Chuyên đề Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả nhập khẩu thiết bị toàn bộ tại Công ty xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật - Technoimport

MỤC LỤC Trang LỜI MỞ ĐẦU 1 Chương I GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TY XUẤT NHẬP KHẨU THIẾT BỊ TOÀN BỘ VÀ KỸ THUẬT (TECHNOIMPORT) 3 I. Quá trình hình thành và phát triển của công ty 3 1. Thông tin chung về công ty 3 2. Quá trình phát triển của công ty được chia thành 2 giai đoạn 5 II. Đặc điểm chủ yếu của công ty 7 1. Đặc điểm về sản phẩm 7 2. Đặc điểm về thị trường nhập khẩu thiết bị toàn bộ. 9 3. Đặc điểm về lao động 10 4. Bộ máy tổ chức quản lý của công ty 12 4.1. Các bộ phận quản trị của Công ty 13 4.2. Các đơn vị trực thuộc 14 III. Hoạt động kinh doanh của Công ty trong những năm gần đây. 15 1. Kết quả kinh doanh của công ty trong những năm gần đây 15 2. Cơ cấu mặt hàng và thị trường xuất khẩu 18 3. Tư vấn đầu tư và thương mại 19 Chương II THỰC TRẠNG CỦA HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU THIẾT BỊ TOÀN BỘ TẠI CÔNG TY 21 I. Đánh giá hiệu quả hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ của Công ty những thành tựu đạt được và những vấn đề còn tồn tại 21 1. Hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ của Việt Nam cũng như của Công ty thời kỳ trước 1990 21 2. Hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ của Công ty từ sau 1990 đến nay – Giai đoạn trưởng thành và lớn mạnh của Công ty xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật 26 II. Quy trình nhập khẩu thiết bị toàn bộ tại công ty 35 1. Nghiên cứu thị trường 36 2. Gọi chào hàng 36 3. Lựa chọn đối tác giao dịch 37 4. Lập phương án kinh doanh 37 5. Đàm phán và ký kết hợp đồng 37 6. Ký hợp đồng uỷ thác 38 7. Thực hiện hợp đồng 38 III. Những yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến hiệu quả nhập khẩu thiết bị toàn bộ của Công ty 38 1. Yếu tố chủ quan 38 1.1. Nguồn nhân lực của doanh nghiệp 38 1.2. Cơ sở vật chất kỹ thuật và công nghệ hiện có của doanh nghiệp 40 1.3. Trình độ tổ chức quản lý và sử dụng vốn của doanh nghiệp 42 2. Yếu tố khách quan 44 2.1. Môi trường chính trị pháp luật 44 2.2. Các chính sách pháp lý và quy định của Nhà nước 45 2.3. Những vướng mắc về thuế 46 2.4. Những vấn đề đặt ra đối với thủ tục hải quan cho thiết bị nhập khẩu 47 2.5. Các yếu tố khác 49 Chương III MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CỦA HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU THIẾT BỊ TOÀN BỘ 51 I. Một số các giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn và góp phần thúc đẩy quá trình nhập khẩu thiết bị toàn bộ của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu ở Việt Nam nói chung 51 1. Lập kế hoạch xây dựng phát triển tổng thể nền kinh tế 51 2. Nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật và tăng cường năng lực cho nguồn tài “nguyên sức người” 53 3. Tăng cường phối kết hợp giữa các cơ quan quản lý Nhà nước 54 4. Hoàn thiện và bảo đảm tính thống nhất của hệ thống văn bản pháp luật liên quan tới hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật 55 5. Nâng cao hoạt động nghiên cứu thị trường 56 6. Cải thiện hoạt động vay vốn và quản lý vốn vay nước ngoài 57 7. Tham gia tích cực hơn, chủ động hơn vào hoạt động kinh tế quốc tê 57 II. Các giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả nhập khẩu thiết bị toàn bộ tại Công ty xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật 58 1. Phương hướng nhiệm vụ của Công ty trong thời gian tới 58 2. Các giải pháp cụ thể 60 2.1. Tăng cường công tác đào tạo cán bộ 60 2.2. Hoàn thiện hơn nữa các nghiệp vụ nhập khẩu thiết bị toàn bộ 61 2.3. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường 63 2.4. Tạo nguồn vốn và quản lý nguồn vốn 65 2.5. Đổi mới hình thức kinh doanh 66 KẾT LUẬN 68

doc71 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1540 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả nhập khẩu thiết bị toàn bộ tại Công ty xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật - Technoimport, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ách không hợp lý, có những thiết bị dư thừa như điện thoại nhưng cũng có những thiết bị còn thiếu như máy tính (có phòng kinh doanh xuất nhập khẩu chỉ có 2 máy tính/6 cán bộ. Mà việc sử dụng máy tính là rất cần thiết cho nhu cầu kinh doanh). Không thể phủ nhận một điều rõ ràng là một phần nguồn vốn của nhập khẩu đó không từ đâu khác mà chính là từ lợi nhuận thu được từ xuất khẩu. Mối quan hệ giữa xuất khẩu và nhập khẩu là mối quan hệ hữu cơ không thể tách rời. Xuất khẩu để tạo vốn cho nhập khẩu và nhập khẩu nhằm góp phần nâng cao trình độ của lực lượng sản xuất, hỗ trợ và đẩy mạnh cho xuất khẩu. Vì thế, nếu thiết bị toàn bộ được nhập khẩu về không được đánh giá đúng và sử dụng một cách hiệu quả thỉ sẽ kìm hãm sự phát triển và gây lãng phí cho nền kinh tế. Do vậy, việc có những chính sách đồng bộ và đúng đắn để giải quyết vấn đề nâng cao hiệu quả xuất khẩu cũng là yếu tố rất quan trọng có ảnh hưởng tích cực tới nhập khẩu nói chung và nhập khẩu thiết bị nói riêng. Vốn là nhân tố quan trọng thường xuyên, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh nhập khẩu. Vì vậy, doanh nghiệp phải chú trọng ngay từ khâu hoạch định nhu cầu vốn kinh doanh để làm cơ sở cho việc lựa chọn các phương án sử dụng vốn, huy động các nguồn vốn hợp lý trên cơ sở khai thác tối đa mọi nguồn lực hiện có, tổ chức chu chuyển, tái tạo và bảo toàn vốn. Đồng thời, khi tiến hành hoạt động kinh doanh nhập khẩu, doanh nghiệp cũng cần phải chú trọng việc nghiên cứu biến động của thị trường tiền tệ đặc biệt là sự biến động của các ngoại tệ mạnh như USD, JPY, EURO... Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp luôn phải đối mặt với môi trường kinh doanh có rất nhiều biến động. Chính vì vậy, nhân tố quản lý đóng vai trò ngày càng quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và việc quản lý tốt nguồn vốn của Công ty là rất cần thiết, góp phần quan trọng đảm bảo hiệu quả kinh doanh cho Công ty. Hy vọng trong một tương lai không xa, Việt Nam sẽ không cần phải vay vốn nước ngoài cũng như trông chờ vào viện trợ nước ngoài để nhập khẩu thiết bị và kỹ thuật để rồi sau đó Việt Nam sẽ là nước xuất khẩu máy móc thiết bị và công nghệ trên thị trường quốc tế. 2. Yếu tố khách quan 2.1. Môi trường chính trị pháp luật Môi trường pháp lý bao gồm các văn bản luật và dưới luật. Mọi quy định trong các văn bản này đều tác động trực tiếp đến kết quả và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Môi trường pháp lý tạo ra một sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp cùng tham gia vào hoạt động sản xuất, kinh doanh trên cơ sở vừa cạnh tranh, vừa hợp tác. Chính vì vậy, việc tạo ra môi trường pháp lý lành mạnh là vô cùng quan trọng bởi nó không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tiến hành hoạt động kinh doanh của mình mà còn điều chỉnh các hoạt động kinh tế vi