Chuyên đề Thực trạng và giải pháp đẩy mạnh quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản

Quan hệ thương mại Việt Nam – Nhật Bản đã có lịch sử lâu dài, song chỉ thực sự phát triển mạnh mẽ nhất kể từ đầu thập kỷ 90 đến nay. Trong suốt thời gian đó, quan hệ thương mại song phương đã có bước phát triển mạnh mẽ và luôn đóng vai trò quan trọng hàng đầu trong các quan hệ kinh tế của Việt Nam với Nhật Bản. Sự gia tăng quan hệ thương mại Việt Nam – Nhật Bản trong những năm qua có nhiều lý do, song suy cho cùng là xuất phát từ lợi ích kinh tế cũng như chính trị của cả hai bên. Đối với Việt Nam, mở cửa buôn bán với Nhật Bản không chỉ nhằm phát huy lợi thế nguồn hàng của mình, mở rộng thị trường mới mà còn là tiếp nhận hàng hóa và kỹ thuật nhằm bảo đảm nhu cầu sinh hoạt và phát triển sản xuất của Việt Nam, qua đó mở rộng ảnh hưởng và uy tín của Việt Nam trong khu vực. Đối với Nhật Bản xâm nhập thị trường Việt Nam có nhiều lợi ích do sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế, do Việt Nam là thị trường khá đông dân, nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, giá nhân công thấp và nhiều tiềm năng khác chưa được khai thác. Đặc biệt, xâm nhập thị trường Việt Nam qua thương mại còn tạo điều kiện cho FDI của Nhật Bản vào Việt Nam. Thông qua những quan hệ này Nhật Bản muốn mở rộng và chứng tỏ vai trò quan trọng của mình trong khu vực, muốn thay đổi hình ảnh của mình trong quá khữ, khẳng định vai trò không chỉ là cường quốc kinh tế mà còn là cường quốc chính trị trong khu vực và trên thế giới. Khi phân tích quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản ta thấy nổi lên một số đặc điểm đáng chú ý sau: Thứ nhất là trong hoạt động mậu dịch với Nhật Bản, trong nhiều năm liên tục Việt Nam luôn ở trong tình trạng xuất siêu. Xuất siêu ở đây không phản ánh thế mạnh trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam. Thặng dư trong buôn bán với Nhật là do sách lược trong nhập khẩu hàng hóa, chúng ta thường xuất sang Nhật sau đó mua hàng hóa cần thiết đồng loại của Nhật ở nước thứ ba với giá có phần mềm hơn. Trong xuất khẩu chúng ta chưa tạo ra được nguồn hàng chủ lực có tính dài hạn. Phần lớn chỉ tìm kiếm cái có sẵn (không phải nhiều) để xuất khẩu. Vì vậy vấn đề đặt ra trong giai đoạn trước mắt là phải xây dựng được một chiến lược về sản phẩm xuất khẩu nói chung, đối với từng thị trường, trong đó có Nhật Bản nói riêng. Đây là một vấn đề lớn đối với Việt Nam. Để giải quyết cần phải đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang hướng mạnh vào xuất khẩu, Nhà nước cần có chính sách nuôi dưỡng các ngành kinh tế tạo nguồn hàng xuất khẩu, nâng cao năng lực cạnh tranh qua hiện đại hóa .v.v Thứ hai là tuy kim ngạch thương mại song phương Việt – Nhật có sự gia tăng mạnh trong những năm gần đây, nhưng cần thấy với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng năm khoảng trên dưới 10 tỷ USD là khá nhỏ so với quan hệ thương mại của Nhật Bản với các quốc gia khác. Cho dù con số này có đạt mục tiêu đề ra là 15 tỷ USD vào năm 2010 thì đây vẫn còn là một con số khiêm tốn. Tỷ trọng thương mại Nhật – Việt chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong tổng kim ngạch ngoại thương của Nhật Bản với cả thế giới. Nhưng tỷ trọng thương mại Việt – Nhật chiếm tới gần 1/5 tổng kim ngạch ngoại thương của Việt Nam với cả thế giới. Qua đây, có thể thấy rõ một điều là thị trường Nhật Bản có tầm quan trọng rất lớn đối với ngoại thương của Việt Nam, song ngược lại thị trường Việt Nam, xét trên phương diện kinh tế chưa có sức nặng đối với hoạt động ngoại thương của Nhật Bản.

doc80 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1695 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng và giải pháp đẩy mạnh quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dầu với kim ngạch nhập khẩu 10,9 triệu USD. Ba năm sau đó, 1993 – 1995, kim ngạch nhập khẩu của mặt hàng này từ Nhật luôn tăng đều, từ 17,6 triệu USD năm 1993 lên 40,2 triệu USD. Nhưng kể từ năm 1996 trở đi, cùng với sự ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính 1997, kim ngạch nhập khẩu xăng dầu từ Nhật ngày càng suy giảm, chỉ đạt 1,405 triệu USD năm 2001. ª Sắt thép Năm 1997, sắt thép chiếm 4,08% trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Nhật. Việt Nam đã nhập 116.500 tấn sắt thép từ Nhật, với trị giá 61,7 triệu USD, tăng gần 60 lần so với kim ngạch nhập khẩu năm 1990 là 1,1 triệu USD. Năm 1999, sản lượng sắt thép nhập khẩu từ Nhật Bản giảm đáng kể, từ 396.000 tấn năm 1998 xuống còn 286.400 tấn năm 1999, khiến kim ngạch nhập khẩu sắt thép giảm 23,9% so với năm trước. Đây là một mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu thay đổi thất thường nhưng kể từ 2000, sắt thép có tốc độ tăng trưởng kim ngạch nhập khẩu cao và ổn định trong 8 năm gần đậy, đạt khoảng 655,1 triệu USD vào năm 2007. ª Máy móc thiết bị phụ tùng Năm 1996, với kim ngạch nhập khẩu đạt 156,1 triệu USD, mặt hàng máy móc, thiết bị phụ tùng khác xếp vị trí thứ nhất trong các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của Nhật Bản, chiếm 12,38% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Nhật Bản. Giai đoạn 1996 – 2001, Việt Nam ngày càng nhập nhiều mặt hàng này từ Nhật Bản để phục vụ quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, với kim ngạch kỷ lục đạt 603,5 triệu USD. Năm 2002, Việt Nam tiếp tục nhập khẩu máy và phụ tùng máy xây dựng, máy móc thiết bị thông tin liên lạc, thiết bị và dụng cụ dùng cho ngành y… từ Nhật nhưng với kim ngạch nhỏ hơn, chỉ đạt 416,49 triệu USD, giảm gần 31% so với năm 2001. Tỷ trọng của mặt hàng này trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam cũng giảm nhiều, chỉ còn 16,62%. Nhưng đến năm 2003, kim ngạch nhập khẩu của mặt hàng này tăng lên 605,5 triệu USD, chiếm 20,30% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Nhật. Sang năm 2004, máy móc, thiết bị phụ tùng khác vẫn duy trì vị trí thứ nhất trong tốp bốn mặt hàng nhập khẩu chủ yếu, nhưng kim ngạch nhập khẩu đã giảm 6,57% so với năm 2003. Đây là một mặt hàng có giá trị nhập khẩu lớn trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Nhật Bản nên đã khiến Việt Nam thâm hụt trong cán cân thương mại đối với Nhật Bản. Năm 2007, kim ngạch nhập khẩu của mặt hàng này từ Nhật cao kỷ lục, đạt 1.945,4 triệu USD. Đây cũng là năm Việt Nam nhập siêu cao nhất từ Nhật 107,9 triệu USD. Bởi vậy, trong tương lai, các doanh nghiệp Việt Nam cần nâng cao khả năng chuyên môn, trình độ sản xuất, cải tiến kỹ thuật để có thể sản xuất ra những mặt hàng tương tự, phục vụ nhu cầu tiêu dùng và sản xuất nội địa, để hạn chế nhập khẩu, giảm kim ngạch nhập khẩu, cân bằng cán cân thương mại với Nhật. ª Linh kiện điện tử và ti vi, máy tính và linh kiện máy tính Năm 1996, với kim ngạch nhập khẩu đạt 156,1 triệu USD, mặt hàng máy móc, thiết bị phụ tùng khác xếp vị trí thứ nhất trong các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của