Chuyên đề Thực trạng và giải pháp phát triển làng nghề ở huyện Chương Mỹ - Hà Nội

Trong thời gian qua, làng nghề Chương Mỹ đã khôi phục, phát triển đạt được nhiều thành tựu to lớn. Thành quả được coi là trực tiếp đó là tạo ra việc làm và tăng thu nhập cho người nông dân Chương Mỹ Làng nghề đóng vai trò quan trọng ở nông thôn Chương Mỹ nói riêng và nông thôn Việt Nam nói chung trong quá trình CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn. Các làng nghề thúc đẩy sản xuất hàng hóa, tăng trưởng kinh tế chuyển dịch cơ câu nông thôn Chương Mỹ theo hướng tiến bộ không những thế làng nghề còn bảo tồn những giá trị văn hóa truyền thống mà những làng nghề ở Chương Mỹ đã tạo ra. Tuy nhiên làng nghề ở Chương Mỹ hiện nay vẫn còn ở quy mô nhỏ, cơ sở sản xuất vẫn là hộ gia đình là chính. Trình độ khoa học – công nghệ còn nhiều hạn chế, thị trường còn nhiều bấp bênh.

doc78 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2009 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng và giải pháp phát triển làng nghề ở huyện Chương Mỹ - Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ộ sản xuất, kinh doanh tại các làng có nghề (31 làng nghề được TP công nhận), huyện đã quy hoạch 12 điểm CN làng nghề cho 13 xã, nhằm từng bước đưa sản xuất vào tập trung, giải quyết ô nhiễm môi trường; đồng thời khuyến khích đào tạo nghề, giữ nghề và phát triển nghề truyền thống. Năm 2009 tuy bị ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu nhưng giá trị sản xuất CN-TTCN vẫn tăng giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng cơ bản trên địa bàn huyện ước đạt 2.057 tỷ đồng, tăng 12,6% so với năm 2008. Trong năm, huyện đã tiếp nhận 146 dự án vào đầu tư hoạt động sản xuất, kinh doanh có hiệu quả, giải quyết việc làm cho 12 nghìn lao động. Đến nay, tổng số doanh nghiệp đang đầu tư sản xuất kinh doanh trên địa bàn Chương Mỹ là hơn 410 doanh nghiệp. Do ảnh hưởng suy thoái kinh tế toàn cầu, nên những tháng đầu năm nay các doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn, tuy nhiên những tháng cuối năm, các doanh nghiệp đã khắc phục và tiếp tục hoạt động SXKD ổn định. Bên cạnh đó, trên địa bàn huyện hiện có 172 làng có nghề, trong đó có 31 làng nghề đã được thành phố công nhận đã và đang hoạt động sản xuất hiệu quả, với các mặt hàng, mẫu mã phong phú đa dạng, tập trung chủ yếu là sản xuất hàng mây, tre đan, chế biến nông sản, may, thêu xuất khẩu. Giá trị xuất khẩu trong năm nay ước đạt 213 tỷ đồng, tăng 4,7% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong năm, 24 xã, thị trấn trong huyện đã mở được 63 lớp dạy nghề cho hơn 2.200 học viên, với tổng kinh phí đào tạo hơn 1,5 tỷ đồng. - Về mặt xã hội: Tuy chính sách và tổ chức quản lý của nhà nước còn một số hạn chế nhưng việc khôi phục và phát triển làng nghề , ngành nghề với sự phối hợp đào tạo có hiệu quả dạy và truyền nghề , có sự hoạt động của các tổ chức tín dụng. Việc hỗ trợ của các tổ chức đoàn thể các tổ chức khuyến nông đã tác động đến phát triển làng nghề ở Chương Mỹ. Đặc biệt là khi huyện sát nhập vào Thủ đô Hà Nội tháng 8/2008 thì việc phát triển làng nghề càng được quan tâm hơn. Trong năm 2009, huyện đã tiếp nhận 146 dự án vào đầu tư hoạt động sản xuất, kinh doanh có hiệu quả, giải quyết việc làm cho 12 nghìn lao động. Đến nay, tổng số doanh nghiệp đang đầu tư sản xuất kinh doanh trên địa bàn Chương Mỹ là hơn 410 doanh nghiệp. Giải quyết được rất nhiều việc làm cho các lao động trong huyện và bên ngoài. Bên cạnh đó, trên địa bàn huyện hiện có 174 làng có nghề, trong đó có 31 làng nghề đã được thành phố công nhận đã và đang hoạt động sản xuất hiệu quả, với các mặt hàng, mẫu mã phong phú đa dạng, tập trung chủ yếu là sản xuất hàng mây, tre đan, chế biến nông sản, may, thêu xuất khẩu. Trong năm thì 24 xã, thị trấn trong huyện đã mở được 63 lớp dạy nghề cho hơn 2.200 học viên, với tổng kinh phí đào tạo hơn 1,5 tỷ đồng. Thu hút được lực lương lao động ở nông thôn, góp phần thực hiện chương trình việc làm, xóa đói giảm nghèo của huyện, nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho người dân góp phẩn đẩy lùi tệ nạn xã hội tạo cho nông thôn Chương Mỹ một bộ mặt mới. Đời sống nhân dân làng nghề được cải thiện, cơ sở hạ tầng nông thôn được nâng cấp, trật tự an ninh ổn định. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế huyện Chương mỹ theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa. * Những tồn tại và nguyên nhân của nó. Việc khôi phục làng nghề cũ, duy trì phát triển làng nghề mới trong những năm qua tuy có bước phát triển mới song chưa mạnh, chưa đồng đều. - Hầu hết các làng nghề trong huyện chưa được quy hoạch. Sự phát triển của một số làng nghề trong tỉnh còn mang tính tự phát, một số còn thiếu sự lãnh đạo của chính quyền địa phương. - ở một số làng nghề cơ sở hạ tầng hiện tại đang có sự mâu thuẫn với sự phát triển nhất là mặt bằng sản xuất chật hẹp, đường giao thông xuống cấp, điện thiếu công suất. Khi các doanh nghiệp cần diện tích mặt bằng để xây dựng, mở rộng sản xuất còn gặp không ít khó khăn về thủ tục giải quyết đất đai, ngoài luật còn có lệ làng cản trở, nguyên vật liệu cho một số ngành hàng sản xuất còn khan hiếm khó khăn. - Thiết bị công nghệ sản xuất của các làng nghề chủ yếu vẫn là thủ công, nửa cơ khí, chậm được đổi mới, ảnh hưởng không nhỏ đến năng suất, chất lượng sản phẩm. - Thị trường tiêu thụ sản phẩm chưa được mở rộng, nhất là thị trường xuất khẩu, mẫu mã chậm được cải tiến nên khả năng cạnh tranh còn rất thấp. Một số hộ gia đình còn làm hàng xô, hàng chợ, chất lượng sản phẩm kém, làm ảnh hưởng đến uy tín nghề truyền thống. - Việc vay vốn của ngân hàng và các tổ chức tín dụng, cơ chế , thủ tục còn nhiều vướng mắc. Việc huy động và tranh thủ sự hỗ trợ của các nguồn vốn khác còn hạn chế. - Một số hộ, một số doanh nghiệp ở các làng nghề sản xuất chưa ổn định, chưa chấp hành đầy đủ nghĩa vụ thu nộp ngân sách Nhà nước. - Hoạt động ở một số làng nghề phát triển nhất là các làng nghề chế biến nông sản thực phẩm, cơ khí, dệt nhuộm đã phát sinh gây ô nhiễm môi trường, có nơi đã đến mức báo động, làm ảnh hưởng đến sức khoẻ đời sống cộng đồng đang là một bức xúc, nhưng việc sử lý vẫn còn nan giải. - Các nghệ nhân tài hoa là những nòng cốt trong làng nghề chưa được khai thác sử dụng đúng với khả năng. - Việc nhân cấy, mở lớp truyền nghề cho con em nông dân nông thôn đến tuổi lao động, nhất là vùng xa đô thị. Xã đói nghèo làm thuần nông cũng nhiều khó khăn về tâm lý, về kinh phí và những điều kiện phát huy và duy trì nghề sau khi học. - Trình