Chuyên đề Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo và phát triển đội ngũ cán bộ, viên chức trường Trung học nghiệp vụ quản lý lương thực thực phẩm

Kể từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) nền kinh tế nước ta chuyển từ tập trung quan liêu bao cấp sang vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự nghiệp đã gặt hái được một số thành công đặc biệt là nước ta ngày càng hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới được đánh dấu bằng việc Việt Nam là thành viên của nhiều tổ chức khu vực và trên thế giới như: ASEAN, AFTA, APEC, và đặc biệt Việt Nam đó gia nhập tổ chức thương mại lớn nhất toàn cầu WTO. Muốn hội nhập thành công thì không còn cách nào khác là nước ta phải không ngừng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để có thể cạnh tranh được trên thị trường lao động toàn cầu. Đây là một nhiệm vụ hết sức to lớn của nền giáo dục nước nhà nói chung và trường trung học nghiệp vụ quản lý lương thực thực phẩm nói riêng. Muốn làm được điều này thì đội ngũ cán bộ, viên chức của trường phải không ngừng hoàn thiện chuyên môn thông qua việc đào tạo và bồi dưỡng.

doc60 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1686 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo và phát triển đội ngũ cán bộ, viên chức trường Trung học nghiệp vụ quản lý lương thực thực phẩm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hạc Sỹ Nhà giáo ưu tú Giảng viên Số lượng % Số lượng % Số lượng % 1. Dưới 30 0 0.00 0 0.00 21 14% 2. Từ 30 - 45 1 18% 0 0.00 32 21% 3. Từ 45 - 60 5 82% 2 100% 98 65% Tổng số 6 100% 2 100% 151 100 Nhìn vào bảng trên ta thấy số lượng giảng viên có trình độ đại học chiếm đa số còn số lượng thạc sỹ và nhà giáo ưu tú chiếm thiểu số. Đây là một vấn đề mà nhà trườn quan tâm. Trường trung học nghiệp vụ quản lý lương thực thực phẩm đang từng bướ nâng cao chất lượng giảng dạy của giáo viên bằng cách cử đi học tại các trường Đại học trong nước và mục tiêu trong năm tới là sẽ có học vị tiến Sỹ giảng dạy trong trường. b. Cán bộ thuê từ các trường trong ngành lương thực thực phẩm. Đây là lực lượng cán bộ chiếm tỷ số. Công việc chính của lực lượng này không phải là giảng dạy mà là cố vấn và bồi dưỡng cán bộ giảng viên trong trường. 4.2. Đặc điẻm cơ bản của đội ngũ cán bộ viên chức trường trung học nghiệp vụ quản lý lương thực thực phẩm . 4.2.1 Về chuyên môn Do được thành lập chưa lâu nên quy mô sinh viên và đội ngũ cán bộ vẫn còn khiêm tốn. Tính đến hết năm 2008 số cán bộ giảng viên của trường là 160 người trong tổng số cán bộ viên chức 206 người chiếm 68% số cán bộ quản lý nghiệp vụ và phục vụ là 32%. Biểu đồ về cơ cấu cán bộ, viên chức của trường 2008 Như vậy số cán bộ, viên chức gián tiếp của trường cũng khá cao, đây là một thách thức vốn đối với trường trong việc nâng cao hiệu quả làm việc của cán bộ quản lý, phục vụ mà mục tiêu của bất kỳ một tổ chức nào cũng hướng tới đó là ngày càng giảm tỷ trọng lao động gián tiếp nâng dần tỷ lệ lao động trực tiếp. Biểu dồ về cơ cấu chuyên môn của cán bộ viên chức Trong toàn bộ cán bộ, viên chức của trương có thể nói rằng đội ngũ giáo viên, giảng viên là đội ngũ có ảnh hưởng quyết định đến chất lượng giảng dạy của trường nên yêu cầu về chuyên môn đối với họ là quan trọn. Cơ cấu giảng viên trường trung học nghiệp vụ lương thực thực phẩm học kỳ I năm 2007 - 2008 I Chỉ tiêu Tổng số % So với tổng GV chia theo trình độ chuyên môn Thạc Sỹ NGƯT ĐH, CĐ Khác Tổng số 151 1. Khoa kinh tế 81 52% 2 1 73 5 2. Khoa công nghệ 42 23% 2 1 36 3 3. tổ môn tin học 15 15% 0 0 15 0 4. Tổ môn tin học Trong số 151 giảng viên trong trường thì số giảng viên biên chế là 125 giảng viên đây là một thuận lợi lớn bởi khi giáo viên đã được biên chế thì họ sẽ yên tâm công tác hơn và chủ tâm vào công tác bồi dưỡng chuyên môn của mình. 4.2.2. Về ngoại ngữ tin học Trong nền kinh tế mơí hiện nay thì ngoại ngữ tin học là những nền tảng cơ bản để một đất nước có thể hội nhập và đổi mới. Trong thời gian vừa qua tuy học nghiệp vụ giản lượng thực hiện thực phẩm đã tổ chức nhiều lớp bồi dưỡng lương thực thực phẩm đã tổ chức nhiều lớp bồi dưỡng về ngoại ngữ tin học cho cán bộ quản lý góp phần trang bị cho cán bọ viên chức những kiến thức và kỹ năng cần thiết để phục vụ cho công tác giảng dạy và nghiên cứu khoa học đặc biệt là đội ngũ cán bộ thì có hơn 40% tổng số giảng viên có chứng chỉ tin học văn phòng và tuy phần lớn ở lớp trẻ hơn nữa số lượng máy tính tại trường còn hạn chế chưa đáp ứng được hết yêu cầu khai thác thông tin cho cán bộ viên chức trong trường xét về độ tuổi thì số lượng cán bộ viên chức và giảng viên có độ tuổi dưới 30 có khả năng sử dụng sốt tin học và ngoại ngữ trong công tác nghiên cứu và giảng dạy. Do khiêm tốt về tình hình độ ngoại ngữ, tin học vì vậy ảnh hưởng tới việc áp dụng các phương pháp giảng dạy mới diễn tới chất lượng và hiệu quả trong công tác giảng dạy vẫn còn hạn chế. II. PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG CÔNG TÁC ĐÀO TẠO VÀ PHÁT TRIỂN CÁN BỘ, VIÊN CHỨC TRƯỜNG TRUNG HỌC NGHIỆP VỤ QUẢN LÝ LƯƠNG THỰC THỰC PHẨM. 1. Xác định nhu cầu đào tạo đội ngũ cán bộ, viên chức trường học nghiệp vụ quản lý lương thực thực phẩm. Đối với các chươg trình đào tạo do trường trung học nghiệp vụ quản lý lương thực thực phẩm đứng ra tổ chức hoặc ký kết hợp đồng với các trường trong nước phòng tổ chức cán bộ dựa vào yêu cầu thực tế của nhà trường mà đưa ra chương trình đào tạo cho phù hợp. Chẳng hạn trong năm gần đây do áp lực của quá trình toàn cầu hóa trên mọi lĩnh vực, mọi phương diện trong đó có cả lĩnh vực giáo dục và đào tạo. Trước xu thế hội nhập đó muốn thành công ngoài trình độ chuyên môn giỏi thì vấn đề sử dụng ngoại ngữ tin học là hết sức cần thiết. Xuất phát từ nhu cầu này mà phòng tổ chức cán bộ tham mưu cho bán giám hiệu trường trong việc xây dựng các lớp học giúp đào tạo bồi dưỡng cho lực lượng cán bộ viên chức trường trung học nghiệp vụ quản lý lương thực thực phẩm. Khi đã có chương trình đào tạo phù hợp thì phòng tổ chức cán bộ thông báo rằng văn bản chương trình đào tạo cho tất cả các đơn vị trực thuộc trường trung học nghiệp vụ quản lý lương thực thực phẩm cũng như cho các cá nhân trong trường được biết. Các cá nhân sau khi nhận thông báo sẽ cân đối về thời gian, tài chính, về sự cần thiết của lĩnh vực đào tạo mà quyết định có tham gia đào tạo. Nếu có nguyện vọng đào tạo phải viết đơn xin được đi đào tạo gửi cho trường không qua phòng tổ chức cán bộ sau khi có ý kiến của thủ trưởng đơn vị. Đối với chương trình đào tạo này thì trường có thể chủ động được số lượng đầu vào. Trong một số năm gần đây thì trường trung học nghiệp vụ quản lý lương thực thực phẩm đã và đang liên kết với một số trường và các tổ chức trong nước cụ thể là tại Hải Phòng thì trường liên kết và đào tạo với các trung tâm dạy nghề và giáo dục thường xuyên thuộc các quận huyện của thành phố từ đó nâng cao được chất lượng cũng như năng lực làm việc cứu sinh viên sau khi ra trường phục vụ cho công cuộc phát triển và từng bước đổi mới của thành phố Hải phòng ngoài ra trường còn kết hợp đào tạo với các trường khác như trung tâm giáo dục thường xuyên thuộc tỉnh Hà Tĩnh. Trường trung học kỹ thuật tỉnh Sơn La… Để phát triển đội ngũ cán bộ viên chức trong trường thì trường trung học nghiệp vụ quản lý lương thực thực phẩm còn liên kết với một số trường Đại học như đại học Nông nghiệp I từ đó từng bước nâng cao chất lượng giảng dạy cho cán bộ vùng nhân viên và giảng viên trong trường dạy cho cán bộ công nhân viên và giảng viên trong trường. Tình hình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, viên chức Đào tạo Đào tạo Tổng Cao học Thực tập Sản lượng % SL % 2004 - 2005 19 12 21,43 7 18,42 2005 - 2006 26 15 26,79 11 28,95 2006 - 2007 26 18 32,14 8 21,05 2007 - 2008 23 11 19,64 12 31,58 Trường trung học nghiệp vụ quản lý lương thực thực phẩm luôn chủ động tranh thủ mọi sự giúp đỡ của các trường trong nứơc đặc biệt là trường Đại học nông nghiệp I, đại học nông lâm Thái Nguyên để từng bước nâng cao chất lượng đội ngũ công nhân viên chức trong tường. 2. Xem xét yêu cầu đào tạo và phát triển cán bộ, viên chức trường trung học nghiệp vụ quản lý lương thực thực phẩm việc xem xét yêu cầu đào tạo là việc làm thường xuyên và việc xem xét yêu cầu đào tạo là việc làm thường xuyên và rất cần thiết bởi vì không phải cứ có chương trình đào tạo là ai cũng có thể đi đào tạo hoặc có tài trợ của các tổ chức là cho cán bộ viên chức đi đào tạo được mà phải căn cứ vào quy hoạch, kế hoạch phát triển và bố trí sử dụng cán bộ của từng: Thứ nhất: Căn cứ vào quy hoạch, kế hoạch phát triển của trường cũng như của tất cả các trường trung học và cao đẳng trên cả nước thì hàng năm bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ giao chỉ tiêu cho trường. Dựa vào quy hoạch và số lượng sinh viên trung và dài hạn để đưa ra kế hoạch và đội ngũ cán bộ, viên chức trong trường. Dựa vào quy hoạch và số lượng sinh viên trung và dài hạn để đưa ra kế hoạch và đội ngũ cán bộ, viên chức trong trường. Trong năm 2006 - 2007 thì tỷ lệ sinh viên giáo viên trong trường là 50,2 sinh viên giáo viên. Đây là một tỷ lệ khá cao, gấp khoảng 2 lần so với tỷ lệ chuẩn do đó không thể đưa quá những cán bộ, viên chức đó đào tạo hoặc vẫn cho đi đào tạo nhưng phải đảm bảo giờ giảng dạy, công tác (đi học ngoài giờ hành chính, đi học vào các ngày nghỉ, nhờ người dạy thay). Do vậy quy hoạch về sinh viên của trường có tác động rất lớn đến việc xem các yêu cầu đào tạo của cán bộ viên chức trường. Thứ hai: Dựa vào kế hoạch, quy hoạch phát triển và cơ cấu tổ chức bộ máy trường trung học nghiệp vụ quản lý lương thực thực phẩm. Có một nghịch lý là mâu thuẫn giữa việc tăng cường khả năng quản lý của bộ máy với việc giảm biên chế. Để giải quyết mâu thuẫn này là tăng cường đào tạo cán bộ để nâng cao khả năng làm việc của họ, làm cho mức độ đảm nhiệm công việc của từng cá nhân tăng lên. Hiện nay tỷ lệ giảng viên có trình độ sau đại học của trường chiếm tỷ lệ rất ít do vậy đây là vấn đề hết sức bức thiết của trường mà không thể giải quyết trung ngắn hạn mà cần có một chiến lược dài hạn 3. Lập kế hoạch thời gian, kinh phí đào tạo, chương trình đào tạo. Sau khi đã có phê duyệt của Hiệu trưởng về số lượng cán bộ, viên chức được đào tạo thì phòng tổ chức cán bộ có nhiệm vụ lập kế hoạch đào tạo một cách chi tiết với những nội dung chủ yếu sau: Thứ nhất: Xác định khoảng thời gian của khóa đào tạo. Đó là việc xác định thời gian bắt đầu khóa đào tạo, thời điểm diễn ra các buổi học, độ dài của khóa học. Đây là một việc cần làm sớm và thông báo cho người học biết để họ có kế hoạch điều chỉnh công việc hiện tại của mình. Trong thời gian vừa qua trường luôn cố gắng thực hiện để tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho người học, giúp người học có thể tham gia khoá học từ đầu đến cuối. Cần thực hiện một số nguyên tắc sau: + Giảm tối đa việc ảnh hưởng đến công tác của người học, tức là cố gắng bố trí lịch học làm sao cho không trùng với thời gian thực hiện những công việc hàng ngày của người đó. + Không gây chồng chéo giữa các chương trình đào tạo. Đối với các khóa học do trường trung học nghiệp vụ quản lý lương thực thực phấm đứng ra tổ chức cho cán bộ, viên chức của mình thì trường sẽ chủ động hơn trong việc lập kế hoạch thời gian đào tạo. Khi đó trường sẽ căn cứ vào một số tiêu chí để lựa chọn chương trình đào tạo sao cho phù hợp nhất: + Căn cứ vào đối tượng đào tạo: sở dĩ phải căn cứ vào đối tượng là vì mỗi đối tượng có thời gian hoạt động là khác nhau. Có những khoảng thời gian mà họ không thể vắng mặt được, nếu không công việc sẽ bị đình trệ. + Căn cứ vào những công việc có tính chất thường xuyên của trường như: tuyển sinh, các kỳ thi hết học kỳ, các kỳ thi tốt nghiệp,… vào những thời điểm này sẽ phải huy động hầu như toàn bộ cán bộ, viên chức của trường nên phải tạm ngừng các chương trình đạo tạo. + Căn cứ vào kế hoạch làm việc của giáo viên sẽ tham gia giảng dạy cho khóa học. Cần có sự thương lượng với họ để có lợi nhất cho cán bộ, viên chức của trường tham gia khóa đào tạo. không thể lúc nào chương trình cũng có thể đảm bảo được hết các tiêu chí trên mà chỉ cố gắng thực hiện tốt nhất. Nên trong nhiều khóa học của trường trung học nghiệp vụ quản lý lương thực thực phẩm vẫn còn nhiều cán bộ vắng mặt, làm giảm hiệu quả và đào tạo. Thứ hai: Xác định kinh phí đào tạo. Chương trình đào tạo có khả thi hay không phụ thuộc rất lớn vào kinh phí dành cho đào tạo. Phòng tổ chức cán bộ căn cứ vào đòi hỏi của thực tế về đào tạo mà lập dự toán chi phí, trình Ban giám hiệu để xin duyệt kinh phí. Đối với các chương trình đào tạo của trường thì kinh phí được dựa chủ yếu vào các nguồn sau đây: + Nguồn kinh phí nhà nước: Mặc dù trong những năm vừa qua nhà nước đã dành cho trường trung học nghiệp vụ quản lý lương thực thực phẩm một khoản kinh phí để thực hiện các chương trình đào tạo, bồi dưỡng trong nước nhưng nguồn kinh phí này nói chung còn rất eo hẹp, mới chỉ đáp ứng được một phần nhu cầu đào tạo. + Nguồn thu của trường: Trường trung học nghiệp vụ quản lý lương thực thực phẩm trích một phần nguồn