Chuyên đề Tín dụng đối với hộ nghèo tại Ngân hàng người nghèo Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

Khi xã hội có sự chiếm hữu khác nhau về tư liệu sản xuất thì xã hội cũng có sự phân chia giai cấp, phân hóa giàu nghèo. Sự phân hóa đó diễn ra đặc biệt nhanh chóng hơn, sâu sắc hơn trong nền kinh tế thị trường vì bản chất của kinh tế thị trường là lấy lợi nhuận làm mục tiêu và cạnh tranh làm phương thức hoạt động chủ yếu. Ở Việt Nam, sự tồn tại của một bộ phận người nghèo là một tất yếu đối với một đất nước có nền kinh tế lạc hậu và trải qua hai cuộc chiến tranh như nước ta. Vấn đề xóa đói giảm nghèo ở nước ta đã được Chính phủ và các cấp, các ngành quan tâm đặc biệt. Thế nhưng để có một hệ thống tài chính tín dụng nông thôn hoạt động có hiệu quả thì không phải là dễ bởi vì tín dụng cho người nghèo có những điểm khó khăn cơ bản như: số lượng khách hàng lớn, trình độ dân trí thấp, món vay nhỏ, rủi ro lớn, chi phí cao,. Trong thời gian qua, các tổ chức tín dụng nông thôn mà đặc biệt là Ngân hàng phục vụ người nghèo đã góp phần tích vào công cuộc xóa đói giảm nghèo thông qua hoạt động tín dụng dành cho người nghèo. Cùng với sự giúp đỡ của Chính phủ chương trình tín dụng cho người nghèo đã góp phần giải quyết nhu cầu cấp thiết của họ, giúp họ có vốn để sản xuất kinh doanh, tạo ra thu nhập, cải thiện cuộc sống, dần dần giảm được tỷ lệ hộ đói nghèo trên toàn quốc. Tuy nhiên, hoạt động tín dụng ngân hàng dành cho người nghèo cũng còn một số hạn chế cần giải quyết. Để đạt được mục tiêu trong “Chương trình mục tiêu quốc gia xoá đói giảm nghèo giai đoạn 2001 – 2005”, tín dụng ngân hàng cho người nghèo cần có sự giúp đỡ đặc biệt từ phía Chính phủ bằng các chính sách vĩ mô và hỗ trợ về tài chính. Tín dụng ngân hàng cho người nghèo còn cần có sự giúp đỡ đắc lực của các ngành, các cấp, các tổ chức đoàn thể xã hội và chính quyền địa phương. Có như thế thì việc tăng cường tín dụng ngân hàng cho người nghèo mới có được kết quả tốt./.

doc71 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1091 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Tín dụng đối với hộ nghèo tại Ngân hàng người nghèo Việt Nam - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
óc Trăng 44 tỷ. - Đến 31/12/2001, dư nợ bình quân/hộ toàn quốc là 2,23 triệu đồng. Có 4 vùng dư nợ bình quân/hộ lớn hơn dư nợ bình quân/hộ toàn quốc là: Vùng Đông Nam bộ 2,53 triệu/hộ, vùng Duyên hải miền Trung 2,50 triệu/hộ, vùng trung du miền núi phía Bắc 2,37 triệu/hộ, vùng Tây nguyên 2,29 triệu/hộ và các vùng còn lại dư nợ bình quân/hộ thấp hơn: vùng đồng bằng sông Cửu long 1,93 triệu/hộ, vùng đồng bằng sông Hồng 2,13 triệu/hộ, vùng khu Bốn cũ 2,14 triệu/hộ. Chi nhánh có dư nợ bình quân/hộ lớn: Bình Phước 2,99 tr/hộ, Thành phố Hồ Chí Minh 2,48 tr/hộ, Yên Bái 2,47 tr/hộ…Chi nhánh có dư nợ bình quân/hộ thấp nhất: Sóc Trăng 1.31 tr/hộ, Thái Nguyên 1,41 tr/hộ, Tuyên quang 1,48 tr/hộ, Thái Bình 1,51 tr/hộ. - Trong 6 năm qua, vốn NHNg đã góp phần giúp cho 562 ngàn hộ thoát khỏi ngưỡng nghèo đói. Như vậy cứ 12 lượt hộ vay vốn NHNg có 1 hộ thoát nghèo. Qua số liệu báo cáo của từng chi nhánh cho thấy số hộ thoát nghèo ở miền núi cao hơn đồng bằng; Cụ thể: ở miền núi cứ 11 hộ vay vốn có 1 hộ thoát nghèo và ở đồng bằng cứ 13,5 hộ vay vốn có 1 hộ thoát nghèo. Điển hình một số chi nhánh có số hộ thoát nghèo lớn như: Bắc Giang 53.770 hộ, Thanh Hoá 50.000 hộ, Đồng Nai 44.588 hộ, Nghệ An 43.428 hộ, Cần Thơ 32.518 hộ, Quảng Nam 18.344 hộ, Phú Thọ 17.500 hộ. - NHNg thực hiện phương thức cho vay trực tiếp đến hộ nghèo nhưng thông qua sự giám sát của các Tổ vay vốn. Tính đến 31/12/2001, có 227 ngàn Tổ vay vốn được thiết lập tại các xã, phường, thôn, bản. * Về chất lượng vốn tín dụng: Nợ quá hạn nếu không tính nợ khoanh và nợ chờ xử lý do các nguyên nhân khách quan: năm 1996 tỷ trọng 0,71%; năm 1997 tỷ trọng 1,82%; năm 1998 tỷ trọng 1,44%; năm 1999 tỷ trọng 1,49%; năm 2000 tỷ trọng 1,63%, năm 2001 tỷ trọng 1,73% trong tổng dư nợ. Thời gian qua, do bão lụt hạn hán, dịch bệnh