độ quản lý của nhiều chủ doanh nghiệp, chủ hộ trong làng chưa đáp ứng được yêu cầu của tình hình mới. * Nguyên nhân của những tồn tại trên + Tuy có chủ trương, đường lối của Đảng, song hệ thống chính sách riêng cho việc khó khăn khôi phục phát triển hoạt động làng nghề chưa có thống nhất từ Trung ương đến địa phương. + Hệ thống quản lý Nhà nước về CN- TTCN nói chung và ngành nghề làng nghề nói riêng còn bất cập. Các phòng công nghiệp huyện, thị xã chưa thể chế hoá chức năng, nhiệm vụ. Nhiều xã chưa có cán bộ theo dõi chuyên hoặc ngành nghề CN- TTCN. + Nhiều doanh nghiệp, hộ gia đình ở các làng nghề có mức vốn hạn chế, việc đầu tư đổi mới công nghệ, thiết bị để sản xuất đảm bảo chất lượng và ra sản phẩm mới có nhiều hạn chế. + Gặp khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm và khả năng vươn ra thị trường mới còn gặp những trở ngại về giá cả, mẫu mã, chất lượng và khả năng cạnh tranh + Quy hoạch phát triển làng nghề chưa có chủ trương xác định chưa có giải pháp cụ thể để khuyến khích phát triển làng nghề theo hướng CNH- HĐH. + Việc xây dựng chiến lược tiêu thụ sản phẩm của làng nghề còn nhiều bất cập và chưa được quan tâm giải quyết. Từ tất cả những tồn tại trên là nguyên nhân dẫn đến tỉnh Hà Tây chưa đạt được một số ngành hàng sản xuất có giá trị cao, có sự hấp dẫn Chương III: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ Ở CHƯƠNG MỸ - HÀ NỘI 1. Phương hướng phát triển làng nghề của Chương Mỹ trong năm 2010 và những năm tới 1.1 Ma trận SWOT - Cơ hội: + Du lịch làng nghề phát triển là điều kiện tốt để quảng bá sản phẩm. + Viêt Nam gia nhập vào các tổ chức trên thế giới: những năm gần đây Việt Nam là thành viên của nhiều tổ chức trên thế giới. Đặc biệt là khi Việt Nam là thanh viên của tổ chức thương mại thê giới (WTO) vào tháng 11/2007 có hội để nước ta quảng bá sản phẩm thủ công và có cơ hội cọ sát các sản phẩm thủ công truyền thống của các nước trên thế giới. + Nhà nước đầu tư mạnh vào làng nghề: nhà nước ngày càng thấy tầm quan trọng của kinh tế làng nghề trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn vì vậy việc đầu tư vào làng nghề là một hướng đi đúng đắn. - Thách thức: + Nguyên vật liệu cạn kiệt: việc khai thác bừa bãi làm cho nguyên vật liệu ngày càng trở nên cạn kiệt + Môi trương tại các làng nghề của huyện đang tiềm ẩn nguy cơ ô nhiễm lớn. + Thị trường bấp bênh: thời kỳ hậu khủng hoảng kinh tế thị trường mất ổn định. Điểm mạnh: + Sản phẩm của một số làng nghề ở Huyện tạo được uy tín và có thương hiệu trên thị trường trong nước về xuất khẩu. Đặc biệt là mặt hang mây tre đan + Nguồn nhân lực dồi dào Điểm yếu: + Công nghệ sản xuất lạc hậu + Nguồn vốn nhỏ, ít. + Không tạo được thương hiệu Bảng 3.1: ma trận swot Ma trận SWOT Cơ hội (O) + Du lịch làng nghề phát triển + Viêt Nam gia nhập vào các tổ chức trên thế giới + Nhà nước đầu tư mạnh vào làng nghề. Thách thức (T) +Thị trường bấp bênh +Nguyên vật liệu cạn kiệt + Ô nhiễm môi trường làng nghề Điểm mạnh (S) + Sản phẩm tạo được uy tín và có thương hiệu trên thị trường trong nước về xuất khẩu. + Nguồn nhân lực dồi dào chiến lược SO - xây dựng và phát triển làng nghề gắn với làng nghề văn hoá du lịch. - đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng. - tăng cường xuất khẩu Chiến lược ST - Quy hoạch vùng nguyên vật liệu. -Phát triển các nghề mới và làng nghề mới ở các làng thuần nông Điểm yếu (W) + công nghệ sản xuất còn lạc hậu. + nguồn vốn nhỏ, ít +không tạo được thương hiệu chiến lược W0 -huy động tối đa mọi nguồn vốn cho phát triển làng nghề. -đầu tư khoa học công nghệ - Tăng cường quản lý nhà nước. chiến lược WT -Phát triển gắn với bảo vệ môi trường. - Quảng bá sản phẩm, tăng cường marketing cho sản phẩm. 1.2 Quan Điểm về phát triển làng nghề trong nhưng năm tới * Phục hồi và phát triển làng nghề trong CNH- HĐH nông thôn, mở mang làng nghề mới, phát triển du lịch làng nghề: Tại các vùng nông thôn ở Chương Mỹ thì làng nghề là nơi tập trung dân cư sinh sống cso phương pháp tổ chức đa dạng nhưng chú yếu là hộ gia đình. Làng nghề đã giải quyết lương lao động lớn chi khu vực nông thôn; sử dụng nguyên vật liệu tại chỗ; góp phần vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn đi theo hướng CNH-HĐH. Vì vậy cần tích cực củng cố và phát triển làng nghề, mở mang làng nghề mới ở Chương Mỹ theo hướng sau: (1) Củng cố làng nghề hiện có. - Tăng cường Marketing, đổi mới máy móc, ứng dụng công nghệ tiên tiến nâng cao năng suất và chất lượng của sản phẩm của làng nghề. Không ngừng sáng tạo kiểu dáng mẫu mã sản phẩm đặc biệt là các sản phẩm mây tre đan vốn đã là thương hiệu của quê hương Chương Mỹ. - Tổ chức sản xuất kinh doanh, tổ chức các dịch vụ sản xuất hợp lý. Tổ chức sản xuất chặt chẽ đến từng hộ gia đình trong làng nghề. - Các cơ quan quản lý ngành của huyện cần giúp đỡ và hướng dẫn các làng nghề phát triển theo chủ chương của nhà nước và thực hiện đầy đủ nghiêm chỉnh các quy định của nhà nước. (2) Quy hoạch và xây dựng mô hình làng nghề mới trong thời kỳ đẩymạnh CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn. - Quy hoạch và xây dựng làng nghề huyện Chương Mỹ theo chủ trương của thành phố Hà Nội phát triển làng nghề đến năm 2010 và định hướng đến năm 2015. Kết hợp xây dựng làng nghề thành “làng nghề-văn hóa du lịch”. - Xây dưng cơ sở hạ tầng có quy hoạch (khu vực sản xuất, khu vực bán & giới thiệu sản phẩm, cơ sở dạy nghề, hệ thống giao thông , thủy lợi, điện…) và đổi mới trang thiết bị máy móc hiện đại thân thiện với môi trường. - Sở xây dựng Thành phố cần phối hợp với các sở, ban, ngành liên quan (địa chính, giao thông công chính, sở công thương, công nghiệp, nông nghiệp và phát triển nông thôn..) cùng với huyện giúp đỡ quy hoạch các làng nghề. (3) Phát triển các làng thuần nông thành các làng có nghề và phát triển các nghề mới Phát triển các làng thuần nông thành các làng có nghề và phát triển các nghề mới là một việc làm cần thiết trước mắt cũng như lâu dài trong nông nghiệp nông thôn theo hướng CNH. Hiện nay, Sở Công Thương Hà Nội và huyện Chương Mỹ đang xây dựng đề án phát triển 20 làng thuần nông của Huyện thành làng có nghề và phát triển mới 36 làng nghề. - nghiên cứu học tập các địa phương khác những nghề phù hợp với huyện đưa về nghiên cứu và mở rộng ra các làng xã trong địa bàn huyện Chương Mỹ. - Sở công thương Thành phố cần phối hợp với huyện Chương Mỹ khuyến khích người lao động ở những nơi chưa có nghề tìm tòi học tập nghề mới hình thành các làng nghề mới trên địa bàn huyện. Để thực hiện tốt đề án trên thì sở công thương