Nhật Bản, chiếm 12,38% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Nhật Bản. Giai đoạn 1996 – 2001, Việt Nam ngày càng nhập nhiều mặt hàng này từ Nhật Bản để phục vụ quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, với kim ngạch kỷ lục đạt 603,5 triệu USD. Năm 2002, Việt Nam tiếp tục nhập khẩu máy và phụ tùng máy xây dựng, máy móc thiết bị thông tin liên lạc, thiết bị và dụng cụ dùng cho ngành y… từ Nhật nhưng với kim ngạch nhỏ hơn, chỉ đạt 416,49 triệu USD, giảm gần 31% so với năm 2001. Tỷ trọng của mặt hàng này trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam cũng giảm nhiều, chỉ còn 16,62%. Nhưng đến năm 2003, kim ngạch nhập khẩu của mặt hàng này tăng lên 605,5 triệu USD, chiếm 20,30% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Nhật. Sang năm 2004, máy móc, thiết bị phụ tùng khác vẫn duy trì vị trí thứ nhất trong tốp bốn mặt hàng nhập khẩu chủ yếu, nhưng kim ngạch nhập khẩu đã giảm 6,57% so với năm 2003. Đây là một mặt hàng có giá trị nhập khẩu lớn trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Nhật Bản nên đã khiến Việt Nam thâm hụt trong cán cân thương mại đối với Nhật Bản. Năm 2007, kim ngạch nhập khẩu của mặt hàng này từ Nhật cao kỷ lục, đạt 1.945,4 triệu USD. Đây cũng là năm Việt Nam nhập siêu cao nhất từ Nhật 107,9 triệu USD. Bởi vậy, trong tương lai, các doanh nghiệp Việt Nam cần nâng cao khả năng chuyên môn, trình độ sản xuất, cải tiến kỹ thuật để có thể sản xuất ra những mặt hàng tương tự, phục vụ nhu cầu tiêu dùng và sản xuất nội địa, để hạn chế nhập khẩu, giảm kim ngạch nhập khẩu, cân bằng cán cân thương mại với Nhật. 2.2. Một số hạn chế bất cập của quan hệ thương mại Việt Nam – Nhật Bản 2.2.1. Sự phát triển của quan hệ thương mại Việt Nam – Nhật Bản chưa thực sự tương xứng với tiềm năng của mỗi nước Trong sáu năm gần đây, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Nhật Bản luôn tăng trưởng 18 – 20% mỗi năm song còn quá nhỏ bé, không cân xứng so với tiềm năng của hai nước. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu Việt – Nhật chiếm khoảng hơn 10% trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam nhưng chỉ chiếm gần 1% trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Nhật Bản. Trong khi đó, tỷ trọng kim ngạch xuất nhập khẩu của Nhật Bản với Trung Quốc, Xingapo, Malaixia, Thái Lan và Inđônêxia tương ứng là 13,2%, 2,9%, 2,7%, 2,6% và 2,3%. Theo bảng dưới đây, ta thấy rằng Việt Nam có kim ngạch xuất nhập khẩu với Nhật quá khiêm tốn so với một số bạn hạn hàng chủ yếu của Nhật Bản. Đối với Hàn Quốc, không chỉ Nhật Bản chiếm vị trí quan trọng trong ngoại thương của nước này, mà ngược lại, Hàn Quốc cũng là đối tác thương mại lớn của Nhật Bản. Chỉ có hai năm 1997 – 1998, kim ngạch ngoại thương Nhật – Hàn bị giảm sút còn nhìn chung ngoại thương giữa hai nước đều gia tăng hàng năm. Năm 1991, kim ngạch ngoại thương Nhật – Hàn mới là 33,476 tỷ USD thì đến năm 2004 đã lên tới 67,856 tỷ USD, tức là tăng gấp hơn 2 lần so với năm 1991. Theo số liệu của Bộ Tài chính Nhật Bản, trong tổng kim ngạch ngoại thương của Nhật năm 2004, Trung Quốc chiếm 20,1%, cao hơn so với Mỹ 18,6%. Kim ngạch thương mại Nhật – Trung đạt mức kỷ lục 22,2 nghìn tỷ yên, tương đương với 210 tỷ USD. Trong khi đó, tỷ số tương tự giữa Mỹ và Nhật Bản đạt 20,48 nghìn tỷ yên. Tính đến hết tháng 9 năm 2007, kim ngạch buôn bán Trung – Nhật đã đạt 171,94 tỷ USD, tăng 14% so với cùng kỳ năm trước. Mối quan hệ thương mại giữa Nhật Bản với các đối tác thương mại trên lớn hơn nhiều so với quan hệ thương mại Việt – Nhật. Bảng 2.11 : Một số bạn hàng chủ yếu của Nhật Bản (Đơn vị: trăm triệu USD) TT 2001 2002 2003 5 tháng đầu 2004 Nước Kim ngạch Nước Kim ngạch Nước Kim ngạch Nước Kim ngạch 1 Mỹ 1.948 Mỹ 1.760 Mỹ 1.740 Mỹ 736 2 Trung Quốc 938 Trung Quốc 1.016 Trung Quốc 1.324 Trung Quốc 647 3 Hàn Quốc 449 Hàn Quốc 440 Hàn Quốc 525 Hàn Quốc 271 4 Đài Loan 405 Đài Loan 297 Đài Loan 454 Đài Loan 229 5 Đức 296 Hồng Kông 268 Hồng Kông 311 Hồng Kông 204 6 Malaixia 252 Thái Lan 237 Đức 305 Đức 149 7 Thái Lan 235 Úc 223 Thái Lan 278 Thái Lan 133 8 Úc 233 Malaixia 222 Úc 249 Úc 120 9 Inđônêxia 225 Inđônêxia 204 Malaixia 237 Malaixia 108 10 Xingapo 212 Xingapo 191 Inđônêxia 234 Inđônêxia 107 Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á, số 1, 2006, Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á, tr.13. Một số nguyên nhân có thể kể ra là hàng Việt Nam vào Nhật vẫn gặp những trở ngại vì chúng ta chưa ký kết hiệp định thương mại song phương với Nhật, những qui định khắt khe của Nhật mà các doanh nghiệp Việt Nam chưa đáp ứng hết được (về an toàn thực phẩm), cơ cấu các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam còn đơn điệu (khoảng 50% là nguyên liệu thô và sản phẩm sơ chế)… Tuy tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đã giảm dần, nhưng Nhật Bản vẫn là bạn hàng nhập khẩu lớn của Việt Nam. Nhưng nếu so với tổng kim ngạch nhập khẩu của Nhật Bản với cả thế giới thì Việt Nam chỉ là bạn hàng nhỏ bé. Năm 1993, tỷ trọng xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật chỉ chiếm 0,4% trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Nhật Bản. Trong khi đó, tỷ trọng này ở một số nước trong khu vực như Thái Lan, Malaixia, Inđônêxia tương ứng là 2,7%, 3,2% và 5,2%. Philippin ít nhất cũng chiếm 1%, gấp 2,5 lần so với tỷ trọng xuất khẩu của Việt Nam. Năm 2001, giá trị xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang Nhật Bản trên tổng kim ngạch nhập khẩu tại thị trường này chỉ chiếm 0,71%, chưa được 1%. Mặc dù vậy, cùng với các biện pháp đẩy mạnh công tác thâm nhập thị trường Nhật, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam của chính phủ và các doanh nghiệp nên tỷ trọng này đang tăng lên, đạt 0,84% vào năm 2005. BẢNG 2.13 Kim ngạch xuất khẩu sang Nhật trong tổng xuất khẩu của Việt Nam và tổng nhập khẩu của Nhật Bản (Đơn vị: triệu USD) Năm Kim ngạch XK sang Nhật Bản % trong tổng XK của Việt Nam Tổng NK của Nhật Bản % trong tổng NK của Nhật Bản 2001 2.509,8 16,70 349.000 0,72 2002 2.437,0 14,59 337.000 0,72 2003 2.908,6 14,44 383.000 0,75 2004 3.542,1 13,37 455.000 0,78 2005 4.340,3 13,38 515.000 0,84 Nguồn: Năm 2006, nhập khẩu hàng hoá của Nhật Bản từ Việt Nam chiếm khoảng 0,91% tổng kim ngạch nhập khẩu của nước này, tăng hơn so với năm 2005. Chứng tỏ kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản đã tăng nhưng vẫn chưa đủ vì còn thấp hơn so với các nước trong khu vực như Trung Quốc là 20,5%, Inđônêxia 4,2%, Malaixia 2,7%, Thái Lan 2,9% và kém cạnh tranh nhất là Philippin cũng có thị phần 1,32% (gấp gần 1,5 lần so với tỷ trọng của Việt Nam). Điều này thể hiện sự phụ thuộc đáng kể của Việt Nam vào Nhật Bản trong quan hệ thương mại. Bởi kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản trong những năm gần đây luôn chiếm từ 12 – 15% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, nhưng chiếm chưa đầy 1% trên thị trường rộng lớn này. Hiện tại, Nhật Bản là bạn hàng nhập khẩu lớn thứ 2 của Việt Nam, chỉ đứng sau Mỹ. Kim ngạch xuất khẩu sang Nhật năm 2007 chiếm tới 12,5% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Đồng thời, Nhật là bạn hàng xuất khẩu lớn thứ 4 của Việt Nam, kim ngạch nhập khẩu từ Nhật năm 2007 chiếm gần 10% trong tổng nhập khẩu của nước ta nhưng chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Nhật Bản. Năm 2001, tỷ trọng này là 0,54% thì đến năm 2005 chỉ tăng lên 0,68%. Con số này thấp hơn nhiều so với các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á có quan hệ buôn bán với Nhật Bản. Ví dụ, theo số liệu năm 1993, giá trị nhập khẩu của các nước ASEAN trong tổng mức buôn bán với Nhật tương ứng là: Thái Lan 2,7%; Malaixia 3,2% và Inđônêxia 5,2%. BẢNG 2.14.Kim ngạch nhập khẩu từ Nhật Bản trong tổng nhập khẩu của Việt Nam và tổng xuất khẩu của Nhật Bản (Đơn vị: triệu USD) Năm Kim ngạch NK từ Nhật Bản % trong tổng NK của Việt Nam Tổng XK của Nhật Bản % trong tổng XK của Nhật Bản 2001 2.183,1 13,46 403.000 0,54 2002 2.504,7 12,68 417.000 0,6 2003 2.982,1 11,81 472.000 0,63 2004 3.552,6 11,11 566.000 0,63 2005 4.074,1 11,08 595.000 0,68 Nguồn: Kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Nhật Bản trong những năm gần đây tăng với tốc độ 14 - 19%, cao nhất là năm 2007 tăng 31,41%. Tốc độ tăng kim ngạch nhập khẩu 31,41% cao hơn nhiều so với tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu 16,01% khiến Việt Nam bị thâm hụt lớn trong quan hệ thương mại với Nhật Bản. Để giảm tình trạng nhập siêu, ngoài việc chuyển đổi cơ cấu xuất khẩu, Việt Nam cần tập trung đầu tư sản xuất các mặt hàng có thể thay thế hàng nhập khẩu. Hy vọng rằng, với nỗ lực của chính phủ và doanh nghiệp hai nước, hiệp định thương mại song phương sớm được ký kết thì kim ngạch xuất nhập khẩu Việt – Nhật có thể lên tới 17 tỷ USD, vượt 2 tỷ USD so với mục tiêu 15 tỷ USD vào năm 2010 đề ra thời gian trước. 2.2.2. Cơ cấu hàng hóa xuất nhập khẩu còn nghèo nàn, chậm được cải thiện Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản thời gian qua vẫn là những mặt hàng truyền thống, vốn là thế mạnh của các doanh nghiệp Việt Nam, chứa đựng hàm lượng lao động hay nguyên vật liệu thô cao. Tỷ trọng của ba mặt hàng xuất khẩu chủ lực là dầu thô, hàng hải sản, hàng dệt may vẫn lớn, khoảng 50% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản. Tỷ trọng mặt hàng chế tạo linh kiện điện tử - ti vi, máy tính – linh kiện máy tính đã từ 1,2% lên 4,44% trong vòng 10 năm. Tỷ trọng của mặt hàng dây điện và cáp điện cũng tăng từ 6,88% lên 10,92% trong vòng 7 năm. Tuy nhiên, mức tăng tỷ trọng của các mặt hàng chế tạo, cũng như một số mặt hàng (giày dép, hàng thủ công mỹ nghệ, rau quả, hoa) còn thấp. Cơ cấu buôn bán này thể hiện sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam với lợi thế so sánh về tài nguyên và lao động. Cơ cấu trên giúp Việt Nam thu được nguồn ngoại tệ đáng kể có thể chuyển thành hàng hoá, tạo ra vốn thúc đẩy sự phát triển của các ngành công nghiệp chế tạo thông qua việc nhập khẩu nhiều thiết bị, máy móc từ Nhật Bản. Đây chính là cơ sở cho sự thay đổi cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam thời gian tới. Mặc dù vậy, Việt Nam cần nhanh chóng thay đổi cơ cấu xuất khẩu hiện tại để hạn chế những thua thiệt về kinh tế sau này do bán nhiều sản phẩm thô, tài nguyên thiên nhiên. Khủng hoảng năng lượng, lương thực toàn cầu, giá dầu trên thế giới tăng cao… là những điều mà Việt Nam cần tính đến để thay đổi cơ cấu hàng xuất khẩu hợp lý, tăng cường kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng đã qua chế biến và có giá trị gia tăng cao sang thị trường Nhật Bản trong tương lai. Để đứng vững trên thị trường Nhật Bản, Việt Nam cần đầu tư để chế tạo ra những sản phẩm có kỹ thuật cao mang tính cạnh tranh nhằm tăng giá trị của sản phẩm xuất khẩu. Bên cạnh đó, cần đa dạng hoá các mặt hàng xuất khẩu nhằm nâng cao tính cạnh tranh, để không phụ thuộc vào các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu vốn chiếm thị phần nhỏ bé trên thị trường Nhật Bản. Kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Nhật Bản còn thấp, cơ cấu mặt hàng nhập khẩu còn đơn giản vì Việt Nam chưa nhập được nhiều những thiết bị công nghệ hiện đại. Gần 10 năm qua, mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam từ Nhật Bản vẫn là linh kiện điện tử - ti vi, máy tính – linh kiện máy tính, máy móc thiết bị phụ tùng khác, sắt thép, vải các loại, ô tô các loại. Trong thời gian tới Việt Nam cũng cần thay đổi cơ cấu hàng nhập khẩu để giảm tốc độ tăng trưởng của kim ngạch nhập khẩu, thay đổi cán cân thương mại với Nhật. Năm 2007, Việt Nam bị thâm hụt thương mại với Nhật, nhập siêu cao nhất từ trước tới nay: 107,9 triệu USD. Để đạt được mục tiêu trên, chúng ta cần đầu tư kỹ thuật, công nghệ để chế tạo những sản phẩm phục vụ nhu cầu tiêu dùng cũng như sản xuất trong nước nhằm hạn chế nhập khẩu. Mặt khác, Việt Nam cần nhanh chóng nhập khẩu những công nghệ nguồn từ Nhật Bản để phục vụ nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. * * * Tóm lại, từ những phân tích về thực trạng và đặc điểm của quan hệ thương mại Việt Nam – Nhật Bản cũng như những vấn đề đặt ra trong quan hệ giữa hai nước hiện nay và trong những năm sắp tới, có thể rút ra một số nhận xét sau đây: Thứ nhất, quan hệ thương mại Việt Nam – Nhật Bản trong gần hai thập kỷ qua luôn nằm trong xu hướng phát triển đi lên với mức tăng của tổng giá trị kim ngạch xuất nhập khẩu bình quân hàng năm đật 20 – 30%. Hiện nay và trong những năm sắp tới, cùng với Mỹ và Trung Quốc, Nhật Bản vẫn luôn giữ vị trí là một trong 3 thị trường xuất khẩu trọng điểm của Việt Nam. Thứ hai, quan hệ Việt Nam – Nhật Bản nói chung đã và đang phát triển lên một tầm cao mới với việc hai nước đã đồng ý xây dựng quan hệ “đối tác chiến lược”, đã và đang xúc tiến đàm phán Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện (CEPA). Các cuộc đàm phán này được bắt đầu từ tháng 1 năm 2007 với nhiều phiên họp diễn ra ở cả hai nước và đã đạt được những kết quả bước đầu rất đáng khích lệ. Nếu như Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện giữa Việt Nam và Nhật Bản được ký kết thì có thể khẳng định rằng quan hệ thương mại giữa hai nước – một trong những lĩnh vực chủ yếu của quan hệ hợp tác kinh tế - sẽ có những điều kiện thuận lợi để phát triển mạnh mẽ hơn nữa. Thứ ba, thị trường Nhật Bản với hơn 120 triệu dân được coi là một thị trường có tiềm năng lớn ở Đông Á, đặc biệt là đối với các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như dầu thô, hàng hải sản, hàng dệt may, sản phẩm gỗ… Các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam mới chỉ khai thác được một khoảng thị phần rất nhỏ so với các nước khác trong khu vực tại thị trường Nhật Bản. Nếu chỉ cần chiếm được mức thị phần tại thị trường Nhật Bản tương đương với mức mà các nước Đông Nam Á khác như Xingapo, Thái Lan, Inđônêxia và Malaixia