mô khác. Hiện nay, các quy định về thủ tục nhập khẩu máy móc thiết bị cho các dự án do quá nhiều cơ quan thuộc nhiều cấp ban hành, dẫn đến nảy sinh mâu thuẫn giữa các văn bản làm ách tắc nhập khẩu, gây thiệt hại vê thời gian và tiền bạc cho chủ đầu tư mặc dù trong đó có nhiều chủ đầu tư sử dụng nguồn vốn Nhà nước cấp hoặc bảo lãnh. Mặc dù mọi dự án đều đã được các cơ quan có thẩm quyền phê duyệt nhưng khi tiến hành nhập khẩu hàng hóa thiết bị và vật tư cho dự án thì lại một lần nữa phải xin phép Bộ Thương mại, khi xin phép lại phải xuất trình toàn bộ các văn bản trong quá trình lập báo cáo khả thi. Đối với máy móc thiết bị trong nước chưa sản xuất được do Bộ Công nghiệp quyết định, nhưng để được miễn thuế nhập khẩu thì lại phải xin phép Bộ Thương mại một lần nữa mặc dù theo luật định, đã là hàng trong nước không sản xuất được thì chỉ cần bộ quản lý nghành xác nhận là được miễn thuế nhập khẩu. Những quy định phiền hà như thế này gây khó khăn không ít cho người nhập khẩu đôi khi làm mất cơ hội kinh doanh của công ty đối với đối tác nước ngoài. Bởi vì thiết bị toàn bộ là một mặt hàng nhạy cảm, nhanh chóng lỗi thời, giá trị của hợp đồng lớn với mức giá biến động cao. Nếu không tận dụng được thời cơ nhập khẩu sẽ làm giảm tính hiệu quả của thiết bị nhập về, điều này đòi hỏi dự án nhập khẩu của Công ty phải được nhanh chóng cấp phép. Ngoài ra, khi tiến hành hoạt động kinh doanh, đặc biệt là khi tham gia vào các hợp đồng ngoại thương đòi hỏi doanh nghiệp không chỉ nghiêm chỉnh tuân thủ pháp luật của quốc gia mình mà còn phải nắm chắc và tôn trọng luật pháp ở nước sở tại cũng như Tập quán và các Điều ước quốc tế khác. Việc làm này tác động mạnh mẽ đến kết quả và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Vì thế, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu cần tìm hiểu thật kỹ lưỡng nhân tố này trước khi tham gia ký kết để tránh những rủi ro không đáng có sau này. 2.2. Các chính sách pháp lý và quy định của Nhà nước Môi trường kinh tế là các nhân tố bên ngoài như các chính sách đầu tư, chính sách phát triển kinh tế, chính sách tiền tệ...có tác động rất lớn đến hiệu quả kinh doanh của từng doanh nghiệp. Các chính sách này có thể ưu tiên hay kìm hãm sự phát triển của từng ngành, từng vùng kinh tế cụ thể; do đó sẽ ảnh hưởng đến kết quả và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nằm trong ngành hay vùng kinh tế nhất định. Việc xử lý tốt các mối quan hệ kinh tế đối ngoại, quan hệ tỷ giá hối đoái, đưa ra các chính sách thuế phù hợp với trình độ phát triển kinh tế và đảm bảo tính công bằng, ... đều là những vấn đề hết sức quan trọng, tác động mạnh mẽ đến kết quả và hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp có liên quan. Ngay các chính sách nhập khẩu máy móc thiết bị và khoa học công nghệ trực tiếp của Việt Nam đã được xây dựng nhằm khuyến khích và hỗ trợ mua công nghệ mới, song chính luật thuế và hệ thống thu thuế lại đã đặt ra hạn chế cho quá trình mua công nghệ đối với các nhà máy. Thủ tục nhập khẩu khó khăn do sự thiếu đồng bộ và nhất quán trong các văn bản pháp quy cũng như những quy định chồng chéo về nhập khẩu thậm chí đối với tư liệu sản xuất, dịch vụ công nghệ đã làm hạn chế bớt việc tiếp cận kịp thời để có thể làm chủ các nguồn công nghệ cao của nước ngoài nhằm tạo điều kiện cho một số ngành công nghiệp hoạt động thuận lợi, gây mất lòng tin của đối tác nước ngoài cũng như giảm khả năng thu hút vốn đầu tư và xin vay vốn nước ngoài. Những điều này có thể gây lãng phí về thời gian trong khi chờ đợi phê duyệt, làm chậm tiến độ triển khai dự án, làm cho phía nước ngoài kém tin tưởng vào các thoả thuận đã giành được trên bàn đàm phán, bởi vì những thoả thuận đó lại còn phải chờ đợi sự phê duyệt của các cơ quan quyền lực ở phía sau, từ đó sẽ tạo ra một tâm lý không tích cực cho các đối tác nước ngoài khi hoạt động kinh doanh tại Việt Nam. Trong khi đó vấn đề tạo ra được một tinh thần tin cậy vào thiện chí của các bên chính là một trong những cơ sở bảo đảm cho việc thực hiện thuận lợi hợp đồng sau này. 2.3. Những vướng mắc về thuế Việc nhập khẩu thiết bị toàn bộ phục vụ cho các dự án với mục đính thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước do vậy chúng được hưởng nhiều ưu đãi về thuế khi nhập khẩu. Tuy nhiên, do các văn bản trong lĩnh vực này được ban hành liên tục và quá nhiều nên đã dẫn đến tình trạng chồng chéo gây khó khăn cho người nhập khẩu, chủ đầu tư và các bên có liên quan. Chẳng hạn như khái niệm thiết bị toàn bộ và thiết bị đồng bộ vẫn chưa được làm rõ, chỉ có khái niệm duy nhất về thiết bị toàn bộ và thiết bị lẻ được đưa ra trong Quyết định số91/TTg ban hàng ngày 31/11/1992 mà hoàn toàn không có khái niệm thiết bị đồng bộ nên xảy ra tình trạng bất động giữa doanh nghiệp và hải quan về chế độ áp dụng thuế đối với từng loại thiết bị nhập khẩu và đây là nguyên nhân mà các lô hàng thiết bị toàn bộ của các dự án do doanh nghiệp nhập về không có máy chính bị cơ quan hải quan áp mã tính thuế đối với hàng thiết bị lẻ và chủ đầu tư buộc phải nộp trong thời gian quy định. Những ách tắc như thế này trong quá trình làm thủ tục thông quan đã dẫn đến những khoản thuế phải nộp khi nhập lô hàng lên đến hàng tỷ đồng, mà nếu chủ đầu tư chưa kịp thu xếp nguồn vốn vay tạm thời để nộp thuế thì lại gây rắc rối cho hoạt động kinh doanh của người nhập khẩu, do người nhập khẩu đứng ra nhập uỷ thác và làm thủ tục thông quan cho hàng hóa nên nếu không hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế, lô hàng đó sẽ bị cưỡng chế thuế, và toàn bộ hàng hóa của người nhập khẩu tại mọi cửa khẩu trên phạm vi toàn quốc sẽ không được phép tiếp tục làm thủ tục thông quan mà phải chờ giải quyết, khiến cho phát sinh thêm hàng chục tỷ đồng do chi phí lưu kho bãi, tiền bồi thường do tàu không được giải phóng và hàng loạt tổn thất khác. Thuế giá trị gia tăng (thuế GTGT) là khoản thuế tính trên phần giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phát sinh nhằm tránh tình trạng đánh thuế chông lên thuế, tuy vậy, phương thức tính thuế GTGT cùng với những quy định về áp dụng luật thuế giá trị gia tăng tỏ ra thiếu chính xác và chưa toàn diện, gây trở ngại cho người nhập khẩu. Theo luật thuế giá trị gia tăng quy định giá tính thuế đối với hàng nhập khẩu là giá nhập tại cửa khẩu cộng với thuế nhập khẩu. Như vậy, có thể nhận thấy là thuế GTGT đã đánh chồng lên thuế nhập khẩu. Hàng nhập khẩu khi mới đến cửa khẩu thì chưa thể xuất hiện khoản giá trị gia tăng, khoản này chỉ có thể xuất hiện khi hàng hóa được luân chuyển, còn thuế nhập khẩu đánh vào hàng hóa không thể được coi là phần giá trị tăng thêm của hàng hóa. 2.4. Những vấn đề đặt ra đối với thủ tục hải quan cho thiết bị nhập khẩu Thủ tục hải quan là những việc phải làm của người có hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu, có phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh hoặc của người được uỷ quyền (gọi tắt là người khai hải quan) theo quy