Chuyên đề Thực trạng xuất khẩu cà phê Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2008 đến 6 tháng đầu năm 2011 và đưa ra giải pháp

MỤC LỤC Tiêu đề Trang PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 3 2. Mục tiêu nghiên cứu 4 2.1 Mục tiêu chung 4 2.2 Mục tiêu cụ thể 4 3. Phương pháp nghiên cứu 4 3.1 Phương pháp thu thập số liệu 4 3.2 Phương pháp phân tích 4 4. Phạm vi nghiên cứu 4 4.1 Phạm vi không gian 4 4.2 Phạm vi thời gian 4 4.3 Đối tượng nghiên cứu 4 PHẦN NỘI DUNG Chương 1: Cơ sở lý luận và sơ lược tình hình sản xuất, chế biến cà phê ở Việt Nam 5 1.Cơ sở lý luận và vai trò cây cà phê đối với nền kinh tế xã hội 5 1.1 Cơ sở lý luận về cà phê 5 1.2 Vai trò của cây cà phê đối với nền kinh tế xã hội 6 2. Quá trình phát triển cây cà phê ở Việt Nam 6 3. Vấn đề chế biến cà phê từ khi gia nhập WTO cho đến nay. 7 Chương 2: Phân tích tình hình xuất khẩu cà phê Việt Nam sang các nước và các nhân tố ảnh hưởng 9 1. Tiềm năng phát triển của ngành 9 2. Tình hình xuất khẩu cà phê những năm vừa qua 9 2.1 Kim ngạnh xuất khẩu 9 2.2 Giá cả 11 3. Thuận lợi và khó khăn của ngành cà phê Viết Nam 12 3.1 Thuận lợi 12 3.2 Những khó khăn và thách thức trong lĩnh vực xuất khẩu cà phê 13 Chương 3: Những giải pháp thúc đẩy xuất khẩu cà phê Việt Nam 15 1. Đối với doanh nghiệp 15 2. Đối với người nông dân 16 3. Đối với nhà nước 17 Chương 4: Kết luận và Kiến nghị 19 4.1 Kết luận 19 4.2 Kiến nghị 19 4.2.1 Đối với nhà nước 19 4.2.2 Đối với doanh nghiệp 19 TÀI LIỆU THAM KHẢO 21 PHẦN MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Là một nước nằm ở vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa và có lưu lượng mưa lớn cho nên Việt Nam có điều kiện thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp. Thêm vào đó, vùng Tây Nguyên và Đông Nam Bộ có không khí mát mẻ cộng với nền đất bazan màu mỡ rất thích hợp cho việc phất triển cây công nghiệp trong đó cà phê là một loại cây điển hình. Xuất khẩu nông sản nói chung và xuất khẩu cà phê nói riêng là một trong những ngành đem lại nguồn ngoại tệ lớn cho nền kinh tế trong nước. Đây là một ngành kinh tế mũi nhọn của Việt Nam, giúp thúc đẩy phát triển nền kinh tế, giải quyết vấn đề việc làm, giảm gánh nặng cho xã hội Những năm gần đây Việt Nam là một nước đứng thứ hai trên thế giới trong việc xuất khẩu cà phê (đứng sau Brazin). Sau khi Việt Nam gia nhập WTO (World Trade Organization) tổ chức thương mại thế giới năm 2007, nền kinh tế bước vào một giai đoạn phát triển mới. Trong đó lĩnh vực xuất khẩu cà phê cũng chuyển sang một bước ngoặc lớn. Năm 2008, kim ngạch xuất khẩu cà phê đạt hơn 2,11 tỷ USD, tăng hơn so với năm 2007 khoảng 9,46%. Xuất khẩu cà phê đem lại nguồn thu ngoại hối đứng thứ hai cho quốc gia (trong lĩnh vực xuất khẩu nông nghiệp), chỉ đứng sau gạo (2). Sản phẩm cà phê Việt Nam đã bán được trên nhiều quốc gia trên thế giới. Bên cạnh các thị trường tiêu thụ lớn như: Châu Âu, Mỹ cà phê còn được xuất sang các nước như: Nam Mỹ (Ac-hen-ti-na), Trung Đông. Tuy gia nhập vào WTO có nhiều thuận lợi, nhưng bên cạnh đó chúng ta còn phải tuân thủ một số điều luật khá khắc khe về chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm. Thêm vào đó giá trị xuất khẩu cà phê những năm gần đây có xu hướng giảm so với năm 2008 (năm 2009 xuất khẩu cà phê đạt khoản 1,73 tỷ USD, năm 2010 khoản 1,85 tỷ USD) (2). Nguyên nhân do tình trạng đầu cơ của các doanh nghiệp nước ngoài, nợ công ở châu Âu (là thị trường cà phê lớn nhất của Việt Nam) đã khiến cho xuất khẩu cà phê giảm mạnh về số lượng lẫn giá cả. Xuất (1) (2) Tổng cục thống kê Việt Nam (2010). khẩu cà phê nhân vẫn còn chiếm một phần lớn trong xuất khẩu cà phê. Chất lượng cà phê tương đối thấp do trang thiết bị chế biến và bảo quản còn nghèo nàn. Vì lý do đó nên em đã chọn đề tài: “Thực trạng xuất khẩu cà phê Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2008 đến 6 tháng đầu năm 2011 và đưa ra giải pháp.” 2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU 2.1 Mục tiêu chung Phân tích thực trạng ngành xuất khẩu cà phê của Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2008 đến 6 tháng đầu năm 2011 và đưa ra giải pháp giúp thúc đẩy việc xuất khẩu cà phê ở Việt Nam. 2.2 Mục tiêu cụ thể - Phân tích hiện trạng xuất khẩu cà phê ở Việt Nam. - Phân tích những thuận lợi và khó khăn trong ngành. - Đề ra những giải pháp giúp thúc đẩy ngành xuất khẩu cà phê. 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1 Phương pháp thu thập số liệu Nguồn số liệu được thu thập chủ yếu từ các nguồn: Sách, báo, internet, các bài chuyên đề có liên quan, 3.2 Phương pháp phân tích Phương pháp được áp dụng là thống kê mô tả, phân tích biểu bảng thống kê. Sử dụng các số tuyệt đối , số tương đối để phân tích và chứng minh. 4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU 4.1 Phạm vi không gian Đề tài được thực hiện tại Việt Nam. 4.2 Phạm vi thời gian Số liệu được thu thập từ năm 2008 đến 6 tháng đầu năm 2011 trong lĩnh vực xuất khẩu cà phê. 4.3 Đối tượng nghiên cứu Thực trạng xuất khẩu và các phương pháp thúc đẩy phát triển ngành cà phê Việt Nam.