Hà Nội cùng UBND huyện Chương Mỹ phải đề ra những bước đi thích hợp để phát triển những nghề mới trong các làng nghề và phát triển các làng thuần nông thành làng nghề mới. Ngoài việc phát triển và bảo tồn các làng nghề truyền thống đã có từ lâu đời như những làng nghề mây tre đan thì Huyện cũng cần có những kế hoạch phát triển các làng nghề mới tạo cho các làng nghề mới phát triển một cách vững chắc có chỗ đứng trên thị trường. Một số làng nghề tạo ra sản phẩm có nhu cầu lớn trên thị trường nhưng tỷ trọng sản phẩm làng nghề tạo ra không đủ để đáp ứng nhu cầu thị trường thì huyện Chương Mỹ cần có những chủ trương kế hoạch, biện pháp thúc đẩy phát triển nhân rộng ra nhiều hộ trong làng và nhân rộng ra trên đại bàn huyện. Còn những làng nghề mà sản phẩm tạo ra có nhu cầu ít trên thị trường thì cần cso kế hoạch giúp đỡ những làng nghề này nâng cao chất lưọng, mẫu mã sản phẩm để tạo ra những sản phẩm độc đáo hơn phù hợp với thị trường cùng với đó thúc đẩy làng nghề này phát triển một số nghè mới phù hợp với địa phương. Với những làng thuần nông cần phải tạo ra các nghề mới trong làng này nhằm phát triển sản xuất các sản phẩm phi nông nghiệp trong các hộ gia đình, cần có kế hoạch và biện pháp thúc đẩy phát triển nghề được du nhập qua việc học tập, phổ biến, lan toả từ các làng nghề, các làng nghề đã có, mà sản phẩm của chúng còn có nhu cầu lớn trên thị trường và có thể mở rộng thị trường tiêu thụ ngày càng lớn mạnh, nhất là thị trường thế giới. Hoặc có thể có thể có kế hoạch du nhập một nghề hoàn toàn mới chưa xuất hiện ở cho các làng thuần nông này, ứng d ụng c ông ngh ệ ti ên ti ến ch ưa cso ở đ ịa ph ư ơng tạo ra những tụ điểm các làng nghề, có sự phân công hợp tác chặt chẽ giữa các làng nghề để sản xuất ra một sản phẩm có chất lượng và giá trị kinh tế cao. Nhằm giải quyết việc làm cho và tăng thêm thu nhập cho người dân khu vực này vốn chỉ trông cậy vào nghề nông, tăng thêm nguồn thu cho nhà nước v à tăng tỉ trọng công nghiệp dịch vụ giảm tỉ trọng nông nghiệp góp phần vào tiến trình CNH-HĐH của nước ta (4) xây dựng và phát triển làng nghề gắn với làng nghề văn hoá du lịch. Các làng nghề huyện Chương Mỹ gắn với các sản phẩm thủ công mỹ nghệ độc đáo không những đáp ứng cho sinh hoạt hàng ngày mà còn trở thành tác phẩm nghệ thuật, mang đậm bản sắc nhân văn và bản sắc dân tộc. Thăm làng nghề ở đây là dịp được khám phá, tìm hiểu quy trình kỹ thuật của nghề, thâm nhập cuộc sống cộng đồng với những phong tục, tập quán, nếp sống và các nghi thức phường hội riêng của nền văn minh nông nghiệp lúa nước. Phần lớn các làng nghề đều có cảnh quan đẹp, giàu chất trữ tình, nét đặc trưng là cây đa, bến nước, đình chùa, đền, miếu gắn liền với các sinh hoạt văn hoá, lễ hội dân gian. Hiện nay, trong cuộc đổi mới, xây dựng kinh tế nông thôn được chú trọng, các nghề truyền thống đang từng bước phục hồi, tạo nên sinh khí, góp phần nâng cao mức sống của nhân dân. Huyện Chương Mỹ là một huyện nằm giữa tam giác du lịch Hà Nội – Ba Vì – Chùa Hương, tạo tiền đề cho phát triển du lịch. Bỏi vậy, xây dựng và phát triển làng nghề gắn liền với du lịch Chương Mỹ là một hướng đúng đắn và rất phù hợp với xu thế phát triển hiện nay mà huyện đang hướng tới. * Tăng cường xuất khẩu các sản phẩm truyền thống. Mây tre đan là sản phẩm có giá trị kinh tế cao không những để xuất khẩu của huyện Chương Mỹ. Ngoài ra huyện nên đẩy mạnh phát triển những ngành nghề đang cso nhu cầu lớn trên thị trường như đồ gỗ, nội thất sang trọng... Đặc biệt sau 1 năm 2009 xuất khẩu có dấu hiệu chững lại do khủng hoảng kinh tế thì các năm tới khi nền kinh tế đang dần phục hồi thì việc tăng cường xuất khẩu là rất cần thiết. Trong huyện chủng loại sản phẩm của làng nghề khá đa dạng và phong phú, song khả năng xuất khẩu, giá trị và hiệu quả kinh tế cũng như khả năng thu hút lao động đối với từng loại sản phẩm, từng ngành nghề cũng rất khác nhau. Trong điều kiện đó, cần tập trung ưu tiên phát triển các sản phẩm ngành nghề mà sản phẩm của nó được coi là xuất khẩu mũi nhọn. Đó là các mặt hàng thủ công mỹ nghệ như mây tre đan, đồ gỗ, trạm khắc … các sản phẩm trên phải thay đổi cải tiến kiểu dáng mẫu mã cũng như chất lượng đê có thể xuất khẩu ra nước ngoài và cạnh tranh với sản phẩm mỹ nghệ các nước khác. Tích cực tìm hiểu thâm nhập thị trường quảng bá sản phẩm cho làng nghề. Tìm các đối tác xuất khẩu trực tiếp không qua khâu trung gian như vậy sản phẩm xuất khẩu cũng không bị trượt giá, giữ được thương hiệu làng nghề, và chủ động trong sản xuất kinh doanh. Một ví dụ điển hình cho việc xuất khẩu qua khâu trung gian là Xã Phú Nghĩa (Chương Mỹ) là một trong những địa phương có nghề truyền thống mây, tre đan từ lâu đời nên sản phẩm được nhiều khách hàng trong và ngoài nước biết tiếng. Đặc biệt, nơi đây còn là điểm du lịch làng nghề, được đón nhiều đoàn khách du lịch đến tham quan, bình quân mỗi năm đón gần 1.000 lượt khách, trong đó có hơn 30 lượt khách quốc tế. Thế nhưng khi sản phẩm này xuất khẩu lại phải qua các đơn vị khác làm khâu trung gian, nên thương hiệu không còn. Không những thế các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất của làng nghề còn không tránh khỏi tình trạng bị động trong sản xuất, kinh doanh, đặc biệt là bị đối tác ép giá khiến hiệu quả sản xuất không cao. Để các làng nghề bứt phá vươn lên trong xu thế hội nhập cần có sự liên kết chặt chẽ giữa các làng nghề để nhân lên sức mạnh thương hiệu. Đặc biệt, việc đăng ký thương hiệu sản phẩm phải được quan tâm đúng mức để tăng sức cạnh tranh. * Kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại: Các làng nghề đã tạo ra việc làm ở huyện Chương Mỹ, thu hút lực lượng lao động đáng kể, góp phần xóa đói giảm nghèo và phát huy những nét văn hóa đặc sắc từ các làng nghề truyền thống. Vì vậy trong thời kỳ công nghiệp hiện đại ngày nay cần chú ý bảo tồn một số công nghệ cổ truyền tinh xảo, độc đáo, tập trung đổi mới, phát triển công nghệ tiên tiến vào sản xuất các sản phẩm tạo cho các sản phẩm làng nghề vừa có nét tinh xảo, độc đáo vừa mang tính hiện đại có năng suất lớn. Quá trình tồn tại và phát triển của làng nghề đã chỉ ra rằng khu vực sản xuất của các ngành nghề truyền thống chính là mảnh đất nuôi dưỡng, sáng tạo ra những giá trị vật chất , tinh thần truyền thống với những nét độc đáo riêng biệt của dân tộc. Nhiều sản phẩm thủ, công mỹ nghệ đã đem lại niềm tự hào cho dân tộc bởi nó phản ánh được nền văn minh và văn hóa của dân tộc Việt nam đã có hàng ngàn năm lịch sử . Đặc tính truyền thống được thể hiện trên từng sản phẩm . Tiến bộ khoa học công nghệ là một trong những nhân tố tác động đến sự phát triển của làng nghề, song điều trước tiên và quan trọng nhất là phải hướng tới để nghiên cứu tính truyền thống, kỹ thuật thể hiện những nét đẹp, những cái hay, quý giá của dân tộc . Tính truyền thống không phải là tính bảo thủ mà nó luôn được nghiên cứu, cải tiến, hoà quyện với những tiến bộ của nền văn hóa dân tộc , của thời đại làm cho truyền thống có tính hiện đại . Điều đó sẽ loại trừ được sự chắp vá tuỳ tiện , bị ảnh hưởng ngoại lai làm lu mờ tính truyền thống đích thực. Kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại nghĩa là kết hợp những công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại cần theo hướng duy trì và bảo tồn các công nghệ cổ truyền công nghệ thủ công mà các công nghệ máy móc hiện đại không thể thay thế được. Với những sản phẩm như vật thì cải tiến phương pháp công nghệ ở từng công đoạn để có thể đưa các thiết bị tiên tiến vào nhiều công đoạn tạo ra sản phẩm, hạn chế tối thiểu các công đoạn sản xuất phải dùng kỹ thuật thủ công, song vẫn phải tuân thủ quy trình công nghệ truyền thống, nhằm nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm mà vẫn đảm bảo tính độc đáo, tinh xảo của các sản phẩm. Mặt khác, cần tập trung đổi mới từng bước và toàn diện công nghệ sản xuất thủ công bằng công nghệ bán cơ khí, cơ khí hoá từng sản phẩm và toàn bộ, tiến dần lên bán tự động và tin học hoá tự động hoá ở một số khâu, công đoạn sản xuất. Đây là hướng chủ đạo trong bảo tồn và phát triển các làng nghề huyện Chương Mỹ. * Nâng cao vai trò, vị trí của làng nghề trong quá trình CNH-HĐH nông thôn. Đa số các làng nghề đều nằm ở nông thôn, vì thế phát triển làng nghề là một bộ phận của công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn. Nếu trước đây, làng nghề chỉ được xem là kinh tế phụ thuộc nông dân, để tận dụng thời gian lao động nông nhàn và tăng thu nhập " phụ " cho nông dân thì ngày nay cần nhận thức lại làng nghề là một nội dung quan trọng, một bộ phận chủ yếu trong chiến lược công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn. Làng nghề gắn với trung tâm cụm xã, có các hoạt động công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ phi nông nghiệp và tạo ra thu nhập chính ở nông thôn. Làng nghề còn là trung tâm tạo việc làm mới, thu hút lao động dư thừa trong nông nghiệp gắn với chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu kinh tế huyện Chương Mỹ Để đánh giá được đầy đủ vai trò của phát triển ngành nghề nông thôn đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động, cần căn cứ vào đầu ra của lao động, và đầu vào ngành nghề tại thời điểm xuất phát và tại thời điểm đánh giá. Trong đó cần chú ý cả về cơ cấu số lượng và chất lượng trên các mặt chủ yếu sau: Thứ nhất là chuyển dịch lao động nông nghiệp từ độc canh, tự cung tự cấp sang lao động sản xuất nông nghiệp hàng hoá đa canh với năng suất, chất lượng và hiệu quả cao. Thứ hai là chuyển dịch lao động thuần nông sang lao động kiêm ngành nghề. Thứ ba là chuyển dịch lao động từ thuần nông và kiêm ngành nghề sang lao động chuyên hoạt động trong khu vực ngành nghề phi nông nghiệp. Thứ tư là chuyển dịch lao động từ lao động thủ công sang lao động kỹ thuật có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao. Thứ năm là chuyển dịch từ lao động nông thôn sang lao động thành thị trong quá trình phát triển đô thị hoá và mở rộng thị trường lao động trong khu vực. 2. Các giải pháp góp phần tăng cường sự phát triển của làng nghề trên địa bàn huyện. 2.1 Quy hoạch phát triển các làng nghề: Phát triển ngành nghề thì phải sớm có quy hoạch tổng thể các ngành nghề khi mà trong thời gian dài vừa qua các lang nghề ở Chương Mỹ phát triển từ đơn lẻ tự phát dẫn đến tình trạng phân tán rộng khắp huyện vì vậy cần có yếu tố định hướng quy hoạch phát triển làng nghề theo nhóm ngành nghề đê từ đó có các biện pháp phát triển chuyên nghề riêng: . - Quy hoạch các điểm CN- TTCN phát triển sản xuất các làng nghề. Với đặc điểm hạ tầng yếu kém ở làng nghề, ngay những chuyên gia giỏi nhất cũng không thể tính toán tách bạch ô nhiễm do hoạt động sản xuất với ô nhiễm do sinh hoạt gây ra. Tương tự, ô nhiễm do hộ sản xuất này với hộ sản xuất kia gây ra cũng không thể phân định rõ ràng. Vì vậy, phải sớm có quy hoạch tổng thể về làng nghề, nhất là đối với những địa phương có số lượng làng nghề rất lớn như Chương Mỹ. Nếu không được quy hoạch, các làng nghề vẫn sẽ phát triển tự phát, thì, ngoài việc tiếp tục gây ô nhiễm môi trường, làng nghề sẽ không thể phát triển bền vững, thậm chí có nguy cơ bị xóa sổ khi nguồn nguyên vật liệu đầu vào, thị trường đầu ra... biến động mạnh. Trong giải pháp về hạ tầng đối với làng nghề thì chúng ta cần chú ý đến vấn đề quy hoạch và giải quyết mặt bằng sản xuất cho các làng nghề và Quy hoạch để tách sản xuất ra khỏi khu dân cư phù hợp với đặc điểm riêng của từng làng, từng nghề. Xúc tiến quy hoạch các cụm công nghiệp làng nghề, đa nghề ở các địa phương và công bố rộng rãi để các hộ sản xuất kinh doanh, các công ty, HTX biết để thuê đất phục vụ cho sản xuất - Huyện Chương Mỹ cần quy hoạch phát triển và có chính sách khuyến khích phát triển theo quy hoạch của các ngành nghề cần ưu tiên. Hiện nay, các cơ sở sản xuất - kinh doanh trên địa bàn làng nghề huyện chủ yếu tồn tại dưới hình thức hộ kinh tế gia đình, sản xuất kinh doanh diễn ra tại nơi ở của hộ gia đình. Đó vừa là nơi ở, vừa là nơi sản xuất nên nhà xưởng hẹp, môi trường bị ô nhiễm, không có khả năng mở rộng sản xuất, kết cấu hạ tầng cho sản xuất - kinh doanh không đảm bảo. Hướng tiến tới trong quá trình phát triển làng nghề là phải tách khu vực sản xuất khỏi khu vực nhà ở và phải đảm bảo kết cấu hạ tầng, đảm bảo nhà xưởng cho sản xuất - kinh doanh và bảo vệ môi trường. Cần có ưu tiên trong quá trình lựa chọn vị trí quy hoạch thuận lợi về giao thông, điện, nước, gần khu dân cư… có nghiên cứu kỹ lưỡng để lựa chọn vị trí có hiệu quả. 2.2 Về thị trường tiêu thụ sản phẩm của làng nghề Trong xu hướng hội nhập kinh tế hiện nay thì mục tiêu quan trọng mà làng nghề trong huyện Chương Mỹ hướng tới là thị trường nước ngoài. Thực chất sản phẩm của các làng nghề trong huyện mới chỉ có các sản phẩm mây tre đan là có được chỗ đứng trên thị trường quốc tế coi việc thu ngoại tệ bằng con đường xuất khẩu là một hướng đi chính. Còn sản phẩm hàng hoá của các làng nghề khác sản xuất ra chủ yếu phục vụ cho nhu tiêu thụ nội địa, xuất khẩu chỉ chiếm phần nhỏ. Hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu luôn có tỷ trọng kim