Chuyên đề Thực trạng công tác quản lí chi trả chế độ hưu trí ở Việt nam hiện nay

Trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, BHXH nói chung, chế độ hưu trí nói riêng và có vai trò đặc biệt quan trọng đối với đời sống của người lao động, đặc biệt đối với chế độ hưu trí, chế độ có số đối tượng hưởng đông nhất trong hệ thống các chế độ BHXH là những vấn đề luôn được các cấp các ngành và những người thường quan tâm. Nhưng để BHXH cũng như chế độ hưu trí phát huy tác dụng cần phải có những chính sách giải pháp phù hợp, việc thực hiện các chế độ chính sách theo cơ chế mới, theo cơ chế dựa trên nguyên tắc có đóng BHXH mới được hưởng BHXH. Trong quá trình thực hiện ở BHXH VN, em đã nêu ra được một số vấn đề cơ bản của BHXH và chế độ hưu trí. Xuất phát từ thực tiễn hoạt động, điều kiện tự nhiên của nước ta, cơ sở vật chất của ngành BHXH, qua đó ta thấy được các mặt còn hạn chế của chế độ hưu trí nước ta, từ đó xin được nêu ra một số phương hướng và giải pháp kiến nghị, đề xuất cho chế độ hưu trí nhằm hoàn thiện hơn. Mong rằng những giải pháp đề nghị đề xuất đó có ích cho ngành BHXH trong việc xây dựng một hệ thống BHXH toàn diện hơn. Phần cuối của chuyên đề, em xin chân thành cảm ơn sự quan tâm và giúp đỡ nhiệt tình của thầy giáo Hà Văn Sỹ cùng các cô, chú, các anh chị ở ban BHXH tự nguyện (BHXH VN) đã tận tình giúp đỡ em trong việc hoàn thành bài viết này. Do sự hạn chế về năng lực của bản thân, bài viết chắc chắn sẽ không tránh khỏi những sai sót, em mong nhân được những ý ý kiến đóng góp của thầy cô giáo cùng các cô chú, các anh chị

doc55 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1559 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng công tác quản lí chi trả chế độ hưu trí ở Việt nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g của chế độ hưu trí trong đời sống Kinh tế – Xã hội của mỗi quốc gia. Hơn nữa, chế độ Bảo hiểm hưu trí còn thể hiện được sự quan tâm, chăm sóc của nhà nước, người sử dụng lao động đối với người lao động, và nó còn thể hiện đạo lí của dân tộc, đồng thời còn thể hiện trình độ văn minh của một thể chế xã hội. 3. Tác dụng của chế độ hưu trí. Chế độ hưu trí là chế độ Bảo hiểm cho người lao động bị mất thu nhập do hết khả năng lao động vì nguyên nhân sinh học tuổi già, hay các nguyên nhân khác, không còn khả năng làm việc. Bảo hiểm cho chế độ này được thực hiện từ khi người lao động nghỉ hưu đến lúc chết, đối với người được hưởng chế độ hưu trí, Bảo hiểm mà họ nhận được là dưới hình thức tiền lương hưu. Thực chất tiền lương hưu là khoản trợ cấp vì họ tách khỏi quá trình lao động, nhưng đây lại là khoản thu nhập chủ yếu của người nghỉ hưu. Tiền lương hưu trở thành chỗ dựa chủ yếu nhằm đảm bảo về vật chất và tinh thần cho cuộc sống của họ trong quãng đời còn lại. Đối với Xã hội, chế độ này thể hiện trách nhiệm của nhà nước, của cộng đồng xã hội đối với một lớp người đã có một quá trình lao động, đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước, nay đã hết tuổi lao động. Thực hiện chế độ này thể hiện rõ nét hơn các giá trị Xã hội, tính nhân văn nhân đạo, đạo lý của một quốc gia, một dân tộc. Điều cốt lõi trong bản chất của chế độ hưu trí là tiền trợ cấp hưu trí mà người về hưu nhận được, tiền lương hưu này nó được hình thành do sự tích luỹ của bản thân họ dưới hình thức đóng phí BHXH cho chế độ này. PHẦN II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN L‏ýÝ CHI TRẢ CHẾ ĐỘ HƯU TRÍ Ở BHXH VIỆT NAM. I. Thuận lợi và khó khăn: Thuận lợi: Thuận lợi cơ bản là ngay từ khi mới thành lập và chuẩn bị đi vào hoạt động cũng như trong suốt quá trình thực hiện nhiệm vụ vừa qua BHXH luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước cùng sự hỗ trợ, giúp đỡ của các ban, ngành có liên quan. Phần lớn đôi ngũ cán bộ công chức đặc biệt là lãnh đạo BHXH cấp huyện đã và đang làm công tác BHXH. Số cán bộ trẻ mới được tiếp thu có năng lực, trình độ, có khả năng đáp ứng được yêu cầu phát triển trong tương lai. Các ban đại diện chi trả các xã, phường đều tận tuỵ với công việc, có nhiều kinh nghiệm trong công tác quản lý chi trả ở cơ sở. Khó khăn: Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi trên thì hoạt động chi trả còn gặp rất nhiều khó khăn, trở ngại: - Thời gian đầu, khi mới hoạt động, việc bàn giao nhiệm vụ còn gặp nhiều khó khăn do quy trình hướng dẫn chậm so với thực tiễn công việc, số liệu quản lý chi BHXH cho các đối tượng hưởng chế độ hưu trí do hai ngành quản lý trực tiếp là Bộ Tài chính và Bộ lao động-Thương binh và xã hội bàn giao sang cũng không thống nhất. - Về công tác giao nhận hồ sơ, tuy được triển khai từ tháng 8/1995 nhưng mãi đến cuối năm 96 mới cơ bản hoàn thành. Thực trạng hồ sơ sau khi tiếp nhận là: Phần lớn bao bì rách nát, nhiều hồ sơ thiếu các giấy tờ, nhiều hồ sơ thì bị tẩy xoá, sữa chữa và một điều đáng lo ngại là hầu hết các tỉnh thì hồ sơ của những người đang hưởng chế độ hưu trí đều không có phiếu điều chỉnh theo NĐ27/CP và NĐ05/CP của Chính phủ. - Trong công tác cán bộ, do phải nhận bàn giao nguyên trạng nên đội ngũ cán bộ viên chức từ các ngành chuyển đến có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ không đồng đều, một bộ phận còn rất yếu về nghiệp vụ. Những người làm công tác chi trả ở các ban chính sách xã, phường rất nhiệt tình trong công tác nhưng còn yếu về nghiệp vụ kế toán. - Những tồn tại cũ như: Gỉa mạo hồ sơ, khai man tuổi đời, thời gian công tác… để được hưởng lương hưu vẫn còn rất nhiều. Trong quá trình thực hiện những quy định của điều lệ BHXH ban hành theo NĐ12/CP của Chính phủ còn nhiều cơ quan đơn vị và nhiều đối tượng có ‏ý kiến không đồng tình với các quy định, điều kiện của chế độ hưu trí. Do đó đây cũng là một vấn đề gây trở ngại cho công tác quản lý chi trả. Thực trạng công tác quản lý chi trả chế độ hưu trí ở BHXH việt nam: Qui định về chế độ hưu trí: Theo qui định điều lệ BHXH ban hành kèm theo NĐ12/CP ngày 26/1/95, NĐ12/CP ra đời có nhiều sửa đổi, bổ sung ngay cả trong BHXH nói chung và chế độ hưu trí nói riêng. Nhưng BH hưu trí vẫn đóng một vai trò rất quan trọng , NĐ 12/CP ra đời có nhiều điểm khác biệt so với trước đây cụ thể là: Điều 32, 26 điều lệ BHXH (Ban hành kèm theo nghị định 12 ngày26/1/95) qui định : Độ tuổi hưởng chế độ hưu trí: Độ tuổi để người lao động được nghỉ hưu theo qui định chung là 60 đối với Nam, 55 đối với Nữ ( nếu làm nghề bình thường) và 55 đối với nam, 50 đối với nữ ( nếu có 15 năm trở lên làm nghề nặng nhọc, độc hại, hoặc đủ 15 năm làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực từ 0,7 