thu của mình để phục vụ cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, viên chức của trường. Bảng 15: Kinh phí đào tạo có chứng chỉ tại trường Đơn vị: Đồng Năm Tên chương trình đào tạo Kinh phí 2005 1. Đào tạo về tin học 10.200.000 2. Bồi dưỡng tiếng Anh A&B 11.154.000 3. Bồi dưỡng cán bộ quản lý 13.230.000 4. Phương pháp sư phạm 9.060.000 5. Bồi dưỡng kiến thức nghiệp vụ chuyên môn 15.600.000 Tổng: 59.244.000 2006 1. ứng dụng phần mềm quản lý 3.100.000 2. lớp nghề tin học kế toán 7.000.000 Tổng: 10.100.000 2007 1. bồi dưỡng cán bộ quản lý DN 8.324.000 2. Cử nhân ngoại ngữ tại chức 9.500.000 3. Bồi dưỡng kiến thức kinh tế học 11.000.000 Tổng 28.824.000 Nguồn: Phòng Tổ chức cán bộ) Dù đào tạo trong hay ngoài trường, muốn nhận được nguồn kinh phí từ trường trung học nghiệp vụ quản lý lương thực thực phẩm thì người học phải đảm bảo một số yêu cầu sau đây: + Phải thuộc đối tượng mà trường khuyến khích ưu tiên cử đi đào tạo, bao gồm: Cán bộ quản lý, giảng dạy, nghiên cứu; cán bộ có thâm niên công tác trong trường; con cán bộ, giáo viên trong trường và gia đình chính sách. + Cán bộ được cử đi đào tạo phải đáp ứng đủ tiêu chuẩn, đúng đối tượng, phù hợp với chuyên ngành tuyển sinh hoặc theo yêu cầu công tác chuyên môn đang đảm nhận. Đối với các trường hợp xin đi đào tạo, bồi dưỡng không đúng với đối tượng được cấp kinh phí thì phải: + Học tập ngoài giờ hành chính + Không được nghỉ công tác chuyên môn + Chịu mọi khoản chi phí trong quá trình học tập Thứ ba: Lựa chọn giáo viên cho khóa học. Tuỳ thuộc vào đối tượng đào tạo, chương trình đào tạo mà có thể lựa chọn giáo viên là cán bộ, viên chức của trường hoặc có thể tiến hành ký hợp đồng với những người bên ngoài trường. Nếu cần phổ biến rộng rãi một kiến thức nào đó cho cán bộ, viên chức mà trường có thế mạnh thì có thể sử dụng đội ngũ giáo viên giỏi, có kinh nghiệm của trường vào giảng dạy. Theo phương án này thì vừa tận dụng đội ngũ cán bộ, viên chức giỏi của trường vừa giảm chi phí cho đào tạo.Chẳng hạn như trong những năm vừa qua trường rất chú trọng tới công tác đào tạo tin học cho toàn thể cán bộ, viên chức và khóa học đã sử dụng những giáo viên giỏi, có kinh nghiệm của khoa Tin học kinh tế vào giảng dạy. Nếu cần đào tạo những kiến thức chuyên ngành mà trường không có hoặc không phải thế mạnh thì giáo viên của các chương trình này sẽ được thuê từ các trường đào tạo cùng ngành nghề ngành trong lĩnh vực cần đào tạo. Cụ thể là trong đào tạo lý luận chính trị cao cấp cho cán bộ lãnh đạo và quản lý trường đã thuê các giáo viên từ đại học nông nghiệp I về giảng dạy hay để nâng cao tình độ tiếng anh cho cán bộ, giáo viên trường đã mời các giáo viên có trình độ từ khoa ngoại ngữ ( đại học hải phòng) về dạy. Đây là cách để có thể học được những kiến thức chuyên sâu, tranh thủ được chất xám từ các trường khác. Tuy nhiên phải chi phí lớn hơn cho việc thuê giáo viên. 4. Tổ chức thực hiện quá trình đào tạo và phát triển đội ngũ cán bộ, viên chức trong trường trung học nghiệp vụ quản lý lương thực thực phẩm. Nếu đào tạo tập trung tại trường: Việc tổ chức hoàn toàn do trường làm hoàn toàn, Phòng Tổ chức cán bộ sẽ thực hiện lần lượt các công việc sau đây: + Thành lập ban chỉ đạo điều hành các lớp đào tạo: Đối với các lớp học thì Phòng sẽ cho thành lập một ban chỉ đạo, điều hành lớp học, còn đối với các lớp học nhỏ thì việc điều hành sẽ do chuyên viên về đào tạo của Phòng làm. + Thông báo kế hoạch, nội dung chương trình tới học viên: ban điều hành sẽ thông báo cụ thể kế hoạch về thời gian bắt đầu của khóa học cũng như nội dung của chương trình học tới từng thành viên tham gia đào tạo. + Tổ chức khai giảng lớp học: Trước khi quá trình học diễn ra thì ban điều hành sẽ tổ chức Lễ khai giảng khóa học với sự tham gia của tất cả các học viên và sự tham gia chứng kiến của đại diện Ban giám hiệu trường . Buổi học đầu tiên có thể diễn ra ngay sau khai giảng hoặc được ấn định vào một ngày gần đó. + Ban điều hành sẽ thường xuyên thực hiện công tác theo dõi đôn đốc đảm bảo sĩ số, nội dung, chất lượng giảng dạy. Nếu quy mô lớp học lớn thì ban điều hành sẽ cho thành lập ban cán sự lớp chịu trách nhiệm làm công việc này và báo cáo với ban hành theo từng tuổi học, còn nếu quy mô lớp nhỏ thì ban điều hành sẽ trực tiếp làm công việc này. Những bản kiểm tra, theo dõi này sẽ được lưu giữ cho tới cuối khóa học để làm một phần căn cứ đánh giá kết quả học tập và giảng dạy của cả khóa học. + Sau khi khóa học kết thúc thì ban điều hành sẽ làm bế giảng. Tại lễ bế giảng sẽ thay mặt ban điều hành sẽ đọc bản tổng kết khoa học trong đó nếu ra những mặt được của khóa học trong đó nêu ra những mặt được của khóa học, những mặt chưa được để làm bài học kinh nghiệm cho các khóa học sau đồng thời cấp bằng hoặc chứng chỉ khóa học cho các học viên đạt yêu cầu. 5. Đánh giá kết quả đào tạo. Sau các khóa học thì việc đánh giá kết quả đào tạo là việc làm rất quan trọng. Nó đánh giá lại những kết quả mà chương trình đã đạt được cũng như chỉ ra những tồn tại mà chương trình còn mắc phải, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm giúp cho các khóa học sau được thành công hơn. Phòng Tổ chức cán bộ và các bộ phận hoặc những người liên quan chịu trách nhiệm đánh giá kết quả đào tạo. Tuy theo yêu cầu của đào tạo mà sử dụng nhiều phương pháp khác nhau để đánh giá cho phù hợp. Đối với các chương trình đào tạo có thời gian đào tạo dưới 3 tháng (thông thường là các lớp tập huấn, bồi dưỡng ngắn hạn) thì các cán bộ, viên chức được cử đi học phải chịu sự quản lý trực tiếp của trường. Từ khi làm thủ tục cho đến khi đi học về phải báo cáo kết quả học tập thông qua việc nộp lại văn bằng, chứng chỉ lại cho trường và phải báo cáo lại quá trình học tập, nghiên cứu bằng văn bản. Và việc đánh giá kết quả khóa học của trường mang tính thụ động cũng chỉ thông qua kết quả của khóa học và bản tường trình của người học. Còn đối với các chương trình đào tạo, bồi dưỡng do trường đứng ra tổ chức thì việc đánh giá gặp thuận lợi và chủ động hơn. Để đánh giá xem chương trình đào tạo có đạt yêu cầu đặt ra hay không thì ngoài cách căn cứ vào các bằng cấp, chứng chỉ thì trường còn căn cứ vào những thay đổi trước và sau khi học của học viên. Nhìn nhận lại công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ viên chức của trường trong thời gian vừa qua có thể kết luận được rằng: dù đào tạo trong hay ngoài trường thì gần như tất cả đều hoàn thành nhiệm vụ đúng thời hạn và trở lại trường công tác.Tuy nhiên cũng phải nhìn nhận một thực tế là đôi khi có những khóa học còn