doc20 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1934 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chuyên đề Thực trạng xuất khẩu cà phê Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2008 đến 6 tháng đầu năm 2011 và đưa ra giải pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC Tiêu đề Trang PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 3 2. Mục tiêu nghiên cứu 4 2.1 Mục tiêu chung 4 2.2 Mục tiêu cụ thể 4 3. Phương pháp nghiên cứu 4 3.1 Phương pháp thu thập số liệu 4 3.2 Phương pháp phân tích 4 4. Phạm vi nghiên cứu 4 4.1 Phạm vi không gian 4 4.2 Phạm vi thời gian 4 4.3 Đối tượng nghiên cứu 4 PHẦN NỘI DUNG Chương 1: Cơ sở lý luận và sơ lược tình hình sản xuất, chế biến cà phê ở Việt Nam 5 1.Cơ sở lý luận và vai trò cây cà phê đối với nền kinh tế xã hội 5 1.1 Cơ sở lý luận về cà phê 5 1.2 Vai trò của cây cà phê đối với nền kinh tế xã hội 6 2. Quá trình phát triển cây cà phê ở Việt Nam 6 3. Vấn đề chế biến cà phê từ khi gia nhập WTO cho đến nay. 7 Chương 2: Phân tích tình hình xuất khẩu cà phê Việt Nam sang các nước và các nhân tố ảnh hưởng 9 1. Tiềm năng phát triển của ngành 9 2. Tình hình xuất khẩu cà phê những năm vừa qua 9 2.1 Kim ngạnh xuất khẩu 9 2.2 Giá cả 11 3. Thuận lợi và khó khăn của ngành cà phê Viết Nam 12 3.1 Thuận lợi 12 3.2 Những khó khăn và thách thức trong lĩnh vực xuất khẩu cà phê 13 Chương 3: Những giải pháp thúc đẩy xuất khẩu cà phê Việt Nam 15 1. Đối với doanh nghiệp 15 2. Đối với người nông dân 16 3. Đối với nhà nước 17 Chương 4: Kết luận và Kiến nghị 19 4.1 Kết luận 19 4.2 Kiến nghị 19 4.2.1 Đối với nhà nước 19 4.2.2 Đối với doanh nghiệp 19 TÀI LIỆU THAM KHẢO 21 PHẦN MỞ ĐẦU LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Là một nước nằm ở vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa và có lưu lượng mưa lớn cho nên Việt Nam có điều kiện thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp. Thêm vào đó, vùng Tây Nguyên và Đông Nam Bộ có không khí mát mẻ cộng với nền đất bazan màu mỡ rất thích hợp cho việc phất triển cây công nghiệp trong đó cà phê là một loại cây điển hình. Xuất khẩu nông sản nói chung và xuất khẩu cà phê nói riêng là một trong những ngành đem lại nguồn ngoại tệ lớn cho nền kinh tế trong nước. Đây là một ngành kinh tế mũi nhọn của Việt Nam, giúp thúc đẩy phát triển nền kinh tế, giải quyết vấn đề việc làm, giảm gánh nặng cho xã hội… Những năm gần đây Việt Nam là một nước đứng thứ hai trên thế giới trong việc xuất khẩu cà phê (đứng sau Brazin). Sau khi Việt Nam gia nhập WTO (World Trade Organization) tổ chức thương mại thế giới năm 2007, nền kinh tế bước vào một giai đoạn phát triển mới. Trong đó lĩnh vực xuất khẩu cà phê cũng chuyển sang một bước ngoặc lớn. Năm 2008, kim ngạch xuất khẩu cà phê đạt hơn 2,11 tỷ USD, tăng hơn so với năm 2007 khoảng 9,46%. Xuất khẩu cà phê đem lại nguồn thu ngoại hối đứng thứ hai cho quốc gia (trong lĩnh vực xuất khẩu nông nghiệp), chỉ đứng sau gạo (2). Sản phẩm cà phê Việt Nam đã bán được trên nhiều quốc gia trên thế giới. Bên cạnh các thị trường tiêu thụ lớn như: Châu Âu, Mỹ… cà phê còn được xuất sang các nước như: Nam Mỹ (Ac-hen-ti-na), Trung Đông. Tuy gia nhập vào WTO có nhiều thuận lợi, nhưng bên cạnh đó chúng ta còn phải tuân thủ một số điều luật khá khắc khe về chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm. Thêm vào đó giá trị xuất khẩu cà phê những năm gần đây có xu hướng giảm so với năm 2008 (năm 2009 xuất khẩu cà phê đạt khoản 1,73 tỷ USD, năm 2010 khoản 1,85 tỷ USD) (2). Nguyên nhân do tình trạng đầu cơ của các doanh nghiệp nước ngoài, nợ công ở châu Âu (là thị trường cà phê lớn nhất của Việt Nam) đã khiến cho xuất khẩu cà phê giảm mạnh về số lượng lẫn giá cả. Xuất (1) (2) Tổng cục thống kê Việt Nam (2010). khẩu cà phê nhân vẫn còn chiếm một phần lớn trong xuất khẩu cà phê. Chất lượng cà phê tương đối thấp do trang thiết bị chế biến và bảo quản còn nghèo nàn. Vì lý do đó nên em đã chọn đề tài: “Thực trạng xuất khẩu cà phê Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2008 đến 6 tháng đầu năm 2011 và đưa ra giải pháp.” 2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU 2.1 Mục tiêu chung Phân tích thực trạng ngành xuất khẩu cà phê của Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2008 đến 6 tháng đầu năm 2011 và đưa ra giải pháp giúp thúc đẩy việc xuất khẩu cà phê ở Việt Nam. 2.2 Mục tiêu cụ thể - Phân tích hiện trạng xuất khẩu cà phê ở Việt Nam. - Phân tích những thuận lợi và khó khăn trong ngành. - Đề ra những giải pháp giúp thúc đẩy ngành xuất khẩu cà phê. 