định của luật Hải quan và các luật khác có liên quan. Trình tự khai báo chung đối với hàng hóa xuất nhập khẩu là: - Khai báo trên tờ khai hải quan. - Nộp, xuất trình chứng từ, hồ sơ kèm theo tờ khai hải quan. - Xuất trình hàng hóa, phương tiện vận tải để cơ quan hải quan kiểm tra. - Thực hiện yêu cầu của các cơ quan chức năng đối với hàng hóa xuất nhập khẩu (kiểm tra chất lượng, kiểm dich, phân tích, giám định hàng hoá…). - Nộp thuế, lệ phí và các khoản phải thu khác. - Tiếp nhận hàng hóa, hành lý, phương tiện vận tải sau khi thông quan. Theo quy trình này thì việc quy định các doanh nghiệp khai báo hải quan tự phải chịu trách nhiệm kê khai, áp mã tính thuế đối với hàng hóa. Như vậy là hải quan đã dồn hết trách nhiệm sang doanh nghiệp, còn doanh nghiệp phải tiếp tục chịu trách nhiệm trong 5 năm. Rõ ràng rằng trách nhiệm của hải quan là kiểm tra tờ khai, nếu tờ khai được khai đúng thì không có lý do gì yêu cầu doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm về tờ khai đó trong 5 năm, điều này là quá nặng nề. Bên cạnh đó, bên nhập khẩu gặp phải nhiều khó khăn khi hải quan yêu cầu giám định tràn lan đối với hàng hóa nhập khẩu mỗi khi họ cảm thấy kết quả giám định không phù hợp với thực tế hàng hóa. Đây là điều không hợp lý vì bản thân hải quan không phải là một tổ chức giám định, kết quả giám định thông thường không phải chỉ đơn thuần là những gì nhìn thấy mà đòi hỏi phải có hệ thống máy móc tiêu chuẩn kiểm tra... Do vậy hải quan không thể đưa ra lý do như vậy để từ chối kết quả giám định và yêu cầu tiến hành giám định tràn lan. Hiện nay, hoạt động của Công ty cũng đang gặp khó khăn do bị cưỡng chế hải quan. Do tranh chấp về giá tính thuế nhập khẩu ô tô cũ theo GATT giữa chi nhánh công ty tại Hải Phòng và Tổng cục hải quan, sự việc đã lên tới thanh tra chính phủ và mặc dù Technoimport khẳng định mình không làm sai nhưng cuộc tranh luận vẫn chưa kết thúc. Cơ quan điều tra vẫn chưa có kết luận chính xác mặc dù dự kiến ban đầu là đầu tháng 12 năm 2007 sẽ có kết luận chính thức, song đến thời điểm này 28/1/2008 doanh nghiệp chỉ nhận được câu trả lời là đang trong quá trình điều tra. Và trong khi đợi kết luận chính thức thì doanh nghiệp vẫn đang bị cưỡng chế hải quan, với thời hạn giải toả cưỡng chế là một tháng. Sự việc trên đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín doanh nghiệp, doanh nghiệp không thể kinh doanh mặt hàng ô tô nhập khẩu cũng như các mặt hàng khác vì bị cưỡng chế thuế, có thể bị phá sản. Thực tế hiện nay doanh nghiệp gần như chỉ hoạt động cầm chừng, cả Công ty chờ một văn bản giải toả cưỡng chế của hải quan. Tình hình ngày càng trở lên nghiêm trọng khi Hải quan không thông quan cho những lô hàng đã cập cảng, Công ty buộc phải tìm cách khác để đảm bảo thực hiện hợp đồng đối với doanh nghiệp trong nước như làm thủ tục chuyển chủ sở hữu lô hàng sang một nhà nhập khẩu uỷ thác khác, chấp nhận bồi thường cho khách… Đã có rất nhiều khách hàng quen thuộc ngần ngại khi tiếp tục ký hợp đồng với Công ty, nguy cơ mất khách hàng và gia tăng chi phí đang tạo áp lực lớn đối với lãnh đạo và đội ngũ cán bộ Công ty. Đặc biệt, việc mất uy tín đối với các đối tác mới là tổn thất to lớn. 2.5. Các yếu tố khác Trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu, giá cả tác động trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh và bao gồm các yếu tố: giá cả nhập khẩu, giá cả lưu thông và tỷ giá hối đoái: - Giá hàng hoá nhập khẩu: Trong cơ cấu tổng chi phí kinh doanh nhập khẩu, giá vốn hàng hoá nhập khẩu chiếm tỷ trọng chủ yếu, do đó giá mua hàng hoá tác động mạnh đến giá trị tổng chi phí kinh doanh. Việc mua hàng với giá cao làm tăng chi phí dẫn đến lợi nhuận giảm, ngược lại mua hàng với giá thấp làm giảm chi phí kinh doanh từ đó cho phép tăng lợi nhuận. - Chi phí lưu thông: Sau chi phí mua hàng thì chi phí lưu thông là bộ phận chi phí chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng chi phí hoạt động kinh doanh nhập khẩu, bao gồm chi phí vận chuyển, chi phí bốc dỡ hàng, chi phí thuê nhân công... Nếu tất cả các những chi phí này tăng lên sẽ làm cho tổng chi phí hoạt động kinh doanh tăng, với điều kiện doanh thu không đổi thì lợi nhuận sẽ giảm xuống, kéo theo tỷ suất lợi nhuận và các chỉ tiêu hiệu quả khác giảm. Đây là nhân tố khách quan nhưng nếu doanh nghiệp tính toán để lựa chọn phương tiện vận chuyển phù hợp, tối ưu hoá quá trình vận chuyển cũng như sử dụng hiệu quả nhà kho, bến bãi... thì sẽ có tác dụng làm giảm chi phí nhằm tăng lợi nhuận cũng như hiệu quả kinh doanh. - Tỷ giá hối đoái: Trong kinh doanh nhập khẩu, chi phí nhập hàng được tính bằng đồng ngoại tệ còn chi phí lưu thông được tính bằng cả ngoại tệ lẫn nội tệ. Chính vì vậy, tỷ giá hối đoái có tác động và ảnh hưởng đến chi phí kinh doanh: tăng tỷ giá ngoại tệ so với đồng nội tệ sẽ làm cho hoạt động nhập khẩu giảm lợi nhuận do phải dùng nhiều đồng nội tệ hơn để mua hàng làm cho chi phí kinh doanh tăng lên, ngược lại khi tỷ giá này giảm xuống thì nhập khẩu sẽ được lợi do chi phí kinh doanh giảm xuống. Trong tình hình hiện nay, khi mà các ngân hàng đang dư thừa ngoại tệ và giá đồng USD đang xuống thấp thì việc nghiên cứu tỷ giá hối đoái để lựa chọn đồng tiền thanh toán phù hợp cho các hợp đồng ngoại thương sẽ giúp các doanh nghiệp tăng được hiệu quả kinh doanh nhập khẩu tại đơn vị mình. Chương III MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU THIẾT BỊ TOÀN BỘ I. Một số các giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn và góp phần thúc đẩy quá trình nhập khẩu thiết bị toàn bộ của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu ở Việt Nam nói chung Mục tiêu của Việt Nam là sớm trở thành một nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa có nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, bắt kịp với trình độ phát triển của các nước trong khu vực. Khoa học và kỹ thuật công nghệ là nền tảng của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chúng ta cần nhận thức và kết hợp được công nghệ hiện đại với công nghệ truyền thống, tranh thủ đi nhanh và hiện đại hóa những khâu quyết định. Nhập khẩu thiết bị toàn bộ là một biện pháp quan trọng giúp Việt Nam nhanh chóng tiếp cận với tri thức khoa học và kỹ thuật công nghệ tiên tiến trên thế giới. Hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ sẽ thực sự phát huy tác dụng tích cực đối với sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hóa và phát triển kinh tế xã hội nếu chúng ta tháo gỡ được những vướng mắc, khắc phục được những vấn đề còn tồn tại để có thể sử dụng được tối ưu đồng vốn nhập khẩu, nhất là khi Việt Nam đã gia nhập vào WTO thì để có được một chỗ đứng trên trường quốc tế điều cốt lõi là cần phải có một nền kỹ thuật công nghệ cao. Do đó, việc nhanh chóng hoàn thiện công tác nhập khẩu thiết bị toàn bộ trở nên vô cùng cấp thiết. 