chồng chéo nhau nên nhiều cán bộ không thể đi học đầy đủ số buổi theo quy định, nhiều cán bộ, viên chức của trường do bận đI dạy trường ngoài mà không thể tham gia đào tạo hoặc tham gia nhưng cũng chỉ mang tính hình thức. Do đó trường trung học nghiệp vụ quản lý lương thực thực phẩm cũng cần phải có biện pháp nâng cao hiệu quả thực tế công tác đào tạo. Phòng tổ chức cán bộ có trách nhiệm làm hồ sơ cho người đi đào tạo và thực hiện các chế độ cho cán bộ, viên chức trong quá trình đi đào tạo. 6. Kết quả đào tạo và phát triển cán bộ, viên chức. Tóm lại 26 năm qua, việc đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, công chức trong trường trung học nghiệp vụ quản lý lương thực thực phẩm đã gắn liền với yêu cầu nhiệm vụ chung của bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn và đất nước sự trưởng thành của trường trung học nghiệp vụ quản lý lương thực thực phẩm là do chính sách, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, viên chức của Đảng ủy, Ban giám hiệu trường từ năm 1982 đến nay. Sự nghiệp đào tạo, bồi dưỡng lại đội ngũ cán bộ, viên chức của trường đã đáp ứng được một phần quan trọng trong công việc đổi mới giáo dục và đào tạo của Đảng và Nhà nước. Bảng 16: Kết quả đào tạo và bồi dưỡng cán bộ viên chức Năm Tổng số (lượt người) Đào tạo, bồi dưỡng công tác nước ngoài (lượt người) % Bồi dưỡng trong nước (lượt người) % 2003-2004 78 2 2,56 76 87,44 2004-2005 81 1 1,23 80 98,77 2005-2006 95 0 0 95 100 2006-2007 68 1 1,47 67 98,53 (Nguồn: Phòng tổ chức cán bộ) Do thời gian thành lập được chưa lâu và kinh phí còn hạn chế nên số lượng cán bộ được cử di học nước ngoài vẫn còn rất ít do vậy chất lượng quản lý và giảng dạy chưa cao 7. Vấn đề sử dụng cán bộ, viên chức sau khi đào tạo. Trường luôn quán triệt quan điểm trong đào tạo là: Đào tạo và sử dụng là hai mặt của một vấn đề: đào tạo ra là để sử dụng, đào tạo trên đòi hỏi của việc sử dụng do đó đào tạo ra mà không sử dụng tức là đào tạo thừa, đào tạo không có hiệu quả. Kể từ ngày thành lập trường cho đến nay trường trung học nghiệp vụ quản lý lương thực thực phẩm đã cử cán bộ đi đào tạo tại các trường trọng điểm trong nước và tỷ lệ sau khi đào tạo không trở lại trường là rất thấp. . Điều này lại càng quan trọng hơn trong nền kinh tế thị trường bởi vì phần lớn số cán bộ, viên chức được đi đào tạo là những người sẽ đem lại sự đổi mới cho công tác đào tạo , là những nguwowifsex nâng cao chất lượng về mọi mặt cho trường từ đó chất lượng đầu ra sẽ tốt hơn. Tuy vậy vẫn còn một số người dược cử đI đào tạo không quay lại trường nhưng trường hợp này đồi với trung học nghiệp vụ quản lý lương thực thực phẩm là rất ít 8. Những tồn tại của công tác đào tạo và phát triển Trong những năm vừa qua mặc dù trường trung học nghiệp vụ quản lý lương thực thực phẩm đã đạt được nhiều thành tích trên lĩnh vực đào tạo bồi dưỡng cán bộ, viên chức tuy nhiên công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ của trường cũng còn bộc lộ những điểm yếu: Thứ nhất: Nhờ không ngừng nâng cao chất lượng trong công tác đào tạo số lượng sinh viên của trường ngày càng tăng lên nhanh chóng trong khi số cán bộ giáo viên lại tăng rất chậm nên dẫn tới quá tải về công tác giảng dạy làm cho họ không có thời gian để đi đào tạo, tích luỹ kinh nghiệm nên hạn chế chất lượng chuyên môn. Trong vòng gần 10 năm (từ năm học 1996 - 1997 đến năm học 2006 - 2007) số lượng sinh viên các hệ tăng từ 1230 lên 2054 sinh viên tức là tăng lên gần gấp đôi, đây là một tốc độ tăng nhanh. Trong khi đó số lượng giáo viên tăng rất chậm, chỉ tăng từ 120 lên 151 người tăng 25,83 % Điều này làm cho tỷ lệ sinh viên trên giáo viên ngày càng gia tăng, từ 10,25 sinh viên/giáo viên năm học 1996 - 1997 lên 13,6 sinh viên/giáo viên năm học 2006 - 2007. Điều này gây khó khăn cho công tác đào tạo phát triển đội ngũ cán bộ, viên chức của trường bởi vì lý do phải giảng dạy quá tải mà ít có thời gian cho việc học tập nâng cao trình độ. Thứ hai: Mặc dù trường đã rất chú trọng tới việc nâng cao trình độ, kiến thức về: tin học, ngoại ngữ, phương pháp giảng dạy mới, các tình huống kinh tế, kỹ năng tiếp cận các phương tiện khoa học công nghệ mới… nhưng nói chung đây vẫn là điểm yếu của đội ngũ cán bộ, viên chức, đặc biệt là đội ngũ phục vụ. Cần sớm có giải pháp khắc phục vấn đề này. Thứ ba: Tuy nhà trường đã cố gắng rất nhiều để hỗ trợ cán bộ, viên chức đi học tuy nhiên nó vẫn chưa đủ mạnh nên mọi người tập trung thời gian cho việc đi giảng khá nhiều bởi vì nhờ quá trình giảng dạy đặc biệt là thời giảng ngoài giờ, giảng tại chức mà tạo thêm một khoản thu nhập không nhỏ cho họ. Theo nghiên cứu của thì tỳ lệ % nguồn thu nhập bình quân của giáo viên giảng dạy khối ngành về lương thực như sau: Bảng 17: Cơ cấu thu nhập của giáo viên giảng dạy khối ngành về lương thực Nguồn thu nhập Thu nhập do các hoạt động trong trường đưa l ại (%) Loại có thu nhập cao Loại thu nhập thấp Và trung bình 1. Lương 30 10 2. Giảng dạy, viết giáo trình trong trường 40 10 3. Giảng ngoài trường 17 25 4. Hội họp 1 5 5. Tư vấn cơ quan ngoài 0 5 6. Kinh doanh sản xuất 0 0 (Nguồn: Tạp chí Kinh tế và phát triển số 69/2006) Thông qua bảng trên có thể thấy rằ ng trong cơ cấu thu nhập thì tiền lương chỉ là một phần thu nhập của họ (chiếm 30% đối với loại có thu nhập thấp và trung bình và chỉ chiếm 10% với loại có thu nhập cao) còn thu nhập từ giảng ngoài trường lại chiếm một tỷ lệ không nhỏ (17% với loại có thu nhập cao, 25% với loại có thu nhập thấp). Như vậy nếu không có biện pháp khuyến khích mạnh hơn đối với cán bộ, viên chức đi đào tạo thì sẽ khó đảm bảo được chất lượng đội ngũ cán bộ, viên chức của nhà trường. Thứ tư: Mặc dù trường trung học nghiệp vụ quản lý lương thực thực phẩm là trường trọng điểm trong khối ngành đào tạo về lương thực thực phẩm, được Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn và nhà nước ưu tiên trang bị các phương tiện phục vụ giảng dạy, nhưng nhìn chung các thiết bị hiện đại phục vụ cho quản lý và phục vụ cho giảng dạy vẫn còn thiếu nên việc áp dụng vào quản lý và giảng dạy bằng phương tiện hiện đại cho cán bộ, giáo viên rất hạn chế. Điều này nếu không sớm được khắc phục sớm sẽ là một lực cản lớn trong việc nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, viên chức của trường. Thứ năm: Thiếu quy hoạch trong việc sử dụng đội ngũ cán bộ quản lý và phục vụ của trường do vậy không có căn cứ để xây dựng thực hiện kế hoạch đào tạo và bồi dưỡng cán bộ. Thứ sáu: Chính sách đào tạo của trường từ 1990 đến nay không còn phù hợp vì nó tạo ra việc lựa chọn ngành học, đến học dù không phù hợp với chuyên môn cán bộ, viên chức đang làm nên đã nảy sinh chỗ thừa, nơi thiếu người có chuyên môn cao. Thứ bảy: Việc chọn cử cán bộ đi học tập bồi dưỡng vẫn còn ồ ạt, không có quy hoạch chặt chẽ. Trong những năm qua, mặc dù đã đào tạo được nhiều cán bộ có trình độ với những chuyên môn khác nhau, nhưng có chuyên môn mà hàng chục năm gần đây rất ít cán bộ, giáo viên được đào tạo ở bậc Thạc sĩ như ngoại ngữ, thư viên… Chắc chắn trong khuôn khổ đề tài này không thể nêu ra được hết những tồn tại trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, viên chức ở trường trung học nghiệp vụ quản lý lương thực thực phẩm, tuy nhiên đây là những tồn tại chủ yếu của trường hiện nay, nếu không có giải pháp khắc phục kịp thời nó sẽ ảnh hưởng tới chất lượng đào tạo của trường CHƯƠNG III NHỮNG GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ CHO CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, PHÁT TRIỂN CÁN BỘ VIÊN CHỨC CỦA TRƯỜNG TRUNG HỌC NGHIỆP VỤ QUẢN LÝ LƯƠNG THỰC THỰC PHẨM I. PHƯƠNG HƯỚNG Phát triển giáo dục và đào tạo một trong những động lực quan trọng trong thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện địa hóa, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ thống trường lớp và hệ thống quản lý giáo dục, thực hiện "Chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa"; Thực hiện phương châm "Học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với xã hội", để phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và PTNT II. CÁC GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC ĐÀO TẠO VÀ PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, VIÊN CHỨC TRƯỜNG TRUNG HỌC NGHIỆP VỤ QUẢN LÝ LƯƠNG THỰC THỰC PHẨM Chất lượng cán bộ, công chức là một trong những mặt có tính chất quyết định đến quá trình đào tạo và phát triển của trường trung học nghiệp vụ quản lý lương thực thực phẩm.Việc đổi mới đội ngũ là một việc làm không thể diễn ra trong ngày một, ngày hai mà là một việc làm có tầm chiến lược lâu dài. Nhằm làm tốt công tác bồi dưỡng, đào tạo và nâng cao trình độ của cán bộ công chức cần phải tập trung giải quyết một số vấn đề sau: 1. Định biên lại đội ngũ cán bộ, viên chức Một vấn đề hết sức quan trọng đối với bất cứ một tổ chức nào đó là vấn đề xác định đúng biên chế lao động trong tổ chức để vừa nhằm thực hiện đầy đủ nhiệm vụ của mình đồng thời tránh lãng phí trong việc sử dụng lao động. Thực tế trong những năm vừa qua trường đã gặp phải nhiều vấn đề trong tổ chức như: Có những khoa thì có số lượng giờ giảng bình quân rất thấp trong khi có khoa có số giờ giảng lại rất cao gây nhiều khó khăn cho công tác bồi dưỡng thêm trình độ chuyên môn và kiến thực tiễn cho đội ngũ cán bộ, viên chức.Mục tiêu chủ yếu của việc định biên lại đội ngũ cán bộ, viên chức trường trung học nghiệp vụ quản lý lương thực thực phẩm là nhằm: Thứ nhất: Xác định đủ số lượng cán bộ viên chức theo quy mô đào tạo được giao làm cơ sở xây dựng kế hoạch tuyển dụng lâu dài của trường.Về lâu dài khi trường trung học nghiệp vụ quản lý lương thực thực phẩm thực hiện cơ chế tự chủ tài chính quy mô này sẽ do trường tự quyết định. Thứ hai: Có kế hoạch đề nghị Bộ giáo dục đào tạo giao đủ chỉ tiêu biên chế cán bộ, viên chức theo quy mô đào tạo được bộ giao, đồng thời tạo căn cứ cho việc tuyển theo chế độ hợp đồng bảo đảm sự phát triển liên tục của đội ngũ. Thứ ba: Nhằm tạo dựng một trong những căn cứ quan trọng cho việc xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ viên chức của trường. Chỉ có trên cơ sở đội ngũ cán bộ viên chức đủ về số lượng, hợp lý về cơ cấu mới xây dựng được kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đúng. 2. Nghiên cứu đánh giá lại đội ngũ cán bộ, viên chức hiện tại của trường trung học nghiệp vụ quản lý lương thực thực phẩm. Việc đánh giá lại đội ngũ cán bộ, viên chức hiện tại của trường trung học nghiệp vụ quản lý lương thực thực phẩm là một việc làm hết sức quan trọng. Nó giúp đưa ra những kết luận xem đội ngũ cán bộ, viên chức trường có những thế mạnh gì và còn hạn chế những kỹ năng, kiến thức gì từ đó có kế hoạch tổ chức sắp xếp lại và sử dụng có hiệu quả đội ngũ, thực hiện điều chỉnh một bước đội ngũ cán bộ viên chức hiện có của trường theo cơ cấu ngành đào tạo, đồng thời tạo cơ sở xây dựng kế hoạch bồi dưỡng phù hợp. Thứ nhất: Căn cứ vào tiêu chuẩn, định mức và chế độ công tác giáo viên. Định mức lao động và chế độ công tác cơ bản của giáo viên trung học, dạy nghề được ban hành trong thời kỳ Kế hoạch hóa tập trung không còn hoàn toàn phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa. Hơn nữa việc đổi mới giáo dục đào tạo trong điều kiện hiện nay đang đòi hỏi giáo viên trung học,dạy nghề cần nâng cao về cơ bản trình độ chuyên môn, sư phạm đồng thời phải nêu cao phẩm chất đạo đức của người thầy do đó vấn đề xác định lại định mức lao động và chế độ công tác cơ bản đối với giáo viên trường trung học, dạy nghề nói chung và trường trung học nghiệp vụ quản lý lương thực thực phẩm nói riêng là hết sức quan trọng. Thứ hai: Căn cứ vào nhu cầu phát triển nghề nghiệp và vai trò của các thế hệ cán bộ viên chức trường.Đối với các thế hệ khác nhau có những nhu cầu khác nhau về đào tạo do họ có những khác biệt về tham vọng nghề nghiệp nên cần có những giải pháp đào tạo khác đối với họ, như thế thì đào tạo mới có hiệu quả. Thứ ba: Căn cứ vào đòi hỏi thực tế về chất lượng đội ngũ cán bộ, viên chức của các đơn vị trực thuộc trường trung học nghiệp vụ quản lý lương thực thực phẩm. Mỗi khoa, ngành lại cần các giáo viên có trình độ chuyên môn khác nhau do đó việc đánh giá lại đội ngũ cán bộ, viên chức là một vấn đề hết sức quan trọng. Chẳng hạn như đối với Khoa kinh tế không những đòi hỏi kiến thức chuyên môn mà còn cần có thêm trình độ ngoại ngữ để phù hợp với xu thế hội nhập hiện nay 3. Xây dựng và thực hiện kế hoạch đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ viên chức đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng đào tạo 3.1. Đối với cán bộ, viên chức giảng dạy: Đối với đội ngũ có thể dùng ba giải pháp phù hợp với ba loại đối tượng để đào tạo và bồi dưỡng: Đối với lứa tuổi từ 46 trở lên: số đông lứa tuổi này đã có trên 20 năm tuổi nghề, đây là đội ngũ cán bộ cốt cánh đầu đàn về khoa học của trường. Việc bồi dưỡng đội ngũ đầu đàn về khoa học này trường nên tập trung vào bồi dưỡng về sự thay đổi, điều chỉnh trong chính sách kinh tế, xã hội đặc biệt là nền nông nghiệp nước nhà thông qua tài liệu, diễn đàn kho học, giao đề tài nghiên cứu khoa học, học tập chính trị nghiệp