ngạch cao trong những năm trở lại đây. Tuy nhiên, sản phẩm của các làng nghề Chương Mỹ rất đa dạng, phong phú song không phải sản phẩm nào cũng có khả năng xuất khẩu. Những sản phẩm đạt tiêu chuẩn xuất khẩu thường có tiêu chí rất cao về chất lượng, kiểu dáng, mẫu mã, độ tinh xảo, tính độc đáo, thẩm mỹ. Những sản phẩm nào được bạn hàng nước ngoài ưa chuộng thì có khả năng xuất khẩu cao và đạt lợi nhuận khá. Chính vì vậy, ngoài mây tre đan huyện cần ưu tiên phát triển một số ngành hàng có khả năng xuất khẩu cao như đồ gỗ, đồ đồng mỹ nghệ cao cấp, đồ gốm, sứ, sơn mài, thêu ren ... Cần phải mở rộng, đẩy mạnh công tác phát triển thị trường tiêu thụ. Trong điều kiện hiện nay của nước ta, giải quyết vấn đề này có thể tiến hành theo các hướng sau: Đối với thị trường trong nước: tiêu thụ chủ yếu các sản phẩm tiêu dung hàng ngày phục vụ cho sinh hoạt như các sản phẩm gia dụng Đối với thị trường ngoài nước (xuất khẩu): tiêu thụ sản phẩm cho những làng nghề sản xuất hàng hoá có mẫu mã đẹp, chất lượng cao, tinh xảo: sản phẩm có giá trị lớn như đồ mộc cao cấp, mây tre đan. Những giải pháp chính mở rộng thị trường tiêu thụ: - Nghiên cứu nhu cầu của người tiêu dùng trong và ngoài nước. thu thập thông tin về thị trường, hiểu về pháp luật của quốc gia nhập khẩu, tập quán thương mại… và hiểu biết về thị hiếu khách hàng. Lập kế hoạch cho sản xuất phù hợp với diễn biến trên thị trường. Có chiến lược tiêu thụ sản phẩm từ khâu bán ra cho đến khâu thu thập thông tin phản hồi của khách hàng để điều chỉnh sản xuất, tăng sức cạng tranh cho sản phẩm. - Giúp các làng nghề tiếp cận được các thông tin thị trường: Cung cấp cho các doanh nghiệp làng nghề thông tin thị trường, giá cả sản phẩm trong và ngoài nước. Tuyên truyền hiểu hết các chính sách của Việt Nam trong việc hỗ trợ doanh nghiệp. Lấy ví dụ về việc vay vốn, ngoài ngân hàng, nhiều thương nhân, đặc biệt là chủ cơ sở sản xuất nhỏ hầu như không biết đến các nguồn tài chính khác, như Ngân hàng chính sách xã hội, hoặc Ngân hàng phát triển, Quỹ hỗ trợ HTX… nên đã bỏ lỡ nhiều cơ hội kinh doanh. Vì vậy hiểu biết về các chính sách của nhà nước là rất quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh. Gắn kết giữa các thương nhân, các doanh nghiệp làng nghề với nhau để chia se thông tin thị trường với nhau được nhiều hơn. - Tổ chức hội chợ, triển lãm của huyện và giúp đỡ, hướng dẫn các doanh nghiệp, làng nghề tham gia các hội chợ, triển lãm sản phẩm của làng nghề trong nước và quốc tế. Xây dựng trung tâm hoặc cửa hàng trưng bày, giới thiệu và bán sản phẩm công nghiệp, TTCN tại các làng nghề và các khu du lịch làng nghề của huyện. - Các sản phẩm có tính chuyên môn hóa cao có sản lượng lớn thì huyện cùng với các sở ban ngành của thành phố cần tập trung giúp đỡ, hướng dẫn, đưa tiêu chuẩn quốc gia vào áp dụng và nếu đảm bảo, cấp giấy chứng nhận chất lượng theo tiêu chuẩn Việt Nam để tạo sức cạnh tranh cao trên thị trường, việc xây dựng thương hiệu cho mỗi sản phẩm làng nghề để khách hàng tin tưởng và mới có khả năng mở rộng thị trường các mặt hàng. Cần xây dựng Chương trình quảng bá, tiếp thị sản phẩm, giới thiệu thương hiệu sản phẩm, tăng cường quảng bá sản phẩm tại các hội chợ, triển lãm. Quang bs sản phẩm thông qua internet trên các trang wed mạng xã hội, báo điện tử… xây dưng tốt công tác maketing nhằm quảng bá sản phẩm. Để các làng nghề bứt phá vươn lên trong xu thế hội nhập cần có sự liên kết chặt chẽ giữa các làng nghề để nhân lên sức mạnh thương hiệu. Đặc biệt, việc đăng ký thương hiệu sản phẩm phải được quan tâm đúng mức để tăng sức cạnh tranh trên thị trường.  Để các làng nghề bứt phá vươn lên trong xu thế hội nhập cần có sự liên kết chặt chẽ giữa các làng nghề để nhân lên sức mạnh thương hiệu. Đặc biệt, việc đăng ký thương hiệu sản phẩm phải được quan tâm đúng mức để tăng sức cạnh tranh. Đăng kí thương hiệu cho sản phẩm làng nghề để bảo vệ quyền lợi cho người sản xuất, thực hiện chính sách bảo hộ hợp lý sản xuất của làng nghề tăng cường công tác quản lý thị trường, kiên quyết chống buôn lậu làm hàng giả, chống gian lận thương mại. Nhà nước cần phải thành lập các cơ quan, tổ chức phát triển và xúc tiến đưa sản phẩm của các làng nghề ra thị trường quốc tế. 2.3 Về nguyên vật liệu Cần phải quy hoạch, xúc tiến hình thành các vùng nguyên liệu tập trung. Thực hiện có hiệu quả việc chuyển đổi cơ cấu giống, cây trồng bảo đảm số lượng và chất lượng nguyên liệu cho làng nghề nói riêng, cho công nghiệp chế biến nói chung. Chủ trương bảo hiểm, trợ giá đối với nguyên vật liệu cho các làng nghề, đề xuất các chính sách bảo hộ hợp lý đối với làng nghề. Có kế hoạch khai thác vùng nguyên vật liệu một cách hợp lý, đảm bảo ổn định cho sản xuất. Hình thành các tổ chức khai thác và cung cập vật tư nguyên liệu mây tre đan đảm bảo cho sản xuất phát triển. Nghiên cứu để thành lập các tổ chức xúc tiến thương mại, khai thác cung cấp nguyên vật liệu, tiêu thụ sản phẩm cho làng nghề. 2.4 Về vốn cho phát triển làng nghề: Thiếu vốn là hiện tượng khá phổ biến trong cá làng nghề của huyện Chương Mỹ. Vì vậy cần huy động tối đa mọi nguồn vốn vào phát triển kinh tế làng nghề. Theo đánh giá của nhiều chuyên gia thì các nguồn vốn nhàn rỗi còn tồn đọng trong dân chưa được huy động vào sản xuất kinh doanh là rất lớn. Để phát triển làng nghề của huyện cần huy dông tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong dân. Cần ưu tiên cho các làng nghề vay vốn với lãi suất thấp thời hạn cho vay hợp lý và tăng vốn cho vay từ các nguồn vốn tín dụng đầu tư, quỹ hỗ trợ phát triển, quỹ quốc gia xúc tiến việc làm, ngân hàng phục vụ cho người nghèo và các ngân hàng chuyên doanh tăng vốn cho vay với lãi suất ưu đãi cho cơ sở sản xuất CN-TTCN trong làng nghề, làng nghề mới, sản xuất những mặt hàng nhà nước khuyến khích phát triển mà thời gian đầu tư gặp nhiều khó khăn, chưa có khả năng trả nợ. Các cơ sở sản xuất trong làng nghề nên vay từ quỹ hỗ trợ phát triển huyện để đầu tư phát triển ngành nghề mới huyện và thành phố triển khai do UBND quy định trong từng thời kỳ thì được dùng tài sản hình thành từ vốn vay để thế chấp ngân hàng và được UBND huyện tái bảo lãnh. Các ngân hàng thương mại và quỹ đầu tư nâng cao trách nhiệm trong việc tạo điều kiện cho sản xuất trong làng nghề vay trên cơ sở thẩm định hiệu quả tính khả thi của dự án. Tổ chức các cơ quan tư vấn giúp đỡ cơ sở sản xuất làng nghề xây dựng các dự án đầu tư phát triển khả thi, hiệu quả và tạo điều kiện để các cơ sở được vay vốn thuận lợi. Trước tiên, chi nhánh quỹ hỗ trợ phát triển huyện xem