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1 Phương pháp thu thập số liệu Nguồn số liệu được thu thập chủ yếu từ các nguồn: Sách, báo, internet, các bài chuyên đề có liên quan,… 3.2 Phương pháp phân tích Phương pháp được áp dụng là thống kê mô tả, phân tích biểu bảng thống kê. Sử dụng các số tuyệt đối , số tương đối để phân tích và chứng minh. 4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU 4.1 Phạm vi không gian Đề tài được thực hiện tại Việt Nam. 4.2 Phạm vi thời gian Số liệu được thu thập từ năm 2008 đến 6 tháng đầu năm 2011 trong lĩnh vực xuất khẩu cà phê. 4.3 Đối tượng nghiên cứu Thực trạng xuất khẩu và các phương pháp thúc đẩy phát triển ngành cà phê Việt Nam. PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ SƠ LƯỢC TÌNH HÌNH SẢN XUẤT, CHẾ BIẾN CÀ PHÊ Ở VIỆT NAM 1. Cơ sở lý luận và vai trò của cây cà phê đối với nền kinh tế, xã hội. 1.1 Cơ sở lý luận về cà phê. Cây cà phê được phát hiện đầu tiên bởi những người du mục Ethiopi, mãi đến thế kỷ thứ VI loại cây này mới được trồng lan dần sang các nước khác. Lúc đầu việc chấp nhận nhận cà phê là một thức uống hấp dẫn không phải là phải là chuyện dễ. Trải qua một khoảng thời gian dài giờ đây mọi người đã chấp nhận thức uống này và hiểu rõ hơn về công dụng giúp chống buồn ngủ và tạo nên sự tỉnh táo hơn cho người uống,… Cà phê trên thế giới có rất nhiều loại nhưng sự ưa chuộng và được đánh giá cao là cà phê: Arabica (cà phê chè) và Robusta (cà phê vối). Đây là hai loại cà phê tiêu thụ mạnh nhất trên thị trường thế giới. Đặc biệt là cà phê Arabica, loại cà phê được đánh giá có hương vị ngon hàng đầu thế giới, hơn hẳn cà phê Robusta cho nên giá bán của loại cà phê này thường đắt hơn các loại là phê Robusta. Bảng 1.1: So sánh giữa cà phê chè và cà phê vối. Cà phê hạt Arabica Cà phê hạt Robusta Có thể sử dụng cà phê nguyên chất hoặc có pha trộn Ít cafein hơn cà phê hạt Robusta (1-1,5%) Sử dụng nhiều lao động trong việc trồng, thu hoạch (thường hái bằng tay) và chế biến Chi phí cao hơn nhưng cũng có giá rất cao (là loại cà phê đặc biệt) Có hương vị ngon hơn và ít chát hơn cà phê Robusta. Thu hoạch sau 4-5 năm Trồng ở độ cao trên 600m, vùng khí hậu mát mẻ, được trồng chủ yếu ở Brazin Luôn luôn sử dụng cà phê có pha trộn Nhiều cafein hơn cà phê hạt Arabica (1,5-2%) Có thể dùng máy móc để thu hoạch (Brazin) Có mùi vị chát, đắng Chi phí thấp hơn Có khả năng chống lại dịch bệnh Thu hoạch sau 2-3 năm Trồng ở độ cao dưới 600m, thích hợp với vùng khí hậu nhiệt đới. Nguồn: Đánh giá tiềm năng xuất khẩu của Việt Nam (8/2005); Minh Phương (22/8/2010). Hai loại cà phê này được trồng tập trung ở những khu vực khác nhau. Cà phê Arabica được trồng nhiều ở các nước Nam Mỹ điển hình là Brazin nước xuất khẩu cà phê đứng đầu thế giới, còn giống cà phê Robusta thì được trồng tập trung ở các nước châu Á và châu Phi. Nguyên nhân khiến cho việc trồng tập trung hai loại cà phê này ở hai những khu vực khác biệt là do yếu tố sinh thái của chúng khác nhau. Hiện nay tình hình chính trị ở châu Phi có nhiều bất ổn nên sản lượng xuất khẩu cà phê Robusta không tăng lên mà còn có chiều hướng giảm xuống. 1.2 Vai trò của xuất khẩu cà phê đối với nền kinh tế xã hội. Đối với kinh tế cà phê là một trong những mặt hàng xuất khẩu đem lại một nguồn thu ngoại hối lớn, trên 1500 triệu USD/năm (3) cho nền kinh tế. Xuất khẩu cà phê không những thực hiện được mục tiêu của chiến lượng đẩy mạnh xuất khẩu của quốc gia mà còn phát triển kinh tế xã hội. Việc xuất khẩu cũng đem về nguồn kinh phí cho việc đầu tư vào trang thiết bị góp phần đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Ngành sản xuất và xuất khẩu khẩu cà phê thu hút một lượng lớn nguồn lao động của đất nước, góp phần giải quyết được tình trạng thất nghiệp cho xã hội, tạo công ăn việc làm cho các dân tộc miền núi, Tây Nguyên. Từ đó giúp giải quyết được tình trạng đói nghèo và giảm thiểu tệ nạn xã hội. “Theo Hiệp hội cà phê Việt Nam (Vicofa) thì mỗi năm ngành cà phê thu hút khoảng 600000 – 700000 lao động, thậm chí trong ba tháng thu hoạch số lao động có thể lên đến 800000 lao động” (4) Bên cạnh đó cây cà phê còn giúp bảo vệ môi trường sinh thái, phủ xanh đất trống đồi trọc, bảo