đã đạt được (từ 2 đến 4%) thì mức xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản đã có thể tăng gấp 3 hoặc 4 lần so với mức hiện nay. Chính vì vậy, có thể nói rằng tiềm năng cho sự phát triển hơn nữa quan hệ thương mại Việt Nam – Nhật Bản vẫn còn rất lớn. Thứ tư, về phía các doanh nghiệp Việt Nam, trong những năm gần đây, các doanh nghiệp Việt Nam đã rất nỗ lực trong việc thâm nhập thị trường Nhật Bản bằng các biện pháp như: thay đổi cơ cấu và nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu, tìm hiểu thị trường, xúc tiến thương mại… Tất cả những việc làm này đã đem lại những kết quả đáng kể trong quan hệ thương mại giữa hai nước. Tuy nhiên, nghiêm túc nhìn nhận mà nói, quan hệ thương mại Việt Nam – Nhật Bản vẫn còn tồn tại khá nhiều bất cập cần được tháo gỡ để quan hệ thương mại giữa hai nước có thể phát triển mạnh mẽ hơn nữa trong những năm sắp tới. Chính phủ và các doanh nghiệp Việt Nam cần phải làm gì để tháo gỡ những hạn chế và bất cập này là nội dung sẽ được đề cập đến trong Chương 3. CHƯƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHÍNH SÁCH ĐẨY MẠNH QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM – NHẬT BẢN 3.1. Đối với Chính phủ - Chính phủ Việt Nam cần tích cực đàm phán để hoàn tất Hiệp định thương mại song phương với Nhật Bản, tạo điều kiện đẩy mạnh quan hệ thương mại giữa hai nước. Nếu hiệp định sớm được ký kết với việc mở rộng diện các mặt hàng trong danh mục hưởng chế độ ưu đãi thuế quan sẽ tạo điều kiện cho hàng Việt Nam có thế mạnh thâm nhập thị trường Nhật Bản như: nông sản, cơ khí, thủ công mỹ nghệ, thủy sản… Bởi theo cam kết, ngay sau khi Hiệp định đối tác kinh tế Việt - Nhật (VJEPA) được ký kết, mức thuế xuất khẩu bình quân hiện hành của hàng hoá Việt Nam vào thị trường Nhật Bản sẽ từ 5,05% giảm xuống còn 2,8% vào năm 2018. Đặc biệt, theo cam kết mở cửa thị trường với Việt Nam, Nhật Bản sẽ cắt giảm 92% các dòng thuế, trong đó có hàng nghìn dòng thuế ngay lập tức sẽ giảm xuống còn 0%. Về phía Việt Nam, mức thuế bình quân MFN là trên 14%, chúng ta sẽ phải giảm xuống còn 7% vào năm 2018. Dù mức giảm thuế cuối cùng của Nhật Bản thấp hơn của Việt Nam, nhưng mức thuế của Việt Nam sẽ giảm nhanh hơn rất nhiều so với đối tác. Hiện Việt Nam đang đi những bước cuối cùng trong tiến trình đàm phán với Nhật Bản để tiến tới ký kết Hiệp định mậu dịch tự do song phương. Hai bên đang cố gắng kết thúc đàm phán trước khi kết thúc năm 2008. - Chính phủ Việt Nam cần xây dựng một chiến lược sản phẩm phù hợp và lựa chọn hình thức thâm nhập hiệu quả để tăng cường kim ngạch xuất khẩu sang Nhật Bản, trên cơ sở tăng tỷ trọng sản phẩm đã qua chế biến sâu, giảm tỷ trọng sản phẩm thô hoặc sơ chế. Các nước ASEAN 6 gồm Thái Lan, Xingapo, Philíppin, Inđônêxia và Brunây kê ra 20 mặt hàng có tỷ trọng xuất khẩu cao nhất thì mặt hàng linh kiện điện tử bán dẫn chiếm đến 17,9% trong tổng kim ngạch xuất khẩu, chiếm khoảng gần 5 tỷ USD. Ngoài ra là mặt hàng máy xử lý dữ liệu tự động đạt 39 tỷ USD, chiếm 7,5% tổng kim ngạch xuất khẩu, các chi tiết cho máy văn phòng đạt 28 tỷ USD, chiếm tỷ tọng 5,4%. Trong khi đó, Việt Nam năm 2007, mặt hàng linh kiện điện, điện tử chỉ đạt 2,1 tỷ USD. Một hướng khác là chính phủ Việt Nam cần đẩy mạnh ngành công nghiệp sáng tạo, như thiết kế thời trang. Hàng năm, Tập đoàn Dệt may Việt Nam vẫn tổ chức các cuộc thi dành cho các nhà thiết kế thời trang trẻ, tài năng và đã thu hút được đông đảo thí sinh tham gia. Nhiều nhà thiết kế đã thành danh trên con đường sự nghiệp, nhưng sự phát triển của ngành thiết kế thời trang Việt Nam vẫn chưa theo kịp với các nước trong khu vực. Nếu ngành công nghiệp sáng tạo của Việt Nam phát triển mạnh, các sản phẩm dệt may của Việt Nam sẽ có kiểu dáng riêng, hợp thẩm mỹ, và sẽ không còn tình trạng sao chép kiểu mẫu, nhãn mác của nước ngoài như hiện nay. Hàng dệt may Việt Nam cũng không còn chịu cảnh làm gia công, gắn mác của thương hiệu nổi tiếng mà sẽ có thương hiệu riêng đứng vững trên thị trường xuất khẩu Nhật Bản. Muốn vậy, chính phủ cần có chế độ khuyến khích và chính sách đầu tư để thúc đẩy ngành công nghiệp sáng tạo phát triển. - Chính phủ Việt Nam nên tổ chức các chương trình đào tạo chuyên sâu về thương mại cho các cán bộ lãnh đạo và chuyên viên thương mại của các công ty Việt Nam có tham gia vào mậu dịch quốc tế. Mục đích của đào tạo là nâng cao trình độ chuyên môn cho các cán bộ thương mại Việt Nam để họ có thể đưa ra được những quyết định sáng suốt, kịp thời và rút ngắn được thời gian dài không cần thiết của các cuộc thương lượng. - Chính phủ Việt Nam cần phải thành lập thêm hoặc củng cố hoạt động của các văn phòng xúc tiến thương mại của Chính phủ nhằm thúc đẩy hơn nữa khả năng xuất khẩu của Việt Nam. Bản thân các công ty kinh doanh XNK của Việt Nam ít chịu bỏ tiền hoặc không có khả năng bỏ tiền ra cho những chuyến đi nghiên cứu, thăm dò thị trường hay tổ chức các cuộc hội thảo ở nước ngoài để khuyếch trương sản phẩm của mình – những hoạt động mà các hãng nước ngoài đang thực hiện rầm rộ ở Việt Nam. Chính vì vậy, Việt Nam phải thành lập văn phòng xúc tiến thương mại của Chính phủ. Đây là việc làm cấp bách đối với Việt Nam trong tình hình hiện nay. Những văn phòng này sẽ đứng ra tổ chức và đài thọ phần kinh phí những chuyến đi nghiên cứu thăm dò thị trường cho doanh nghiệp Việt Nam và các tổ chức trưng bày sản phẩm của Việt Nam tại Nhật Bản. 3.2. Đối với các doanh nghiệp - Các doanh nghiệp Việt Nam cần lựa chọn chiến lược phù hợp để thâm nhập thị trường Nhật Bản như xuất khẩu, liên doanh và đầu tư trực tiếp. Trong đó, hình thức liên doanh rất thích hợp với các doanh nghiệp Việt Nam. Hình thức này không chỉ giúp cho sự gia tăng xuất khẩu sang Nhật mà còn sang các thị trường khác mà các công ty Nhật Bản đang có mặt. Ưu điểm của hình thức này thể hiện qua việc có được các thong tin và điều kiện về thị trường, có sự xuất hiện trên thị trường, công nghệ phát triển và có ngay được hệ thống các kênh phân phối và khách hàng. Các doanh nghiệp Việt Nam nên hiểu rằng các công ty thương mại lớn của Nhật Bản có một cơ sở vững vàng trong các mối quan hệ với khách hàng. Chính điều này sẽ có thể làm tăng lượng hàng tiêu thụ ngay lượt hàng đầu tiên, nhưng một khi thị trường đã được chia sẻ, đối tác Nhật Bản thường ít có lợi trong việc tìm kiếm khách hàng mới, trừ khi sản phẩm nhập khẩu có nhiều lợi thế cạnh tranh về mặt công nghệ và giá cả. - Các doanh nghiệp Việt Nam cần cố gắng thành lập văn phòng đại diện hoặc chi nhánh công ty tại Nhật để thúc đẩy hoạt động kinh doanh. Các nhà xuất khẩu muốn thu thập thông tin hoặc muốn tạo các điều kiện thuận lợi cho các công việc tiếp xúc với đối tác và khách hàng tại Nhật nên có văn phòng đại diện của mình. Bởi nó sẽ trở thành cầu nối để có thể thực hiện việc thu thập các cơ sở dữ liệu và các thông tin khác đồng thời cung cấp các hình thức xúc tiến và dịch vụ kỹ thuật cần thiết. Văn phòng đại diện không bị đánh thuế và