xét giúp đỡ một số hộ ở làng nghề lập dự án và cho vay từ nguồn vốn quỹ hỗ trợ quốc gia, vốn tín dụng ưu đãi. Giải quyết cho vay vốn lưu động đáp ứng chu kỳ vòng quay của sản phẩm, tạo điều kiện cho người dân làng nghề chủ động trong hoạt động tài chính. Cần tạo ra các quỹ, nguồn vốn để đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ trong làng nghề. Hỗ trợ việc xây dựng các đề án công nghệ. Khi huy động nguồn vốn trong quỹ phải chặt chẽ trong chi tiêu và đúng mục đích cần dùng. 2.5 Về phát triển nguồn nhân lực: Từ xa xưa, việc truyền nghề trong từng gia đình, dòng họ, là con đường chủ yếu để học nghề. Theo cách này thì tay nghề bí quyết nghề được hình thành vững chắc và người thợ có thể tạo ra những sản phẩm chất lượng cao, giàu tính độc đáo, đồng thời có thể phát triển tiếp nghề của cha ông. Tuy nhiên, học theo cách truyền nghề thì thời gian học nghề khá dài, số người được học nghề ít và sự phát triển toàn diện nhân cách lao động kỹ thuật hạn chế. Đặc biệt trong điều kiện giao lưu mở rộng thị trường lao động trong và ngoài nước thì cách truyền nghề tỏ ra không phù hợp. Chính vì vậy, chúng ta cần mở rộng các hình thức đào tạo nghề. Trước hết, cần phát triển nhanh công tác đào tạo nguồn nhân lực cho các cơ sở sản xuất, phải coi trọng khả năng đào tạo, bồi dưỡng lớp thợ trẻ kế cận trong tương lai. Tăng tỷ lệ lao động có nghề nghiệp được đào tạo theo hệ chính quy có chất lượng làm nòng cốt cho các cơ sở sản xuất và là lực lượng kế cận tiếp thu các bí quyết của nghề truyền thống. Lấy thị trường làm căn cứ, gắn với kế hoạch, quy hoạch phát triển KT-XH của huyện, nhất là quy hoạch phân bổ, sử dụng và đào tạo nguồn lao động cho các ngành nghề theo trình độ và đặc điểm của từng loại ngành nghề TTCN. Bên cạnh việc tăng cường đào tạo bồi dưỡng đội ngũ các bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề cho các làng nghề, cần đi đôi với bảo tồn và nâng cao trình độ của các nghệ nhân, các " bàn tay vàng " để họ có thể sáng tạo ra nhiều sản phẩm mới. Sự kết hợp giữa các thế hệ trong các làng nghề nhằm mục đích khôi phục và phát triển làng nghề theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa nhưng vẫn duy trì và phát huy tính truyền thống, vai trò của các nghệ nhân. Sản phẩm của sự kết hợp đó là những di sản văn hóa, sản phẩm điêu khắc, nghệ thuật, các công trình kiến trúc và cả những sản phẩm phục vụ đời sống hàng ngày của con người ... được sản xuất theo quy trình công nghệ hiện đại, có sức cạnh tranh cao trên thị trường trong nước và thế giới. Giải pháp cho vấn đề đào tạo bồi dưỡng và nâng cao tay nghề cho người lao động cũng như bảo vệ các " bàn tay vàng " chỉ có thể thực hiện bằng sự hỗ trợ của Nhà nước kết hợp với sự tham gia của các làng nghề, chính quyền cấp xã và cấp huyện. + Hoàn thiện chính sách của nhà nước về lao động và đào tạo nghề nghiệp cho người lao động trong các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp trong nông thôn huyện Chương Mỹ phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp CNH-HĐH của huyện. + Đầu tư cơ sở vật chất nhà xưởng trường lớp cho công tác đào tạo và chế độ đãi ngộ đối với đội ngũ giáo viên giảng dạy đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy nghề cần tập trung vào kiến thức cho phát triển ngành TCTT của huyện Chương Mỹ. Kết hợp lý thuyết với thực hành sẽ nâng cao trình độ tay nghề và chất lượng đào tạo trong các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp ở Chương Mỹ. + Giải quyết tốt vấn đề vốn cho các trường, trung tâm dạy nghề và các cơ sở sản xuất kinh doanh. Huyện Chương Mỹ cần hỗ trợ các trường dạy nghề trong huyện về vốn theo các hướng: ưu tiên đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, theo phương châm nhà nước và nhân dân cùng làm. Hàng năm cần có kế hoạch dành một phần ngân sách của tỉnh đầu tư cho các trường, trung tâm dạy nghề, bồi dưỡng nâng cao tay nghề cho các chủ cơ sở ngành nghề kiến thức về kinh tế, tổ chức sản xuất, áp dụng chính sách tín dụng ưu đãi đối với các ngành nghề, trong đó khuyến khích cho vay đổi mới máy móc, chất lượng đào tạo trong các cơ sở dạy nghề. Giải pháp về vốn là rất quan trọng, nhằm đầu tư cho công tác đào tạo, bồi dưỡng nghề cho người lao động cả văn hoá và nghề nghiệp để phát triển các ngành nghề TTCN ở Chương Mỹ theo hướng CNH-HĐH.. Đội ngũ nhân lực kỹ thuật làm việc trong lĩnh vực làng nghề thường bao gồm thợ giỏi, nghệ nhân làm nòng cốt cùng với đội ngũ thợ thủ công đông đảo trực tiếp sản xuất, ngoài ra còn gồm các nhà quản lý, kinh doanh giỏi trong tổ chức sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Trong điều kiện mới của nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh gay gắt đòi hỏi đội ngũ nhà kinh doanh, quản lý phải hết sức am hiểu nghề, luật pháp trong sản xuất kinh doanh. Đặc biệt cần có sự nhanh nhạy, sáng tạo trong quá trình tổ chức sản xuất, tiêu thụ sản phẩm ở trong và ngoài nước. Bởi vậy, họ cần phải được đào tạo, bồi dưỡng về nghề nghiệp và các lĩnh vực hoạt động liên quan. Đồng thời cần được tạo điều kiện liên kết, liên doanh ở trong và ngoài nước để mở rộng tầm hiểu biết cũng như phát huy năng lực sáng tạo của họ trong lĩnh vực mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm làng nghề ra nước ngoài. 2.6 Ứng dụng khoa học công nghệ để phát triển sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm của làng nghề: Các làng nghề chủ yếu sử dụng công nghệ từ xa xưa, những công nghệ mang tính đặc thù riêng biệt thì vẫn cần phải giữ gìn, còn lại chúng ta rất khó khăn khi cạnh tranh với các mặt hàng chủ yếu dựa trên lợi thế công nghệ. Vì vậy, để khôi phục và phát triển làng nghề huyện Chương Mỹ theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa nhất thiết phải đổi mới máy móc, thiết bị và ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất. Đổi mới công nghệ, hiện đại hoá kỹ thuật sản xuất là một trong các giải pháp quan trọng có ảnh hưởng tới sự phát triển của làng nghề. Công nghệ thay đổi làng nghề có điều kiện tăng nhanh năng suất lao động, sản phẩm vừa mang tính hiện đại và tinh xảo, truyền thống tăng tính cạnh tranh của sản phẩm. Đó chính là tác động rất lớn của khoa học công nghệ tới làng nghề. Với thay đổi không ngừng tiến bộ của khoa học công nghệ trên thê giới , quá trình công nghệ thay đổi rất nhanh chóng đến mức chỉ còn vài năm để 1 sản phẩm công nghệ hiện đại bị coi là lạc hậu. Vì vậy, đổi mới công nghệ thiết bị trong làng nghề lại càng là vấn đề cấp thiết. Nhưng sản xuất trong làng nghề không thể đưa toàn bộ thiết bị hiện đại