1. Lập kế hoạch xây dựng phát triển tổng thể nền kinh tế Nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật là một hoạt động kinh tế, do vậy cơ sở để phát triển nền kinh tế nói chung cũng đồng thời là nền tảng để nâng cao hiệu quả nhập khẩu thiết bị toàn bộ. Vì thế, cần phải lập một kế hoạch xây dựng phát triển tổng thể để tránh tình trạng nhập khẩu không có kế hoạch, nay có tiền thì nhập khẩu, mai có nước cấp viện trợ thì mua, để cuối cùng chỉ là sự nhập khẩu chắp vá, lãng phí và không hiệu quả của cả nền kinh tế như đã diễn ra ở nước ta trong nhiều thời gian qua. Công việc lập kế hoạch tổng thể cho nền kinh tế là công việc của mọi Nhà nước trên thế giới, đối với Việt Nam cho đến nay vẫn do Bộ Kế hoạch và Đầu tư đảm nhiệm. Chúng ta đã lập ra các kế hoạch phát triển tổng thể 1 năm, 2 năm, 5 năm, 10 năm, 25 năm, mà nếu thực hiện tốt sẽ có tác dụng to lớn trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra đối với các kế hoạch tổng thể là khả năng thực hiện chúng rất khó, thậm chí có kế hoạch không thể thực hiện được. Nguyên nhân của tình trạng này là do Bộ Kế hoạch và Đầu tư không nhận được các thông tin cần và đủ về tình hình thực tế. Các căn cứ để xác lập kế hoạch hoàn toàn chỉ dựa vào báo cáo của các Bộ khác. Bản thân các báo cáo này cung chỉ là sự tập hợp các báo cáo của cấp dưới, thiếu sự kiểm tra, giám sát trực tiếp của người lập. Chính vì thế, kế hoạch lập ra không thể thực hiện được, các cơ quan quản lý Nhà nước không biết căn cứ vào đâu để điều chỉnh kế hoạch cụ thể của mình. Là một bộ phận trong các hoạt động kinh tế, nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật cũng không tránh khỏi bị ảnh hưởng vì sự thiếu khả thi của các kế hoạch kinh tế. Các dự án mua sắm máy móc thiết bị sử dụng nguồn vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước và vốn vay nước ngoài đã phải chịu ảnh hưởng nặng nề do chính sách ưu đãi phải thay đổi liên tục vì tình hình khủng hoảng kinh tế và nền chính trị ở một số nước đối tác không ổn định, khiến cho việc lập dự án trở nên bị động, bản thân dự án cũng không ổn định, phải thay đổi cho phù hợp với chính sách của Nhà nước và tình hình kinh tế khu vực cũng như trên thế giới. Việc nhập khẩu thiết bị hiện nay vẫn chưa có một kế hoạch dài hạn, chỉ đơn thuần phụ thuộc vào kế hoạch phát triển của các ngành có liên quan. Chẳng hạn ngành công nghiệp hóa chất vạch ra kế hoạch tiếp tục đầu tư cho ứng dụng và khai thác hiệu quả công nghệ kỹ thuật chuyển giao của nước ngoài trong giai đoạn từ 2000 – 2015, vì vậy sẽ xây dựng một số nhà máy sản xuất phân đạm, bột nhẹ, sản phẩm hoá chất cơ bản ứng dụng công nghệ thời kỳ tới. Cần có một chính sách xuất nhập khẩu hợp lý thời kỳ tới, chẳng hạn như: Chính sách xuất nhập khẩu cẩn trung thành với phương châm “Phát triển xuất khẩu là điều kiện tiên quyết để mở rộng nhập khẩu và các hoạt động kinh tế đối ngoại khác, là tiền đề của sự tăng trưởng”. Chính sách và cơ chế quản lý nhập khẩu phải đáp ứng yêu cầu đổi mới, hiện đại hóa thiết bị và kỹ thuật công nghệ, bảo đảm vật tư, hàng hóa thiết yếu mà nền kinh tế chưa đáp ứng được, bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước, chính sách khoa học công nghệ cần được chú trọng và phát triển, phải tranh thủ nhập khẩu công nghệ tiên tiến, thiết bị hiện đại, cấm nhập khẩu công nghệ lạc hậu so với công nghệ trong nước đang sử dụng và dễ gây ô nhiễm môi trường, ưu tiên hiện đại hóa thiết bị công nghệ đối với các ngành công nghiệp then chốt, mũi nhọn; đặc biệt quan trọng là phải có chính sách thông thoáng, biện pháp mạnh dạn để tranh thủ kỹ thuật công nghệ, phải yêu cầu nhà cung cấp nước ngoài chuyển giao đủ bí quyết công nghệ, cần có chính sách “đi tắt, đón đầu”, “ săn bắt kỹ thuật và các tài nguyên kinh doanh”. Chúng ta cần phải cố gắng tiếp thu kỹ thuật công nghệ mới từ nước ngoài, đồng thời phấn đấu để có thể tự mình điều hành được nhà máy trong tương lai, giúp cho Việt Nam vừa tranh thủ được công nghệ và vốn của nước ngoài, vừa không ngãi phải lo sẽ bị nước ngoài chi phối về kinh tế. Do vậy, yêu cầu cấp bách được đặt ra hiện nay là phải xây dựng và hoàn thiện chiến lược kinh tế tổng thể cho toàn bộ nền kinh tế nói chung và kế hoạch hợp lý đối với nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật công nghệ nói riêng. Đặc biệt là các kế hoạch nên có sự mềm dẻo cần thiết để các cơ quan thực hiện có thể tự quyết định đối với một số vấn đề cho phù hợp với tình hình thực tế mà không ảnh hưởng tới toàn bộ kế hoạch chung. 2. Nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật và tăng cường năng lực cho nguồn tài “nguyên sức người” Con người luôn là yếu tố quan trọng nhất đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Trước mắt cần xây dựng một đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn vững vàng không chỉ về kỹ thuật và thương mại mà còn am hiểu luật pháp và giỏi ngoại ngữ. Hiện nay ở nước ta đội ngũ cán bộ hoạt động trong lĩnh vực nhập khẩu thiết bị toàn bộ, từ những người lập dự án, thẩm định công nghệ kỹ thuật, phê duyệt hợp đồng, cho đến những cán bộ tư vấn là những người trực tiếp tham gia công tác nhập khẩu máy móc công nghệ... vẫn chưa có đủ kinh nghiệm và trình độ để thực hiện nhiệm vụ của mình một cách hiệu quả nhất. Để khắc phục vấn đề này cần có những chính sách thích hợp cải cách hệ thống giáo dục đại học và sau đại học theo hướng chú ý hơn tới đào tạo cán bộ thực hành, cần thực hiện một chương trình đào tạo sau đại học có chọn lọc về một số lĩnh vực khoa học và kỹ thuật lựa chọn tiếp tục đẩy mạnh hoạt động gửi sinh viên tốt nghiệp đại học xuất sắc tới các trường hàng đầu ở nước ngoài để tu nghiệp; thành lập các chương trình ngắn hạn để bồi dưỡng cho các giáo sư của các trường đại học cập nhập được những thành tựu mới trong một số lĩnh vực khoa học kỹ thuật chọn lọc; có chính sách đãi ngộ tốt đối với người có năng lực như hình thành một chương trình hỗ trợ kinh phí ngắn hạn cho các cán bộ nghiên cứu trẻ trở về sau khi hoàn thành học tập cao học từ nước ngoài. Đó có thể được xem như là những công cụ về mặt chính sách có hiệu quả nhằm nâng cao tiềm năng nghiên cứu và trình độ khoa học kỹ thuật của con người. Đội ngũ trí thức ở Việt Nam cần được khuyến khích thoả đáng để có cơ hội và tăng cường khả năng tìm tòi nghiên cứu, thu nhận thêm những kiến thức bổ ích về thương phẩm, kỹ thuật công nghệ đang liên tục thay đổi trên thế giới và nắm chắc quy định của pháp luật quốc tế trong hoạt động nhập khẩu thiết bị và kỹ thuật công nghệ. 3. Tăng cường phối kết hợp giữa các cơ quan quản lý Nhà nước Chiến lược phát triển kinh tế tổng hợp của đất nước cho dù đã được chuẩn bị kỹ càng nhưng để thực hiện đạt hiệu quả cần có sự phối hợp của tất cả các bộ phận của nền kinh tế, ở Việt Nam, khả năng phối kết hợp hoạt động giữa các Bộ, ngành, các cấp và địa phương vẫn còn yếu. Nhà nước có quy định trách nhiệm cho từng cơ quan, ban ngành, nhưng lại thiếu rạch ròi về trách nhiệm cụ thể của mỗi Bộ, ngành trong quá trình thực hiện những hạng mục có sự tham gia của nhiều chủ thê, khiến dẫn đến tình trạng