trở lên, hoặc đủ 10 năm công tác ở miền nam, ở Lào trước ngày 30/4/1975, hoặc ở Campuchia trước ngày 3/8/1989). Điều lệ BHXH còn qui định người lao động được hưởng chế độ hưu trí hàng tháng với mức thấp hơn khi có một trong các điều kiện sau: + Nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi và có thời gian đóng BHXH đủ 15 năm đến dưới 20 năm. + Nam đủ 50 tuổi, nữ đủ 45 tuổi và có thời gian đóng BHXH đủ 20 năm trở lên bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên. + Người lao động có ít nhất 15 năm làm công việc nặng nhọc, độc hại đặc biệt, đã đóng góp BHXH đủ 20 năm trở lên (không phụ thuộc vào tuổi đời). Việc qui định trên vừa thể hiện tính kế thừa các qui định về chế độ hưu trí của nước ta từ trước tới nay, vừa có sự sữa đổi và vận dụng sáng tạo cho phù hợp với từng loại công việc, nhằm hạn chế hiện tượng khi về hưu, tuổi đời còn quá trẻ so với trước đây. Như vậy theo quy định hiện nay, chỉ trừ trường hợp đặc biệt, còn lại sẽ không có người nghỉ hưu dưới 50 tuổi đối với nam và dưới 45 tuổi đối với nữ nữa. Về thời gian đóng góp để hưởng chế độ hưu trí:- Điều lệ BHXH qui định mức tối thiểu là 20 năm thực tế đóng BHXH và xoá bỏ việc tính thời gian công tác để hưởng chế độ BHXH bằng cách qui đổi theo hệ số như trước đây. Riêng đối với những người khi về hưu đã chết tuổi lao động theo quy định của bộ luật lao động (Nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi) thì thời gian đóng quỹ BHXH chỉ cần 15 năm, họ chỉ cần đủ 15 năm đóng BHXH thì được hưởng trợ cấp hưu trí với mức thấp hơn so với những người đã có đủ 20 năm đóng BHXH. Phí Bảo hiểm hưu trí: Chế đô hưu trí cũng giống như các chế độ khác, có thu thì mới có chi. Trong thực tế có thể mức thu cho chế độ này được xác định riêng theo một tỷ lệ nào đó so với thu nhập hay tiền lương dùng để tính BHXH và Bảo hiểm hưu trí. Tuy nhiên trong một số trường hợp mức thu chế độ hưu trí được gộp với mức thu BHXH nói chung. Việt Nam hiện nay thực hiện thu chung một mức phí cho tất cả các chế độ BHXH. Và trong đó có định lượng phần dành cho các chế độ khác nhau. Trong trường hợp như vậy, phí hưu trí được lập riêng theo công thức sau: PHT = th X TBH x L Trong đó: PHT: mức phí đóng cho chế độ hưu trí th: tỷ lệ % đóng cho chế độ hưu trí trong phí BHXH nói chung. TBH: tỷ lệ thu BHXH tính theo thu nhập. L: tiền lương hay thu nhập. Việc xác định phí nộp cho chế độ hưu trí riêng hay gộp là tuỳ thuộc vào các điều kiện và mô hình hay phương thức tổ chức hoạt động của từng nước. Và mỗi một hình thức nó có ưu và nhược điểm khác nhau . Nếu phí nộp riêng thì tạo thuận lợi cho tính toán, quản lý và nhất là khi mở rộng ra các khu vực khác nhau mà ở đó người lao động có thu nhập không đồng nhất. Bên cạnh đó nó sẽ tạo ra một sự linh hoạt hơn cho người tham gia chế độ này. Tuy nhiên, tách riêng như vậy cũng có nghĩa là các chế độ khác cũng có thể tách riêng, điều này nó làm cho hoạt động quản lý Bảo hiểm nói chung bị tách ra và cồng kềnh hơn. Còn nếu xác định mức phí gộp thì công việc quản lý đơn giản hơn, nhưng lại phức tạp khi xác định phí đóng cho Bảo hiểm khi áp dụng cho người lao động có hình thức thu nhập khác nhau. Về mức lương hưởng chế độ hưu trí : - Điều lệ BHXH qui định mức khởi điểm của lương hưu tương ứng với 15 năm đóng BHXH bằng 45% mức bình quân của tiền lương tháng làm căn cứ đóng BHXH của 5 năm cuối trước khi nghỉ hưu, sau đó cứ thêm mỗi năm (đủ 12 tháng) đóng BHXH thì thêm 2%, nhưng tối đa không quá 75% (ứng với 30 năm đóng BHXH). - Mức lương thấp nhất cũng bằng lương tối thiểu qui định trong từng thời kì, đối với người về hưu trước tuổi qui định được hưởng lương hưu thấp hơn (phải trừ tỷ lệ %) thì cứ mỗi năm là 12 tháng, về hưu trước tuổi qui định bị trừ đi 2% mức lương bình quân tháng của 5 năm cuối cùng trước khi nghỉ hưu. Điểm này đã được chính phủ sửa lại chi giảm 1%, ngoài ra đối với người làm nghề nặng nhọc, độc hại đủ 15 năm trở lên, sau đó chuyển sang làm công tác nhẹ hưởng mức lương thấp hơn, thì khi nghỉ hưu được lấy 5 năm liền kề làm công việc nặng nhọc, độc hại để tính mức bình quân là cơ sở tính lương hưu. - Đối với người có trên 30 năm đóng BHXH thì từ năm thứ 31 trở đi, khi nghỉ hưu được trả nợ cấp một lần, cứ mỗi năm đóng BHXH được trả bằng tháng lương bình quân làm căn cứ đóng BHXH, nhưng nhiều nhất không quá 5 tháng. So với trước đây, mức lương hưu quy định tại điều lệ BHXH lần này đã có sự điều chỉnh cơ bản: Nếu trước đây, NĐ số 236/HĐBT ngày 18/9/1985 của Hội đồng bộ trưởng, quy định tiền lương hưu là mức lương cao nhất của người lao động đã được hưởng trong vòng 10 năm trước khi nghỉ hưu và cao nhất bằng 95%. Sau NĐ số 43 ngày 22/6/1993 của chính phủ quy định tiền lương hưu cao nhất bằng 75% mức lương bình quân của 10 năm cuối cùng trước khi người lao động nghỉ hưu. Thì hiên nay, Điều lệ BHXH quy định lấy mức lương bình quân của 5 năm cuối cùng trước khi nghỉ để tính và cũng khống chế mức tối đa bằng 75%. Nhưng điểm mấu chốt cơ bản trong cách tính lương hưu lần này là: Đã đảm bảo cho người về hưu trước thời gian điều lệ BHXH có hiệu lực thi hành và người về hưu sau thời gian điều lệ. BHXH có hiệu lực thi hành, nếu có cùng bậc lương và mức độ cống hiến thì lương hưu gần như bằng nhau hoặc nếu có chênh lệch cũng không quá 5%. -Thời gian hưởng chế độ hưu trí: Thời gian hưởng được hiểu là thời gian kể từ khi nghỉ hưu đến khi chết (thời gian này được tính theo tháng). Như chúng ta đã biết tuổi nghỉ hưu và tuổi thọ đối với mỗi người không giống nhau dẫn đến thời gian hưởng của mỗi người là khác nhau. Thời gian hưởng lương hưu thường ngắn hơn thời gian đóng BHXH cho chế độ nghỉ hưu. Tuy nhiên thời gian hưởng nó còn phụ thuộc vào các yếu tố như tuổi về hưu, tuổi thọ bình quân của những người về hưu (theo qui định của chính sách lao động mức sống, điều kiện của dân cư v.v…) Trong thực tế, tuổi nghỉ hưu theo qui định của pháp luật thường ổn định từ 55-60 tuổi trong thời gian dài, có một số trường hợp có giảm tuổi nghỉ hưu với mức tối đa là 5 năm. Trong khi đó tuổi thọ bình quân có xu hướng ngày càng tăng lên. Do vậy mà thời gian hưởng chế độ hưu trí có xu hướng tăng lên. Đây là vấn đề có tính quy luật rằng buộc các nhà nghiên cứu các chế độ chính sách về lao động và BHXH phải tính đến 2. Bộ máy quản lý chế độ hưu trí: Theo nghị định 19 ngày 16/2/95 của thủ tướng Chính phủ, hệ thống BHXHVN được đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của chính phủ, hội đồng quản l‏ý? BHXHVN là cơ quan quản lý cao nhất của BHXHVN. Thành viên của Hội đồng quản lý bao gồm đại