vệ môi trường đầu nguồn. Vì tính chất sinh thái của cây cà phê rất thích hợp với các vùng đồi núi. 2. Quá trình phát triển cây cà phê ở Việt Nam. Việt Nam có điều kiện khí hậu thích hợp để trồng cà phê vối và có diện tích trồng cao hơn nhiều lần diện tích trồng cà phê chè. Mặc dù cà phê chè được đánh giá là loại cà phê ngon hơn và có giá bán trên thị trường cao hơn cà phê vối. Thực chất cây cà phê không phải là một loại cây được phát hiện ở Việt Nam. Vào năm 1857 người Pháp đã đưa vào Việt Nam và được trồng từ năm 1888. Lúc này, (3) Tổng cục thống kê Việt Nam (2010) (4) Tailieu.vn (16/07/2010). việc xuất khẩu chủ yếu là sang nước Pháp. Từ đó diện tích trồng cà phê ngừng tăng lên. Đến năm 1980, Việt Nam có diện tích trồng cà phê khoảng 23000 ha và xuất khẩu khoảng 6000 tấn (5). Bước vào thời kỳ đổi mới với nền kinh tế thị trường mở cửa Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực trồng và xuất khẩu cà phê. Trong thập niên 90, chính phủ đã có những chính sách thúc đẩy sản xuất cà phê trong nước: hỗ trợ lãi xuất, trợ giá đầu vào, tự do hóa thị trường đầu vào nông nghiệp … cộng thêm sự kiện sương muối đã làm mất mùa cà phê ở Brazin (1994), nước xuất khẩu cà phê lớn nhất thế giới đã đẩy mạnh việc mở rộng diện tích trồng, và hoạt động xuất khẩu cà phê trong nước. Lúc này Việt Nam đã là một trong những quốc gia xuất khẩu cà phê hàng đầu của thế giới. Với các thị trường lớn như EU, Mỹ và một số quốc gia châu Á. Diện tích cà phê chỉ tăng đỉnh điểm vào năm 2000 với diện tích khoảng 520 nghìn ha sau đó thì tổng diện tích này giảm hẳn. Nguyên nhân chủ yếu là do tình trạng cung thừa trên thế giới đã làm cho giá cà phê giảm mạnh. Những hộ nông dân có diện tích trồng cà phê nhỏ lẻ không đủ khả năng để tiếp tục đầu tư vào cây cà phê cho nên họ đã chặt bỏ cả vườn cà phê của mình. Mặc khác cây cà phê cũng được trồng ở một số nơi không có điều kiện thuận lợi nên năng suất thu được không cao, chính phủ đã khuyến khích giảm diện tích trồng cà phê ờ khu vực này. Từ đó năng suất cà phê cũng giảm theo vào những năm đầu của thập kỷ thứ nhất của thế kỷ XXI. Việc thu hoạch và sơ chế cà phê ở Việt Nam vẫn còn lạc hậu, việc thu hái chưa có hiệu quả, còn chế biến ở các hộ nông dân chủ yếu là phơi khô rồi đem bán cho các thương lái. Dẫn đến chất lượng cà phê vẫn chưa cao. 3. Vấn đề chế biến cà phê từ khi gia nhập WTO cho đến nay. Sau cuộc khủng hoảng giá cà phê vào những năm đầu của thế kỉ XXI. Đến năm 2007 thì giá cả cà phê có phần tăng trưởng lại. cộng thêm các chính sách thúc đẩy trồng cà phê của chính phủ đã đến thời điểm phát huy làm cho diện tích trồng cà phê tăng dần từ 509.3 nghìn ha (năm 2007) lên 548.2 nghìn ha (năm 2010) (6). (5) Trần Thị Quỳnh Chi và cộng sự (3/2007). (6) Tổng cục thống kê Việt Nam (2010). Vào thời điểm này, việc chế biến cà phê của người dân cũng chỉ là chế biến thô sơ, Người dân thu hoạch rồi phơi khô sau đó bán cho các thương lái. Không có máy móc hiện đại cho việc sấy khô cũng như bảo quản lâu dài. Dẫn đến chất lượng cà phê thấp, giá xuất khẩu không cao. Trong thời gian này, xuất khẩu cà phê nhân, mới qua sơ chế vẫn còn chiếm đa số trong tổng kim ngạch xuất khẩu cà phê ở nước ta. Nguyên nhân chính là do các công ty chế biến trong nước chưa đủ khả năng để chế biến cà phê, thiếu trang thiết bị hiện đại để sản xuất cà phê thành phẩm để xuất khẩu. Thêm vào đó là các công ty chế biến ở những nước nhập khẩu nắm rõ được sở thích dùng cà phê của người dân ở nước họ nên việc chế biến để đáp ứng nhu cầu thị trường hơn. CHƯƠNG 2 PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU CÀ PHÊ VIỆT NAM SANG CÁC NƯỚC VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG 1.Tiềm năng phát triển của ngành. - Cà phê Việt Nam có hương vị đặc thù và được các nhà rang xay trên thế giới đánh giá là dễ chế biến. Giá xuất khẩu tương đối rẻ hơn so với các nước xuất khác (Brazin). - Cà phê là một trong những mặt hàng xuất khẩu đem lại nguồn thu lớn cho nền kinh tế nên được sự quan tâm đặc biệt từ Nhà nước. Các chính sách hỗ trợ tín dụng, xúc tiến thương mại, tập trung thâm canh cà phê…lần lượt được đưa vào áp dụng. - Nhu cầu sử dụng cà phê trên thế giới không ngừng tăng lên điển hình là các thị trường tiêu thụ cà phê lâu năm như EU, Hoa Kỳ,… Sự thay đổi thói quen trong tiêu dùng của người Á Đông (Trung Quốc, Nhật Bản) cũng là dấu hiệu cho sự phát triển thị trường cà phê trên ở những nước này trong tương lai. - Việc gia nhập WTO tạo nhiều cơ hội cho ngành xuât khẩu cà phê Việt Nam: cơ hội trong việc chuyển giao công nghệ, nhất là công nghệ chế biến và bảo quản vốn còn lạc hậu ở nước ta, lĩnh vực chế biến và xuất khẩu cà phê Việt Nam là ngành đem lại nhiều lợi nhuận nên hứa hẹn việc đầu tư vốn từ nước ngoài vào lĩnh vực này. Qua việc hội nhập thì cũng giúp cho các nước đang phát triển như Việt Nam bình đẳng hơn trong việc tranh chấp thương mại so với các nước phát triển. 