trách nhiệm chồng chéo lên nhau, hoặc đùn đẩy trách nhiệm cho nhau. Nhập khẩu thiết bị toàn bộ là một hoạt động chịu sự quản lý của rất nhiều cơ quan Nhà nước trên mỗi khâu thực hiện. Mặc dù có nhiều cơ quan quản lý như vậy, nhưng chỉ có một cơ quan chịu trách nhiệm thực sự duy nhất là chủ đầu tư hoặc Ban quản lý dự án. Do sự phối hợp chưa chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý Nhà nước này, trong nhiều trường hợp phát sinh mâu thuẫn trong cách xử lý của nhiều cơ quan quản lý đối với cùng một hạng mục dự án nên dẫn đến trường hợp chủ đầu tư mất nhiều thời gian, phải bỏ ra thêm nhiều chi phí không cần thiết. Chủ đầu tư có phần nào giống như một đốc công, gần như không có quyền quyết định đối với những vấn đề quan trọng liên quan tới dự án mà luôn phải chờ ý kiến của các cơ quan quản lý có thẩm quyền. Nhà nước nên tăng cường quyền hạn và trách nhiệm cho chủ đầu tư, đối với các cơ quan quản lý Nhà nước chỉ nên giao cho vai trò giám sát, kiểm tra việc điều hành dự án của chủ đầu tư. Hiện nay Đảng và Nhà nước ta đang đẩy mạnh việc cải cách thủ tục hành chính, phân định quyền hạn trách nhiệm đối với các cơ quan quản lý Nhà nước, tuy nhiên việc thực hiện còn chậm. Để tăng tốc độ giải quyết công việc, tăng sự liện kết giữa các cơ quan, Nhà nước đã áp dụng tin học vào quản lý. 4. Hoàn thiện và bảo đảm tính thống nhất của hệ thống văn bản pháp luật liên quan tới hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật Hệ thống văn bản pháp luật của Việt Nam về lĩnh vực này tỏ ra còn nhiều thiếu sót và còn nhiều vấn đề chưa thực sự phù hợp với điều kiện hiện nay với thông lệ quốc tế khi nước ta đã ra nhập WTO, khiến cho nhiều doanh nghiệp đối tác nước ngoài và bản thân các doanh nghiệp thực hiện việc nhập khẩu thiết bị toàn bộ gặp phải nhiều vướng mắc trong quá trình hoạt động kinh doanh ở Việt Nam. Các nhà làm luật của Việt Nam cần cân nhắc kỹ lưỡng để chuyển đổi theo hướng phù hợp với thông lệ quốc tế. Tất nhiên, không nên chuyển đổi theo hướng áp dụng nguyên mẫu mà là chuyển đổi dần dần, xây dựng hành lang pháp lý thống nhất không chỉ phù hợp pháp luật quốc tế mà còn phù hợp với những đặc thù riêng của nền kinh tế xã hội nước ta. Các văn bản pháp quy trước khi ban hành cần tham khảo ý kiến của các Bộ, ngành cũng như các chuyên gia đủ năng lực, các đơn vị mà phạm vi hoạt động của họ sẽ phải chịu sự điều chỉnh của những văn bản này. Chẳng hạn như tham khảo ý kiến nhận xét về tính phù hợp của văn bản so với các văn bản ra đời trước đó, tính khả thi và mức độ dễ dàng hay khó khăn khi thực hiện theo những quy định đó, tính không rõ ràng của văn bản dẫn đến sự hiểu nhầm và ban hành những quy chế tuỳ tiện... Đặc biệt cần có văn bản quy định thống nhất quyền hạn của các Bộ, ngành tương ứng, tránh những vướng mắc khi có sự mâu thuẫn giữa các văn bản của các cơ quan có thẩm quyền tương đương (do hiện nay thẩm quyền của các Bộ có sự chồng chéo lẫn nhâu), cùng một vấn đề những có nhiều quan điểm về cách giải quyết giữa các Bộ khiến cho người thực thi không biết phải theo ai, dẫn đến việc giảm hiệu quả sử dụng đồng vốn nhập khẩu và gây ách tắc cho hoạt động sản xuất kinh doanh. 5. Nâng cao hoạt động nghiên cứu thị trường Trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu nói chung thì vấn đề thị trường đóng vai trò quyết định đến tình hình kinh doanh của các hoạt động kinh tế và đặc biệt là hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ thì vấn đề thị trường lại càng quan trọng vì do nhu cầu nhập khẩu các máy móc thiết bị trong hệ thống thiết bị toàn bộ có trình độ khoa học kỹ thuật tiên tiến, phù hợp với thị trường trong nước cần. Do đó, việc nghiên cứu thị trường cần phải được nghiên cứu một cách kỹ càng thông qua việc thu thập thông tin, tiếp cận thị trường để lựa chọn mặt hàng nhập khẩu tốt, thị trường xuất khẩu có uy tín, phù hợp và có khả năng đáp ứng nhu cầu của mình một cách tối đa nhất và qua đó tránh tình trạng chúng ta đã nhập khẩu các máy móc thiết bị quá cũ và lạc hậu không những không giúp Việt Nam trong việc phát triển trình độ khoa học kỹ thuật công nghệ trong nước mà còn biến nước ta trở thành bãi rác với các máy móc thiết bị lạc hậu. Chính vì vậy hoạt động nghiên cứu thị trường trong hoạt động nhập khẩu cần phải được tăng cường và đẩy mạnh, từng bước hiện đại hóa phương thức kinh doanh phù hợp với xu thế của thương mại thế giới, đặc biệt là thương mại điện tử. Xây dựng hệ thống thông tin dự báo thị trường; hỗ trợ về thông tin, tìm kiếm khách hàng cho các doanh nghiệp. 6. Cải thiện hoạt động vay vốn và quản lý vốn vay nước ngoài Hoạt động vay vốn nước ngoài đóng vai trò quan trọng trong việc tạo vốn cho nhập khẩu thiết bị công nghệ vào Việt Nam. Ngân hàng Nhà nước là cơ quan có trách nhiệm chủ yếu trong việc định hướng và quản lý vốn vay nước ngoài của doanh nghiệp nhưng vẫn không tránh khỏi có nơi, có lúc chưa nắm vững thực tế, vì vậy chưa theo dõi chặt chẽ các hạn mức vay trả theo định kỳ, dẫn đến việc chính bản thân Ngân hàng chưa kế hoạch hóa được khả năng vay trả nợ cho các doanh nghiệp vay vốn nước ngoài theo đúng và phù hợp các kỳ hạn trả nợ vay. Đây là điều mà Nhà nước cần quan tâm giải quyết để giúp cho các doanh nghiệp sử dụng đồng thời vốn vay thực sự hiệu quả. Ngoài ra, Nhà nước cần có biện pháp kịp thời quản lý của các tổ chức tín dụng và ngân hàng thương mại trong lĩnh vực này, có chính sách thích hợp để tăng hiệu quả sử dụng vốn ODA và vốn tín dụng xuất khẩu, có chính sách tiền tệ gắn liền mục tiêu ổn định giá trị đồng Việt Nam, tạo điều kiện phát triển ồn định kinh tế, chú trọng hơn nữa tới cơ cấu đầu tư, tăng tỷ trọng các khoản vay trung dài hạn cho các dự án kinh tế có hiệu quả, đặc biệt các dự án sản xuất nhằm đổi mới công nghệ; tiến hành đổi mới để có thể mau chóng hội nhập cộng đồng tài chính quốc tế. 7. Tham gia tích cực hơn, chủ động hơn vào hoạt động kinh tế quốc tê Trong xu thế quốc tế, hóa toàn cầu hóa hiện nay, việc tham gia các định chế thương mại, tài chính quốc tế và việc thực hiện các cam kết hoặc đàm phán với các nước và tổ chức quốc tế sẽ đem lại những lợi ích to lớn. Các tổ chức quốc tế là cầu nối giúp Việt Nam tiếp cận tốt hơn tới các nguồn vốn đầu tư lớn từ nước ngoài, đồng thời xoá bỏ đáng kể hàng rào thuế quan của các nước trên thế giới hiện đang áp dụng đối với hàng hóa của Việt Nam, đồng thời triển khai có hiệu quả luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, trên cơ sở xây dựng chiến lược thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài (FDI), cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh nhằm thu hút nhiều hơn nguồn vốn đầu tư nước ngoài, tranh thủ công nghệ kỹ thuật hiện đại để nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, nhất là trong lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu và sản phẩm công nghệ cao. Sử dụng hiệu quả nguồn vốn ODA cho các mục tiêu kinh tế xã hội. Từng bước xóa bỏ sự phân biệt về chính sách và pháp luật