cũng không cần phải có các thủ tục xin phép phức tạp. Tuy nhiên, văn phòng đại diện không được can thiệp vào các giao dịch thương mại thậm chí cũng không được thực hiện nhận đơn đặt hàng một cách trực tiếp. Nhưng văn phòng đại diện có thể cung cấp các hỗ trợ cần thiết cho các đại lý và thực hiện tất cả các hoạt động marketing trừ việc bán hàng. Ngược lại, chi nhánh công ty tại Nhật lại có thể thực hiện được tất cả các hoạt động thương mại, sản xuất, bán lẻ, cung cấp dịch vụ và các tác vụ kinh doanh khác. Như vậy, chi nhánh công ty có thể nhận các đơn đặt hàng và thực hiện được tất cả chương trình Marketing, trong đó bao gồm việc sắp xếp kế hoạch quảng cáo, tuyển mộ đội ngũ bán hàng và thực hiện tất cả các hoạt động tiếp thị cần thiết. Chi nhánh công ty là đối tượng bị đánh thuế tại Nhật. Nhà xuất khẩu phải bổ nhiệm một đại diện tại Nhật và phải đăng ký với Văn phòng luật thương mại của Bộ Tư pháp. Chi nhánh công ty cũng được xem như là một hình thức đầu tư trực tiếp vào Nhật theo Luật Ngoại thương của Nhật và phải báo cáo cho Bộ Tài chính thông qua Ngân hàng Trung Ương trong vòng 15 ngày sau khi thành lập chi nhánh. Ngoài ra, các doanh nghiệp Việt Nam cần tổ chức hoặc tham gia các cuộc triển lãm, hội chợ… để trưng bày và giới thiệu sản phẩm của mình trực tiếp tại Nhật Bản. Ví dụ như trong khuôn khổ triển lãm thương mại và du lịch Intex Festa tại thành phố Osaka, Đại sứ quán và Thương vụ Việt Nam tại Nhật cùng Vietnam Airlines đã khai trương lễ hội Việt Nam vào ngày 2/2/2006. Tham gia lễ hội có hơn 20 doanh nghiệp và nghệ nhân Việt Nam, trưng bày và giới thiệu các mặt hàng như thủ công mỹ nghệ, quà tặng, may mặc, gốm sứ, đồ gỗ… đã thu hút hàng nghìn khách tham quan và mua sắm tại các gian hàng Việt Nam trong buổi sáng khai mạc. Cũng nhân dịp này, Bộ Thương mại Việt Nam đã chính thức khai trương Thương vụ Việt Nam tại thành phố Osaka. - Các doanh nghiệp Việt Nam cần xây dựng một chiến lược hoạt động kinh doanh phù hợp với xu thế phát triển kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Muốn vậy, các doanh nghiệp Việt Nam cần đầu tư cho các mục tiêu dài hạn, mua sắm các trang thiết bị hiện đại, nâng cao năng lực sản xuất và quản lý nhằm thích ứng cao với nhu cầu phát triển kinh tế. Hiện tại có rất nhiều tập đoàn điện và điện tử lớn của Nhật đang hướng đầu tư vào các dự án trong lĩnh vực công nghệ cao và phần mềm ở Việt Nam. Có thể kể đến là dự án đầu tư sản xuất máy in laser ở Việt Nam của Canon với trị giá khoảng 50 triệu USD; nhà máy sản xuất máy ảnh kỹ thuật số và những mặt hàng có liên quan của Sanyo với vốn đầu tư 13 triệu USD tại Đồng Nai; nhà máy sản xuất đĩa thủy tinh ở khu công nghiệp Thăng Long Hà Nội nhằm đáp ứng nhu cầu đang gia tăng về ổ cứng máy tính xách tay và những ổ đĩa nhỏ hơn trong máy iPod của hãng Apple của tập đoàn Hoya với vốn đầu tư 45 triệu USD. Một trong những nguyện vọng của các tập đoàn Nhật Bản là có thể mua một số linh kiện, chi tiết, phụ kiện ngay tại Việt Nam, để họ có thể tiết kiệm được thời gian, chi phí vận chuyển và nhiều thứ khác, tức là họ có thể “nhập khẩu tại chỗ” những mặt hàng này để sản xuất hoạt động kinh doanh. Nhưng trên thực tế, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa thể đáp ứng nhu cầu đơn giản của các công ty Nhật Bản. Giám đốc Công ty TNHH Sumitomo Heavy Industries Việt Nam cho biết: "Nguyên tắc của Công ty là mua vật tư tại Việt Nam... Mong muốn của Công ty là có thể mua được tất cả các chi tiết tại Việt Nam"... và sự thật là không chỉ Sumitomo Heavy Industries Việt Nam mới có mong muốn ấy. Việt Nam bây giờ có không ít các khu chế xuất và khu công nghiệp, chỉ tính riêng KCN Bắc Thăng Long (Hà Nội) đã có 69 doanh nghiệp nước ngoài, nếu doanh nghiệp Việt Nam cung cấp được linh kiện, phụ kiện cho họ thì đó sẽ là nguồn tạo ra nhiều chỗ làm việc và mang về mối lợi kinh tế không nhỏ? Nhưng vì sao các doanh nghiệp Việt Nam lại hững hờ với mối lợi ấy? Lý giải cho tình trạng này là nhiều doanh nghiệp Việt Nam chưa có chiến lược kinh doanh dài hạn ổn định, khả năng học hỏi và thích ứng chưa cao, chưa nắm bắt được xu thế phát triển kinh tế, nguồn vốn hạn hẹp, công nghiệp phụ trợ của Việt Nam còn yếu kém… Do đó, để phát triển và mở rộng hoạt động kinh doanh tại thị trường nội địa cũng như vươn tới thị trường Nhật Bản trong tương lai, các doanh nghiệp Việt Nam cần xây dựng một chiến lược cạnh tranh phù hợp với tình hình phát triển kinh tế trên cơ sở học hỏi và tích lũy kinh nghiệm của các công ty lớn trên thế giới. Trước tiên, các doanh nghiệp Việt Nam có thể bắt đầu bằng việc xuất khẩu tại chỗ các thiết bị, nguyên liệu cho các công ty Nhật Bản tại Việt Nam rồi tiến tới xuất khẩu các mặt hàng này sang thị trường Nhật Bản. Đó là một hướng đi vững chắc đảm bảo cho quá trình phát triển dài hạn của công ty, vừa giảm thiểu được các chi phí vừa đạt được doanh thu ổn định, từng bước nâng cao năng lực cạnh tranh. Tránh để xẩy ra trường hợp đáng tiếc như một doanh nghiệp nước ngoài đặt mua đồng phục của một doanh nghiệp Việt Nam thì 3 đợt trả hàng mỗi đợt một màu khác nhau. - Các doanh nghiệp Việt Nam cần đầu tư chi phí để nghiên cứu thị trường, phong tục tập quán, văn hóa tiêu dùng của người Nhật. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp phải nắm bắt được thông tin, điều tra thị trường Nhật Bản. Hệ thống phân phối của thị trường Nhật Bản là một hệ thống phức tạp, nhiều tầng nấc, nhiều khâu trung gian nên khi hàng hóa đến được tay người tiêu dùng thì giá cả đã đội lên rất nhiều. Mặt khác, có sự kết cấu chặt chẽ giữa những người sản xuất và người phân phối tạo thành một hàng rào vô hình ngăn trở sự xâm nhập của hàng hóa nước ngoài vào Nhật Bản. Các nhà sản xuất Việt Nam đã quen với cách bán hàng thụ động chờ đợi các đơn đặt hàng và cung cấp những gì mà bạn hàng yêu cầu. Chính vì vậy hàng Việt Nam nhiều khi được bán dưới tên của một nhà phân phối hoặc công ty thương mại Việt Nam. Các công ty có ưu điểm là quan hệ rộng, nắm bắt kịp thời nhu cầu của thị trường nhưng nhược điểm là hàng hóa phải trải qua một kênh phân phối nhiều tầng, nhiều nấc và rốt cuộc giá bán của hàng hóa bị nâng lên. Điều này không phù hợp với các doanh nghiệp Việt Nam vì hàng Việt Nam không được coi là hàng cao cấp, cạnh tranh chủ yếu dựa vào giá thấp. Do đó, để đưa hàng hóa xâm nhập thành công thị trường Nhật Bản, việc hiểu rõ hệ thống phân phối hàng hóa của nước này sẽ giúp các doanh nghiệp Việt Nam rất nhiều. Để nắm bắt thông tin và hiểu biết sâu hơn về thị trường Nhật Bản, các doanh nghiệp cần có các cuộc tiếp xúc với các nhà kinh doanh hoặc các nhà thầu khoán đại lý của Nhật Bản. Điều này có thể thực hiện thông qua các cuộc triển lãm hoặc gặp gỡ trực tiếp. Các doanh nghiệp Việt Nam cũng cần có các bộ phận đảm trách hoặc phối hợp với các cơ quan chức năng của Nhật Bản trong việc hướng dẫn các tiêu chuẩn kỹ thuật, phẩm chất hàng hóa xuất khẩu sang Nhật Bản. Chẳng hạn, hiện có công ty OMIC, một