gia súc, mùa màng xảy ra ở nhiều vùng trong cả nước, đã gây thiệt hại lớn về người và tài sản, trong đó có tài sản thuộc vốn vay NHNg. Trong 6 năm 1996-2001, số vốn vay gốc NHNg bị thiệt hại là 421 tỷ đồng (riêng năm 2001 mới tính nợ bị rủi ro do hộ nghèo đầu tư cà phê bị thiệt hại do giảm giá, chưa tính nợ rủi ro diện đơn lẻ trên toàn quốc). Nếu tính cả nợ thiệt hại đã được Chính phủ xử lý cho khoanh, giãn nợ thì kết quả nợ quá hạn qua các năm như sau (: năm 1996 tỷ trọng 0,71%; năm 1997 tỷ trọng 1,82%; năm 1998 tỷ trọng 4,8%; năm 1999 tỷ trọng 4,7%, năm 2000 tỷ trọng 6,4% và năm 2001 tỷ trọng 6,6% trong tổng dư nợ. Một số nơi chất lượng tín dụng tương đối tốt, tỷ lệ nợ quá hạn thấp như: Hải Dương 0,03%; Thái Bình 0,09%; Hưng Yên 0,10%; Nam Định 0,20%; Thái Nguyên 0,22%; Bắc Ninh 0,26%; Bắc Giang 0,37%. Trái lại, một số nơi tỷ lệ nợ quá hạn cao, tập trung ở các tỉnh như: Cần Thơ 20,26%; Bình Định 17,08%; Đồng Nai 11,35%; Sóc Sơn 11,03%; TP. Hồ Chí Minh 8,99%; Kon Tum 6,54%; Long An 5,92%; Bà Rịa - Vũng Tàu 5,64%; Vĩnh Long 5,18%. Nợ quá hạn có nhiều nguyên nhân. Ngoài nguyên nhân khách quan như: thiên tai, bão lụt, hạn hán, dịch bệnh cây trồng, vật nuôi, biến động giá cả tiêu thụ sản phẩm, còn có nguyên nhân chủ quan từ bản thân hộ nghèo như: Hộ nghèo chưa biết sử dụng vốn vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh mà sử dụng vốn để mua lương thực cứu đói, tiêu dùng nên không thể trả nợ, trả lãi Ngân hàng được. Có hộ ỷ lại vào các chính sách trợ cấp của Nhà nước, không phân biệt được vốn tín dụng ngân hàng với vốn cứu trợ từ Ngân sách Nhà nước. ở nhiều vùng miền núi, do điều kiện khí hậu, địa lý rất khắc nghiệt, hộ nghèo sản xuất theo hình thức tự cung tự cấp, không thể tự tiêu thụ những sản phẩm làm ra. Mặt khác, các nguyên nhân từ cơ chế chính sách khuyến nông, khuyến lâm, hướng dẫn cách làm ăn cho các hộ nghèo chưa được phối hợp đồng bộ với chính sách tín dụng. Việc phát tiền vay tại một thời điểm chưa phù hợp với thời vụ sản xuất. Suất đầu tư cho mỗi hộ thời kỳ đầu quá nhỏ (từ 300.000 đến 500.000 đồng/hộ). Phương thức cho vay trực tiếp tới hộ nghèo chưa thật phù hợp với những hộ không có đất đai, ngành nghề là những nguyên nhân phát sinh nợ quá hạn, giảm hiệu quả vốn vay của NHNg. Các chính sách tín dụng hộ nghèo đã được nghiên cứu và thay đổi phù hợp với sự phát triển chung trong từng thời kỳ như: - Cơ chế lãi suất 6 năm qua đã có 5 lần thay đổi theo hướng hạ lãi suất cho vay đối với hộ nghèo từ mức lãi suất 1,2%/tháng hạ xuống 1%/tháng, 0,8%/tháng, 0,7% và hiện nay đang áp dụng là 0,5%/tháng, riêng đối với hộ nghèo vùng III được vay lãi suất 0,45%/tháng và đều thấp hơn lãi suất cho vay hiện hành của các Ngân hàng Thương mại và Quỹ Tín dụng nhân dân. - Về quy định mức cho vay tối đa, khi mới thành lập mức cho vay tối đa không quá 2,5 triệu đồng/hộ. Hiện nay, điều chỉnh nâng lên tối đa không quá 5 triệu đồng/hộ. Riêng đối với những hộ nghèo đầu tư cho chăn nuôi đại gia súc, trồng cây ăn quả, cây công nghiệp, mua sắm công cụ, nuôi trồng đánh bắt hải sản, kinh doanh ngành nghề, được vay vốn tối đa đến 7 triệu đồng/hộ, phù hợp với tăng trưởng nguồn vốn, quy mô sử dụng vốn đối với hộ nghèo. Thời hạn cho vay trung hạn tối đa 36 tháng, nay được nghiên cứu áp dụng thời hạn tối đa 60 tháng. Ngoài ra còn áp dụng các hình thức cho vay lưu vụ, gia hạn nợ, cho vay lại cho đến khi hộ nghèo thoát ngưỡng nghèo, tạo điều kiện thuận lợi cho hộ nghèo sử dụng có hiệu quả vốn tín dụng. - Về điều kiện và thủ tục vay vốn, hộ nghèo vay vốn không phải thế chấp tài sản, khi vay vốn hộ nghèo chỉ cần điền vào đơn xin vay đã được Ngân hàng in sẵn, nêu rõ mục đích và số tiền xin vay thông qua Tổ vay vốn, gửi Ban XĐGN xã xét duyệt danh sách hộ nghèo cần vốn. Ngoài lãi suất cho vay hộ nghèo không phải trả một khoản phí nào cho Ngân hàng hoặc các tổ chức chính trị - xã hội khác. Nhờ áp dụng linh hoạt và hợp lý các chính sách, thủ tục tín dụng mà đồng vốn tín dụng NHNg đã giúp cho một bộ phận không nhỏ người nghèo có công ăn việc