vào vì như vậy thì sản phẩm mà được sản xuất ra không còn mang tính văn hoá truyền thống hay nói cách khác là nó không còn là một sản phẩm của làng nghề theo đúng tính chất của nó nữa. Do đó phải đổi mới công nghệ thiết bị dần từng bước trên một số nguyên tắc: - Công nghệ cũ tỏ ra không thích hợp và sản phẩm sản xuất ra bằng công nghệ cũ này không đủ khả năng cạnh tranh do chất lượng hay giá thành. Cần phải có sự kết hợp giữa công nghệ mới và công nghệ truyền thống. Công nghệ được lựa chọn phải thích hợp với công nghệ truyền thống hay công nghệ truyền thống phải có khả năng tiếp thu công nghệ mới về trình độ kỹ thuật để tạo ra những sản phẩm có khả năng cạnh tranh cao. Và công nghệ mới được lựa chọn cũng phải phù hợp với nguyên vật liệu tại chỗ.. Công nghệ gắn với bảo đảm vệ sinh môi trường. Sử dụng công nghệ thân thiện với môi trường. Tăng cường công nghệ bảo bệ môi trường. Hiện đại hoá công nghệ phải lấy hiệu quả kinh tế làm thước đo. - Có thể kết hợp nhiều ngành nghề, nhiều công đoạn công nghệ trên một sản phẩm. Việc đổi mới công nghệ đối với làng nghề không những cần lượng vốn lớn mà cần cả sự nhạy cén trong việc thay đổi công nghệ đây là vấn đề khó khăn, vượt quá khả năng của từng đơn vị sản xuất-kinh doanh trong làng nghề, do đó cần có sự hỗ trợ từ phía nhà nước. Do nhà nước không thể làm thay đơn vị sản xuất kinh doanh nên chỉ có thể giúp đỡ bằng các biện pháp hỗ trợ sau: (1) Phổ biến kiến thức về kỹ năng sử dụng công nghệ một cách thường xuyên thông qua các hình thức khác nhau và bằng nhiều phương tiện. (2) Nhà nước thực hiện những chính sách ưu đãi về thuế, vốn vay cho các đơn vị SX-KD của làng nghề này. Khi các đơn vị này mua máy móc thiết bị đổi mới công nghệ. (3) thúc đẩy làng nghề quan hệ với các tổ chức khoa học nghiên cứu công nghệ cho các làng nghề. (4) Hỗ trợ cho hoạt động của các trung tâm tư vấn, chuyển giao công nghệ và các hoạt động hỗ trợ về mặt kỹ thuật và công nghệ cho các làng nghề. 2.7 Phát triển phải gắn với bảo vệ môi trường đảm bảo cho phát triển bền vững Hiện nay, môi trường trong các làng nghề là vấn đề rất đáng lo ngại ở huyện Cương Mỹ. Tất cả các làng nghề trong huyện đều tiểm ẩn những nguy cơ ô nhiễm môi trường rất cao. Gây ảnh hưởng đến sức khoẻ người dân sinh sống trong khu vực làng nghề và đời sống sản xuất.. Vì vậy, trước hết cần tuyên truyền, vận động, hướng dẫn hỗ trợ về thông tin, kỹ thuật để các cơ sở sản xuất có điều kiện xử lý, giảm gây ô nhiễm môi trường từ sản xuất. Mặt khác nhà nước cần sớm có quy hoạch xây dựng sản xuất cho làng nghề, và có những biện pháp quản lý hạn chế ô nhiễm. Để khắc phục tình trạng này, chúng ta phải thực hiện tốt việc quản lý và BVMT. Tôi cho rằng các địa phương có làng nghề cần sớm tiến hành những biện pháp về quản lý và kỹ thuật cụ thể, phù hợp với quy mô và khả năng của mình. Các biện pháp giảm thiểu ô nhiễm môi trường ở các làng nghề sản xuất thủ công (1) Về biện pháp quản lý: Các địa phương có làng nghề cần có phương án tách khu sản xuất ra khỏi khu dân cư, quy hoạch xây dựng hợp lý khu công nghiệp  làng nghề mới và có kế hoạch quản lý tốt môi trường . Cụ thể là: + Đề ra những quy định về quản lý, BVMT và an toàn lao động trong các làng nghề; định mức và thu lệ phí môi trường đối với các hộ, tổ hợp sản xuất để triển khai và duy trì các hoạt động quản lý và BVMT của xã. + Thành lập đội vệ sinh môi trường của làng nghề (xã nghề) để kiểm tra thường xuyên tình trạng môi trường trong khu vực sản xuất, thu gom chất thải; xử lý bụi giao thông v.v... + Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức và trách nhiệm BVMT và sức khoẻ cộng đồng cho các chủ sản xuất, người lao động và nhân dân; + Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra môi trường làng nghề; xử phạt thích đáng đối với các trường hợp vi phạm các quy định về môi trường. + Triển khai  áp dụng các công nghệ tiến bộ trong sản xuất để nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm lượng phát thải, áp dụng biện pháp quản lý và xử lý chất thải đơn giản, rẻ tiền, để các hộ tư nhân có thể sử dụng. + Từng bước hoàn phục môi trường ở khu dân cư, trả lại cảnh quan sạch đẹp cho làng, xã. (2) Các biện pháp kỹ thuật: +   Xây dự bể xử lý nước thải, chôn lấp rác thải làng nghề theo quy định chôn lấp chất thải độc hại + Thanh lý trang thiết bị máy móc cũ kỹ + Ngoài ra, cần nâng cấp và thường xuyên tu sửa các đoạn đường vận chuyển. Tổ chức phun nước chống bụi nhiều lần trong ngày. Đình chỉ hoạt động của các phương tiện vận chuyển có chất lượng quá kém. Sự tồn tại và phát triển của các làng nghề là một mô hình sản xuất mang tính cộng đồng cao, trong những năm qua đã góp phần đáng kể vào sự phát triển KT-XH của các địa phương. Đây là một mô hình kinh tế cần được khuyến khích và hướng dẫn để phát huy những tính tích cực, đồng thời giảm thiểu các tác động tiêu cực tới môi trường và xã hội. Để phát triển mô hình làng nghề theo mục tiêu phát triển bền vững, các cơ quan quản lý ở các địa phương cần có kế hoạch cụ thể trong việc thực hiện các biện pháp quản lý và các biện pháp kỹ thuật phù hợp để giảm thiểu tác động môi trường trong khu vực làng nghề một cách có hiệu quả. ở tầm vĩ mô, Nhà nước cần hỗ trợ một phần cho các địa phương giải quyết một số  vấn đề về cơ sở hạ tầng. 2.8 Tăng cường quản lý nhà nước: Cùng với việc bổ sung và hoàn thiện chính sách nhằm phát triển làng nghề, việc bộ máy quản lý nhà nước đối với làng nghề cũng cần được kiện toàn nhằm bảo đảm khả năng quản lý có hiệu lực đối với làng nghề. Hệ thống quản lý nhà nước cần phải có tính hệ thống chặt chẽ đảm bảo cso thể theo dõi , điều tiết sự phát triển của làng nghề, xuyên suốt trung ương đến cơ sở. Để làm được điều này cần thiết phải có các cơ quan quản lý chuyên môn đồng thời phải có sự hợp tác hiệu quả hơn giữa các cơ quan quản lý có lien quan cùng nhau giải quyết các vấn đề mà làng nghề đặt ra. Để tạo điều kiện cho làng nghề phát triển, cơ quan quản lý nhà nước ở Chương Mỹ cần làm một số việc sau: Tham mưu cho các cơ quan quản lý cấp trên chính sách nhằm tạo điều kiện cho làng nghề phát triển. Theo dõi và đưa ra các giải pháp thích hợp cho phát triển làng nghề các mặt như thị trường sản phẩm, vốn, công nghệ và thiết bị sản xuất, mẫu mã sản phẩm…. chính sách trợ giúp cho các làng nghề có sản phẩm mang nét văn hoá truyền thống. Nắm chắc các chỉ tiêu kinh tế kĩ thuật của làng nghề, báo cáo lên cơ quan cấp trên để từ đó đưa ra những quyết định đúng đắn. Tổ chức, thành lập các hội nghề nghiệp. * Đối với nhà nước: (1) Giải quyết tốt vấn đề