diện có thẩm quyền của BLĐ-TBXH, BTC, TLĐLĐVN, TGĐBHXHVN. Theo nghị định này BHXHVN có các nhiệm vụ và quyền hạn sau: - Tổ chức thu BHXH và tổ chức việc chi trả cho người lao động tham gia BHXH các khoản trợ cấp BHXH. - Từ chối việc chi trả BHXH cho đối tượng được hưởng BHXH khi có kết luận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về hành vi man trá, làm giả hồ sơ tài liệu. - Xây dựng và tổ chức thực hiện dự án và biện pháp để đảm bảo giá trị và tăng trưởng quỹ BHXH theo quy định của chính phủ. - Tổ chức thực hiện công tác thống kê, kế toán- hạch toán hướng dẫn nghiệp vụ thu chi BHXH. - Kiểm tra thực hiện thu chi BHXH - Giải quyết các khiếu nại về thực hiện chính sách BHXH. Về mặt tổ chức BHXHVN được tổ chức theo hệ thống dọc từ TW đến địa phương và được chia thành 3 cấp: + ở Trung ương: BHXHVN + ở các Tỉnh, thành phố trực thuộc TW là BHXH Tỉnh, Thành phổ trực thuộc trung ương. + Các quận huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh là quận, huyện, thị xã… Biểu đồ 1.Sơ đồ quản lý: Thủ tướng chính phủ Hội đồng quản lý quỹ BHXHVN Tổng GĐ BHXHVN BHXHVN P. Tổng GĐ P. Tổng GĐ Các phòng ban nghiệp vụ BHXH BHXH Tỉnh, Tp trực thuộc TW BHXH quận, huyện, thị xã 3. Tổng mức chi trả cho chế độ hưu trí: Trong thời kỳ trước nghị định 12/CP Ban hành, chi BHXH và chi cho chế độ hưu trí là khoản chi thường xuyên trong NSNN hàng năm. Từ năm sau khi nghị định 12/CP ra đời, BHXH Việt Nam thiết lập cơ chế hưởng chế độ hưu trí gắn với thu nhập mà mức đóng góp vào quỹ BHXH. Qua bảng ta thấy rõ quy mô, nguồn chi trả cho chế độ hưu trí và tổng chi BHXH. Bảng 1: Nguồn chi trả BHXH và quy mô chi trả chế độ hưu trí Đơn vị: triệu người Năm Tổng chi BHXH Chi chế độ hưu trí Tỷ trọng ( %) Quy mô chi cho chế độ hưu trí Từ NSNN Tỷ trọng (%) Từ quỹ BHXH Tỷ trọng (%) 1996 4788607 3639925 76,01 3422207 94,02 197718 5,98 1997 5756617 4.417.503 76,74 4071355 92,16 346208 7,84 1998 5880095 4059748 76,7 4060877 90,05 448861 9,95 1999 5955970 4164113 77,47 398.155 86,3 631598 13,7 2000 7572402 5895659 77,86 4985110 84,56 910543 15,44 2001 9160815 7045938 76,91 5711604 81,06 1334334 18,94 2002 9561516 8281736 86,02 6581628 79,47 1700180 20,53 2003 9975612 8939145 89,61 6761569 75,64 2023822 22,64 2004 10162397 9831102 96,74 7120667 72,43 2316207 23,56 ( Nguồn BHXHVN) Biểu số1 Quy mô chi trả chế độ hưu trí và tổng chi BHXH 0 2000000 4000000 6000000 8000000 10000000 12000000 96 97 98 99 00 01 02 03 04 Năm Số tiền (triệu đồng VN) Tổng chi BHXH Chi chế độ hưu trí Nhìn vào bảng số liệu cho thấy chi trả cho chế độ hưu trí luôn chiếm trên 76% tổng chi cho các chế độ BHXH. Điều đó chứng tỏ rằng tiềm năng quan trọng của nó trong hệ thống BHXH hiện nay. Năm 1996 chi trả cho chế độ hưu trí do quỹ BHXH chi trả mới là 197.718 triệu đồng, sau 7 năm, đến năm 2004 số tiền này đã lên đến 2.316.207 triệu tăng gần 12 lần số tiền do ngân sách nhà nước chi trả cho chế độ hưu trí theo nguyên tắc giảm dần qua các năm. Nhưng trong những năm qua, do sự điều chỉnh mức lương tối thiểu của nhà nước nên số tiền chi trả đã tăng lên một số năm. Theo nghị định 06/CP ngày 26/01/1997 nâng mức lương từ 120.000 lên 144.000 (đồng): tiếp theo đó là nghị định 175/1999/NĐ-CP (15/12/1999) nâng lên mức lương tối thiểu từ 144.000 lên 180.000 lên 210.000 (đồng) và gần đây nhất là ngày 15/01/2003 Chính phủ đã ban hành nghị định số 03/2003/NĐ-CP điều chỉnh mức lương tối thiểu từ 210.000 lên 290.000 (đồng). Vì vậy tiền lương hưu cũng tăng hơn trước, do đó số tiền chi trả từ quỹ cho các năm vẫn tăng đều và số chi của ngân sách nhà nước cho chế đọ hưu trí sẽ giảm dần qua các năm. Qua đó tỷ trọng số tiền chi trả cho chế độ hưu trí từ quỹ BHXH tăng lên hàng năm và tỷ trọng số tiền chi trả từ ngân sách nhà nước giảm dần qua các năm, đây là dấu hiệu đáng mừng cho ngành BHXH của nước ta. Trong phần chi trả lương hưu từ quỹ BHXH được chia ra làm hai đối tượng khác nhau. Một loại cho đối tượng hưởng lương hưu hàng tháng và một loại chi cho đối tượng được hưởng trợ cấp một lần từ quỹ BHXH. Ta có bảng thống kê chi trả cho 2 nhóm đối tượng này thể hiện ở bảng sau: Bảng 2: Tình hình chi trả cho các đối tượng được hưởng trợ cấp hàng tháng và trợ cấp một lần từ quỹ BHXH. Đơn vị: triệu đồng Năm Tổng mức chi trả chế độ hưu trí Chi trả hàng tháng Trợ cấp một lần Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) 1996 197718 75762 38,32 121956 61,68 1997 346208 175815 50,78 170393 49,22 1998 448861 238028 53,09 210558 46,91 1999 631598 392028 52,09 239570 47,91 2000 910543 601409 66,05 309134 33,95 2001 1334334 943374 70,70 390899 29,30 2002 1700180 1416249 83,30 403793 16,70 2003 2023822 1720855 85,03 451514 22,31 2004 2316207 2062813 89,06 502616 21,70 ( Nguồn BHXH VN) Từ bảng số liệu trên ta thấy phần chi trả cho các đối tượng được hưởng trợ cấp một lần chiếm 61,68% so với tổng chi cho chế độ hưu trí năm 1996. Các năm tiếp theo tỷ lệ này giảm nhưng vẫn ở mức cao và đến năm 2004 đã giảm xuống so với năm 1996 chiếm 21,7% với số tiền chi trả là 502616 triệu đồng. Trong năm 1996, 1997 tỷ lệ này chiếm tỷ lệ cao vì các năm này thực hiện chủ trương của chính phủ là tính giảm biên chế, vì vậy đối tượng về hưu non tăng lên rất nhanh. Nhưng vì họ chưa đủ điều kiện về tuổi đời để hưởng lương hưu hàng tháng, chờ đến khi nào đủ tuổi thì được hưởng lương hưu hàng tháng, hoặc những trường hợp không đủ các điều kiện để hưởng hưu hàng tháng thì họ sẽ nhận được một khoản tiền tương ứng với thời gian mà họ có đóng góp cho quỹ BHXH. Các đối tượng này về sau quỹ sẽ không còn chịu trách nhiệm nữa. Như vậy, tỷ trọng số tiền chi trả hàng tháng tăng dần qua các năm và tương ứng là sự giảm tỷ trọng số tiền trợ cấp một lần. Điều này nói lên só lượng lao động về hưu “non” giảm đi và chất lượng lao động cũng ngày một cao hơn. 4. Phương thức chi trả 4.1 Chi trả gián tiếp Đây là hình thức chi trả lương hưu và trợ cấp BHXH cho đối tượng hưởng các chế độ BHXH hàng tháng thông qua đại diện chi trả xã, phường, thị trấn và cho đối tượng hưởng các chế độ ngắn hạn là trợ cấp ốm đau, thai sản, nghỉ dưỡng sức phục hồi sức khoẻ thông qua đơn vị sử dụng lao động. Hàng năm cơ quan BHXH cấp huyện, thị xã, phường thị trấn để hình thành đại diện chi trả, những cá nhân này đang hưởng chế độ BHXH có trách nhiệm uy tín với địa phương và được uỷ ban nhân dân phường xã giới thiệu. Hàng tháng đại diện chi trả nhận danh sách đối tuợng và tiền từ cơ quan BHXH quận huyện, thị xã hoặc nhận tay ba tại ngân hàng để tiến hành chi trả, sau đó đại diện chi trả có trách nhiệm thanh quyết