vụ, đặc biệt là bồi dưỡng phương pháp sử dụng công cụ hiện đại phục vụ cho quản lý, giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Cụ thể là: + Đối với đội ngũ có học vị tiến sỹ thông qua hội đồng trường, hội đồng kho học giao cho họ nghiên cứu phương hướng phát triển trường, ngành, chuyên ngành đào tạo, chủ trì và tham gia các chương trình, đề tài kho học cấp nhà nước, chủ trì tham gia biên soạn giáo trình, thẩm định giáo trình, thẩm định chất lượng giáo dục. Trực tiếp bồi dưỡng đội ngũ giáo viên của trường để nâng cao chất lượng. Thông qua thực hiện nhiệm vụ, đội ngũ này sẽ được bồi dưỡng và tự bồi dưỡng nâng cao trình độ cả về lý luận và thực tiễn. + Đối với đội là thạc sỹ thì cần đào tạo theo phương pháp: chủ trì hoặc tham gia biên soạn giáo trình, sách chuyên khảo, bài tập tình huống, hướng dẫn giảng dạy học tập. Bồi dưỡng giảng dạy theo phương pháp tình huống, bằng phương tiện hiện đại cho các hệ đào tạo của trường. Bồi dưỡng năng lực tổ chức, tập hợp lực lượng trong và ngoài trường cùng nghiên cứu đề tài, cùng biên soạn giáo trình, sách phục vụ cho giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Về ngoại ngữ, khuyến khích học ngoại ngữ thứ hai đặc biệt chú trọng tiếng Anh, Nga, Trung. Đây chính là giải pháp bồi dưỡng chỗ thiếu chỗ thiếu và yếu của lứa tuổi này do tính chủ quan về độ tuổi, bề dày nghề nghiệp, do điều kiện khách quan về kinh tế, về quy mô đào tạo của trường, của đơn vị nên không có thời gian tham gia bồi dưỡng. Đối với lứa tuổi từ 31 - 45: độ tuổi này ứng với 7 - 19 năm tuổi nghề, là lực lượng chủ yếu trong các lĩnh vực của trường là giảng dạy, nghiên cứu, tư vấn, … cho xã hội vào những năm tới để thực hiện nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vì vậy thời gian tới trường phải chú ý đến bồi dưỡng những tiêu chuẩn giảng viên chính. Cụ thể là: Đạo tạo học vị: chú ý đào tạo theo chuyên ngành đang đảm nhận nhiệm vụ, muốn đào tạo được theo phương pháp này trường phải kết hợp giữa mong muốn cá nhân với sự phân công nhiệm vụ của đơn vị và của trường trên cơ sở theo hoạch định lâu dài của sự phát triển trường trung học nghiệp vụ quản lý lương thực thực phẩm và bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, đồng thời phải chú đến đòi hỏi về đào tạo cán bộ của xã hội với quy mô và lực lượng của từng đơn vị trong trường. Mở các lớp bắt buộc sử dụng các công cụ (tin học, ngoại ngữ, phương pháp hình thành bài tập tình huống,…) để giảng dạy bằng phương pháp hiện đại, giảng dạy bằng một trong 5 ngoại ngữ quy định (đặc biệt là tiếng Anh) thực hiện chuyển từ việc giảng dạy thủ công là bảng và phấn sang giảng bằng máy chiếu, thực hiện nhiệm vụ đào tạo ngang tầm với các trường lớn trong cả nước sau đó là khu vực và quốc tế. Đồng thời đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ này thành những chuyên gia giỏi để thực hiện tốt nhiệm vụ hợp tác với trong nước và quốc tế. Trong lứa tuổi này người thành thạo và làm việc được bằng một ngoại ngữ vẫn còn tương đối ít nên cần có chính sách bồi dưỡng hợp lý đội ngũ này, ta nên khuyến khích họ học ngoại ngữ thứ hai, mà chú trọng vào tiếng Trung Quốc, Tiếng Nga vì đây là những cường quốc sẽ phát triển về kinh tế vào những năm 2010 - 2020. Đối với lứa tuổi dưới 31 tuổi (có đến 6 - 7 năm nghề): số này phải trả qua 3 giai đoạn cụ thể: - Giai đoạn thử việc: đây là giai đoạn hướng dẫn để đảm bản thân họ tự khẳng định mình về nghề nghiệp, thông qua đó chúng ta có thể phát hiện ra, mục đích mong muốn của họ công tác tại trường. - Giai đoạn tập sự công việc: giai đoạn này thông qua bồi dưỡng và tự bồi dưỡng nghề nghiệp, chuyên môn. Thông qua giai đoạn này ta có thể phân loại,hướng dẫn phân công họ, cho họ đi đào tạo, bồi dưỡng ở đâu, ngành nghề chuyên sâu phù hợp, đây là giai đoạn tiếp theo để hình thành nên người cán bộ giảng dạy thực thụ của trường. - Sau khi kết thúc tập sự chuyên môn thì chương trình đào tạo, bồi dưỡng đối với đội ngũ này đòi hỏi phải toàn diện và tập trung với thời lượng tăng cường: + Bồi dưỡng kiến thức chuyên môn trong chuyên ngành, hướng dẫn thực hành bài giảng theo chương trình chuẩn cho các đối tượng học viên trong ngành. + Bồi dưỡng bắt buộc về: phương pháp giảng dạy, ngoại ngữ, các phương pháp lượng hóa trong nghiên cứu, soạn thảo bài giảng, trong hướng dẫn thực hành cho người đọc. Bồi dưỡng tư tưởng đạo đức, tác phong qua học tập chính trị, qua các phong trào của các tổ chức đoàn thể. + Bồi dưỡng phương pháp nghiên cứu khoa học, phương pháp viết bài hội thảo, báo cáo, phương pháp hướng dẫn sinh viên học tập, thực hành gắn lý luận với thực tiễn. Thực hiện giải pháp đối với lứa tuổi này, ta phải tạo điều kiện cho họ khảo sát, phân tích xử lý số liệu, thông qua các báo cáo thực tế của bộ môn, của trường, đưa họ vào tham gia nghiên cứu đề tài cấp cơ sở, dưới sự hướng dẫn của giáo viên lâu năm. Bồi dưỡng chương trình theo các tiêu chuẩn các bộ viên chức, theo Pháp lệnh cán bộ công thức và luật giáo dục,… vào những năm cuối lứa tuổi này. Song song với công tác bồi dưỡng thì công tác đào tạo với lứa tuổi này cần hướng dẫn và đưa họ đi đào tạo sau đại học theo đúng chuyên ngành họ đảm nhiệm. 3.2. Đào tạo bồi dưỡng đối với cán bộ quản lý, cán bộ nghiệp vụ và nhân viên phục vụ (đội ngũ không giảng dạy). 3.2.1. Cán bộ quản lý Đối với cán bộ có độ tuổi 50 trở lên đối với nam, 45 tuổi trở lên đối với nữ tập trung bồi dưỡng cách dùng công cụ, phương tiện hiện đại để vận dụng vào quản lý. Thông qua khảo sát thực tế các đơn vị, các trường để vận dụng vào quản lý đơn vị. Thường xuyên bồi dưỡng và tự bồi dưỡng nắm chắc các chỉ thị, chức năng đơn vị công tác. Khuyến khích học tập ngoại ngữ để sử dụng các công cụ hiện đại vào quản lý. Bồi dưỡng lập kế hoạch quy hoạch trong công tác bồi dưỡng cán bộ kế cận cho đơn vị. Chủ trì hoặc tham gia nghiên cứu khoa học ứng dụng trong công tác của trường, của đơn vị. 3.2.2. Cán bộ viên chức nghiệp vụ Đây là những người được thủ trưởng đơn vị phân công đảm nhiệm một mảng công việc theo chuyên môn nào đó: Đối với đội ngũ này tập trung bồi dưỡng để đạt trình độ chuẩn về bậc ngạch viên chức đang đảm nhiệm. Bồi dưỡng về quản lý nhà nước, kỹ năng nghề nghiệp, kiến thức luật pháp, tin học, ngoại ngữ đủ đề thực hiện nhiệm vụ được giao. Bồi dưỡng nghiên cứu, soạn thảo các văn bản để tham mưu cho tủ trưởng đơn vị thực hiện quản lý. Khuyến khích cho đi đào tạo đại học các chuyên ngành quản lý giáo dục, hành chính học để tạo nguồn cán bộ lãnh đạo các đơn vị. 3.2.3. Nhân viên phục vụ (văn thư, lưu trữ, kỷ luật viên, tạp vụ) Đối