đối với đầu tư trong và ngoài nước, tạo điều kiện thông thoáng hơn cho doanh nghiệp và tư nhân muốn đầu tư phát triển sản xuất. Tập trung tạo ra sự chuyển biến có tính chất đột phá trong quá trình phát triển của các doanh nghiệp. Cải cách mãnh mẽ khu vực kinh tế nhà nước, cần tạo điều kiện phát triển khu vực kinh tế tư nhân – khu vực kinh tế năng động và về lâu dài sẽ đóng vai trò không nhỏ trong quá trình tăng trưởng và hội nhập quốc tế. Tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ bình đẳng khi tiếp cận với các nguồn lực tham gia xuất nhập khẩu. Tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế, Việt Nam sẽ gặp nhiều thuận lợi đặc biệt trong hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ. Để bảo vệ bí quyết công nghệ trong nước, máy móc thiết bị của nhiều nước chịu mức thuế xuất khẩu rất nặng, khi Việt Nam gia nhập tổ chức Thương mại quốc tế (WTO) mà các nước này là thành viên hoắc ký kết hiệp định thương mại song phương với các nước này, mức thuế trên được hạ thấp hoặc xoá bỏ, rất có lợi cho việc đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. II. Các giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả nhập khẩu thiết bị toàn bộ tại Công ty xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật 1. Phương hướng nhiệm vụ của Công ty trong thời gian tới Phát huy truyền thống và kinh nghiệm sau gần 50 năm hoạt động trong lĩnh vực ngoại thương, Technoimport đang từng bước thay đổi để phù hợp với tình hình thị trường hiện nay. Mục tiêu của công ty là cần giải quyết hai vấn đề cơ bản con người và công nghệ. Phát huy truyền thống đoàn kết, đào tạo đội ngũ cán bộ có phẩm chất tốt, chuyên môn nghiệp vụ cao kết hợp với việc nghiên cứu thị trường đáp ứng nhu cầu của các bạn hàng là cơ sở phát triển thị trường vủa công ty, thông qua đó tự phát triển và nâng cao hiệu quả kinh doanh, tăng cường liên doanh liên kết với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế để thương mại luôn là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng. Technoimport đặc biệt chú trọng việc tham gia vào các chương trình phát triển kinh tế thị trường định hướng của nhà nước thuộc các trọng điểm kinh tế như chế biến nông sản sau thu hoạch xuất khẩu nhằm nâng cao giá trị xuất khẩu nông nghiệp cho sản phẩm nông nghiệp; chương trình phát triển những nghành kinh tế mũi nhọn, hiện đại hoá hệ thống giao dịch, y tế, chăm sóc sức khoẻ cộng đồng nhằm phục vụ công nông ngư nghiệp, chú ý vào phát triển kinh tế xã hội, văn hoá của nhân dân thông qua việc nhập khẩu hợp lý, tăng cường năng lực của từng đơn vị, từng địa phương, thực hiện và hoàn thành kế hoạch nhà nước, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Cụ thể Công ty sẽ tiến hành hoạt động theo các mặt sau : Nhập khẩu tự doanh và nhập khẩu uỷ thác các công trình thiết bị toàn bộ, các dây truyền công nghệ, máy móc, thiết bị lẻ, nguyên nhiên liệu… phục vụ sản xuất, xây dựng, đầu tư chiều sâu, mở rộng và hiện đại hóa các công trình kinh tế văn hoá, giáo dục, an ninh quốc phòng và các loại hàng hóa khác phục vụ tiêu dùng Xuất khẩu trực tiếp các hàng hóa do công ty đầu tư sản xuất và liên doanh liên kết với các tổ chức kinh tế khác tạo ra. Nhận uỷ thác xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ, thiết bị lẻ và các hàng hóa khác theo yêu cầu của khách hàng trong và ngoài nước. Thực hiện các hoạt động tư vấn thương mại bao gồm: Việc tìm kiếm các đối tác đầu tư, cung cấp thông tin, tính toán hiệu quả kinh tế của các công trình và các luận chứng kinh tế, xác định nguồn vốn đầu tư và giá cả thiết bị nguyên vật lệu, soạn thảo các hợp đồng xuất nhập khẩu và đầu tư. Thực hiện việc liên doanh liên kết trực tiếp với các đơn vị sản xuất kinh doanh trong và ngoài nước để phát triển và mở rộng phạm vi kinh doanh, tổ chức mạng lưới kinh doanh có hiệu quả Phân cấp thanh toán cho các đơn vị cơ sở, các phòng xuất nhập khẩu, thực hiện hạch toán tổng hợp toàn công ty để đảm bảo điều hoà vốn, điều hoà kế hoạch, chỉ đạo xuyên suốt nghiệp vụ, đảm bảo kinh doanh đạt hiệu quả co nhất. Theo như kế hoạch, Technoimport sẽ được cổ phần hoá vào năm nay (năm 2008). Do vậy cơ chế hạch toán của công ty sẽ thay đổi phù hợp với công ty cổ phần và luật doanh nghiệp. Công ty sẽ không còn các phòng nghiệp vụ xuất nhập khẩu nữa. Công ty đang dần dần chuyển đổi cơ chế quản lý theo xu hướng cổ phần hóa. 2. Các giải pháp cụ thể 2.1. Tăng cường công tác đào tạo cán bộ Do đặc trưng nghiệp vụ nhập khẩu thiết bị toàn bộ có liên quan tới rất nhiều lĩnh vực khác nhau. Vì vậy nó đòi hỏi cán bộ của Công ty phải có kiến thức sâu rộng trong nhiểu lĩnh vực. Nhưng trên thực tế, hầu hết các cán bộ trong Công ty chỉ được đào tạo chuyên sâu về một lĩnh vực như nghiệp vụ ngoại thương, các nghiệp vụ vi tính, nghiệp vụ ngoại ngữ còn nhiều hạn chế. Chính vì vậy để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh và thực hiện tốt chức năng của mình, Công ty cần có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng kiến thức cho cán bộ. Cụ thể những cán bộ kỹ thuật thì cần đào tạo thêm các nghiệp vụ về ngoại thương, còn những cán bộ về ngoại thương cần đào tạo thêm các kiến thức về marketing, phổ biến các kiến thức liên quan đến luật pháp, tập quan thương mại xuất nhập khẩu của các nước, các khu vực trên thế giới liên quan đến thiết bị toàn bộ, nâng cao các kỹ năng về ngoại ngữ, tin học cho họ. Bên cạnh tổ chức các khóa học đào tạo ngắn hạn, Công ty nên khuyến khích các cán bộ tự đi học, tự trạng bị cho mình những kiến thức chuyên môn còn thiếu thanh toán một phần chi phí cũng như tạo điều kiện về thời gian và phương tiện phục vụ cho quá trình học tập và nghiên cứu cho các cán bộ. Hiện nay, Công ty có trên 90% cán bộ có trình độ đại học, có kinh nghiệm nhưng đa phần đã lớn tuổi nên Công ty cần có chính sách tuyển dụng mới. Đối tượng của chính sách này có thể là các sinh viên giỏi mới ra trường, có trình độ năng động nhiệt tình trong công việc, hăng say tìm tòi nghiên cứu hoạt động có hiệu quả có ý nguyện gắn bó lâu dài với Công ty. Tuy họ chưa có kinh nghiệm nhưng với sự giúp đỡ, chỉ bảo của các cán bộ giàu kinh nghiệm trong Công ty thì chắc chắn trong tương lai họ sẽ là đội ngũ kế cận cho lớp cán bộ hiện nay. Cũng giống như các công ty nhà nước khác, trong Công ty vẫn còn nhiều trường hợp chưa chấp hành nghiêm túc các nội quy, quy định của Công ty về kỷ luật lao động như: đi làm muộn, về sớm... Để giải quyết tận gốc vấn đề này, Công ty cần phải bố trí công việc, phủ hợp với khả năng chuyên môn của từng người, tạo điều kiện cho họ học tác phong làm việc của nước ngoài. Bên cạnh đó, Công ty phải có nhiều biện pháp cứng rắn như nhắc nhở phê bình trước toàn Công ty, năng hơn là trừ vào lương, thưởng, các khoản phụ cấp của họ. Có như vậy hoạt động của Công ty mới đi vào nề nếp và quy củ và làm tăng thêm tính hiệu quả trong kinh doanh. Ngoài ra,Công ty nên sử dụng các hình thức động viên, thưởng cả về vật chất lẫn tinh thần