩnh vực bảo hiểm đặc biệt là ngành dầu khí và cụ thể là nghiệp vụ bảo hiểm khống chế giếng, một nghiệp vụ cơ bản của PVIC. Công ty nên đào tạo một cách đầy đủ, sâu sắc và chú trọng một cách nghiêm túc đến việc đào tạo cán bộ quản lí rủi ro bởi vì đây là nghiệp vụ tương đối quan trọng công việc này nếu làm tốt sẽ tránh cho công ty khỏi những rủi ro phải bồi thường mà nghiệp vụ này có thể hạn chế đề phòng được. Đối với cán bộ chuyên ngành dầu khí: Công ty cần đào tạo và bổ sung kiến thức về bảo hiểm đồng thời tổ chức các lớp học ngắn hạn và dài hạn trong nước và quốc tế về nghiệp vụ dầu khí, hướng họ theo học các lớp đào tạo giám định viên. Hợp tác giao lưu đào tạo với các công ty giám định có uy tín trên thế giới về trao đổi học tập kinh nghiệm cũng như kĩ thuật kĩ xảo trong khâu giám định. Công tác này sẽ đào tạo cho công ty một đội ngũ giám định viên có đầy đủ các kiến thức trình độ để tạo cho công ty lợi thế trong việc thoả thuận, đàm phán, kí kết hợp đồng bảo hiểm. Đối với công tác đào tạo cán bộ là vậy thì với công tác tuyển chọn và sử dụng đúng đối tượng, đúng vị trí cũng là điều không thể thiếu để phát huy được tối đa năng lực của cán bộ công nhân viên. Tuy mới thành lập song ngay từ khi bắt đầu hoạt động công ty đã xây dựng riêng cho mình tiêu chuẩn tuyển chọn cán bộ công nhân viên để đảm bảo ngay từ đầu PVIC đã có được một đội ngũ cán bộ công nhân viên tài năng. Mặc dù vậy, hiện nay công ty vẫn đang thiếu cán bộ công nhân viên có kinh nghiệm và trình độ chuyên môn đồng thời tiêu chuẩn tiêu chuẩn tuyển chọn cán bộ công nhân viên của PVIC chỉ phù hợp với giai đoạn đầu hoạt động đến nay không còn phù hợp, cần phải bổ sung và điều chỉnh một số tiêu chuẩn cho phù hợp. Vì vậy: Công ty cần xây dựng lại cho mình một tiêu chuẩn tiêu chuẩn mới phù hợp với tình hình thực tế của công ty cũng như của từng nghiệp vụ. Đối với cán bộ công nhân viên chuyên ngành dầu khí, công ty nên đề nghị Tổng công ty Dầu khí Việt Nam giúp đỡ bởi vì với kinh nghiệm hoạt động của mình Tổng công ty đã có sẵn các cán bộ công nhân viên giàu kinh nghiệm, đặc biệt là lĩnh vực dầu khí, có thể đáp ứng yêu cầu của PVIC. Đối với cán bộ bảo hiểm tiến hành tuyển cán bộ trẻ có năng lực, đối với những vị trí quan trọng cần tuyển chọn kĩ, có thể tham khảo ý kiến hoặc hợp tác đào tạo với Bảo Việt. Việc tuyển chọn cán bộ công nhân viên luôn đi đôi với việc sử dụng và xắp xếp vị trí làm việc. Nếu xắp xếp không đúng vị trí không những không phát huy được hiệu quả mà còn trái lại với dụng ý ban đầu trong công tác tuyển chọn, làm cho công tác tuyển chọn ban đầu là vô ích và tốn kém. Việc xắp xếp sử dụng đúng vị trí, đúng đối tượng sẽ phát huy được năng lực trình độ chuyên môn của cán bộ và đồng thời phát huy đọc lòng xay mê, yêu nghề của họ. Từ đó tạo cho họ ý thức làm việc, lòng trung thành đối với công ty và trên cơ sở này công tác đào tạo và bổ sung kiến thức cho cán bộ công nhân viên cũng dễ dàng hơn, ít tốn kém hơn. Thực hiện tốt công tác này không những đưa lại cho công ty một đội ngũ cán bộ công nhân viên có trình độ tay nghề cao, làm việc có hiệu quả, trung thành với công ty mà còn làm giảm chi phí cho các công tác đào tạo và bổ sung kiến thức của cán bộ công nhân viên. Công cần phát huy tốt công tác này: Trên cơ sở kế hoạch của công ty, xây dựng kế hoạch tuyển chọn ban đầu Xắp xếp công việc cho cán bộ công nhân viên theo đúng chuyên ngành, lĩnh vực, đào tạo. 8. Về khách hàng. Công tác khách hàng là hoạt động nhằm thu hút khách hàng cũng như khẳng định