toán với cơ quan BHXH. Còn đối với chi trả ngắn hạn cơ quan BHXH chuyển khoản qua đơn vị sử dụng lao động để chi trả cho người lao động. Với hình thức chi trả này ưu điểm là cùng một khoảng thời gian, việc chi trả có thể tiến hành ở tất cả các phường xã, thị trấn trong phạm vi toàn tỉnh, thành phố. Đại diện chi trả đã thường xuyên nắm bắt được tình hình biến động của đối tượng hưởng BHXH nên đã phản ánh kịp thời cơ quan BHXH cắt giảm các đối tượng chết, hết tuổi đi học hoặc bị vi phạm pháp luật …khỏi danh sách chi trả. Phương pháp chi trả này cũng gặp những khó khăn: Cơ quan BHXH không nắm được tâm tư nguyện vọng của đối tượng hưởng BHXH để giải đáp kịp thời. Nhiều đại diện chi trả không thực hiện đúng nguyên tắc quản lý tài chính, danh sách chi trả còn k‏ýý thay không có giấy uỷ quyền, đặc biệt còn có đại diện chi trả thu thêm tiền lệ phí của đối tượng. Thời gian thanh quyết toán của các đại diện chi trả với cơ quan BHXH thường kéo dài. Đối với đơn vị sử dụng lao động thực hiện chi trả chế độ ngắn hạn cho người lao động thực hiện đúng nguyên tắc tài chính, nhưng trong thực tế vẫn còn có những đơn vị không thực hiện đúng nguyên tắc tài chính là vẫn chi lương đồng thời cùng với thanh toán chế độ BHXH để thực hiện chi tiêu vào việc khác. 4.2 Chi trả trực tiếp: Phương thức chi trả này bao gồm: chi trả trực tiếp tại đại diện xã, phường, thị trấn và chi trả trực tiếp tại cơ quan BHXH. - Chi trả trực tiếp tại đại diện phường, thị trấn: Phương thức này là thực hiện chi trả lương hưu và trợ cấp BHXH cho đối tượng không thông qua khâu trung gian, phương thức chi trả này xuât‏ý hiện từ khi có tổ chức BHXHVN, nó do cơ quan BHXH chủ động lập kế hoạch, lên lịch, ứng tiền và thông báo thời gian chi trả cho từng tổ, xã, phường, phương pháp chi trả này vẫn phải có sự giúp đỡ tạo điều kiện của đại diện các tổ hưu trí ở xã, phường, thị trấn. Thực hiện cách chi trả này tạo được mối quan hệ trực tiếp giữa cơ quan BHXH với đối tượng hưởng BHXH, nên cơ quan BHXH thường xuyên nắm bắt được tâm tư nguyện vọng của đối tượng, đồng thời tuyên truyền và giải thích kịp thời các chính sách có liên quan đến quyền lợi của đối tượng. Cách chi trả này có nhược điểm là không thể tổ chức chi trả đồng thời ở tất cả các phường, thị trấn trong phạm vi toàn tỉnh thành phố được. Hơn nữa, đối với các xã miền núi, vùng sâu, vùng xa việc chi trả trực tiếp gặp khó khăn về phương tiện đi lại, phương tiện vận chuyển và bảo đảm an toàn tiền mặt. - Chi trả trực tiếp tại cơ quan BHXH: Phương thức này chủ yếu là thực hiện chi trả cho đối tượng hưởng trợ cấp một lần theo qui định của BHXHVN và tổ chức chi trả cho đối tượng chưa lĩnh tiền theo hai phương thức chi trả trên. Hình thức này phù hợp với vùng sâu vùng xa đi lĩnh tiền lương theo phiên chợ Thực hiện chi trả một lần tạo điều kiện cho người lao động lĩnh tiền thuận lợi và đủ. Hạn chế đơn vị sử dụng lao động lợi dụng nguồn tiền của người lao động và cơ quan BHXH sử dụng vào mục đích khác. 5. Quản lý đối tượng được hưởng: Qua gần 50 năm thực hiện các chế độ BHXH và chế độ hưu trí, hiện nay có gần khoảng 1,3 triệu người hưởng chế độ hưu trí trong tổng số 50 triệu người tham gia BHXH. Bên cạnh đó thì lượng người về hưu ngày càng tăng nhanh và theo dự báo thì vẫn tiếp tục tăng. Điều này được thể hiện ở bảng số liệu sau: Bảng 3: Đối tượng hưởng chế độ hưu trí ( Tính đến 31/12 hàng năm) Năm 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 Hưu CNVC 1017129 1020447 1020125 1030361 1045174 1053529 1101393 1153229 1181371 Hưu LLVT 16687 168389 16970 172174 175148 176127 179343 181123 185346 Tổng số: 1184110 1188836 1189795 1202535 1220322 1229656 1280736 1334352 1366717 ( Nguồn BHXHVN) Như vậy đối tượng hưởng chế độ hưu trí ngày càng tăng giữa các năm, điều này có liên quan đến vấn đề cân đối thu chi quỹ BHXH. Bởi vì chế độ này chiếm tỷ trọng lớn nhất trong các chế độ cả về số người hưởng và mức hưởng. Hiện nay thu không đủ chi và muốn chi đủ thì ngân sách nhà nước phải bù hoặc tăng mức thu hay mở rộng nguồn thu. Bảng 4: Tỷ lệ % cấp bù từ NSNN cho các chế độ BHXH. Năm % thu BHXH so với chi % cấp bù từ NSNN 1996 53,867 46,133 1997 59,868 40,132 1998 65,918 34,082 1999 70,316 29,684 2000 67,8 32,2 2001 69,242 30,758 2002 73,264 26,736 ( Nguồn: BHXH Việt Nam) Như vậy cho thấy từ năm 1995 trở lại đây chúng ta chuyển sang phương thức thu BHXH trực tiếp để hình thành quỹ BHXH độc lập cho sự phát triển của sự nghiệp BHXH, thi hành luật lao động về BHXH và NĐ12/CP chúng ta đã xây dựng một cơ chế hình thành quỹ BHXH, việc quản lý đối tượng hưởng chế độ hưu trí có sự thay đổi so với trước. Tỷ lệ % cấp bù từ NSNN có phần giảm đi. Đây là một điều đáng mừng đối với ngành BHXH của nước ta. Tuy nhiên nó thực sự thấp, điều này cần sự năng động của Đảng và Nhà nước nhằm có biện pháp tăng thu cho quỹ BHXH nói chung và quỹ Bảo hiểm hưu trí nói riêng. Sự gia tăng đối tượng hưởng chế độ hưu trí còn được thể hiện rất rõ nét từ năm 1995 trở lại đây. Số đối tượng được hưởng chế độ hưu trí sau năm 1995 mà không được NSNN đảm nhận. Tình hình duyệt mới số số đối tượng hưởng chế độ hưu trí hàng năm thể hiện bảng sau: Bảng 5: Tình hình duyệt mới số đối tượng hưởng chế độ hưu trí hàng năm. Đơn vị: người Tiêu thức 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 Hưu CNVC 12010 13727 16058 24058 29455 33213 39420 43631 45084 Hưu QĐ 2547 3603 3850 5131 4537 4607 4837 5303 5740 ( Nguồn BHXHVN) Cũng từ năm 1995 do có sự tách riêng về đối tượng được hưởng chế độ hưu trí nên đối tượng này được chia làm 2 loại: Thứ nhất là những người nghỉ hưu trước ngày 1/1/1995, số này sẽ do ngân sách nhà nước chi trả, còn những người có đóng phí BHXH (hay phí BH hưu trí) vào quỹ BHXH kể từ ngày 1/01/1995 sẽ do quỹ BHXH chi trả. Sở phải tách biệt hai đối tượng này là vì như vậy mới đảm bảo được cơ chế mới trong BHXH là có đóng mới có hưởng chế độ từ quỹ BHXH. Có thể thấy tình hình thực hiện qua các năm như sau: Bảng 6: Đối tượng hưởng chế độ hưu trí ở BHXH Việt Nam Đơn vị: người Năm Hưu CNVC Hưu QĐ NSNN chi Quỹ BHXH chi NSNN chi Quỹ BHXH chi 1996 1006340 10789 164489 2492 1997 996235 24212 162572 5817 1998 979867 40258 160465 9205 1999 966291 64070 158231 13943 2000 951904 93270 155954 19194 2001 936679 116850 153375 22752 2002 923214 178179 151186 28157 2003 912340 214350 148843 33812 2004 895672 275913 145946 37123 ( Nguồn: BHXHVN) Biểu số 2 Biểu số 3 Hưu CNVC hưởng chế độ 0 200000 400000 600000 800000 1000000 1200000 96 97 98 99 00 01 02 03 04 Năm Số người NSNN chi Quỹ BHXH chi Qua biểu đồ ta thấy cả hai đối tượng là hưu CNVC và hưu QĐ đều có đặc điểm chung là đối tượng thuộc NSNN chi trả đều giảm qua các năm, trong khi đó số đối tượng do quỹ BHXH chi trả tăng nhanh qua các năm. Điều này có thể giải thích được là do quỹ BHXH sẽ chịu trách nhiệm chi trả trực tiếp cho những người về hưu có tham gia góp quỹ kể từ ngày 01/01/1995. Còn các đối tượng được hưởng hưu trí trước năm 1995 sẽ do NSNN đảm nhận. Chính vì vậy số đối tượng hưởng chế độ hưu trí từ quỹ BHXH tăng rất nhanh. Còn số đối tượng hưởng chế độ hưu trí từ NSNN lại giảm dần. Vì hàng năm không có thêm đối tượng xét duyệt mới thuộc nhóm này trong khi đó lại có một số người về hưu chết do tuổi già bệnh tật. Theo thời gian, con số này cứ giảm dần và đến một thời điểm nào đó nó sẽ bằng không. Đến lúc này, chỉ còn lại các đối tượng được hưởng chế độ từ quỹ BHXH, khi đó quỹ BHXH thực sự trở thành nguồn duy nhất chịu trách nhiệm chi trả các đối tượng hưởng chế độ hưu trí từ quỹ BHXH, khi đó quỹ BHXH thực sự trở thành nguồn duy nhất chịu trách nhiệm chi trả các đối tượng hưởng chế độ hưu trí và đồng thời NSNN sẽ giảm bớt gánh nặng do việc không phải chi trả như trước nữa. Cũng như số liệu trên ta thấy tốc độ tăng các đối tượng về hưu được hưởng trợ cấp từ quỹ BHXH là rất nhanh, khoảng trên 40%/năm. Với tốc độ tăng như vậy, theo một số chuyên gia dự báo cũng như phân tích của ILO thì trong vài thập niên nữa số đối tượng được hưởng lương hưu từ quỹ BHXH sẽ cân bằng với số tham gia đóng góp vào quỹ BHXH. Như vậy tất yếu sẽ dẫn đến tình trạng thu không đủ chi và sẽ dẫn tời quỹ BHXH bị thâm hụt. Đây là một trong những vấn đề hết sức quan trọng đang đặt ra nhiều thách thức cho các nhà quản lý quỹ BHXH cũng như quỹ hưu trí. 6. Tổ chức chi trả: Về phân cấp chi trả tuỳ theo điều kiện của mỗi địa phương mà các địa phương đó tổ chức phương án phân cấp chi trả phù hợp, đảm bảo quản lý chặt chẽ và thuận tiện cho đối tượng 6.1 Đối với BHXH tỉnh: Hàng tháng, căn cứ vào quyết định (bản sao) hưởng chế độ hưu trí và danh sách của đối tượng tăng, giảm do phòng quản lý chế độ chính sách của đối tượng tăng, giảm do phòng quản lý chế độ chính sách chuyển sang và danh sách báo giảm do BHXH huyện gửi đến (mẫu 8A-CBH), phòng kế hoạch-tài chính kiểm tra lại số liệu (đối tượng, số tiền) để lập danh sách chi trả lương hưu (theo mẫu C34-BH), tổng hợp danh sách chi trả (biểu số 7-CBH), lập chi tiết cho từng loại đối tượng và tách riêng thành 2 nguồn: Ngân sách Nhà nước đảm bảo và do nguồn quỹ đảm bảo. - Thực hiện chi trả trực tiếp cho những người nghỉ hưu có trên 30 năm đóng BHXH ở các đơn vị sử dụng lao động thuộc BHXH tỉnh tổ chức quản lý thu và ghi sổ BHXH. Đối với người lao động đang làm việc trong các đơn vị có trụ sở đóng ở xa trung tâm tỉnh thì BHXH Tỉnh uỷ quyền cho BHXH huyện nơi gần nhất để thực hiện chi trả trực tiếp cho người lao động. - Tiến hành kiểm tra thường xuyên hoặc đột xuất các đơn vị sử dụng lao động và BHXH huyện về viếc thực hiện chi trả hưu trí, giải quyết vướng mắc kịp thời của các đối tượng và của BHXH cấp huyện. 6.2 Đối với BHXH cấp huyện: - Chi trả lương hưu hàng tháng. Thực hiện chi trả trực tiếp một lần đối với người nghỉ hưu có trên 30 năm đóng BHXH thuộc các đơn vị sử dụng lao động do BHXH huyện quản lý. Hàng tháng, căn cứ vào danh sách chi trả một lần (biểu mẫu số 7-CBH) kèm theo quyết định do BHXH tỉnh chuyển xuống, tổ chức chi trả trực tiếp cho các đối tượng được hưởng. Quản lý và cấp phiếu lĩnh lương hưu hàng tháng cho các đối tượng (biểu số 6-CBH). Tờ phiếu trước khi cấp cho đối tượng phải được BHXH ký tên, đóng dấu và không được cắt rời. Thu hồi tờ phiếu trước khi chết. Di chuyển đi tỉnh khác và khi tờ phiếu sử dụng hết. Hàng tháng, căn cứ vào danh sách chi trả (mẫu C34-BH) do BHXH tỉnh lập chuyển xuống, BHXH huyện tổ chức chi trả cho đối tượng. Trường hợp chi trả trực tiếp cho đối tượng cần phải có biện pháp bảo quản an toàn tiền mặt. Cán bộ đi chi trả phải thanh toán số tiền ngày và quyết toán dứt điểm sau từng đợt chi trả. Trong trường hợp cho đại diện ở xã, phường chi trả thì phải kí hợp đồng chi trả (mẫu C40- BH). BHXH huyện thoả thuận với UBND xã để giao nhiệm vụ cho những người giữ trách nhiệm trong UBND xã, đại diện tổ hưu trí tham gia trong đại diện chi trả. Hàng tháng có trách nhiệm tổng hợp báo cáo những đối tượng chết gửi BHXH tỉnh để giảm danh sách chi trả tháng sau, báo cáo đối tượng liên tục 3 tháng không đến nhận tiền, gửi BHXH tỉnh để không lập vào danh sách chi trả từ tháng thứ tư trở đi và giảm số tiền 3 tháng trước đó trong tổng số tiền chưa đưa vào danh sách không phải trả. Khi đối tượng có đơn xin lại số tiền trên, BHXH huyện tổng hợp gửi BHXH tỉnh xem xét giải quyết. Định kỳ hoặc đột xuất, BHXH huyện có trách nhiệm kiểm tra việc chi trả chế độ hưu trí ở đại diện chi trả về số đối tượng và số tiền chi theo quy định của Nhà nước, hướng dẫn của BHXH Việt Nam. Kịp thời giải quyết hoặc báo cáo BHXH tỉnh những vướng mắc trong việc thực hiện chi trả chế độ hưu trí. 6.3 Đối với đại diện chi trả. Hàng ngày, sau khi nhận được danh sách chi trả (mẫu sổ C34- BH), đại diện chi trả lập giấy đề nghị tạm ứng chi trả lương hưu gửi BHXH huyện (mẫu C38- BH). Sau khi nhận tiền do BHXH huyện chuyển đến, đại diện chi trả kịp thời số tiền tới tay cho từng đối tượng hưởng. Chậm nhất là 5 ngày kể từ ngày nhận tiền của cơ quan BHXH huyện. Đại diện chi trả cùng cơ quan BHXH huyện tổ chức đối chiếu và lập bảng thanh toán chi trả lương hưu (mẫu sổ C39- BH) thành 2 bản, mỗi bên giữ một bản. Đại diện chi trả nộp danh sách chi trả lương hưu có chữ ký của người lĩnh tiền và số tiền chưa trả cho đối tượng (nếu có) về BHXH huyện. Đại diện chi trả có trách nhiệm báo cáo BHXH huyện đối tượng chết, đối tượng không đến nhận tiền liên tục trong 3 tháng theo biểu mẫu số 8- CBH. Trong quá trình thực hiện chi trả, người chi trả không được thu thêm bất cứ một khoản lệ phí nào khác của đối tượng. 