để động viên cán bộ trong Công ty. Cụ thể như quy định một khoản tiền thưởng cho cán bộ khi họ ký kết hợp đồng nhập khẩu có giá trị cao, hoặc có chính sách tặng quà cho họ nhân những ngày lễ lớn, sinh nhật... để tạo tâm lý tốt cho họ khi làm việc tại Công ty. Công ty cần bố trí lực lượng lao động cho hợp lý hơn để có thế phát huy tối đa năng lực sáng tạo của từng người. Với những cá nhân kinh doanh không có hiệu quả, Công ty có thể giảm biên chế hoặc thuyên chuyển công tác, còn đối với những cá nhân kinh doanh đem lại hiệu quả cao cho Công ty thì cần có chế độ khen thưởng thích đáng. Có như vậy mới tạo điều kiện thúc đẩy các cán bộ công nhân viên trong Công ty hoạt động tích cực và có hiệu quả. 2.2. Hoàn thiện hơn nữa các nghiệp vụ nhập khẩu thiết bị toàn bộ Cho dù là một công ty có thâm niên trong nhập khẩu thiết bị toàn bộ song trước những đòi hỏi của nền kinh tế thị trường, Công ty vẫn cần không ngừng hoàn thiện các nghiệp vụ xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ của mình cụ thể như: Ngay từ khi lựa chọn đối tác kinh doanh, Công ty cần phải tìm hiểu kỹ đối tác về lĩnh vực kinh doanh, khả năng tài chính, uy tín cũng như điểm mạnh, điểm yếu của họ. Đây là một khâu rất quan trọng, hạn chế các rủi ro trong kinh doanh như làm ăn với các công ty ma, những trung gian môi giới đang trong giai đoạn phá sản. Khi tiến hành đàm phán, Cán bộ công ty phải nắm vững nghệ thuật đàm phán, vận dụng một cách linh hoạt ba yếu tố của đàm phán là bối cảnh, thời gian và quyền lực của đàm phán sao cho có lợi nhất. - Bối cảnh đàm phán là môi trường và điều kiện mà các chủ đầu tư tiến hành đàm phán. Về nguyên tắc Công ty phải che dấu đước bối cảnh của mình và thăm dò thái độ của đối phương để có thể luôn đứng vào đàm phán với tư cách là người chủ động. - Quyền lực của đàm phán là sức mạnh và sự am hiểu của chủ thể tham gia đàm phán. Muốn nắm được quyền lực này Công ty phải am hiểu về nghiệp vụ, chuyên môn kỹ thuật cũng như về pháp luật. Khi ký kết hợp đồng Công ty cần chú ý nhiều điều khoản giá cả, bởi vì nếu không cẩn thận sẽ dễ bị thua thiệt. Hợp đồng cần quy định rõ, chặt chẽ tránh rắc rối về sau. Hiện nay các điều khoản về bất khả kháng, khiếu nại, trọng tài chưa được Công ty quan tâm đúng mức. Mặc dù cho đến nay Công ty chưa gặp phải rắc rối gì, nhưng trong tương lai không ai dám chắc Công ty không gặp phải những vụ tranh chấp những trường hợp bất khả kháng theo chiều hướng bất lợi cho Công ty. Như vậy để đảm bảo an toàn trong kinh doanh, Công ty cần phải quan tâm hơn nữa đến vấn đề này. Khi tiến hành làm thủ tục Hải quan để tiếp nhận hàng hoá, Công ty cần chú ý tới điểm sau đây: Mặc dù Nhà nước đã có nhiều cố gắng trong việc cải cách thủ tục Hải quan nhưng thực tế cách thức làm việc của các cán bộ Hải quan còn nhiều bất cập. Vì thế để tránh phiền hà rắc rối, Công ty cần chuẩn bị kỹ lưỡng các loại chứng từ, giấy tờ cần thiết để xuất trình với Hải quan như: hợp đồng ngoại, hợp đồng uỷ thác, giấy chứng nhận xuất xứ, giấy chứng nhận chất lượng, trọng lượng… Hiện nay khi làm thủ tục Hải quan chủ hàng phải tự kê khai, tự áp giá, áp thuế suất và tự tính số tiền phải nộp thuế. Hải quan chỉ kiểm tra số hàng thực tế của chủ hàng và các kết quả tính toán trên. Vì vậy cán bộ làm thủ tục của Công ty phải tính toán hết sức cẩn thận và chính xác để tránh những rẵc rối, phiền toái làm chậm thời gian giao hàng ảnh hưởng đến tiến độ của công trình. Là một công ty chuyên kinh doanh về hàng nhâp khẩu nên công việc của cán bộ là thường xuyên tiếp xúc với Hải quan nên để làm thủ tục thuận lợi và nhanh chóng Công ty cần tăng cường quan hệ đối với cán bộ Hải quan. Giải quyết dứt điểm tình trạng tranh cãi kéo dài trong nhiều năm giữa Công ty và Hải quan về vụ nợ thuế nhập khẩu ô tô. 2.3. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường Technoimport với tư cách một công ty hàng đầu trong lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ. Do đó một trong những công việc trọng điểm là nghiên cứu thị trường, không chỉ thị trường trong nước mà còn cả thị trường nước ngoài. Việc nghiên cứu thị trường nước ngoài đôi khi còn quan trọng hơn vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến trình độ khoa học công nghệ, giá cả lắp đặt, vận hành và bảo hành. Hơn nữa việc tìm hiểu thu thập thông tin thường rất khó khăn. Do vậy Công ty cần đầu tư đổi mới công tác nghiên cứu thị trường, cách thức nghiên cứu thị trường, đào tạo đội ngũ cán bộ nghiên cứu thị trường có trình độ, kiến thức và phương pháp tư duy tốt để phân tích đánh giá, tổng hợp và đưa ra dự báo về thị trường một cách chính xác. Về công tác nghiên cứu thị trường quốc tế: - Nắm vững pháp luật, tập quán thương mại quốc tế cũng như tình hình kinh tế chính trị của nước đó, tìm ra ưu điểm của thiết bị toàn bộ sản xuất tại đây cũng như tập quán xuất nhập khẩu của các nước này. Đồng thời nghiên cứu xuất xứ, mâu thuẫn chính trị với các nước khác. - Nghiên cứu mặt hàng có thể nhập khẩu về mặt giá cả, mẫu mã, chất lượng , chính sách xuất nhập khẩu về mặt hàng đó, các lệnh phong toả, trợ giá của chính phủ đối với mặt hàng này. - Hình thành mạng lưới kinh doanh, văn phòng đại diện , thông tin liên lạc của công ty ở các thị trường nhập khẩu trọng điểm. - Nghiên cứu cước phí vận tải, bảo hiểm sao cho lựa chọn được điều kiện có lợi nhất. Về công tác nghiên cứu thị trường trong nước: - Nghiên cứu nhu cầu nhập khẩu mặt hàng của nền kinh tế cũng như ảnh hưởng của việc nhập khẩu thiết bị đối với nền kinh tế. - Nghiên cứu chính sách trợ giúp nhập khẩu, thuế nhập khẩu, thủ tục giám định, kiểm định của các cơ quan chức năng có liên quan. - Sản phẩm đầu ra của thiết bị toàn bộ, phản ứng của thị trường trước sản phẩm này, tính ưu việt của các sản phẩm so với các sản phẩm cùng loại khác tiêu thụ trong nước. - Nghiên cứu tình hình giá cả, quy luật cung cầu, chính sách của nhà nước. - Chính sách buôn bán, thuế suất và chính sách đãi ngộ của nhà nước đối với tổ chức sử dụng thiết bị toàn bộ. - Tình hình chi phí kinh doanh để xây dựng cho mình phương thức và mặt hàng nhập khẩu tối ưu. Từ việc xác định thị trường và nhu cầu thị trường, công ty phải xác định mặt hàng cần nhập, số lượng, chất lượng và thị trường nhập khẩu. Để lựa chon một cách tối ưu ta phải chú ý tới chính sách Marketing, chính sách giá cả, sản phẩm…Đối với mặt hàng thiết bị toàn bộ cần xác định chắc chắn thị trường tiêu thụ và thường chỉ nhập theo đơn đặt hàng vì chúng là những hàng hoá có giá trị lớn. Trong hợp đồng nhập khẩu thiết bị toàn bộ càng chi tiết càng tốt phải xem xét kỹ hàng hóa đó trước ký kết hợp đồng về chất lượng giá cả. 2.4. Tạo nguồn vốn và quản lý nguồn vốn - Tìm mọi biện pháp tạo nguồn vốn, kinh doanh có hiệu quả như: thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài, từ các hoạt động kinh doanh, vốn vay ngân hàng và các tổ chức kinh tế khác. - Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn bằng cách quản lý một cách hợp lý, để