vốn cho làng nghề dựa trên cơ sở quy hoạch và kế hoạch đã được duyệt Nhà nước cần hỗ trợ các làng nghề về vốn theo các hướng: ưu tiên đầu tư xây dựng và nâng cấp cơ sở hạ tầng các làng nghề theo phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm, cùng mở rộng, bảo vệ xây dựng các trung tâm cụm xã, bồi dưỡng nâng cao tay nghề cho lao động làng nghề, áp dụng chính sách tín dụng ưu đãi đối với các làng nghề, trong đó khuyến khích cho vay đổi mới máy móc thiết bị và áp dụng công nghệ hiện đại vào sản xuất để nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm làng nghề. Hoàn chỉnh các luật, bộ luật về đầu tư, tín dụng, tổ chức tín dụng, hướng dẫn cơ sở ngành nghề. Đơn giản hóa các thủ tục vay vốn, đa dạng hóa các hình thức cho vay, tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ sở vay vốn phát triển kinh doanh. Giải pháp về vốn rất quan trọng vì muốn phát triển làng nghề theo hướng công nghiệp hóa các hộ gia đình, các tổ hợp tác xã rất cần vốn để đầu tư cả chiều rộng và chiều sâu, cả vốn cố định và vốn lưu động. (2) Phát triển đa dạng các hình thức tổ chức sản xuất Trong làng nghề tồn tại các koại hình sản xuất kinh doanh đa dạng , phong phú , hoạt động đan xen , phát triển như hợp tác xã , tổ nhóm hợp tác , hộ gia đình , các loại hình doanh nghiệp khác ( doanh nghiệp tư nhân , công ty TNHH , công ty Cổ phần ...) Do tính chất sản xuất khác nhau của mỗi ngành nghề và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất khác nhau mà có những hình thức tổ chức khác nhau . Chính vì vậy , cần tổ chức sắp xếp lại một cách hợp lý , sẽ tạo nên sự trợ giúp lẫn nhau trong quá trình phát triển . Sự hợp tác và phân công lao động là xu thế tất yếu của quá trình phát triển lực lượng sản xuất cho nên loại hình kinh tế hợp tác và hợp tác xã là một trong những mô hình tổ chức thích hợp cho sự phát triển các ngành nghề thủ công , các làng nghề Chương Mỹ. Chính vì vậy , cần lựa chọn các mô hình tổ chức sản xuất thích hợp với từng loại nghề , từng làng nghề : Phát triển các loại hình kinh tế hợp tác và hợp tác xã , chú trọng xây dựng các hợp tác xã kinh doanh tổng hợp gắn với ngành nghề và các làng nghề , đặc biệt ở khu vực nông thôn . Phát triển các cơ sở kinh tế hợp tác đơn giản như tổ , nhóm liên kết , nhóm liên gia , tiến tới hình thành hợp tác xã , các doanh nghiệp vừa và nhỏ . Tuỳ theo đặc điểm của từng ngành nghề , tổ chức thành các hợp tác xã sản xuất tập trung , hoặc các công ty cổ phần , các thành viên là các hộ gia đình , được hợp tác xã đảm bảo cho việc ổ định sản xuất . Xây dựng hệ thống hợp tác xã dịch vụ trong ngành nghề và các làng nghề , góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển , tăng khả năng cạnh tranh cho các cơ sở sản xuất , các doanh nghiệp nhỏ và vừa . Cần có chính sách khuyến khích , tạo điều kiện , bảo vệ quyền lợi của các cơ sở sản xuất kinh doanh ( như quyền sở hữu về tài sản , bí quyết công nghệ , phát minh sáng chế , bản quyền và quyền sở hữu công nghiệp , mẫu mã , kiểu dáng công nghiệp ) để tạo môi trường cạnh tanh lanh mạnh , tạo sức bật cho các doanh nghiệp làng nghề , nhất là khi chúng ta chuẩn bị xoá bỏ hoàn toàn hàng rào thuế quan vào 2003. Khuyến khích việc tự nguyện thành lập các hiệp hội theo ngành nghề , theo địa phương nhằm hỗ trợ cho các cơ sở ngành nghề Nhà nước trong việc hoạch định cơ chế , chính sách phát triển ngành nghề . Bên cạnh đó , cần khuyến khích sự kiên kết , hợp tác giữa các cơ sở sản xuất , các cơ sở sản xuất với các cơ quan , doanh nghiệp Nhà nước với các tổ chức và doanh nghiệp nước ngoài trong việc nghiên cứu thị trường , tiếp thị , phối hợp giữa tiêu thụ nội địa và xuất khẩu để tạo ra sức mạnh cạnh tranh khi chúng ta có lợi thée về nguồn nguyên liệu , lực lượng lao động , tay nghề và tổ chức quản lý , sản xuất một cách hợp lý , khoa học . (3) Bổ sung và hoàn thiện qui hoạch các làng nghề làm căn cứ cho công tác kế hoạch , đầu tư và thị trường . Để có kế hoạch phù hợp , trước hết cần điều tra , khảo sát toàn bộ các làng nghề hiện có ở Hà Nội , bao gồm cả làng nghề truyền thống và làng nghề mới theo các tiêu chí rõ ràng , cụ thể . Trên cơ sở đó đề ra các kế hoạch phát triển . Qui hoạch và kế hoạch sản xuất nhất thiết phải gắn với nhu cầu của thị trường trong và ngoài nước hiện tại và tương lai theo nguyên tắc : lấy thị trường làm căn cứ . Qui hoạch và kế hoạch phát triển làng nghề phải gắn với qui hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Hà Nội , của địa phương , nhất là qui hoạch nông thôn , qui hoạch giao thông , thuỷ lợi , điện, thông tin liên lạc, y tế, giáo dục, các vùng sản xuất nguyên liệu , đào tạo , phân công , sử dụng lao động , bảo vệ môi trường .Hướng dẫn các địa phương triển khai xây dựng qui hoạch, lập dự án; xác định tiêu chí ngành nghề để thực hiện các chính sách ưu đãi trong việc bảo tồn và phát triển ngành nghề đó. Cần có chính sách khuyến khích các nhà khoa học , cơ quan nghiên cứu triển khai , định hướng nghiên cứu và phổ biến kết quả nghiên cứu về công nghệ kỹ thuật sản xuất mới , quan tâm đến các công nghệ kỹ thuật xử lý chất thải , bảo vệ môi trường và đảm bảo vệ sinh an toàn lao động . Kết luận Trong thời gian qua, làng nghề Chương Mỹ đã khôi phục, phát triển đạt được nhiều thành tựu to lớn. Thành quả được coi là trực tiếp đó là tạo ra việc làm và tăng thu nhập cho người nông dân Chương Mỹ Làng nghề đóng vai trò quan trọng ở nông thôn Chương Mỹ nói riêng và nông thôn Việt Nam nói chung trong quá trình CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn. Các làng nghề thúc đẩy sản xuất hàng hóa, tăng trưởng kinh tế chuyển dịch cơ câu nông thôn Chương Mỹ theo hướng tiến bộ không những thế làng nghề còn bảo tồn những giá trị văn hóa truyền thống mà những làng nghề ở Chương Mỹ đã tạo ra. Tuy nhiên làng nghề ở Chương Mỹ hiện nay vẫn còn ở quy mô nhỏ, cơ sở sản xuất vẫn là hộ gia đình là chính. Trình độ khoa học – công nghệ còn nhiều hạn chế, thị trường còn nhiều bấp bênh. Chúng ta có thể khẳng định rằng phát triển các làng nghề ở Chương Mỹ là một biện pháp quan trọng, là một bộ phận không thể thiếu để phát triển KT-XH và chuyển dịch cơ cấu kinh tế Chương Mỹ phù hợp với xu thế phát triển của Việt Nam, khu vực và cả thế giới Do thời gian làm chuyên đề tìm hiểu về cáclàng nghề còn nhiều hạn chế nên trong quá trình thực hiện đề tài không thể tránh khỏi những sai xót. Vì vậy em rất mong thầy giáo đóng góp í kiến để đề tài của em được hoàn thiện hơn. MỤC LỤC Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc31605.doc
Tài liệu liên quan