6.4 Đối với đối tượng hưởng chế độ hưu trí. Hàng tháng, có trách nhiệm đến đại diện chi trả nhận trực tiếp lương hưu. Nếu đối tượng không có điều kiện đến đại diện chi trả để lĩnh tiền thì được uỷ quyền cho người khác đến lĩnh thay nhưng phải làm giấy uỷ quyền (mẫu 4A2- CBH), giấy uỷ quyền chỉ có thời hạn trong vòng 3 tháng. Trường hợp đối tượng không đến lĩnh tiền trong 3 tháng liên tiếp, nếu muốn lĩnh lại số tiền trên thì phải làm đơn xác nhận của đại diện chi trả và UBND xã nơi cư trú gửi BHXH huyện. Đối tượng hưởng hưu có nhu cầu chuyển đến lĩnh chế độ ở nơi tạm trú cho thuận tiện thì phải làm đơn xin chuyển trong thời gian tạm vắng đến nơi tạm trú. BHXH nơi đối tượng chuyển đi, chuyển đến tạo điều kiện thuận lợi về thủ tục cho đối tượng và quản lý chặt chẽ. 7. Lập kế hoạch dự toán chi: Hàng năm, BHXH huyện lập dự toán kinh phí chi hưu thành 3 bản: 1 bản lưu, một bản gửi kho bạc Nhà nước huyện, một bản gửi BHXH tỉnh trước ngày 31/8 năm trước (theo mẫu 1A-DT/CBH, mẫu 1B-DT/CBH). BHXH tỉnh có trách nhiệm hướng dẫn lập xét duyệt và thông báo dự toán chi BHXH hàng năm cho các huyện. Trong năm có biến động phát sinh chi ngoài kế hoạch được duyệt, BHXH huyện phải báo cáo với BHXH tỉnh để xem xét bổ sung kinh phí kíp thời đảm bảo đủ nguồn chi trả cho đối tượng. Hàng năm, BHXH tỉnh lập dự toán chi hưu trên địa bàn toàn tỉnh theo hướng dẫn của BHXH Việt Nam. Dự toán chi BHYXH hàng năm của BHXH tỉnh được lập trên cơ sở tổng hợp dự toán chi BHXH được duyệt của BHXH huyện và số chi BHXH trực tiếp của BHXH tỉnh, lập thành 4 bản: 1 bản lưu, một bản gửi Kho bạc Nhà nước tỉnh, một bản gửi Bộ Tài chính, một bản gửi BHXH Việt nam (Ban quản lý chi) trước ngày 15/9 năm trước (theo mẫu 1A-DT/CBH; mẫu 1B-DT/CBH). Trong năm thực hiện có biến động phát sinh chi ngoài kế hoạch được duyệt, BHXH tỉnh phải báo cáo BHXH Việt nam để xem xét bổ sung kinh phí kịp thời đảm bảo nguồn chi trả cho đối tượng. Hàng năm, BHXH Việt nam hướng dẫn, tổ chức xét duyệt, thông báo dự toán kinh phí chi hưu cho BHXH các tỉnh theo qui định. Dự toán kinh phí chi hưu hàng năm của hệ thống BHXH lập trên cơ sở dự toán chi BHXH được duyệt của BHXH các tỉnh và được Hội đồng quản lý BHXHVN xem xét thông qua. Dự toán được thành 4 bản: một bản gửi kho bạc Nhà nước Trung Ương, một bản gửi bộ tài chính, một bản lưu tại Ban quản lý chi, một bản lưu tại ban Kế hoạch- Tài chính. Căn cứ vào dự toán năm đã được duyệt và văn bản đề nghị điều chỉnh dự toán chi BHXH trong năm của BHXH tỉnh (nếu có), BHXH Việt Nam có trách nhiệm xem xét giải quyết. PHẦN III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM THỰC HIỆN TỐT CÔNG TÁC QUẢN LÝ CHI TRẢ. I.- Giải pháp 1. Công tác lập kế hoạch chi trả: Về nguyên tắc, việc xây dựng kế hoạch chi ngân sách nhà nước hàng năm phải được tiến hành từ dưới lên. Nghĩa là hệ thống BHXHVN được tổ chức và hoạt động theo 3 cấp: Huyện (quận)- Tỉnh (TP trực thuộc Trung ương) và BHXHVN. Vì vậy kế hoạch chi hàng năm phải được xây dựng từ cấp huyện. Tuy nhiên, thực tế những năm qua cho thấy việc xây dựng kế hoạch chi ở cấp huyện đối với những đối tượng hưởng chế độ dài hạn nói chung, chế độ hưu trí nói riêng là không cần thiết và thực chất đây là loại trợ cấp BHXH tương đối ổn định cả về số lượng người hưởng và mức hưởng. Mặt khác, BHXH tỉnh đã nắm đầy đủ danh sách đối tượng và toàn bộ số liệu tổng hợp về người và tiền của từng loại đối tượng ở từng xã, phường trong toàn tỉnh. Đồng thời theo dõi và tổng hợp một cách chính xác mức giảm bình quân hàng tháng năm của từng đối tượng cũng như quản lý toàn bộ đầu vào (phát sinh tăng ) những đối tượng hưởng mới. Do đó, BHXH mới có đủ cơ sở để xây dựng kế hoạch chi tương đối chính xác. Việc lập kế hoạch quý, năm ở huyện như lâu nay chỉ là hình thức và chưa đủ thủ tục mà hoàn toàn không có ý nghĩa vì số liệu không đảm bảo tính chính xác. Vì vậy, việc lập kế hoạch chi chế độ hưu trí phải do BHXH tỉnh đảm nhận, không cần thiết phải do BHXH huyện lập. Sau khi BHXH tỉnh xây dựng kế hoạch năm và được BHXH Việt Nam phê duyệt, BHXH tỉnh sẽ thông báo cho BHXH huyện kế hoạch chi được phân bổ trong năm trên cơ sở các số liệu đang quản chi trả để BHXH huyện làm căn cứ đăng ký kế hoặch rút tiền mặt hàng tháng với kho bạc nhà nước và có biện pháp quản lý phù hợp trong quản lý chi trả. 2. Đối với công tác chi trả: Hiện tại, hệ thống BHXH chỉ có ba cấp là: Trung ương, tỉnh, huyện nhưng mọi diễn biến phức tạp, mọi tiêu cực thất thoát trong công tác chi trả chế độ hưu trí lại xảy ra ở các cơ sở. Vì vậy, cần có sự phối hợp giúp đỡ của cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương và các tổ chức quần chúng, tổ chức xã hội ở xã. Cơ quan BHXH huyện trực tiếp chi trả cho đối tượng tại huyện hoặc mang tiền xuống chi cho đối tượng tại trụ sở UBND xã, tại gia đình, chi trả thông qua một đại diện người được uỷ quyền hoặc một ban đại diện chi trả, qua cơ quan trung gian như Bưu điện, kho bạc hoặc ngân hàng, trả trực tiếp vào tài khoản cá nhân hoặc người thụ hưởng…Mở rộng phương thức chi trả BHXH là phù hợp với tiến trình phát triển trong tương lai của sự nghiệp BHXH đồng thời cũng đáp ứng được nhu cầu xã hội hoá ngày càng cao của các mối quan hệ và giao lưu dân sự. Đặc biệt là các Ban đại diện chi trả xã, phường, họ chính là chiếc cầu nối trong mối quan hệ gắn bó và rất cần thiết giữa cơ quan BHXH với chính quyền và nhân dân địa phương, là tai mắt của cơ quan BHXH ở cơ sở. Do đó các cấp chính quyền và nhân dân địa phương cần phải báo cáo cho BHXH và các cấp các đại lý chuẩn bị tư tưởng để phấn đấu thực hiện tốt các việc sau: Báo cáo với cấp uỷ Đảng và chính quyền về việc chuyển đổi từ chi trả gián tiếp sang chi trả trực tiếp để ngăn ngừa những tư tưởng không tốt phát sinh trong đại lý cũ. Tăng cường công tác vận động, tuyên truyền, hướng dẫn dư luận về mặt tích cực, mặt hiệu quả khi chuyển sang chi trả trực tiếp cho đối tượng là tốt hơn là tận tình đạt hiệu quả chất lượng cao hơn với phương pháp gián tiếp để cho nhân dân cho đối tượng hiểu mà thực hiện. - Chuẩn bị lại khâu nắm danh sách nắm, lên kế hoạch chi trả hợp lý, tránh nhầm lẫn, kéo dài chậm trễ, ảnh hưởng đến tốc độ chi và sinh hoạt của đối tượng. - Phối hợp chặt chẽ với kho bạc để chủ động về kinh phí, chủ động về tiền mặt, thực hiện kiểm điểm tiền trước khi và để riêng cho từng mức người hưởng. Như vậy sẽ rút ngắn được thời gian chi trả cho đối tượng. Ngoài những điểm trên cần tăng cường lực lượng để tổ chức chi trả, do biên chế đã ấn định, chúng ta không thể tăng nhanh số lượng để đáp ứng nhu cầu chi trả. Bởi vậy, nên sử dụng hợp đồng theo thời vụ. Tìm chọn trong số các đối tượng ở ngay địa bàn để tham gia vào những khâu nhất định trong những ngày chi trả và trả cho họ một khoản thù lao tương xứng với thời gian họ tham gia. Người của cơ quan BHXH phải kiểm soát được toàn bộ công việc trong quá trình chi trả và đảm nhận khâu cuối cùng của công việc chi trả là tập hợp chứng từ và thanh quyết toán. Để rút ngắn thời gian chi trả các nhóm chi trả phải kiểm đếm tiền trước lúc chi trả. Kinh nghiệm của một số địa phương là đếm tiền của từng người bỏ vào phong bì theo ký hiệu mã số của từng đối tượng, xếp