làm, tăng thu nhập. Nhìn chung, hộ nghèo đã biết sử dụng vốn tín dụng đầu tư vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh, từng bước vươn lên làm chủ cuộc sống; góp phần rất lớn đưa tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống còn 11% vào cuối năm 2000 (Theo tiêu chí hộ nghèo cũ). Ngoài ra, UBND tỉnh và Ban đại diện HĐQT đã chỉ đạo thực hiện một số chính sách riêng. Cụ thể là về lãi suất, chỉ đạo cho hộ nghèo vay vốn không phải trả lãi hoặc cho vay lãi suất thấp hơn lãi suất cho vay theo quy định của NHNg và sử dụng Ngân sách tỉnh cấp bù lãi suất. Toàn quốc có 6 tỉnh cho vay theo cơ chế này gồm: Lào Cai, Sơn La, Hà Giang, Quảng Nam, Gia Lai, Kon Tum. Cụ thể: Lào Cai giảm lãi suất cho vay so với lãi suất NHNg: vùng I giảm 30%, vùng II giảm 50%, vùng III giảm 70%; trong 2 năm (1999-2000), Ngân sách tỉnh chi gần 5 tỷ đồng để cấp bù phần miễn giảm lãi suất. Sơn La: Ngân sách cấp 20% để bù lãi suất cho vay của NHNg ở vùng III. Hà Giang: Các hộ nghèo vay vốn thuộc dự án nuôi bò không phải trả lãi NHNg. Quảng Nam: Đối với 4 huyện miền núi, lãi suất cho vay hộ nghèo là 0,5%/tháng, số chênh lệch được Ngân sách cấp bù đến 31/12/1999. Nguồn vốn địa phương chuyển sang NHNg được thực hiện theo 2 phương thức: - Chuyển qua hoà đồng nguồn vốn của NHNg thực hiện theo cơ chế lãi suất và cơ chế đầu tư theo quy định của NHNg như: Hà Tây 24,8 tỷ đồng, ĐăcLăk 19,8 tỷ đồng, Khánh Hòa 17 tỷ đồng. Lạng Sơn 16,4 tỷ đồng, Quảng Trị 13,6 tỷ đồng, Thừa Thiên Huế 13 tỷ đồng, ... - Chuyển qua NHNg làm dịch vụ giải ngân theo các dự án theo chỉ định của tỉnh như: Nghệ An 22 tỷ đồng; Ninh Thuận 9,6 tỷ đ; Quảng Nam 7,8 tỷ đ; Đồng Tháp 6,4 tỷ đ; An Giang 4,8 tỷ đ... III. Đánh giá kết quả hoạt động cho vay hộ nghèotrong thời gian qua tại Ngân Hàng phục vụ người nghèo. Trên cở sở nghiên cứu thực tiễn và kết quả hoạt động để tiếp tục điều chỉnh, khắc phục những tồn tại, xây dựng một mô hình quản lý phù hợp, thực hiện tốt dự án tín dụng trong chương trình mục tiêu Quốc gia XĐGN của Chính phủ. Sau đây là những nhận xét, đánh giá về những mặt được và chưa được trong hoạt động của NHNg. 1- Về mô hình tổ chức của NHNg - NHNg được tổ chức và hoạt động theo quyết định 525/TTg của Thủ tướng Chính phủ, thực thi một thể chế chính sách được nhân dân đồng tình, hưởng ứng, thể hiện đường lối đúng đắn của Đảng, Chính phủ. Đây là giải pháp rất cụ thể, góp phần ổn định kinh tế-xã hội, thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Chỉ trong thời gian ngắn hoạt động của NHNg có hiệu quả thực sự góp phần XĐGN, là cầu nối củng cố khối liên minh công nông, phù hợp ý Đảng lòng dân. Trong điều kiện hiện nay, mô hình tổ chức của NHNg đã tiết kiệm được chi phí; tận dụng được nhân lực, kỹ thuật, công nghệ, mạng lưới của Ngân hàng quốc doanh... chuyển trực tiếp hỗ trợ người nghèo (không phải chi phí tuyển nhân lực, không tăng thêm các chi phí mua sắm, xây dựng cơ sở vật chất...). - Lần đầu tiên trong lịch sử nước ta đã thiết lập được kênh tín dụng riêng để hỗ trợ tài chính cho người nghèo; thực hiện chính sách tín dụng hợp lý; tạo điều kiện cho hộ nghèo có vốn sản xuất; tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập; từng bước làm quen với nền sản xuất hàng hoá. Hàng năm, vốn của NHNg tăng trưởng khá, sau 6 năm hoạt động đã có 6.266 tỷ đồng với 2.775 ngàn hộ nghèo đang có quan hệ vay vốn NHNg. Vốn của Nhà nước đã thực sự đến tay người nghèo, người nghèo vay vốn trả nợ khá sòng phẳng, nợ quá hạn (nếu loại trừ nợ khoanh và chờ xử lý do nguyên nhân khách quan) là 1,73%, tỷ lệ thu lãi bình quân đạt trên 90% năm 2001. Theo thống kê đã có 562 ngàn hộ nghèo được vay vốn thoát khỏi ngưỡng nghèo đói theo chuẩn mực. Đời sống của hàng vạn hộ nghèo đã được cải thiện hơn. - Mô hình quản lý đã huy động được sức mạnh tổng hợp của các cơ quan quản lý Nhà nước, các Ngân hàng, các Tổ chức đoàn thể xã hội từ Trung ương đến địa phương về các nguồn lực; hàng ngàn người tự nguyện lao động tận tình vì người nghèo, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ, của