trong những công ty lớn về kiểm tra chất lượng hàng nông sản của Nhật Bản đang có mặt tại Việt Nam để kiểm tra tiêu chuẩn, phẩm chất gạo xuất khẩu sang Nhật. Các doanh nghiệp Việt Nam cần tăng cường công tác điều tra nghiên cứu thị trường và thị hiếu khách hàng; chú trọng mở rộng quan hệ với các siêu thị và các nhà kinh doanh bán lẻ để thuận tiện hơn trong việc đưa hàng vào thị trường Nhật, đặc biệt là đối với các mặt hàng mới hoặc những mặt hàng hiện đang còn chiếm thị phần không đáng kể ở thị trường Nhật Bản. Để hạn chế rủi ro trong xuất khẩu, các doanh nghiệp Việt Nam cần am hiểu tốt các quy định pháp lý của Nhật Bản đối với hàng nhập khẩu để từ đó xuất khẩu hàng hóa vào thị trường này đúng thời điểm, tránh phải chịu đựng những mức thuế cao, tăng tính cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam. Theo Thương vụ Việt Nam tại Nhật Bản, người tiêu dùng Nhật rất chú ý đến chất lượng hàng hóa, bao gồm cả vấn đề vệ sinh, hình thức và dịch vụ hậu mãi. Những vết xước hàng hóa trong quá trình vận chuyển cũng có thể gây ảnh hưởng rất lớn đến quá trình tiêu thụ cả lô hàng và ảnh hưởng đến uy tín. Ngoài ra, người Nhật cũng rất nhạy cảm với giá tiêu dùng hàng ngày. Sau khủng hoảng kinh tế bong bong vào cuối những năm 90 của thế kỷ trước, người Nhật không chỉ quan tâm đến vấn đề chất lượng mà còn rất chú ý đến sự thay đổi giá cả. Người Nhật có thói quen mua hàng ít một, vì không gian nhà ở rất hẹp và cũng để phù hợp với mẫu mã mới ra đời. Bởi vậy, doanh nghiệp Việt Nam khi xâm nhập thị trường Nhật Bản nên làm những lô hàng nhỏ nhưng phong phú đa dạng về chủng loại, kiểu dáng. Để có thể nắm bắt được một cách đầy đủ nhu cầu thị trường cũng như thị hiếu tiêu dùng của người Nhật, các doanh nghiệp Việt Nam cần chú ý mở rộng các kênh thu thập thông tin, tìm cách tiếp cận càng gần càng tốt với hệ thống bán lẻ trên thị trường Nhật Bản để hàng hóa đến được với người tiêu dùng một nhanh chóng mà không cần qua các đại lý bán buôn, các chợ bán buôn hay các công ty thương mại tổng hợp. Để làm được điều này, thông tin về bạn hàng là vô cùng quan trọng. Ngoài các phương tiện truyền thông như sách báo, thông tin trên mạng, thông tin từ các cơ quan, văn phòng thương mại hoặc văn phòng đại diện của Việt Nam tại Nhật Bản, để tìm kiếm thông tin về bạn hàng, các doanh nghiệp cần tham gia các hội chợ triển lãm quốc tế, đặc biệt là các hội chợ được tổ chức tại Nhật Bản. Điều này giúp cho các doanh nghiệp có dịp tiếp xúc trực tiếp với bạn hàng, với những khách hàng tiềm năng; đồng thời, thông qua các hội chợ này, doanh nghiệp có thể ký được các hợp đồng bán hàng một cách nhanh chóng và tiện lợi. Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng có thể học hỏi kinh nghiệm cũng như thu thập thông tin về sản phẩm cũng như các biện pháp marketing của doanh nghiệp đang chiếm lĩnh thị trường Nhật Bản để trên cơ sở đó đề ra những chiến lược cạnh tranh có hiệu quả. - Các doanh nghiệp Việt Nam cần tích cực nghiên cứu cải tiến mẫu mã, bao bì, nâng cao chất lượng và đa dạng hoá sản phẩm xuất khẩu để thích ứng với nhu cầu ngày càng tăng và đa dạng của thị trường Nhật Bản. Ví dụ về cải tiến mẫu mã, doanh nghiệp cần đầu tư công sức và tiền bạc để nghiên cứu thị hiếu của người tiêu dùng Nhật Bản. Sau khi nắm được thông tin về thị hiếu của người tiêu dùng Nhật cần có một đội ngũ thiết kế chuyên nghiệp, được đào tạo bài bản, có trình độ chuyên môn cao. Có như vậy, những sản phẩm gỗ, hàng dệt may, thủ công mỹ nghệ, đồ gốm sứ…. được sản xuất ra mới có mẫu mã đẹp, phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng Nhật Bản. Ví dụ, đối với các sản phẩm gỗ, người tiêu dùng Nhật Bản đang thích các sản phẩm gỗ công nghiệp được làm giống tự nhiên. Một lớp phủ lên sản phẩm gỗ trong có vẻ giống như thật, gần gũi với thiên nhiên là sự lựa chọn của một nhóm người tiêu dùng Nhật, khác hẳn với gỗ “hàng thật” trước đây. Nếu chúng ta làm những sản phẩm “giả tạo” này còn có lợi về mặt giá thành cho các doanh nghiệp chế biến đồ gỗ. Trong buôn bán, giá cả có thể là quan trọng nhưng tại thị trường Nhật Bản thì chất lượng hàng hóa lại là yếu tố được coi trọng hàng đầu. Trong những năm vừa qua, các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam đã có nhiều cố gắng trong việc cải thiện chất lượng hàng hóa bằng cách cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng đầu vào, cải tiến mẫu mã, bao bì… Tuy nghiên, nhìn chung chất lượng hàng xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa đồng đều, đặc biệt là thua kém các nước khác về bao bì đóng gói, thông tin trên bao bì cũng như kỹ thuật bảo quản còn đơn điệu, mẫu mã kém hấp dẫn… Đặc biệt là khâu kiểm tra chất lượng sản phẩm trước khi xuất hàng sang thị trường các nước còn làm chưa nghiêm. Máy móc thiết bị kiểm tra lạc hậu, cán bộ kiểm tra còn thiếu kinh nghiệm, đôi khi xuê xoa buông lỏng… Đây là một trong những nguyên nhân khiến cho nhiều lô hàng của Việt Nam với chất lượng không đảm bảo vẫn được xuất sang Nhật Bản và bị trả về vừa tốn kém vừa làm giảm uy tín của hàng Việt Nam tại thị trường Nhật. Một vấn đề quan trọng nữa là các doanh nghiệp Việt Nam phải biết quan tâm và bảo vệ thương hiệu của mình. Đã có rất nhiều trường hợp các doanh nghiệp nước ta bị mất thương hiệu ở nước ngoài do không đăng ký như: bánh phồng tôm Sa Giang, kẹo dừa Bến Tre, cà phê Trung Nguyên, PetroVietnam, thuốc lá Vinataba… Mất nhãn hiệu không chỉ là mất đi thị trường, mất bạn hàng, mất thương hiệu mà sẽ thiệt hại, tốn kém rất lớn cho các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam cần phải vượt qua nhiều thử thách về sự khác biệt ngôn ngữ, về chi phí vận chuyển và các vấn đề khác khi tiếp thị tới khách hàng Nhật Bản. Muốn thâm nhập vào thị trường Nhật Bản bằng phương thức này, các nhà xuất khẩu phải chuẩn bị các nguồn lực cần thiết để đầu tư cho dịch vụ chủ yếu liên quan đến cơ sở hạ tầng cho Marketing trực tiếp. KẾT LUẬN Quan hệ thương mại Việt Nam – Nhật Bản đã có lịch sử lâu dài, song chỉ thực sự phát triển mạnh mẽ nhất kể từ đầu thập kỷ 90 đến nay. Trong suốt thời gian đó, quan hệ thương mại song phương đã có bước phát triển mạnh mẽ và luôn đóng vai trò quan trọng hàng đầu trong các quan hệ kinh tế của Việt Nam với Nhật Bản. Sự gia tăng quan hệ thương mại Việt Nam – Nhật Bản trong những năm qua có nhiều lý do, song suy cho cùng là xuất phát từ lợi ích kinh tế cũng như chính trị của cả hai bên. Đối với Việt Nam, mở cửa buôn bán với Nhật Bản không chỉ nhằm phát huy lợi thế nguồn hàng của mình, mở rộng thị trường mới mà còn là tiếp nhận hàng hóa và kỹ thuật nhằm bảo đảm nhu cầu sinh hoạt và phát triển sản xuất của Việt Nam, qua đó mở rộng ảnh hưởng và uy tín của Việt Nam trong khu vực. Đối với Nhật Bản xâm nhập thị trường Việt Nam có nhiều lợi ích do sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế, do Việt Nam là thị trường khá đông dân, nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, giá nhân công