vị trí của mình trên thị trường quốc tế. Nếu bỏ qua công tác này thì quả là một điều thiếu sót. Nhận thức được tầm quan trọng này đặc biệt là đối với nghiệp vụ bảo hiểm khống chế giếng với giá trị bảo hiểm cũng như tổn thất (nếu xảy ra) là rất lớn. Nên trong những năm vừa qua công tác khách hàng ở PVIC đã được chú trọngvề nhiều mặt: Trên cơ sở của sự giới thiệu công ty đã chủ động gặp gỡ khách hàng mới và tự giới thiệu về mình. Đối với khách hàng truyền thống tham gia bảo hiểm lâu dài công ty có các hỗ trợ về quản lý rủi ro, đề phòng và hạn chê tổn thất . Công ty có những chính sách ưu đãi về phí đối với khách hàng tham gia bảo hiểm trọn gói, trả phí ngay từ đầu,… Tổ chức các cuộc gặp gỡ, hội nghị, hội thảo khách để giới thiệu nghiệp vụ. Tư vấn cho khách hàng về loại hình bảo hiểm phù hợp cho tình hình thực tế của khách hàng, giải quyết các thắc mắc của khách hàng về các vấn đề nảy sinh trong quá trình hoạt động. Bên cạnh đó PVIC gặp không ít những khó khăn như: Số lượng khách hàng tham gia bảo hiểm trọn gói còn ít, chỉ chiếm khoảng 25%. Việc quảng cáo giới thiệu dịch vụ bảo hiểm của công ty còn hạn chế, việc quảng cáo giới thiệu nghiệp vụ mới và những ưu đãi về phí của PVIC chỉ dừng lại ở trong nước và một số công ty nước ngoài có quan hệ hợp tác với PVIC như công ty tái bảo hiểm, công ty môi giới bảo hiểm. Để có được sự phát triển vững mạnh, công tác khách hàng của công ty cần được chú trọng hơn nữa: Công ty cần phải tiến hành quảng cáo, thông báo rộng rãi cho khách hàng biết đến bao gồm cả nghiệp vụ cũng như các ưu đãi về phí để khuyến khích khách hàng tham gia và tham gia theo các nghiệp vụ có chính sách ưu đãi theo mục đích của công ty. Thực hiện tốt dịch vụ sau bán hàng: Tư vấn khách hàng cách đề phòng hạn chế tổn thất, trích một phần phí của nghiệp vừa bảo hiểm cho khách hàng để làm công tác đề phòng hạn chế rủi ro cho khách hàng. Khi hết hạn hợp đồng PVIC phải nhanh chóng gửi giấy thông báo hết hạn hợp đồng cho khách hàng biết và mời khách hàng tiếp tục tái tục hợp đồng hoặc tham gia nghiệp vụ mới phù hợp hơn… Cần tiếp tục duy trì các cuộc hội nghị, hội thảo khách hàng để giới thiệu về nghiệp vụ bảo hiểm khống chế giếng các điều kiện điều khoản để khách hàng có thể xem xét hiểu rõ bản chất, so sánh lợi hại khi tham gia. Công ty cần kiến nghị với nhà nước mở rộng danh mục đầu tư sang các thành phần khác mang tính ổn định, tạo điều kiện cho công ty bảo hiểm lựa chọn được hình thức đầu tư phù hợp. Vì nghiệp vụ này có tầm quan trọng sống còn đối với công ty bảo hiểm nên PVIC một mặt cần đào tạo và bổ sung kiến thức cho cán bộ đầu tư, cần thực sự quan tâm phát triển một mặt trưng dụng và ưu đãi với cán bộ đầu tư . Công ty nên đầu tư vào những hình thức đầu tư ngắn hạn và đa dạng hoá danh mục đầu tư vì trước mắt vốn hoạt động của công ty không nhiều, kinh nghiệm hoạt động đầu tư chưa cao. Song bên cạnh đó cần có kế hoạch cho các hình thức đầu tư dài hạn vì về lâu dài công ty cần có một hoạt động đầu tư ổn định. Công ty nên đầu tư vào lĩnh vực địa ốc. Minh chứng trên thế giới cho thấy, đầu tư vào địa ốc về lâu dài luôn mang lại nguồn lợi lớn, không những doanh thu cao mà đây còn là một hình thức quảng cáo cho công ty mà không phải mất chi phí cho hình thức quảng cáo này. Thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời vào tháng 8/2000 là một cơ hội mới cho hoạt động đầu tư của các công ty bảo hiểm nói chung và PVIC nói riêng.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docD0041.doc
Tài liệu liên quan