2. Tình hình xuất khẩu cà phê những năm vừa qua. 2.1 Kim ngạch xuất khẩu. Trong những năm đầu của thập kỷ thứ nhất của thế kỷ XXI ngành xuất khẩu cà phê Việt Nam gặp nhiều khó khăn do cuộc khủng hoảng giá cà phê trên thế giới nên đã làm cho kim ngạch xuất khẩu cà phê giảm đáng kể. Từ năm 2007 thì giá cà phê có phần tăng trưởng lại nhưng đến năm 2009 thì lại có chiều hướng giảm xuống. Bảng 2.1 Tình hình xuất khẩu cà phê trong thời kỳ 2008 – 6 tháng đầu năm 2011. Năm Số lượng (nghìn tấn) Tốc độ tăng trưởng so với kỳ trước (%) Giá trị (triệu USD) Tốc độ tăng trưởng so với kỳ trước (%) 2008 1060,9 _ 2113,8 _ 2009 1183,0 11,5 1730,6 -18,1 2010 1218,0 3 1851,4 0,7 6 tháng đầu năm 2011 864.8 31.3 1899 106.1 Nguồn: Tổng cục thống kê Việt Nam. Ta thấy, tuy sản lượng xuất khẩu cà phê từ 2008 đến 2009 tăng thêm 11,5% nhưng phần giá trị lại giảm 18,1% nguyên nhân là do ảnh hưởng của cuộc khủng thế giới 2008-2009 đã làm cho cầu cà phê trên thế giới bị tụt giảm. Bên cạnh đó là việc đầu cơ của người nước ngoài, họ đã tung tin giá cà phê sẽ tăng trong thời gian tới làm cho các doanh nghiệp Việt Nam thu mua cà phê với giá cao sau đó họ tìm cách dìm giá cà phê xuống khiến cho các doanh nghiệp xuất khẩu của nước ta phải bán tháo với giá thấp. Từ năm 2009 đến năm 2010 thì xuất khẩu cà phê vừa tăng về lượng (3%) vừa tăng về giá trị (0.7%). Còn 6 tháng đầu năm 2011 cũng tăng mạnh so với cùng kỳ 2010, sản lượng tăng thêm 31.3%, giá trị tăng mạnh đạt đến 106.1%. Nguyên nhân của sự tăng trưởng mạnh như vậy là do tình hình thế giới đang hồi sức trở lại sau cuộc khủng hoảng dẫn tới nhu cầu về cà phê cũng tăng theo. Việc thâm nhập sâu hơn vào thị trường Mỹ, một thị trường tiêu thụ cà phê lớn của thế giới cũng là bước tăng trưởng trong việc xuất khẩu cà phê Việt Nam. Theo số liệu báo cáo từ tổng cục thống kê thì Mỹ là nước nhập khẩu cà phê lớn nhất của Việt Nam vào 6 tháng đầu năm 2011 (210444 nghìn USD) đã vượt qua mặt Đức (188916 nghìn USD) là nước nhập khẩu cà phê lớn nhất của nước ta vào những năm trước đó. Nguyên nhân là do nền kinh tế Mỹ có dấu hiệu phục hồi sau cuộc khủng hoảng, thêm vào đó là dấu hiệu nợ công ở các nước châu Âu đã làm cho thị trường EU giảm lượng nhập khẩu cà phê Việt Nam. 2.2 Giá cả Ở phần trên, sản lượng cà phê trong thời kỳ 2008-2009 diễn biến nghịch chiều so với giá trị xuất khẩu nguyên nhân chính là sự biến động của giá. Như đã đề cập giá cà phê trong thời kỳ này giảm mạnh là do hoạt động đầu cơ giới đầu cơ nước ngoài và ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới. Đối với 6 tháng đầu năm 2011 thì sản lượng chỉ tăng 31,3% so với cùng kỳ 2010 còn giá trị xuất khẩu tăng thêm tới 106,1%.Từ đó, ta thấy giá trị xuất khẩu không những phụ thuộc vào sản lượng xuất khẩu mà còn chịu tác động mạnh của giá. Theo một quan điểm khác thì giá cà phê cũng có thể xem như là mục dự báo sản lượng xuất khẩu trong tương lai. Nếu như trong thời điểm hiện tại giá cà phê ở mức cao thì sản lượng trong tương lai sẽ có xu hướng tăng lên và ngược lại. Bảng 2.2 Giá xuất khẩu bình quân cà phê vối nhân xô Việt Nam từ 2008 đến 6 tháng đầu năm 2011. Đơn vị tính: nghìn đồng/kg. Chỉ tiêu Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010 6 tháng đầu năm 2011 Giá 32,394 24,546 26,937 40,422 Tốc độ tăng trưởng so với kỳ trước (%) _ -24,2 9,7 50 Nguồn: Theo số liệu từ nguồn trích dẫn trên thì giá cà phê vối nhân xô là 40,422 nghìn đồng/kg cao hơn so với cùng kỳ năm 2010 là 50%.Qua bảng số liệu trên ta thấy giá cà phê có phần biến động mạnh hơn giá trị xuất khẩu. Điển hình là giá từ 2008 đến 2009 giảm đến 24,2% nhưng giá giá trị xuất khẩu chỉ giảm -18.1%; từ 2009 đến 2010 giá xuất khẩu tăng 9.7% còn giá trị chỉ tăng 0.7%. Nguyên nhân của sự chênh lệch đó là việc thu hái lẫn quả xanh của người nông dân còn khá phổ biến, số lượng cà phê cà phê chưa qua chế biến đạt chuẩn hạng 1 và 2 vẫn còn thấp so với tổng số. “Thực tế cho thấy, nếu không tái chế, cà phê của nông dân Đắk Lắk sẽ không đạt chuẩn hạng 1 và 2 theo TCVN 4193-2005 vì vượt quá 150 lỗi/300 gram. Đối với xuất khẩu, kim ngạch giảm không chỉ vì lý do cà phê kém chất lượng, nhu cầu tiêu thụ giảm mà còn vì cách làm ăn thiếu chuyên nghiệp, thiếu liên kết của các nhà xuất khẩu, trong đó, phần lớn doanh nghiệp xuất khẩu tự cập nhật thông tin thị trường nhưng