quản lý hợp lý cần: + Chấp hành nghiêm chỉnh chế độ quản lý tài chính, tín dụng ngoại tệ của Nhà nước. + Khi bỏ vốn ra kinh doanh phải tính đến khả năng lỗ, lãi thời gian thu hồi vốn và các rủi ro có thể xảy ra để có các biện pháp phòng ngừa, xây dựng phương án kinh doanh một cách hợp lý. - Thường xuyên đánh giá hiệu quả một cách hợp lý và nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn. - Xây dựng một kết cấu tài sản một cách hợp lý: + Tỷ trọng tài sản cố định phải nhỏ hơn tỷ trọng của tài sản lưu động. + Tỷ trọng tài sản cố định được sử dụng trong kinh doanh phải chiếm tỷ trọng lớn. Ngược lại tỷ trọng của tài sản cố định chờ thanh lý, giá trị tài sản ngoài kinh doanh phải chiếm tỷ trọng nhỏ. - Sử dụng một cách có hiệu quả nguồn vốn lưu động bằng cách: tăng tốc độ lưu chuyển hàng hoá, lựa chọn mặt hàng kinh doanh và phương thức thanh toán phù hợp, hiệu quả và an toàn. - Thiết lập mạng lưới bán hàng trong nước một cách hiệu quả. - Khi nhập khẩu thiết bị toàn bộ cần chú ý tới việc giám định, kiểm tra chất lượng, các thông số kỹ thuật và nhiều thông tin khác về mặt hàng nhập khẩu. Giảm tối đa chi phí không cần thiết để tiết kiệm vốn. 2.5. Đổi mới hình thức kinh doanh Để có thể tồn tại và phát triển trong tình hình hiện nay, Technoimport cần phải đổi mới hình thức kinh doanh. Muốn vậy trước hết công ty cần phải giúp đỡ đội ngũ cán bộ công nhân viên trong công ty thấy được yêu cầu khách quan việc phải đổi mới và những lợi ích do sự đổi mới mang lại. Hiện nay lĩnh vực kinh doanh chủ yếu của công ty cũng là thế mạnh và nhiệm vụ của công ty là nhập khẩu thiết bị toàn bộ, trong khi đó xuất khẩu lại rất nhỏ bé. Công ty cần chú trọng hơn đến hoạt động xuất khẩu để tăng ngoại tệ xuất khẩu và mở rộng quan hệ với các thị trường khác, tạo điều kiện thuận lợi cho nhập khẩu. Mặt khác, hoạt động nhập khẩu chủ yếu của Technoimport là nhập khẩu uỷ thác, hình thức nhập khẩu này còn rất nhiều hạn chế, vì vậy công ty cần chú trọng tới hoạt động nhập khẩu tự doanh. Đây là hình thức kinh doanh mang lại lợi nhuận cao giúp công ty chủ động trong kinh doanh ,nhưng nó cũng khá mạo hiểm. Để phát triển được loại hình kinh doanh này, Công ty nên tìm nguồn vốn từ nhiều nguồn khác nhau như ngân hàng, các tổ chức tài chính quốc tế, vay vốn nội bộ, đồng thời cần tiến hành nghiên cứu kỹ nhu cầu của các doanh nghiệp trong nước xem họ cần thiết bị nào, thông số, chỉ số kỹ thuật như thế nào. Sau đó Công ty sẽ tiến hành giao dịch nhập khẩu thiết bị toàn bộ với các đối tác nước ngoài rồi cung cấp cho các doanh nghiệp Việt Nam có nhu cầu. Đổi mới hình thức kinh doanh còn có nghĩa là Technoimport phải năng động tìm kiếm thị trường và bạn hàng, tăng cường các hoạt động tiếp thị nhằm nâng cao uy tín của công ty. Công ty cũng nên có chính sách tăng lương và thưởng một cách thoả đáng để khuyến khích cán bộ của mình tự tìm kiếm khách hàng cho công ty. Việc bỏ ngỏ một khu vực khách hàng là doanh nghiệp tư nhân, mới chỉ dùng lại ở việc nhập khẩu nguyên vật liệu hay hàng tiêu dùng cho họ là hết sức đáng tiếc. Công ty cần tăng cường quan hệ với các doanh nghiệp này trong việc nhập khẩu thiết bị toàn bộ để mở rộng hoạt động kinh doanh cho mình. Một hướng đi mới khác đối với công ty là tiến hành liên doanh, liên kết với các đối tác nước ngoài trực tiếp tham gia đấu thầu cung cấp máy móc thiết bị với tư cách là người bán. Ở hình thức này công ty sẽ đóng vai trò là người bán, đứng ra cung cấp thiết bị theo yêu cầu của chủ đầu tư mà không phải bỏ nhiều vốn để thực hiện nhập khẩu các loại máy móc đó. Khi đó, liên doanh sẽ vừa đóng vai trò là người sản xuất vừa có chức năng một công ty thương mại. Khi phát hiện ra nhu cầu của khách hàng, Công ty sẽ tham gia đấu thầu. Với uy tín và lợi thế kinh doanh của mình, Công ty dễ dàng được bạn hàng lựa chọn. Sau đó Công ty sẽ thông báo nhu cầu này tới các đối tác liên doanh của mình để họ tiến hành sản xuất, cải tiến cho phù hợp yêu cầu của khách hàng. Công ty sẽ tiến hành thủ tục nhập khẩu,cung cấp cho chủ đầu tư và đón vai trò là người kiểm tra bảo hành, hướng dẫn kỹ thuật, vận hành máy móc. Như vậy sẽ tiết kiệm được chi phí cho các chuyên gia nước ngoài sang hướng dẫn kỹ thuật. Hơn nữa, thông tư QĐ 122 – BTM về cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước, Công ty xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật thuộc diện các doanh nghiệp phải tiến hành cổ phần hóa. Sau khi cổ phần hóa, Công ty sẽ chuyển đổi cơ chế quản lý từ doanh nghiệp Nhà nước sang công ty cổ phần. Do vậy, cơ chế hạch toán của Công ty sẽ thay đổi phù hợp với công ty cổ phần và luật doanh nghiệp. Sau cổ phần hóa hoạt động của Công ty sẽ được tập trung, tự hạch toán quản lý thống nhất, sẽ không còn các phòng nghiệp vụ xuất nhập khẩu nữa. Do vậy, ngay từ bây giờ Công ty nên dần dần chuyển đổi cơ chế quản lý sang việc tư nhân hoá các hoạt động kinh doanh nhập khẩu phù hợp với xu thế chung của công ty cổ phần và phù hợp với luật doanh nghiệp, luật thương mại. Với những thay đổi như vậy, mong rằng Công ty sẽ đạt được hiệu quả cao trong kinh doanh. KẾT LUẬN Toàn Đảng, toàn dân đang ra sức thi đua lao động và học tập nhằm đưa nước ta thoát khỏi tình trạng đói nghèo, lạc hậu và sớm đuổi kịp trình độ phát triển kinh tế của các nước trong khu vực và trên thế giới. Mục tiêu cơ bản trước mắt là đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020. Để đạt được mục tiêu này, nhiệm vụ đặt ra cho các doanh nghiệp thương mại nói chung, Công ty Xuất nhập khẩu Thiết bị toàn bộ và Kỹ thuật nói riêng là vô cùng to lớn. Trải qua gần 50 năm hình thành và phát triển, hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Technoimport đã góp phần không nhỏ vào việc cung cấp máy móc, thiết bị toàn bộ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và tạo công ăn việc làm cho người lao động. Trong kinh doanh, Công ty luôn đặt vấn đề hiệu quả lên hàng đầu nhưng trước xu hướng biến động phức tạp của thị trường thế giới đòi hỏi công ty phải không ngừng đổi mới nhằm đưa ra những cách thức kinh doanh phù hợp cho mình. Việc đánh giá hiệu quả hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ nhằm tìm ra những nguyên nhân, tồn tại và đưa ra các giải pháp khắc phục nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh là một trong những vấn đề xuyên suốt trong quá trình hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty. Nhiệm vụ của đề tài này cũng không nằm ngoài những vấn đề đó. Các giải pháp nêu ra trong bài viết này với mong muốn góp phần giải quyết các vấn đề còn tồn tại để nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ của Technoimport và mong muốn tìm hiểu thêm về hoạt động kinh tế này. Cuối cùng, em xin chân thành cám ơn các cô chú trong phòng XNK 5 của Technoimport đã chỉ bảo và trang bị cho em những kiến thức lý luận và thực tế để em có thể hoàn thành được bài viết này. MỤC LỤC Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA6644.DOC
Tài liệu liên quan