đặt phong bì theo thứ tự lúc đối tượng đến nhận tiền chỉ việc rút ra và đưa cho họ. Nếu cần kiểm tra lại thì đối tượng có thể đếm ngay trước mặt cán bộ chi trả. Cần chú ý trang bị thêm một số tài liệu, báo chí và chỗ ngồi sạch sẽ để đối tượng có thể tranh thủ đọc và trò chuyện, từ đó tạo ra không khí thoải mái cho mọi người trong lúc chờ đợi đến lượt mình lĩnh tiền. II Một số kiến nghị 1.Kiến nghị đối với BHXHVN: - Phân cấp cho BHXH tỉnh trong việc xét duyệt các hồ sơ hưởng các chế độ BHXH dài hạn (trong đó có chế độ hưu trí) và chịu hoàn toàn về việc xét duyệt này mà không cần chờ ý kiến thẩm định của BHXH VN nhằm rút ngắn thời gian thụ lý hồ sơ khi có các đơn vị sử dụng lao động khi đến làm thủ tục giải quyết cho người lao động hưởng chế độ hưu trí. Giao trách nhiệm cho giám đốc BHXH huyện trong việc tiếp nhận hồ sơ ban đầu, kiểm tra, hướng dẫn đơn vị hoàn thiện trước khi tổng hợp gửi lên BHXH tỉnh xét duyệt. - Đồng ý để BHXH các tỉnh có đủ điều kiện được triển khai thực hiện chương trình quản lý chi trả bằng công nghệ tin học theo một trong hai hướng hoặc là sử dụng chương trình thống nhất của BHXHVN hoặc là giao cho BHXH tỉnh đó chủ động thiết kế và xây dựng chương trình của mình. - Tiến hành ngay việc đổi thẻ hưu trí, các loại thẻ hưởng chế độ BHXH của các đối tượng nhằm rà soát lại danh sách chi trả và tổ chức lại việc quản lý, lưu trữ và bảo quản hồ sơ. - Thực hiện việc cấp kinh phí và chi trả theo quý cho các huyện, xã vùng cao, vùng sâu, vùng xa, nơi có ít đối tượng và không thiết lập được đại diện chi trả. - Trang bị thêm nhiều két sắt cho các Ban đại diện chi trả xã, phường, thị trấn có số lượng người hưởng đông, số tiền lớn hoặc những nơi có điều kiện chi trả không thuận lợi nhằm đảm bảo an toàn về tiền mặt trong quá trình chi trả . - Trang bị phương tiện và các điều kiện đảm bảo an toàn về tiền mặt cho cơ quan BHXH cấp huyện để thực hiện tốt phương thức chi trả kết hợp giữa huyện và xã. - BHXH Việt Nam nên cấp dư một lượng kinh phí nhất định để BHXH các huyện có cơ số tiền dữ trữ nhằm chủ động giải quyết tạm ứng cho những gia đình đối tượng có khó khăn, khi đối rượng bị ốm đau, bệnh tật hoặc giải quyết tạm ứng trước tiền lương trong thời gian chờ làm thủ tục và trình xét duyệt hồ sơ. - Bổ sung thêm chế độ phụ cấp trách nhiệm đối với kế toán ở BHXH huyện, thị nhằm khuyến khích, động viên cán bộ nâng cao tinh thần trách nhiệm và chất lượng công tác chuyên môn. - Đề nghị BHXH Việt Nam và các Bộ, ngành có liên quan ban hành những quy định xử phạt hành chính đối với những người được giao làm công tác quản lý chi trả không thực hiện việc báo cáo cắt giảm hoặc báo giảm chậm. Toàn bộ số tiền hưởng sai phải được thu hồi vào một tài khoản để khen thưởng động viên, khuyến khích những người phát hiện ra những trường hợp hưởng sai. Một số kiến nghị đối với các tỉnh, quận huyện Để hoàn thành nhiệm vụ chính trị được giao, bên cạnh sự sự phấn đấu nổ lực của toàn ngành, BHXH các tỉnh cần có sự quan tâm, giúp đỡ và chỉ đạo thường xuyên của tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân tỉnh; sự giúp đỡ, phối hợp của các cơ quan hưũ quan, các ngành chức năng trong tỉnh trong việc tổ chức tuyên truyền, giải thích chính sách, chế độ BHXH, động viên, khuyến khích người lao động và các đơn vị sử dụng lao động thuộc các thành phần kinh tế hiểu đầy đủ về nghĩa vụ và quyền lợi của người lao động trong việc thực hiện các chế độ BHXH; sự giúp đỡ tạo điều kiện về tiền mặt của hệ thống kho bạc từ tỉnh đến các huyện thị; sự phối hợp có hiệu quả của các cơ quan quản lý sự nghiệp BHXH trước đây như sở Lao động – Thương binh và xã hội để giải quyết dứt điểm những tồn đọng cũ; tiến hành sửa sai theo kết luận của thanh tra liên ngành, thanh tra Bộ lao động – thương binh và xã hội đối với các trường hợp giả mạo hồ sơ, khai man tuổi đời và thời gian công tác; giải quyết đơn thư khiếu nại; sự phối hợp, giúp đỡ của các cơ quan bảo vệ pháp luật để tăng cường công tác kiểm tra, giám sát kịp thời phát hiện và ngăn chặn những hành vi vi phạm chính sách, chế độ, uốn nắn, xử lý kịp thời những sai sót, lệch lạc trong quá trình thực hiện chế độ, chính sách BHXH, xử lý nghiêm minh những trường hợp vi phạm chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước nhằm tạo lòng tin của nhân dân, của người lao động và đối tượng với quá trình đổi mới và phát triển của sự nghiệp BHXH ở nước ta; sự phối hợp, giúp đỡ của các cơ quan thông tin đại chúng trong công tác tuyên truyền để giúp người lao động và những người hưởng chế độ nắm được các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về BHXH. Khi đặc điểm tình hình kinh tế- xã hội đất nước phát triển, cơ sở vật chất của ngành BHXH đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá; đời sống vật chất và tinh thần của người dân được thực hiện một cách cơ bản thì cần phải nghiên cứu các giải pháp quản lý chi trả hữu hiệu hơn. Đó là những đòi hỏi, yêu cầu cần thiết buộc những người làm công tác quản lý, những người được Đảng và Nhà nước giao cho một trọng trách lớn cần phải không ngừng nâng cao trình độ quản lý về mọi mặt để có thể hoàn thành được nhiệm vụ chính trị của mình, không ngừng bảo tồn tăng trưởng nguồn quỹ BHXH mà còn phục vụ tốt hơn cho các đối tượng hưởng BHXH, góp phần ổn định đời sống người lao động, ổn định tình hình chính trị xã hội cho đất nước. 3. Kiến nghị đối với Đảng và Nhà nước: Nhà nước phải tạo mọi điều kiện có thể có được để ổn định và phát triển kinh tế. Sự ổn định và phát triển kinh tế sẽ làm cho người lao động có việc làm ổn định và thu nhập cao. Từ đó thì mới có nhiều người tham gia vào BHXH và chế độ hưu trí. Kinh tế phát triển, thu nhập được nâng cao, nhu cầu về an toàn trong cuộc sống cũng như nhu cầu về BHXH sẽ được nâng lên, nhiều người tích cực tham gia vào chế độ Bảo hiểm hưu trí, có điều kiện để nâng mức phí đóng và tăng quỹ BHXH lên. Đó là điều kiện căn bản nhất để có thể có được mức tiền lương hưu đủ đáp ứng nhu cầu bảo hiểm cuộc sống của họ. Đây là kiền nghị chung, đặt BHXH trong một quan hệ tổng thể của nền kinh tế. Hiện nay tiền lương lấy làm cơ sở để đóng BHXH không phải là tiền lương hay thu nhập thực tế mà chỉ là tiền lương cơ bản trong các thang lương, bảng lương của người lao động đang làm việc. So với tiền lương hay thu nhập thực tế thì tiền lương trong các thang lương, bảng lương thấp hơn nhiều. Tiền lương thấp dẫn đến đóng và hưởng BHXH cũng thấp, Trợ cấp tiền lương không đủ trang trải cho những nhu cầu sống tối thiểu của người sau khi nghỉ hưu. Khi đời sống tốt