không phải doanh nghiệp nào cũng biết sàng lọc thông tin.” (7) 3. Thuận lợi và khó khăn của ngành xuất cà phê Việt Nam. 3.1 Thuận lợi Với vị trí địa lý thuận lợi, Việt Nam có một lưu lượng mưa lớn khí hậu vùng tây Nguyên mát mẻ, nền đất Bazan màu mỡ rất phù hợp với cây cà phê vốn là loại cây chỉ được trồng một vài nơi trên thế giới. Diện tích cà phê Robusta chiếm phần lớn trong tổng số diện tích trồng cà phê Viêt Nam. Vị trí Việt Nam cũng có một điểm thuận lợi khác là nằm điểm nối trên tuyến lưu thông hàng hải của thế giới. Việc xuất khẩu cà phê cũng chủ yếu thông qua vận chuyển đường biển, và cà phê cũng có thể cất giữ qua một thời gian dài rất thích hợp cho loại hình vận chuyển này. Giống cà phê vối vốn rất thích hợp với nền khí hậu ở nước ta, cà phê vối là một trong những loại cà phê được ưu chuộng trên thị trường thế giới. Loại cà phê này được tiêu thụ mạnh ở các nước châu Âu một thị trường tiêu thụ lâu năm và nhiều nhất trên thế giới. Việt Nam có một lực lượng lao động thuộc lĩnh vực nông nghiệp dồi dào với nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực trồng cà phê và giá rẻ. Đó là một trong những điều kiện tốt cho việc xuất khẩu cà phê Việt. Chính phủ Việt Nam rất chú trọng cho việc phát triển của cây cà phê. Thứ nhất xuất khẩu cà phê đem lại một nguồn thu ngoại hối lớn cho nền kinh tế. Thứ hai cây cà phê giải quyết được tình trạng đói nghèo của những người dân sống ở khu vực miền núi, Tây Nguyên, các dân tộc ở đây sống chủ yếu dựa vào trồng trọt nên có nhiều kinh nghiệm trong việc chăm sóc cây cà phê. Là một nước xuất khẩu cà phê lâu năm trên thế giới, Việt Nam đã xuất khẩu hơn 60 nước trên thế giới trong đó thị trường chính là các nước châu Âu, Mỹ, một số nước châu Á (Trung Quốc, Nhật Bản, Singapore,…). (7) Giacaphe.com (28/10/2009) Một thuận lợi khác không thể bỏ qua chính là sản xuất tập trung gần cảng và việc xây dựng tuyến đường Hồ Chí Minh cũng góp phần làm giảm chi phí vận chuyển trên bộ. Từ đó làm giảm giá thành của cà phê xuất khẩu. 3.1 Những khó khăn và thách thức trong lĩnh vực xuất khẩu cà phê. Như đã đề cập ở trên khó khăn lớn nhất trong lĩnh vực xuất khẩu cà phê của Việt Nam đó chính là chất lượng sản phẩm. Nguyên nhân chính dẫn đến chất lượng cà phê thấp hơn các nước khác đó chính là: việc thu hái của quả xanh của người dân còn khá phổ biến; công đoạn phơi khô vẫn còn tình trạng phơi trực tiếp cà phê trên nền đất, thiếu máy sấy cà phê, ủ cà phê trên nền đất… Đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng ban đầu của cà phê. Tại sao việc người nông dân lại không đầu tư máy móc vào công đoạn sấy khô, cũng như xây dựng sân bãi cho việc phơi khô cà phê? Nguyên nhân chủ yếu là đa số các hộ sẩn xuất cà phê Việt Nam thường nhỏ lẻ nên không có đủ khả năng trong việc đầu tư thiết bị, cơ giới hóa trong vấn đề sản xuất, chế biến và bảo quản. Do thiếu vốn trong sản xuất nên người dân không đủ điều kiện trong việc xây sân xi măng phục vụ cho việc phơi cà phê. Xây dựng nhà kho đủ tiêu chuẩn cho việc bảo quản. Chất lượng cà phê vối và cà phê chè còn rất chênh lệch. Cà phê chè là loại cà phê được ưa chuộng hàng đầu của thế giới hiện nay . Nhưng diện tích trồng cà phê vối ở Việt Nam chiếm phần lớn. Khoảng chênh lệch này cho thấy Việt Nam chưa phát huy hết tiềm năng vốn có của mình. Kế hoạch phát triển cà phê Arabica còn kém hiệu quả. Có tới 90% diện tích trồng cà phê ở Việt Nam cần tưới nước (9), vì vậy sản lượng cà phê phụ thuộc nhiều vào diễn biến lượng mưa hằng năm và hệ thống kênh đào, tưới tiêu. Nhưng thực trạng ở Việt Nam là việc trồng cây cà phê được trồng chủ yếu ở khu vực Tây Nguyên, nơi thiếu hệ thống sông ngòi để phục vụ cho việc tưới tiêu. Hiện nay các hộ nông dân chủ yếu đào các giếng khoan phục vụ cho việc tưới nước cho cây cà phê, việc này không đảm bảo cho nguồn nước phục vụ lâu dài cho việc trồng trọt và phát triển cây cà phê. (9) Trần Thị Quỳnh Chi và cộng sự (3/2007). Lĩnh vực sản xuất cà phê cũng mang nhiều khuyết điểm, nông dân đã quá lạm dụng vào thuốc trừ sâu và phân bón hóa học. Việc này làm cho đất trồng càng trở nên bạc màu, điều này không tốt cho việc phát triển lâu dài. Thêm vào đó, việc lạm dụng thuốc trừ sâu cũng làm ảnh hưởng đến chất lượng cà phê khiến cho cà phê không đạt tiêu chuẩn và mất giá. Các tiêu chuẩn của Việt Nam về độ ẩm, đen vỡ và tạp chất chưa tương xứng với các tiêu chuẩn của thế giới. Bên cạnh đó phần lớn các doanh nghiệp trong nước không muốn áp dụng TCVN 4193: 2005 vì khó khăn hơn trong việc thu mua, vì đa số chất lượng cà phê đầu vào thường không đạt tiêu chuẩn. Các doanh nghiệp nước ngoài thì