thấp và nhiều tiềm năng khác chưa được khai thác. Đặc biệt, xâm nhập thị trường Việt Nam qua thương mại còn tạo điều kiện cho FDI của Nhật Bản vào Việt Nam. Thông qua những quan hệ này Nhật Bản muốn mở rộng và chứng tỏ vai trò quan trọng của mình trong khu vực, muốn thay đổi hình ảnh của mình trong quá khữ, khẳng định vai trò không chỉ là cường quốc kinh tế mà còn là cường quốc chính trị trong khu vực và trên thế giới. Khi phân tích quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản ta thấy nổi lên một số đặc điểm đáng chú ý sau: Thứ nhất là trong hoạt động mậu dịch với Nhật Bản, trong nhiều năm liên tục Việt Nam luôn ở trong tình trạng xuất siêu. Xuất siêu ở đây không phản ánh thế mạnh trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam. Thặng dư trong buôn bán với Nhật là do sách lược trong nhập khẩu hàng hóa, chúng ta thường xuất sang Nhật sau đó mua hàng hóa cần thiết đồng loại của Nhật ở nước thứ ba với giá có phần mềm hơn. Trong xuất khẩu chúng ta chưa tạo ra được nguồn hàng chủ lực có tính dài hạn. Phần lớn chỉ tìm kiếm cái có sẵn (không phải nhiều) để xuất khẩu. Vì vậy vấn đề đặt ra trong giai đoạn trước mắt là phải xây dựng được một chiến lược về sản phẩm xuất khẩu nói chung, đối với từng thị trường, trong đó có Nhật Bản nói riêng. Đây là một vấn đề lớn đối với Việt Nam. Để giải quyết cần phải đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang hướng mạnh vào xuất khẩu, Nhà nước cần có chính sách nuôi dưỡng các ngành kinh tế tạo nguồn hàng xuất khẩu, nâng cao năng lực cạnh tranh qua hiện đại hóa .v.v… Thứ hai là tuy kim ngạch thương mại song phương Việt – Nhật có sự gia tăng mạnh trong những năm gần đây, nhưng cần thấy với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng năm khoảng trên dưới 10 tỷ USD là khá nhỏ so với quan hệ thương mại của Nhật Bản với các quốc gia khác. Cho dù con số này có đạt mục tiêu đề ra là 15 tỷ USD vào năm 2010 thì đây vẫn còn là một con số khiêm tốn. Tỷ trọng thương mại Nhật – Việt chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong tổng kim ngạch ngoại thương của Nhật Bản với cả thế giới. Nhưng tỷ trọng thương mại Việt – Nhật chiếm tới gần 1/5 tổng kim ngạch ngoại thương của Việt Nam với cả thế giới. Qua đây, có thể thấy rõ một điều là thị trường Nhật Bản có tầm quan trọng rất lớn đối với ngoại thương của Việt Nam, song ngược lại thị trường Việt Nam, xét trên phương diện kinh tế chưa có sức nặng đối với hoạt động ngoại thương của Nhật Bản. Thứ ba là cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam trong những năm gần đây đã có sự cải thiện, các mặt hàng qua chế biến tăng thêm, các hàng chưa qua chế biến có giảm. Sự thay đổi cơ cấu này diễn ra trong xu thế gia tăng của tổng kim ngạch xuất khẩu sang Nhật Bản là điều rất đáng mừng. Tuy nhiên, cần thất là các mặt hàng của Việt Nam chủ yếu vẫn là khoáng sản, sản phẩm của nông – ngư nghiệp và các sản phẩm công nghiệp nhẹ, thủ công nghiệp đòi hỏi nhiều lao động và tài nguyên, ít chất xám. Ngược lại các sản phẩm nhập khẩu từ Nhật Bản là những mặt hàng chế tạo có hàm lượng chất xám cao. Điều này đẩy chúng ta vào thế bất lợi của giá cánh kéo và nó cũng nói lên rằng việc xuất siêu như trên đã đề cập càng không phải là điều hoàn toàn tốt mà chính là việc cực chẳng đã của những quốc gia còn kém phát triển phải khai thác bán rẻ tài nguyên và lao động của mình. Rõ ràng là đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa để khắc phục dần cơ cấu ngoại thương như trên là rất cần thiết không chỉ với ngành thương mại mà đối với cả tiến trình phát triển kinh tế của Việt Nam hiện nay. Thứ tư, để khắc phục những hạn chế bất cập nhằm đưa quan hệ thương mại giữa hai nước phát triển hơn nữa góp phần đắc lực vào việc thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập khu vực và quốc tế của Việt Nam, chúng ta cần nghiêm túc nhìn nhận đánh giá những thành công cũng như tìm ra nguyên nhân thực sự của những hạn chế để có những biện pháp chính sách thích hợp cả ở tầm vĩ mô lẫn vi mô. Hy vọng rằng một số giải pháp chủ yếu đã được đề cập đến trong luận văn này sẽ là những tham khảo hữu ích cho các cơ quan hoạch định chính sách của Chính phủ cũng như các doanh nghiệp trong quan hệ thương mại với Nhật Bản nói riêng và quan hệ kinh tế Việt Nam – Nhật Bản nói chung. Thứ năm, triển vọng của quan hệ thương mại Việt Nam – Nhật Bản là rất sáng sủa. Điều này hoàn toàn có cơ sở từ thực tiễn phát triển quan hệ thương mại giữa hai nước nói riêng và quan hệ Việt Nam – Nhật Bản nói chung; và những cơ hội được tạo ra từ tiến trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực đã và đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay và trong những năm sắp tới. MỤC LỤC Lời mở đầu Danh mục các từ viết tắt Danh mục tài liệu tham khảo Mục lục CHƯƠNG 1. SỰ CẦN THIẾT PHẢI TĂNG CƯỜNG QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM – NHẬT BẢN 1.1. Một số vấn đề lý luận chung về thương mại…………………..…….…...…..1 Khái niệm về thương mại……………………………………....………...1 Nhân tố tác động đến quan hệ thương mại song phương…….……….…....1 1.2. Những đặc điểm chủ yếu về điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội của Việt Nam – Nhật Bản…………………………………………………………………..2 1.2.1. Điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội và chính sách đối ngoại của Việt Nam…………………………………………...…………..…….……….………..2 1.2.2. Điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội và chính sách đối ngoại của Nhật Bản………………………………………………………..……….……..………..7 1.2.3. Nhận xét chung về lợi thế so sánh phát triển quan hệ thương mại Việt Nam – Nhật Bản…………………………………………….………………..…..……17 1.3. Tính cấp thiết phát triển quan hệ thương mại Việt Nam – Nhật Bản…………………………………………………………………..……….…..18 CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM – NHẬT BẢN TỪ NĂM 1990 ĐẾN NĂM 2008 2.1. Những thành tựu chủ yếu của quan hệ thương mại Việt Nam – Nhật Bản…………………………………………………………………..…….……..22 2.1.1. Sự tăng trưởng của thương mại hai chiều…………………………..….….22 2.1.1.1. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản……………..….….26 2.1.1.2. Kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Nhật Bản………….………......28 2.1.2 Sự cải thiện của cán cân thương mại……………………………….……...31 2.1.3 Sự phát triển của một số mặt hàng xuất nhập khẩu chủ lực…………...…..34 2.1.3.1. Một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việ Nam sang Nhật Bản…......34 2.1.3.2. Một số mặt hàng nhập khẩu chủ yếu củaViệt Nam từ Nhật Bản…….....46 2.2. Một số hạn chế bất cập của quan hệ thương mại Việt Nam Nhật Bản……...49 2.2.1. Sự phát triển của quan hệ thương mại Việt Nam – Nhật Bản chưa thực sự tương xứng với tiềm năng của mỗi nước…………………................………..….49 2.2.2. Cơ cấu hàng hóa xuất nhập khẩu còn nghèo nàn, chậm được cải thiện………………………………………………………………..……….……53 CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM – NHẬT BẢN 3.1. Đối với chính phủ………………………………………………..…….