Đảng, Nhà nước ta. Tuy nhiên, về hình thức, NHNg là một tổ chức tín dụng của Nhà nước có tư cách pháp nhân nhưng hoạt động như một quỹ ưu đãi, giao điều hành tác nghiệp cho NHNo&PTNT Việt Nam, cho nên tổ chức quản lý và tổ chức điều hành đều theo hình thức kiêm nhiệm, trách nhiệm không cao hoặc phân định trách nhiệm không rõ ràng, cán bộ Ngân hàng cơ sở thiên về trách nhiệm kinh doanh chưa quan tâm đúng mức đến tín dụng hộ nghèo. Mặt khác, chưa có chính sách tài chính thoả đáng đối với cán bộ tín dụng cho vay hộ nghèo ở các vùng sâu, vùng xa, điều kiện và phương tiện làm việc rất khó khăn, hạn chế đến việc cung cấp dịch vụ tín dụng cho hộ nghèo ở các vùng này. Bên cạnh hoạt động có hiệu quả của Ban đại diện HĐQT các cấp, có một số nơi thiếu sự chỉ đạo, kiểm tra, giám sát của Ban đại diện, sự phối hợp với các Ban ngành, đoàn thể chưa thường xuyên, còn nhiều bất cập nhất là trong việc tuyên truyền các chính sách tín dụng hộ nghèo, hướng dẫn cách làm ăn, chỉ dẫn thị trường..., để phát sinh các tiêu cực trong việc sử dụng vốn vay là nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. 2- Về cơ chế hoạt động của NHNg *Đánh giá thực hiện mục tiêu: - Có thể nói, qua 6 năm hoạt động, NHNg với một cơ chế hoạt động đặc thù đã thực hiện tương đối tốt mục tiêu đề ra như: cho vay vốn kịp thời tới tận tay người nghèo thiếu vốn sản xuất kinh doanh, góp phần tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập, hạn chế nạn cho vay nặng lãi ở nông thôn, giảm tỷ lệ hộ nghèo, xoá bỏ dần sự tự ti mặc cảm của người nghèo và khoảng cách giàu nghèo, giữ một vai trò tích cực trong chương trình quốc gia về XĐGN. - Tính ưu việt của cơ chế được thể hiện ở: + Khả năng huy động vốn cho mục tiêu giảm nghèo đã được xác lập + Điều kiện vay vốn được nới rộng, không phải thế chấp tài sản hoặc xây dựng các dự án vay vốn. + Nâng cao vai trò kiểm soát thông qua điều hành của HĐQT và Ban đại diện HĐQT ở các địa phương; thông qua bình xét đối tượng được vay vốn của các tổ chức cộng đồng. - Tập hợp được nguồn vốn đáng kể, đưa vốn trực tiếp đến người nghèo, vốn tín dụng của NHNg chiếm thị phần lớn trên 80% thị phần tín dụng cho hộ nghèo ở nông thôn. Đại bộ phận hộ nghèo đã biết sử dụng vốn tín dụng, trả nợ khá sòng phẳng. - Chính sách ưu đãi tín dụng luôn được nghiên cứu và thay đổi phù hợp với sự phát triển chung trong từng thời kỳ như: chính sách về lãi suất cho vay thay đổi theo hướng hạ lãi suất có phân biệt đối với vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa; suất đầu tư tối đa đối với một số đối tượng đã được nâng 7 triệu đ/hộ; áp dụng thời hạn cho vay trung hạn, cho vay lại cho đến khi thoát ngưỡng nghèo. - Chủ trương Ngân sách Nhà nước hỗ trợ vốn thông qua bù chênh lệch lãi suất, sử dụng phương pháp tín dụng Ngân hàng để huy động vốn và cho vay đối với hộ nghèo thiếu vốn sản xuất, đã tạo ra khối lượng vốn lớn hơn nhiều lần so với cách đầu tư trực tiếp từ Ngân sách trước đây. *Những tồn tại và vướng mắc chủ yếu: 1- Hoạt động của NHNg trong thời gian qua, xét về bản chất vốn tín dụng cho hộ nghèo có chính sách hỗ trợ đặc biệt của Nhà nước. Do vậy tính chủ động trong hoạt động của NHNg còn hạn chế, nguồn vốn huy động phụ thuộc vào mức cấp bù chênh lệch lãi suất từ Ngân sách Nhà nước. Theo mô hình tổ chức và phương thức tạo lập nguồn vốn hiện nay, nguồn vốn huy động thông qua các ngân hàng thương mại quốc doanh, hợp đồng huy động từng lần (phụ thuộc mức cấp bù Ngân sách hàng năm và khả năng giải ngân từng thời kỳ), thời hạn huy động đến 12 tháng. Trong cơ cấu nguồn vốn thì nguồn vốn trung hạn (kể cả vốn điều lệ) có 30% trong khi đầu tư có thời hạn trung hạn dư nợ chiếm 77,34%. Đây là vấn đề khó khăn nhất khi đến thời hạn hoàn trả vốn cho các ngân hàng thương mại. Rất khó có thể tiếp tục phát triển nguồn vốn huy động nếu không được cải thiện về cơ chế tạo lập nguồn vốn theo hướng ổn định hơn. 2- Hoạt động tín dụng đối với hộ nghèo là hoạt động có tính rủi ro cao. Ngoài những nguyên nhân khách quan như thiên tai bão lụt, dịch