cũng không muốn áp dụng tiêu chuẩn này vì họ phải trả giá cao hơn cho việc thu mua từ các doanh nghiệp Việt Nam. CHƯƠNG 3 NHỮNG GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU CÀ PHÊ VIỆT NAM 1 Đối với doanh nghiệp - Việc xuất khẩu cà phê chủ yếu là cà phê nhân hay xuất khẩu trung gian cho các công ty của các quốc gia khác cho họ chế biến lại thành cà phê thành phẩm bán trên thị trường. Nên việc thiếu trang thiết bị chế biến hiện đại phục vụ cho việc chế biến cà phê thành phẩm là một trong những điểm yếu của các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu của Việt Nam. Do đó, việc đầu tư vào các máy chế biến cà phê hiện đại là một trong nhưng yêu cầu hàng đầu đối với việc nâng cao chất lượng cà phê xuất khẩu. Khi chất lượng được nâng lên ngang bằng với các nước xuất khẩu khác thì giá xuất khẩu cà phê Việt Nam sẽ là có thể tăng mạnh trong thời gian tới. - Muốn đảm bảo nguồn cung đầu vào đạt chất lượng thì các doanh nghiệp lớn có thể đầu tư vào khâu sản xuất, thu hái, sấy khô cà phê. Muốn đạt được như vậy cần phải liên kết lại, lập nên các khu trang trại trồng cà phê tập trung, đầu tư vào kỹ thuật thu hái; xây dựng nơi phơi phóng giúp hạn chế việc phơi cà phê trên nền đất; đầu tư vào hệ thồng máy sấy phòng trường hợp khi thời tiết xấu đi ảnh hưởng đến việc phơi khô của cà phê…. - Các doanh nghiệp Việt Nam tuy có cập nhật thông tin trên thị trường kịp thời nhưng không phải doanh nghiệp nào cũng biết sàn lọc thông tin. Đó là lý do tại sao giới đầu cơ nước ngoài có cơ hội đầu cơ vào thị trường cà phê Việt Nam. Ví dụ điển hình là vào tháng 5/2009, giới đầu cơ nước ngoài đã tung tin rằng giá cà phê trong tương lai tăng lền làm cho các doanh nghiệp đua nhau mua cà phê vào trữ lại đợi đến giá cao thì bán. Nhưng đến tháng 6/2009 giới đầu cơ ở thị trưởng London ngừng việc thu mua cà phê, dìm cho giá cà phê giảm xuống dẫn đến tình trạng phải bán tháo cà phê của các doanh nghiệp Việt Nam(10) . Từ thực trạng trên cho thấy các doanh nghiệp Việt Nam cần biết lựa chọn thông tin về thị trường cà phê một cách thận trọng hơn, phải xem xét đến nhu cầu của thế giới (10) Giacaphe.com (28/10/2009). trong tương lai mới xem xét đến việc giá cà phê có tăng trong tương lai hay không từ đó mới quyết định đến việc trữ hàng để xuất khẩu. Giới đầu cơ nước ngoài dựa vào tính hám lợi của các doanh nghiệp Việt Nam muốn bán với giá thật cao trong tương lai nên mới có cơ hội đầu cơ vào thị trường cà phê của nước ta. Muốn hạn chế tình trạng này thì các doanh nghiệp không nên trữ quá nhiều hàng trong thời gian dài mới tung ra bán, mà phải biết phân bổ số hàng bán ra trong thời gian hiện tại và trong tương lai là phải bằng nhau (trong trường hợp có thông tin về giá cà phê tăng mạnh trong tương lai). - Việc xuất khẩu qua trung gian một phần nguyên nhân là do các doanh nghiệp Việt Nam chưa có thương hiệu trên thị trường thế giới. Do đó các doanh nghiệp cần tăng cường công tác quảng bá, marketing với những khách hàng trên thế giới. Có thể tổ chức các lễ hội về cà phê vừa quảng cáo được thương hiệu cà phê vừa tăng thêm một lượng khách du lịch cho đất nước. - Hiện nay, cà phê chồn được xem là loại cà phê huyền thoại của thế giới. Ở Việt Nam, cà phê chồn có tên là cà phê Weasel với giá bán 3000 USD/kg, được xem là loại cà phê đắt nhất thế giới hiện nay. Ở Indonesia, chúng tên gọi là Kopi Luwak và bán trên thị trường thế giới với giá 600 USD/kg (11). Do hương vị ngon và đặc biệt thêm vào đó có rất ít nước trên thế giới có thể sản xuất loại cà phê này nên các doanh nghiệp cần quan tâm hơn trong việc sản xuất loại cà phê đặc biệt này vì giá trị kinh tế mà nó đem lại trong tương lai sẽ là rất lớn. 2 Đối với người nông dân - Việc chỉ tập trung vào cây cà phê Robusta thì không đem lại nhiều thu nhập cho người nông dân. Trên thế giới hiện nay cà phê Arabica là loại cà phê được ưa chuộng và tiêu dùng mạnh nhất. Cho nên người nông dân cần phải chú trọng hơn trong việc đầu tư vào giống cà phê Arabica. Tuy giống cà phê Arabica này khó chăm sóc hơn cà phê Robusta, nhưng về mặt giá trị kinh tế đem lại thì lớn hơn hẳn. (11) Vnexpress.net (11/8/2010). - Thiết bị và cách thức thu hái, phơi khô, bảo quản cà phê của nông dân vẫn còn lạc hậu. Thứ nhất: hái lẫn quả xanh là một nguyên nhân dẫn đến chất lượng cà phê không đảm bảo với tiêu chuẩn xuất khẩu của Việt Nam và thế giới. Vì vậy, cần chú trọng hơn trong việc thu hoạch. Xét đến chất lượng nhiều hơn là xét về số lượng. Người nông dân cần thu hoạch tuyển chọn các quả chín hẳn không nên chạy theo số lượng mà thu hoạch lẫn lộn cả quả xanh làm cho giá bán tụt giảm