với văn thư lưu trữ: mở các lớp văn thư lưu trữ bồi dưỡng nắm chắc cách thức trình bày văn bản, các loại văn bản, các hình thức và loại văn bản cần lưu trữ, tin học văn phòng. Hiểu biết chức năng, nhiệm vụ của đơn vị và của trường. Đối với nhân viên kỹ thuật: Tổ chức bồi dưỡng bậc kỹ thuật, hàng năm tổ chức thi nâng bậc kỹ thuật. Đối với nhân viên tạp vụ: Bồi dưỡng kỹ năng nghề nghiệp, tinh thần trách nhiệm trong công việc, ý thức phục vụ. Đối với nhân viên phục vụ khuyến khích cho đi đào tạo để nâng cao trình độ theo chức năng nghề nghiệp, đặc biệt là lớp trẻ để thực hiện nhiệm vụ cao hơn khi được phân công. Ngoài 3 giải pháp trên mang tính thường xuyên, lâu dài thì trước mắt chúng ta ưu tiên thực hiện ngay giải pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ viên chức theo chuyên ngành, môn học mới để thực hiện nhiệm vụ đặt ra của trường. Thứ nhất: Đào tạo, bồi dưỡng lại và nâng cao trình độ đội ngũ giáo viên ngoại ngữ để thực hiện nhiệm vụ đào tạo chuyên ngành ngoại ngữ. Thứ hai: Đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ viên chức cho chuyên ngành tin học (việc này phải kết hợp xây dựng đội ngũ đủ về số lượng với công tác đào tạo, bồi dưỡng) Thứ ba: Đào tạo đội ngũ giáo viên trẻ và đội ngũ trung niên môn học kinh tế giáo dục để giảng dạy và bồi dưỡng cho giáo viên và học sinh các trường phổ thông khi có yêu cầu. Thứ tư: Đối với cán bộ quản lý và nhân viên phục vụ: Nhanh chóng đào tạo bồi dưỡng những người quản lý kỹ thuật điện, nước, các phương tiện công cụ phục vụ cho đào tạo và quản lý trong trường như: âm thanh, máy chiếu,.. Thứ năm: Đào tạo, bồi dưỡng nhân viên văn thư lưu trữ chuẩn từ hai đến ba người để lưu trữ quản lý văn bản của trưởng đúng quy định của nhà nước. Nếu thực hiện tốt phải xây dựng và thực hiện kế hoạch đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, viên chức của trường sẽ đem lại rất nhiều hiệu quả. Cụ thể là: Thông qua việc xây dựng kế hoạch đào tạo một cách chi tiết giúp nhà trường có thể chủ động trong việc cử cán bộ, viên chức đi đào tạo về thời gian, địa điểm, lĩnh vực đào tạo… cũng như bố trí công việc cho những người đi đào tạo sao cho việc đi học không làm ảnh hưởng tới nhiệm vụ đào tạo của nhà trường. Trong quá trình xây dựng và thực hiện kế hoạch đào tạo và bồi dưỡng đã phân loại từng đối tượng khác nhau, và mỗi đối tượng áp dụng biện pháp riêng nên nó làm cho chương trình đào tạo phù hợp hơn với yêu cầu công việc do đó làm tăng tính hiệu quả của chương trình đào tạo. 4. Cần đẩy mạnh hơn nữa công tác bồi dưỡng kiến thức về tin học và ngoại ngữ cho cán bộ, viên chức Trước tiên trường phải có sự phân loại về sự cần thiết đối với việc bồi dưỡng thêm các kiến thức này. Thứ nhất: Đối với các giáo viên dạy ngoại ngữ thì phải tăng cường đào tạo ở các trường trọng điểm trong nước. Hiện nay Khoa ngoại ngữ của trường trong tổng số 15 giáo viên thì chỉ có 1 người có trình độ thạc sỹ còn lại 17 người có trình độ đại học. Như vậy chưa có giáo viên nào có học vị tiến sỹ, đây là một hạn chế rất lớn của khoa Ngoại ngữ nói riêng và của trường nói chung. Thứ hai: Nhà trường phải ưu tiên trước hết là bồi dưỡng tin học đối với các giáo viên dạy tin học của trường, đây là đội ngũ có ảnh hưởng quyết định tới việc phổ biến các kiến thức tin học cho toàn bộ cán bộ, viên chức của trường. Trong tổng số 23 giáo viên của khoa thì chỉ có 1 thạc sỹ và còn lại là có trình độ đại học, cao đẳng như vậy số giáo viên có trình độ trên đại học chiếm rất ít do vậy sẽ ảnh hưởng đến việc nâng cao chất lượng giảng dạy nên cần phảI có chính sách bồi dưỡng hợp lý, họ chủ yếu được đào tạo khi mà tin học còn chưa phát triển nên nhiều kiến thức bị lạc hậu đặc biệt trong bối cảnh ngành công nghệ thông tin phát triển như vũ bão như hiện nay.Biện pháp lúc nay là phải đưa họ đi đào tạo tại các trường công nghệ nổi tiếng trong và ngoài nước. Thứ ba:đối với đội ngũ các viên chức làm công tác giúp việc, công tác văn thư thì yêu cầu về ngoại ngữ và tin học không cao thì nhà trường có thể mở các lớp đào tạo ngắn hạn hoặc trung hạn ngay tại trường cho họ và có thể sử dụng các giáo viên của khoa Tin học và khoa ngoại ngữ giảng dạy. Thế giới đã và đang đứng trước xu thế toàn cầu hóa và công nghệ thông tin ngày càng đóng góp nhiều hơn vào sự phát triển của mỗi quốc gia nên ngoại ngữ và tin học là những công cụ làm việc không thể thiếu do đó việc đào tạo và bồi dưỡng các kiến thức tin học và ngoại ngữ cho đội ngũ cán bộ, viên chức của trường trung học nghiệp vụ quản lý lương thực thực phẩm là hết sức cần thiết Nhờ được trang bị các kiến thức ngoại ngữ mà cán bộ, viên chức của trường có khả năng chủ động trong việc tiếp cận với các tài liệu tham khảo nước ngoài. Thôngqua việc đào tạo các kiến thức tin học cho đội ngũ cán bộ, viên chức giúp họ có khả năng đưa các biện pháp tiên tiến vào giảng dạy như: sử dụng máy chiếu, đào tạo từ xa qua Internet,… sẽ làm cho chất lượng giảng dạy ngày càng tăng lên. 5. Cải tiến công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, viên chức, lao động hợp đồng. Để tăng cường, nâng cao hiệu quả của công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cần có quan điểm dài hạn, đầu tư thích đáng nhằm duy trì, nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực của cán bộ, công chức kể cả lao động hợp đồng. Do đặc điểm của ngành, của trường, một cử nhân loại thạc sỹ mới vào nghề không đủ khả năng, kinh nghiệm vè mọi mặt để có thể vững trên bục giảng mà cần một khoảng thời gian thích hợp nâng cao trình độ. Trong thực tế chưa có một trườngsư phạm truyền đạt đầy đủ về dạy học cho nên cần phải được đào tạo, bồi dưỡng thông qua thực tế giảng dạy kết hợp với tự bồi dưỡng đáp ứng yêu cầu. 5.1. Đào tạo, bồi dưỡng bắt buộc Các kiến thức phải đào tạo, bồi dưỡng bắt buộc bao gồm những kiến thức thuộc tiểu chuẩn chức danh, kiến thức chuyên môn và kiến thức bổ trợ (Ví dụ: tin học, ngoại ngữ…). 