bệnh cây trồng, vật nuôi thường xảy ra trên diện rộng, còn là những nguyên nhân khác từ bản thân hộ nghèo: do trình độ hạn chế, thiếu kiến thức làm ăn, sản phẩm làm ra không tiêu thụ được do sức cạnh tranh kém nên dẫn đến tính bền vững không cao. 3- Ngoài ra còn có các tồn tại khác như: Sự kém phát triển cơ sở hạ tầng ở các vùng sâu, vùng xa là những cản trở cho việc thực hiện chính sách tín dụng hộ nghèo. Vốn tín dụng cho hộ nghèo chưa đồng bộ với các chương trình khuyến nông, khuyến lâm, cung cấp vật tư kỹ thuật cho sản xuất và tổ chức thị trường tiêu thụ sản phẩm. Việc xây dựng chính sách tín dụng cho vay trực tiếp tới hộ nghèo áp dụng chung trong cả nước cũng chưa phù hợp với một số nơi có tập quán canh tác và sở hữu đất đai khác nhau. Khi phân tích nguyên nhân nợ quá hạn cao ở một số nơi cho thấy hộ nghèo thường sử dụng đất đai cầm cố và đi làm thuê. Đối với những hộ này thường sử dụng tiền vay vào các mục đích tiêu dùng nên không thể thu hồi nợ, vì vậy cần phải nghiên cứu phương thức đầu tư đa dạng hơn để tạo công ăn việc làm. 4- Về tiêu chí phân loại hộ nghèo, chuẩn mực được công bố từ năm 1995 khi mức sống đã có thay đổi, chuẩn mực phân loại hộ nghèo chậm thay đổi, gây khó khăn cho việc xác định đối tượng hộ nghèo vay vốn theo tình hình thực tế của từng địa phương. 5- Ngoài cơ chế chính sách, những tồn tại chủ quan trong điều hành thể hiện: Ban đại diện HĐQT ở một số nơi chưa quan tâm chỉ đạo thực hiện chính sách tín dụng hộ nghèo nhất là nhận thức về mục tiêu và thay hết các quy chế thậm chí quyết định đưa vốn tín dụng để thực hiện một số dự án phát triển kinh tế của địa phương, UBND xã chỉ đạo sử dụng vốn sai mục đích như vay để xây dựng cơ sở hạ tầng, trả nợ thuỷ lợi phí. 6- Việc xác định đối tượng hộ nghèo vay vốn còn nhiều bất cập. Theo cơ chế phải là hộ nghèo thiếu vốn sản xuất nhưng việc bình nghị và xét chọn từ UBND xã chỉ là lập danh sách hộ nghèo, trong đó nhiều hộ nghèo không có điều kiện và năng lực tổ chức sản xuất, hộ nghèo thuộc diện cứu trợ xã hội hoặc những hộ không phải là đối tượng hộ nghèo. - Một số ít chi nhánh NHNg và cán bộ tín dụng còn quan niệm làm hộ, giải ngân xong là hết trách nhiệm, thiếu kiểm tra, giám sát thu hồi vốn. Việc tham mưu cho Ban đại diện HĐQT các cấp trong chỉ đạo điều hành còn hạn chế. 7- Một số tổ chức đoàn thể xã đứng ra xây dựng các Tổ vay vốn nhưng thông đồng lợi dụng không phát tiền vay, thu nợ không nộp, chiếm đoạt tài sản làm ảnh hưởng lớn uy tín và chính sách của Nhà nước. Chương III Một số giải pháp tăng cường công tác tín dụng của ngân hàng Phục vụ Người nghèo I/. Định hướng hoạt động tín dụng của Ngân hàng phục vụ người nghèo trong thời gian tới. Ngân hàng phục vụ người nghèo ra đời đã tạo lập một kênh tín dụng cho vay hộ nghèo, là một trong nhiều giải pháp của Đảng và Nhà nước ta nhằm thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo. Tôn chỉ hoạt động của Ngân hàng phục vụ người nghèo vì mục tiêu xoá đói giảm nghèo không vì mục tiêu lợi nhuận, bảo tồn vốn ban đầu và phát triển vốn trên cơ sở khai thác các nguồn của các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước, tiếp nhận các nguồn vốn tín dụng của Nhà nước đối với người nghèo và các nguồn vốn khác được Nhà nước cho phép để lập quỹ cho vay ưu đãi hộ nghèo thiếu vốn sản xuất kinh doanh. Từ khi ra đời cho tới nay hoạt động của Ngân hàng phục vụ người nghèo gặp rất nhiều khó khăn do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực, diễn biến thời tiết khắc nghiệt thiên tai bão lụt, hạn hán kéo dài ở hầu hết các tỉnh, thành phố trong cả nước. Đặc biệt là các trận lũ xảy ra hồi cuối năm 1999 tại các tỉnh Miền Trung, lut xảy ra cuối năm 2000 ở các tỉnh Đồng bằng sông Cửu long đã gây thiệt hại nặng nề về người và tài sản của nhân dân, trong đó có vốn vay NHNg. Vì vậy, ảnh hưởng trực tiếp đến việc huy động vốn và cho vay hộ nghèo. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh đó bằng sự lỗ lực của Ngân hàng phục vụ người nghèo cùng với sự quan tâm giúp đỡ đặc biệt của các ban, ngành liên quan hoạt động tín dụng của Ngân hàng phục vụ người nghèo đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Nhưng dù sao đi nữa thì trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng phục vụ người nghèo cũng đã nảy sinh nhiều vấn đề cần phải khắc phục và chỉ có như thế mới hoàn thành được kế hoạch đề ra. Theo kế hoạch của Ngân hàng phục vụ người nghèo đến năm 2002 là tăng mức dư nợ bình quân gần 2,5 triệu đồng/hộ với số hộ được vay còn dư nợ Ngân hàng phục vụ người nghèo khoảng 3 triệu hộ. Như vậy, theo ước tính phải có nguồn vốn trên 7.300 tỷ đồng; dư nợ đạt 6.950 tỷ đồng. Vậy trong thời gian tới cần có những giải pháp gì để đạt được mục tiêu trên? Sau đây là một số giải pháp chính: II/. Những Giải pháp giúp hoạt động tín dụng hộ nghèo của NHNg đạt hiệu quả cao. 1. Giải pháp tạo lập nguồn vốn. a. Sự giúp đỡ nguồn vốn từ phía Nhà nước. Theo điều lệ của Ngân hàng phục vụ người nghèo thì Ngân hàng phục vụ người nghèo hoạt động không phải mục tiêu lợi nhuận như các ngân hàng thương mại khác mà mục đích chính là xoá đói giảm nghèo (XĐGN) theo chủ trương của Đảng và Nhà nước. Chính vì thế mà đối tượng cho vay của Ngân hàng phục vụ người nghèo là hộ nghèo, có khả năng lao động nhưng thiếu vốn sản xuất kinh doanh. Cho vay những hộ này rủi ro thì cao nhưng lợi nhuận mang lại không đáng kể, cho nên để đảm bảo kết cấu nguồn vốn bền vững (nghĩa là thu hoạt động nghiệp vụ đủ bù chi hoạt động nghiệp vụ) thì Ngân hàng phục vụ người nghèo cần phải có sự giúp đỡ đặc biệt từ phía Nhà nước. Đó là sự giúp đỡ về nguồn vốn cho hoạt động của Ngân hàng phục vụ người nghèo. Cụ thể như sau: - Ngoài số vốn điều lệ theo quy chế thành lập của Ngân hàng phục vụ người nghèo, Nhà nước phải đảm bảo đầy đủ. Nhà nước cần phải có chính sách thực hiện cấp bù lãi suất thích hợp. Việc cấp vốn và cấp bù lãi suất phải thực hiện kịp thời, nhanh chóng, có như thế Ngân hàng phục vụ người nghèo mới hoạt động tốt được. - Nhà nước phải có quy định mang tính bắt buộc mỗi ngân hàng thương mại (NHTM) phải dành một tỷ lệ vốn huy động được để làm vốn cho vay hộ nghèo. Điều này không phải dễ dàng gì mà các NHTM chấp nhận vì họ huy động vốn với mục đích cho vay được với lãi suất cao để tối đa hoá lợi nhuận. Nhưng khi cho Ngân hàng phục vụ người nghèo vay vốn thì phải cho vay với mức lãi suất thấp cho nên họ không muốn cho vay. Vì thế cần phải có sự quy định bắt buộc từ phía Nhà nước. Cụ thể là Nhà nước có thể quy định mức tối thiểu mà các NHTM dành ra để cho vay hộ nghèo. Tuy nhiên, tùy theo tình hình hoạt động của từng ngân hàng và tình hình phát triển kinh tế xã hội mà Nhà nước có những quy định cụ thể sao cho vẫn đảm bảo được tính thanh khoản và lợi nhuận của các NHTM mà vừa đảm bảo vốn cho vay hộ nghèo. Ngoài ra Ngân hàng phục vụ người nghèo cũng nên tự đàm phán, thoả thuận thêm các khoản vay đối với các NHTM dưới sự bảo trợ từ phía Nhà nước. - Ngân hàng Nhà nước cần nâng mức cho vay đối với Ngân hàng phục vụ người nghèo. Vốn vay từ Ngân hàng Nhà nước (NHNN) có ý nghĩa rất quan trọng trong tổng nguồn vốn của Ngân hàng phục vụ người nghèo. Như chúng ta đã biết Ngân hàng phục vụ người nghèo là một ngân hàng chính sách vì thế mà mức cho vay cũng như lãi suất áp dụng đối với các khoản vay cũng phải khác các NHTM. Hiện nay NHNg vay của NHNN là 940 tỷ đồng với lãi suất 0,2%/tháng. - Tăng cường sự giúp đỡ, hợp tác với các tổ chức quốc tế về công cuộc xoá đói giảm nghèo như: FAO, UNDP, ADB, WB,... Sự giúp đỡ về kỹ thuật cũng như nguồn viện trợ của các tổ chức này có một ý nghĩa quan trọng trong quá trình phát triển nông nghiệp-nông thôn. b. Đẩy mạnh việc huy động vốn trong cộng đồng dân cư. Đa phần dân cư nông thôn có số tiền để dành tương đối nhỏ, hơn nữa họ lại ở phân tán và thường là khá xa các hội sở ngân hàng. Đó là nguyên nhân chủ yếu khiến việc huy động vốn của Ngân hàng phục vụ người nghèo gặp nhiều khó khăn. Chúng ta có thể đưa ra một ví dụ đơn giản để lý giải điều này như sau: Một người dân có một món tiền để dành giả sử là 400.000 