lên, đời sống kinh tế phát triển thì cần phải điều chỉnh tiền lương cho phù hợp, cụ thể ở đây là phải tăng lương hưu cho người nghỉ hưu, và tỷ lệ tăng giữa các đối tượng cũng phải khác nhau. Những người nghỉ hưu hiện nay chủ yếu là những người nghỉ hưu trước năm 1995 do đó Nhà nước phải tài trợ những người này để họ có mức sống không quá chênh lệch với những người nghỉ hưu sau năm 1995. Một khi xã hội phát triển thì con người cũng có nhiều nhu cầu để thoả mãn, làm sao Nhà nước và ngành BHXH phải có những chính sách tăng lương phù hợp, không để khoảng cách giàu nghèo giữa người về hưu và người đang làm việc quá xa. Khi giá cả hàng hoá dịch vụ theo năm tháng sẽ tăng lên có thể là do nhiều yếu tố, như lạm phát v.v…thì cần phải tăng lương cho người nghỉ hưu để đảm bảo cuộc sốngcho họ có mức sống ổn định, và ngày càng được nâng cao. Vấn đề quan trọng nhất cũng vẫn là việc điều chỉnh tiền lương hưu để đảm bảo sự công bằng giữa những người về hưu. Đây là một vấn đề cấp thiết, như theo quy định người nghỉ hưu theo NĐ236/HĐBT có mức lương hưu thấp hơn 5% so với người về hưu theo NĐ12/CP. Vậy trước hết phải xác định trên phạm vi toàn quốc số người nghỉ hưu theo NĐ236/HĐBT để điều chỉnh sao cho tiền lương hưu của họ tương đương với những ngưòi về hưu theo NĐ12/CP. Đây là việc không đơn giản và rất cần thiết vì nó liên quan đến đời sống của hàng triệu người dân hiện nay, vì việc tăng tiền lương hưu này do NS Nhà nước là chính. 4. Kiến nghi đối với các cấp chính quyền : Hiện nay, cùng với sự phát triển của kinh tế-xã hội con người ngày càng có nhiều nhu cầu hơn vì vậy đời sống ngày càng tăng lên. Tuy nhiên , người nghỉ hưu khi về già họ lại rất cần sự quan tâm của Xã hội, bởi lẽ lúc này họ không còn khả năng lao động, sức khoẻ ngày một yếu, tuổi ngày một cao, do vậy Xã hội là chỗ dựa tinh thần của họ. Lúc còn trẻ họ đã cống hiến sức lao động của mình cho xã hội vậy về già họ cần có sự bảo đảm cuộc sống, đây cũng là đạo lí căn bản của BHXH. Vậy cần có những chính sách ưu đãi đối với người nghỉ hưu, như trước đây có tiền để chi mua báo cho các câu lạc bộ hưu trí, nay không tiền và không có trụ sở để cho các cụ hưu trí sinh hoạt, về già có nhiều bệnh tật là tất yếu, nhưng về vật chất họ lại không đủ trang trải sinh hoạt, do đó cần có sự ưu đãi, chăm sóc, khám chữa bệnh cho người về hưu để họ thấy được KẾT LUẬN Trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, BHXH nói chung, chế độ hưu trí nói riêng và có vai trò đặc biệt quan trọng đối với đời sống của người lao động, đặc biệt đối với chế độ hưu trí, chế độ có số đối tượng hưởng đông nhất trong hệ thống các chế độ BHXH là những vấn đề luôn được các cấp các ngành và những người thường quan tâm. Nhưng để BHXH cũng như chế độ hưu trí phát huy tác dụng cần phải có những chính sách giải pháp phù hợp, việc thực hiện các chế độ chính sách theo cơ chế mới, theo cơ chế dựa trên nguyên tắc có đóng BHXH mới được hưởng BHXH. Trong quá trình thực hiện ở BHXH VN, em đã nêu ra được một số vấn đề cơ bản của BHXH và chế độ hưu trí. Xuất phát từ thực tiễn hoạt động, điều kiện tự nhiên của nước ta, cơ sở vật chất của ngành BHXH, qua đó ta thấy được các mặt còn hạn chế của chế độ hưu trí nước ta, từ đó xin được nêu ra một số phương hướng và giải pháp kiến nghị, đề xuất cho chế độ hưu trí nhằm hoàn thiện hơn. Mong rằng những giải pháp đề nghị đề xuất đó có ích cho ngành BHXH trong việc xây dựng một hệ thống BHXH toàn diện hơn. Phần cuối của chuyên đề, em xin chân thành cảm ơn sự quan tâm và giúp đỡ nhiệt tình của thầy giáo Hà Văn Sỹ cùng các cô, chú, các anh chị ở ban BHXH tự nguyện (BHXH VN) đã tận tình giúp đỡ em trong việc hoàn thành bài viết này. Do sự hạn chế về năng lực của bản thân, bài viết chắc chắn sẽ không tránh khỏi những sai sót, em mong nhân được những ‏ý ý kiến đóng góp của thầy cô giáo cùng các cô chú, các anh chị. TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình Kinh tế bảo hiểm (Đại học Kinh Tế Quốc Dân).nhà xuất bản thống kê 2004 năm Những quy định pháp luật về chế độ BHXH hiện hành (nhà Xuất bản Lao động). Một số vấn đề cơ bản về BHXHVN (Tài liệu tuyên truyền tháng 4 năm 2001). Tạp chí BHXH. Tạp chí Lao động xã hội. Kỹ yếu khoa học BHXH VN. Chế độ kế toán BHXH VN. Công ước 502 của tổ chức lao động quốc tế (ILO). Nghị định số 19/CP, Nghị định số 12/CP của Chính phủ: Nghị định số 45/CP; Hướng dẫn số 150/BHXH- TCCV của Tổng giám đốc BHXH Việt Nam. Các tài liệu khác. LỜI MỞ ĐẦU 1 PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẾ ĐỘ HƯU TRÍ VÀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ CHI TRẢ CHẾ ĐỘ HƯU TRÍ. 4 I. Những vấn đề cơ bản về BHXH 4 1. Khái niệm về BHXH 4 2. Bản chất của BHXH 4 3. Chức năng BHXH 8 4. Những quan điểm cơ bản về BHXH 10 II. LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẾ ĐỘ HƯU TRÍ 13 1. Sự cần thiết khách quan 13 2. Vai trò chế độ hưu trí trong hệ thống các chế độ BHXH 15 3. Tác dụng của chế độ hưu trí. 17 PHẦN II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN L‏ýÝ CHI TRẢ CHẾ ĐỘ HƯU TRÍ Ở BHXH VIỆT NAM. 18 I. Thuận lợi và khó khăn: 18 1. Thuận lợi: 18 2. Khó khăn: 18 II. Thực trạng công tác quản lý chi trả chế độ hưu trí ở BHXH việt nam: 19 1. Qui định về chế độ hưu trí: 19 2. Bộ máy quản lý chế độ hưu trí: 23 3. Tổng mức chi trả cho chế độ hưu trí: 25 4. Phương thức chi trả 29 4.1 Chi trả gián tiếp 29 4.2 Chi trả trực tiếp: 30 5. Quản lý đối tượng được hưởng: 32 6. Tổ chức chi trả: 38 6.1 Đối với BHXH tỉnh: 38 6.2 Đối với BHXH cấp huyện: 39 6.3 Đối với đại diện chi trả. 40 7. Lập kế hoạch dự toán chi: 41 PHẦN III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM THỰC HIỆN TỐT CÔNG TÁC QUẢN LÝ CHI TRẢ. 43 I.- Giải pháp 43 1. Công tác lập kế hoạch chi trả: 43 2. Đối với công tác chi trả: 44 II Một số kiến nghị 45 1.Kiến nghị đối với BHXHVN: 45 2. Một số kiến nghị đối với các tỉnh, quận huyện 47 3. Kiến nghị đối với Đảng và Nhà nước: 48 4. Kiến nghi đối với các cấp chính quyền : 50 KẾT LUẬN 51 TÀI LIỆU THAM KHẢO 52 MỤC LỤC 55 MỤC LỤC Phần 1:lý luận chung về chế độ hưu trí và công tác quản lý chi trả chế độ hưu trí Vấn đề cơ bản về BHXH khái niệm về BHXH bản chats về BHXH chức năng BHXH những quan điểm về BHXH sự cần thiết khách quan hình thành chế độ hưu trí sự cần thiết khách quan vai trò chế độ hưu trí trong hệ thống các chế độ BHXH Tác dụng của chế độ hưu trí công tác quản lý chi trả chế độ hưu trí Phần II: thực trạng công tác quản lý chi trả chế độ hưu trí

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docD0030.doc
Tài liệu liên quan