……57 3.2. Đối với các doanh nghiệp………………………………………..…….……60 KẾT LUẬN LỜI CẢM ƠN DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT GATT (WTO): Tổ chức thương mại thế giới IMF: Quỹ tiền tệ quốc tế WB: Ngân hàng thế giới EU: Liên minh Châu Âu GDP: Tổng thu nhập quốc nội FDI: Đầu tư trực tiếp nước ngoài ODA: Viện trợ chính thức ASEAN: Hiệp hội các nước Đông Nam Á AFTA: Khu vực mậu dịch tự do các nước Đông Nam Á CEPT: Thuế suất ưu đãi đặc biệt APEC: Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương ASEM: Diễn đàn Hợp tác Á – Âu FTA: Khu vực mậu dịch tự do G7: Nhóm bẩy quốc gia phát triển trên thế giới R&D: Nghiên cứu và triển khai IAEA: Tổ chức năng lượng nguyên tử quốc tế JBIC: Ngân hàng Hợp tác Quốc tế Nhật Bản EPA: Hiệp định đối tác kinh tế VJEPA: Hiệp định đối tác kinh tế song phương Việt-Nhật DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 1.1 : Thống kê xuất khẩu của Nhật Bản sang các nước ASIAN……………...14 Bảng 2.1: Tổng kim ngạch xuất – nhập khẩu của Việt Nam với Nhật Bản…… ...…...23 Bảng 2.2. Thương mại của Việt Nam với một số nước chủ yếu………………...........25 BẢNG 2.3:Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu Việt – Nhật so với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của hai nước…………………………………………………………….….26 Bảng 2.4: Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản…………………….…27 BẢNG 2.5: Các mặt hàng xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản năm 2006…………...28 BẢNG 2.6 :Kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Nhật Bản…………………….....29 BẢNG 2.7 :Các mặt hàng nhập khẩu từ thị trường Nhật Bản năm 2006…...……...…30 BẢNG 2.8 :Cán cân thương mại Việt – Nhật của Việt Nam…………………….……33 Bảng 2.9: So sánh chi phí và thời gian giao hàng giữa Trung Quốc và Việt Nam…....37 Bảng 2.10: Thị phần xuất khẩu thủy sản của Việt Nam (%)………………………….38 Bảng 2.11:Kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ mã HS 9403 của Việt Nam sang Nhật Bản…………………………………………………...………………………………..42 Bảng 2.12: Một số bạn hàng chủ yếu của Nhật Bản…………………………….…….50 BẢNG 2.13 : Kim ngạch xuất khẩu sang Nhật trong tổng xuất khẩu của Việt Nam và tổng nhập khẩu của Nhật Bản…………………………...……………………….……51 BẢNG 2.14 : Kim ngạch nhập khẩu từ Nhật Bản trong tổng nhập khẩu của Việt Nam và tổng xuất khẩu của Nhật Bản…………………………………………...……..……53 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Thanh Bình (2006), “Một số nét trong quan hệ ngoại thương Nhật Bản – Hàn Quốc”, Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản & Đông Bắc Á, (1), tr. 10 – 14. 2. Phan Trung Chính (2008), “Thu hút đầu tư của Nhật Bản vào nước ta và giải pháp phát triển công nghiệp phụ trợ”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, (4), tr. 37 – 39. 3. Nguyễn Duy Dũng (1995), “Thực trạng và triển vọng quan hệ kinh tế Việt Nam – Nhật Bản”, Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản, (1), tr. 20 -22. 4. Nguyễn Thanh Đức (2004), “Nhật Bản - Thị trường mở cho xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản & Đông Bắc Á, (5), tr 73 -77. 5. Vũ Văn Hà (2000), “Quan hệ kinh tế Việt Nam - Nhật Bản những năm gần đây”, Tạp chí nghiên cứu Nhật Bản, (1), tr 35 - 36. 6. Phùng Thị Vân Kiều (1999), “Quan hệ kinh tế Việt Nam - Nhật Bản những năm gần đây”, Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản, (3), tr. 25 - 31. 7. Tống Thùy Linh (2006), “Triển vọng của thị trường đồ gỗ Việt Nam tại Nhật Bản”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, (5), tr. 27 – 35. 8. Hoàng Xuân Long (2002), “Bí quyết thành công trong sự bắt chước công nghệ của Nhật Bản”, Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản & Đông Bắc Á, (2), tr. 15. 9. Nguyễn Tiến Lực (2003), “Việt Nam trong lịch sử quan hệ thương mại Nhật Bản – Đông Nam Á”, Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản & Đông Bắc Á, (4), tr. 22–23. 10. Trần Quang Minh (2007), “Quan hệ Nhật Bản – ASEAN trong bối cảnh hội nhập châu Á”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, (9), tr. 6 – 9. 11. Trần Quang Minh (2005), “Quan hệ thương mại Việt Nam – Nhật Bản: Thành tựu, vấn đề và giải pháp”, Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản & Đông Bắc Á, (5), tr. 3 – 11. 12. Kim Ngọc – Nguyễn Ngọc Mạnh (2003), “Hợp tác Nhật Bản – ASEAN những thập kỷ đầu thế kỷ 21”, Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản & Đông Bắc Á, (3), tr. 61 – 67. 13. Nguyễn Thị Nhiễu (chủ nhiệm) (2004), Giải pháp chủ yếu nhằm phát triển xuất khẩu nông, thuỷ sản và hàng thủ công mỹ nghệ sang thị trường Nhật Bản, Viện Nghiên cứu Thương mại, Hà Nội. 14. Nipponia Tìm hiểu Nhật Bản (2004), (31), Heibosha, Nhật Bản, tr. 14 – 15. 15. Tổng Cục Thống Kê (2006), Xuất nhập khẩu hàng hóa Việt Nam 20 năm đổi mới, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội. 16. Lưu Ngọc Trịnh (2008), “35 năm quan hệ kinh tế Việt Nam – Nhật Bản: Một chặng đường phát triển”, Tạp chí nghiên cứu Đông Bắc Á, (8), tr.11 – 16. 17. Trung tâm Nghiên cứu Nhật Bản (2004), Quan hệ kinh tế Việt Nam – Nhật Bản trong bối cảnh quốc tế mới, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội. 18. Trung tâm Nghiên cứu Nhật Bản (2005), Quan hệ Việt Nam – Nhật Bản: Quá khứ, hiện tại và tương lai, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội. 19. Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á (2008), Quan hệ Việt Nam – Nhật Bản trong bối cảnh hội nhập Đông Á, Hà Nội. LỜI CẢM ƠN Lời đầu tiên em xin chân thành cảm ơn TS Trần Quang Minh - Viện phó Viện Ngiên cứu Đông Bắc Á, TH.S Đặng Thị Tuyết Dung - người hướng dẫn trực tiếp và toàn thể cán bộ trong Viện đã tạo điều kiện thuận lợi và nhiệt tình giúp đỡ em trong suốt quá trình thực tập nghiên cứu tại Viện. Nhờ có sự giúp đỡ này em đã hoàn thành tốt khóa luận thực tập tốt nghiệp tại Viện đồng thời em đã học hỏi được nhiều kiến thức bổ ích trong suốt quá trình thực tập tại Viện mà em chưa được thực hành trong môi trường học tập tại trường. Có thể nói đây là những kiến thức vô cùng quý giá đối với em trước khi rời ghế nhà trường để hòa nhập vào môi trường làm việc mới. Em cũng xin cám ơn TH.S Nguyễn Quỳnh Hoa - giáo viên hướng dẫn em trong suốt quá trình thực tập tốt nghiệp. Cô đã tận tình giúp đỡ, định hướng và chỉnh sửa bài chuyên đề thực tập tốt nghiệp vừa qua để em có thể hoàn thành tốt khóa luận tốt nghiệp. Em cũng gửi lời cám ơn đến Ban Giám Hiệu Trường Đại học KTQD đã tổ chức đợt thực tập tốt nghiệp này giúp chúng em có điều kiện để thực hành những kiến thức được học trong trường vào thực tế để sau này khi ra trường đi công tác tại các tổ chức, cơ quan nhà nước, doanh nghiệp…không bị bỡ ngỡ, có thể đáp ứng tốt với công việc được giao. Một lần nữa em xin chân thành cám ơn ! ( Ký tên ) tien Đặng Anh Tiến XÁC NHẬN CỦA CƠ QUAN THỰC TẬP ……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………….... CÁN BỘ XÁC NHẬN (Ký và đóng dấu)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21472.doc
Tài liệu liên quan