đồng, nếu số tiền này anh ta đem gửi tiết kiệm với lãi suất cho loại kỳ hạn mà anh ta muốn gửi giả dụ là 0,6%/ tháng thì hàng tháng số thu nhập mà anh ta kiếm được từ số tiền gửi là 2.400 đồng. Vậy thử hỏi số tiền này có thôi thúc anh ta gò lưng đạp xe đến hội sở ngân hàng cách đó đến 10 km để gửi tiền hay không? Đó còn chưa tính đến những nguyên nhân khác như: thái độ lạnh nhạt của nhân viên ngân hàng, những lo tính cho các khoản chi đột xuất trong tương lai, nỗi lo đồng tiền mất giá... mà anh ta cho rằng những cái anh ta bị thua thiệt khi gửi tiền vào ngân hàng lớn hơn số thu nhập hàng tháng mà anh ta có được. Có nghĩa là chi phí cơ hội của việc gửi tiền thường lớn hơnsố tiền lãi của các món tiền gửi tiết kiệm. Điều này làm cho những người có món tiền nhỏ để dành thường muốn giữ dưới dạng tiền mặt hơn là đem đi gửi ở các ngân hàng. Hiện nay có ý kiến cho rằng do bản chất của hoạt động của Ngân hàng phục vụ người nghèo là cho vay với lãi suất thấp hơn laĩ suất thị trường cho nên lãi suất huy động không đủ cao để có thể thu hút các khoản tiền gửi tiết kiệm. Nhưng có lẽ vấn đề ở đây không hẳn là lãi suất cao hay thấp để có thể thu hút các khoản tiền tiết kiệm. Chẳng hạn, chúng ta có thể tăng lãi suất huy động lên đến 1%/ tháng thay vì 0,6%/ tháng thì điều gì sẽ xảy ra. Với mức lãi suất này anh ta có mức thu nhập hàng tháng từ các khoản tiết kiệm là: 400.000 x 0,01 = 4.000 đồng. Vậy thử hỏi xem anh ta có mạnh dạn đem 400.000 đồng với những toan tính canh cánh bên lòng về các khoản chi tiêu đột xuất trong những ngày sắp tới, thậm chí bất chấp cả thái độ hờ hững của nhân viên ngân hàng để đến ngân hàng gửi tiền để mong nhận được 4.000 đồng/ tháng hay không? Thậm chí nếu tăng gấp đôi khoản tiền gửi này thì tôi cũng không tin rằng người dân sẽ có động cơ thôi thúc đem tiền đến gửi ở các ngân hàng. Từ sự phân tích trên cho thấy: đã và đang có những khó khăn lớn trong công tác huy động vốn ở các vùng nông thôn, đặc biệt là huy động các món tiền để dành nhỏ- vốn tồn tại chủ yếu ở các vùng nông thôn nước ta. Lý do chủ yếu vẫn là các hộ gia đình nông thôn phân bố rải rác và khá xa các hội sở ngân hàng. Từ đó cho thấy việc phi tập trung hóa hoạt động ngân hàng vẫn được xem là biện pháp chủ yếu để huy động vốn trong dân cư đặc biệt là ở các vùng nông thôn. Tuy nhiên, để làm được điều này sẽ làm tăng chi phí hoạt động ngân hàng và sẽ làm giảm hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Vì vậy, để làm tốt công tác huy động vốn trong dân cư thì việc nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ tiết kiệm và vay vốn là một việc làm rất cần thiết. Đồng thời với nó là thực hiện quá trình chuyển đổi các tổ tín chấp và vay vốn thành các tổ tiết kiệm và vay vốn. Làm tốt việc này một mặt nó khuyến khích người nghèo tiết kiệm, ngân hàng có điều kiện huy động nguồn vốn đồng thời nó cũng làm cho quá trình giám sát, quản lý các khoản cho vay chặt chẽ hơn do nâng cao được trách nhiệm của tổ đối với quá trình sử dụng vốn vay của từng thành viên. Theo quy chế thì : “ Đây là một tổ chức được thành lập do các thành viên là những chủ hộ gia đình có cùng hoàn cảnh, có cùng truyền thống đoàn kết tương trợ, cùng cư trú trong một phường xã và tự nguyện cùng nhau tham gia cam kết gửi tiền tiết kiệm và vay vốn”. Như vậy, tổ tiết kiệm và vay vốn là những thành viên “4 cùng”. Đây cũng là một chủ thể quan hệ dân sự, do đó để có thể thành lập được phải có những điều kiện tối thiểu nhất định. Trước hết phải có từ 5-50 thành viên tự nguyện tham gia, có quy ước nêu rõ nội dung phương pháp quản lý, được Uỷ ban nhân dân xã phường phê duyệt, được Ngân hàng phục vụ người nghèo và các tổ chức chính trị-xã hội hướng dẫn, giúp đỡ đào tạo và quản lý. Nhiệm vụ của tổ khá nặng nề, trong đó chủ yếu là huy động và quản lý tiền gửi tiết kiệm, giúp đỡ các thành viên vay vốn Ngân hàng phục vụ người nghèo. Ngoài ra, còn có trách nhiệm kiểm tra, giám sát việc sử dụng tiền vay, đôn đốc hộ vay trả nợ NH, tổ chức thu lãi và nộp cho ngân hàng. Phối hợp với các đoàn