xuống. Thứ hai: việc phơi khô trên nền đất làm cho cà phê bị lẫn với đất cát cũng ảnh hưởng không kém đến chất lượng của cà phê. Đầu tư vào sân bãi phơi cà phê cũng là một trong những đầu tư quan trọng nhằm nâng cao chất lượng của hạt cà phê. Thứ ba: khâu bảo quản cũng hết sức quan trọng, đa số nông dân trồng cà phê là những hộ không có nhiều đất trồng, thiếu vốn về việc đầu tư nên họ không có khả năng xây dựng những nhà kho đủ tiêu chuẩn cho việc bảo quản cà phê. Cho nên hiện nay vẫn còn thực trạng nông dân ủ cà phê trên nền đất làm cho cà phê dễ bị ẩm mốc. Trong việc đầu tư vào sân bãi phơi khô, nhà kho bảo quản tốn rất nhiều tiền nên việc đầu tư sẽ là khó khăn nếu chỉ là một hộ đơn lẻ. Vì vậy, cần có việc kết hợp đầu tư giữa những hộ lân cận với nhau để có thể vừa đảm bảo chất lượng cà phê vừa bán cà phê với một sản lượng lớn hơn vừa giúp cho việc kèo giá với thương lái được tốt hơn. - Đa số diện tích trồng cà phê của Việt Nam cần tưới nước nên diễn biến thời tiết và hệ thống tưới tiêu có sức ảnh hưởng rất lớn đến năng suất của cây cà phê. Vì không có khả năng cải thiện được toàn bộ hệ thống nước phục vụ cho việc tưới tiêu. Nên người nông dân cũng cần chú trọng đến trường hợp trồng cà phê xen với những cây trồng khác có khả năng tạo bóng mát cho cây cà phê (cây cọ hoặc dừa). Việc kết hợp này vừa giúp hạn chế lượng nước tưới cho cà phê vừa giảm thiểu được rủi ro chỉ trồng một loại hoa màu. 3 Đối với Nhà nước. - Cần hỗ trợ mạnh hơn nữa về lãi suất cho vay đối với việc đầu tư vào thiết bị chế biến, bảo quản của người nông dân. - Tiến hành tổ chức các buổi hội thảo, tuyên truyền nhằm nâng cao ý thức của người dân trong việc sản xuất, thu hoạch là phải lấy chất lượng làm hàng đầu chứ không chạy theo về số lượng. - Cần đầu tư mạnh hơn nữa vào hệ thống thủy lợi phục vụ cho việc tưới tiêu ở khu vực trồng cà phê. - Ban hành các chính sách nhằm khuyến khích tăng diện tích trồng cà phê Arabica, hạn chế lại diện tích trồng cà phê Robusta ở một số nơi không có hiệu quả. - Phối hợp với các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu cà phê tổ chức các Festival về cà phê nhằm quảng bá thương hiệu cà phê Việt Nam với bạn bè thế giới. - Đối với các doanh nghiệp nhà nước cũng cần hỗ trợ thêm về vốn, lãi suất nhằm phục vụ cho việc đầu tư vào các thiết bị hiện đại giúp tăng chất lượng cà phê thông qua việc sơ chế và chế biến cà phê thành phẩm. CHƯƠNG 4 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 4.1 Kết luận. Ngành xuất khẩu cà phê Việt Nam đang gặp một thực trạng là chất lượng sản phẩm cà phê thấp hơn so với các quốc gia xuất khẩu khác trên thế giới. Vì vậy, xét về sản lượng Việt Nam chỉ là nước xuất khẩu đứng thứ hai trên thế giới, còn về giá trị xuất khẩu thì đứng thứ ba sau hai nước Brazin và Columbia. Tuy được nhiều thuận lợi về điều kiện thiên nhiên nhưng sản phẩm cà phê vẫn kém về chất lượng nguyên nhân chủ yếu là cách thức thu hoạch, phơi khô và bảo quản của người nông dân vẫn còn lạc hậu. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu của Việt Nam chưa có thương hiệu trên thị trường nổi tiếng trên thị trường thế giới, nên việc xuất khẩu chỉ là xuất khẩu trung gian, giá trị mang lại không cao bằng xuất khẩu cà phê thành phẩm. Do đó, muốn tăng giá trị xuất khẩu của cà phê Việt Nam việc cần làm là phải thay đổi cách thức thu hoạch, phơi khô và bảo quản của người nông dân; quảng bá mạnh hơn nữa về thương hiệu cà phê Việt Nam trên thị trường thế giới. 4.2 Kiến nghị. 4.2.1 Đối với nhà nước. Nên tạo nhiều cơ hội hơn trong việc tiếp cận vốn của các công ty tư nhân. Việc làm này sẽ tạo sự công bằng trong việc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp với nhau. Điển hình ở đây là doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước thường được ưu ái hơn trong việc tiếp cận vốn nên đã gây ra tình trạng không công bằng đối với những doanh nghiệp tư nhân. 4.2.2 Đối với doanh nghiệp. Nên trực tiếp thu mua cà phê từ người dân nhằm tránh tình trạng bán ép giá của các thương lái đối với người nông dân. Giúp giảm chi phí nguyên liệu đầu vào. Nguồn nguyên liệu đầu vào với chất lượng thấp như hiện nay cho thấy các doanh nghiệp chưa quan tâm đúng mức về chất lượng của sản phẩm. Vì vậy, doanh nghiệp cần chủ động tiếp xúc với người nông dân, phối hợp với họ để có thể thu vào nguồn nguyên liệu có chất lượng. Khuyến khích nông dân thu hoạch theo hướng chất lượng hơn là số lượng. Đưa ra mức giá cao hơn cho cà phê đạt yêu cầu mà doanh nghiệp đã đề ra.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docchuyen_de_xuat_khau_ca_phe_viet_nam_4065.doc
Tài liệu liên quan