5.2. Đào tạo, bồi dưỡng theo chương trình khuyến khích Ngoài kiến thức bắt buộc, trường khuyến khích cán bộ, giáo viên tham gia các chương trình đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao kỹ năng, trình độ trí lực, sức khoẻ… một cách toàn diện của mỗi cán bộ, công chức. Khuyến khích giáo viên giỏi một chuyên môn, biết nhiều chuyên môn khác, giỏi một ngoại ngữ biết nhiều ngoại ngữ khác. Trường cần có những biện pháp khuyến khích thiết thực (ví dụ như hỗ trợ về kinh phí, thời gian hoặc tăng hệ số phân phối…) để động viên mọi người thực hiện có hiệu quả chương trình đề ra. Để thực hiện được một cách tốt nhất công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ viên chức trong điều kiện trường và nhà nước còn hạn hẹp về kinh phí thực hiện một số biện pháp sau: + Tăng cường tìm các nguồn tài trợ từ các tổ chức trong và ngoài nước cho đào tạo, bồi dưỡng. + Tranh thủ tối đa và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài trợ hiện có, tránh lãng phí. + Đa dạng hóa các phương thức đào tạo, bồi dưỡng như: đào tạo từ xa, đào tạo qua mạng Internet… + Tăng cường phương thức tự học, tự nghiên cứu thông qua nguồn tài liệu trong và ngoài nước. Mặt khác trường cần giành một tỷ lệ thích đáng từ các nguồn thu để cho công tác đào tạo, bồi dưỡng ở trong và ngoài nước. Đồng thời, tăng cường kiểm tra, kiểm soát để nâng cao hiệu quả các chương trình, dự án bồi dưỡng ngắn hạn mà trường đang thụ hưởng. Hết sức tránh khuynh hương hướng tư tưởng: "tranh thủ" của một bộ phận nhỏ giáo viên sắp đến tuổi nghỉ hưu không quan tâm đào tạo, bồi dưỡng hoặc một số giáo viên có trình độ cao nảy sinh chủ quan… Không như lao động đã vào biên chế, lao động hợp đồng là những người mới vào làm việc tại trường, do nhà trường trả lương do đó họ còn thiếu nhiều kinh nghiệm làm việc do đó thực hiện tốt giải pháp cải tiến công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, viên chức lao động hợp đồng sẽ giúp nâng cao trình độ chuyên môn của họ và đặc biệt là các kiến thức làm việc thực tế. Đây sẽ là đội ngũ có vai trò rất lớn trong tương lai gần của nhà trường. Ngoài những giải pháp đã nêu ở trên, em xin được nêu ra một số kiến nghị nhằm tăng cường hơn nữa cho công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, viên chức của trường. II. NHỮNG KIẾN NGHỊ CHỦ YẾU 1. Về phía Nhà nước và Bộ giáo dục và đào tạo: Thứ nhất: Tiếp tục đầu tư kinh phí và đầu tư nhiều hơn trong chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, viên chức trong trường. Trong điều kiện kinh tế nhiều thành phần, bên cạnh việc tăng kinh phí cho giáo dục - đào tạo, nhà nước cần huy động nguồn lực của các thành phần kinh tế và tranh thủ nguồn tài trợ của các tổ chức trong và ngoài nước. Coi đầu tư cho giáo dục là sự đầu tư kép, vừa nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, vừa đảm bảo sự phát triển kinh tế xã hội. Thứ hai: Đầu tư hơn nữa cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại cho trường để trường trung học nghiệp vụ quản lý lương thực thực phẩm có thể đưa vào thực hiện các chương trình mới, phương thức dạy học mới, đưa thêm các môn học mới vào giảng dạy. Thứ ba: Cần có cơ chế phân cấp sâu hơn cho trường, trao cho trường nhiều quyền tự chủ hơn trong công tác đào tạo và phát triển cán bộ, viên chức của mình. Thứ tư: Xây dựng và thực hiện chế độ tiền lương đối với cán bộ, viên chức ngành giáo dục nói chung cho phù hợp để cán bộ, viên chức trong ngành có thể đủ sống bằng nghề dạy học và chỉ chuyên tâm và thực hiện đúng nhiệm vụ đã phân công. 2. Về phía nhà trường Thứ nhất: Khẩn trương xây dựng kế hoạch cụ thể đề án phát triển trường theo tiêu chuẩn mà bộ giáo dục dã giao, trong đó công tác đào tạo và phát triển đội ngũ cán bộ, viên chức phải được ưu tiên hàng đầu. Thứ hai: Xây dựng kế hoạch tổ chức bộ máy phù hợp để phát triển trường. Từ đó có chính sách vấn đề tuyển dụng và đào tạo cán bộ, viên chức cho phù hợp với bộ máy đó. Thứ ba: Xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, viên chức. Cần xây dựng một cách cụ thể và chi tiết dựa trên định hướng phát triển trường. Thứ tư: Xây dựng kế hoạch tuyên truyền về trường, về đơn vị mới, ngành học mới của trường để tăng cường sự hiểu biết và mối quan hệ của trường với xã hội, với thế giới, tạo điều kiện để đưa cán bộ viên chức đi đào tạo bồi dưỡng. Thứ năm: Huy động từ nhiều nguồn khác nhau cả trong và ngoài nước để xây dựng quỹ đào tạo, bồi dưỡng để có nguồn khuyến khích cán bộ viên chức học tập. Thứ sáu: Tăng thêm kinh phí công tác nghiên cứu khoa học và tham gia biên soạn giáo trình để sử dụng và giữ gìn nguồn chất xám của trường. KẾT LUẬN Kể từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) nền kinh tế nước ta chuyển từ tập trung quan liêu bao cấp sang vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự nghiệp đã gặt hái được một số thành công đặc biệt là nước ta ngày càng hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới được đánh dấu bằng việc Việt Nam là thành viên của nhiều tổ chức khu vực và trên thế giới như: ASEAN, AFTA, APEC,… và đặc biệt Việt Nam đó gia nhập tổ chức thương mại lớn nhất toàn cầu WTO. Muốn hội nhập thành công thì không còn cách nào khác là nước ta phải không ngừng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để có thể cạnh tranh được trên thị trường lao động toàn cầu. Đây là một nhiệm vụ hết sức to lớn của nền giáo dục nước nhà nói chung và trường trung học nghiệp vụ quản lý lương thực thực phẩm nói riêng. Muốn làm được điều này thì đội ngũ cán bộ, viên chức của trường phải không ngừng hoàn thiện chuyên môn thông qua việc đào tạo và bồi dưỡng. Từ việc nghiên cứu những quan điểm, những luận cứ, luận điểm về đào tạo mà có thể giúp cho quá trình đào tạo, phát triển cán bộ, viên chức của trường đi đúng hướng và đạt hiệu quả. Một lần nữa cho em gửi lời cảm ơn chân thành đến cô giáo hướng dẫn PGS.TS . Lê thị anh Vân và các cô chú, anh chị trong Phòng Tổ chức cán bộ Trường Trung học nghiệp vụ quản lý lương thực thực phẩm đã tận tình hướng dẫn để em hoàn thành đề tài này. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.Luật giáo dục Việt Nam. 2.Pháp lệnh cán bộ công chức ngày 26/02/1998 và pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của pháp lệnh cán bộ công chức ngày 29/04/2005 của uỷ ban thường vụ Quốc hội . 3. Giáo trình Quản trị nhân lực -Đại học Kinh tế quốc dân- Nhà xuất bản Lao động và Xã hội 2004. 4. Giáo trình Quản trị nhân sự- Nguyễn Hữu Thân , 2002. 5. Số liệu về Cán bộ, Công nhân viên trường Trung học Nghiệp vụ quản lý lương thực thực phẩm- Phòng tổ chức cán bộ. 6.T/S: Nguyễn Văn Duệ :một số giảI pháp nhằm xây dựng và quản lý có hiệu quả đội ngũ cán bộ giảng dạy các trường trung học và dạy nghề ở Việt Nam trong điều kiện đổi mới giáo dục và đào tạo – Tạp chí kinh tế phát triển số 69/2004 . 7.Website của bộ giáo dục. 8.Giới thiệu chung về trường Trung học nghiệp vụ quản lý lương thực thực phẩm- Phòng tổ chức cán bộ. 9.Nghị định số 10/NĐ - CP ngày 16/01/2002. 10. Dự thảo về quy chế thu chi nội bộ , truờng Trung học Nghiệp vụ quản lý lương thực thực phẩm- Hải Phòng 01/2006. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc12196.doc
Tài liệu liên quan