thể trong xã hôi chuyển giao công nghệ nhằm nâng cao trình độ sản xuất kinh doanh cho hộ nghèo. Với một nhiệm vụ nặng nề như thế thì cần thiết phải có một đội ngũ quản lý mạnh. Điều này không thể làm ngày một ngày hai được. Vì thế, không thể một lúc đồng loạt cho ra đời nhiều tổ tiết kiệm và vay vốn ngay được. Muốn cho hoạt động của tổ tiết kiệm và vay vốn đạt hiệu quả cao ngoài việc phải có một quy chế tổ chức và hoạt động của tổ tiết kiệm và vay vốn thì cần thiết phải: - Cần có sự giúp đỡ của chính quyền địa phương, sự giúp đỡ này có một ý nghĩa quan trọng vì nó tác động trực tiếp đến quá trình ra đời, hoạt động của các tổ tiết kiệm và vay vốn. Các đoàn thể chính trị-xã hội ở địa phương một mặt có nhiệm vụ tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn cho dân chúng biết được lợi ích của tổ tiết kiệm và vay vốn một mặt phải tham gia quản lý định hướng hoạt động của Tổ. - Tổ chức các lớp đào tạo cán bộ cho tổ tiết kiệm và vay vốn. Có thể mở các lớp ngay tại địa phương hoặc đào tạo tập trung theo vùng. Việc đào tạo các nghiệp vụ về tín dụng và quản lý tiền tệ cho các cán bộ quản lý Tổ là rất cần thiết vì chỉ có làm tốt điều này thì hoạt động của Tổ mới đem lại hiệu quả. Đây là một việc làm tốn kém ngân hàng cần phối hợp với chính quyền địa phương để thực hiện. - Đội ngũ quản lý Tổ phải lựa chọn những người có uy tín, có ảnh hưởng lớn trong cộng đồng, nhất là người Tổ trưởng. - Một điều rất quan trọng đó là thực hiện dần dần việc chuyển đổi từ tổ tín chấp và vay vốn sang tổ tiết kiệm và vay vốn. Làm việc này sẽ ít tốn kém do đã có sẵn đội ngũ cán bộ có kinh nghiệm lại tận dụng được cơ sở vật chất. Tuy nhiên đây là một việc làm không đơn giản cần phải có quy chế chính sách rõ ràng để thực hiện. c. Hoàn thiện chính sách huy động vốn của Ngân hàng phục vụ người nghèo. Điều mà ta dễ nhận thấy là Ngân hàng phục vụ người nghèo khác hẳn các NHTM vì thế vốn hoạt động không phải chủ yếu từ huy động tiền gửi tiết kiệm mà từ ngân sách Nhà nước và đi vay các tổ chức trong và ngoài nước. Thực tế đó cho thấy rằng Nhà nước phải có những chính sách cụ thể để tạo điều kiện cho Ngân hàng phục vụ người nghèo huy động nguồn vốn một cách dễ dàng hơn. Có thể Nhà nước cần cho phép Ngân hàng phục vụ người nghèo được thực hiện chính sách huy động vốn theo cơ chế thị trường trong trường hợp lãi suất cho vay do Chính phủ chỉ định thì mức chênh lệch được ngân sách Nhà nước cấp bù và được ghi trong cân đối ngân sách hàng năm trình Quốc hội thông qua. Thực hiện được điều này còn tạo ra sự tin tưởng đối với các tổ chức tín dụng nước ngoài, tạo điều kiện cho Ngân hàng phục vụ người nghèo có thể vay được vốn của các tổ chức này mà trước đây họ cho đây là kênh tín dụng bao cấp nên họ không cho vay. d. Cần có một cơ chế điều hòa vốn hợp lý giữa chi nhánh thừa vốn và chi nhánh thiếu vốn. Đây là một việc làm quan trọng, rất cần thiết vì nó khuyến khích các chi nhánh tăng cường công tác huy động vốn. Để có một cơ chế điều chuyển vốn tốt thì phải có mức phí điều chuyển hợp lý. Mục đích của việc điều chuyển vốn là khuyến khích các địa phương huy động vốn nhưng nếu mức phí điều chuyển quá thấp thì các chi nhánh sẽ không tích cực điều chuyển mà chỉ huy động đủ để cho vay và như vậy ngân hàng sẽ không đạt được mục tiêu điều hoà vốn giữa những nơi thừa và nơi thiếu. Điều này sẽ dẫn đến một lượng vốn nhàn rỗi trong dân cư không được huy động. 2. Giải pháp về cho vay. Như chúng ta đã biết, môi trường hoạt động kinh doanh ngân hàng ở nước ta hiện nay chưa thực sự lành mạnh, đặc biệt là luật pháp còn thiếu đồng bộ và công tác thực thi chưa nghiêm. Điều đó làm cho hoạt động kinh doanh ngân hàng vốn dĩ đã chứa đựng nhiều rủi ro, lại càng rủi ro hơn. Riêng đối với hoạt động kinh doanh ngân hàng ở các vùng nông thôn thì mức độ rủi ro có lẽ còn nghiêm trọng hơn. Điều này do nhiều yếu tố tác động, trong đó chủ yếu vẫn là do đa phần người dân nông thôn trình độ dân trí nói chung cũng như hiểu biết về pháp luật, kinh doanh, tiền tệ... còn rất hạn chế. Đó sẽ là nhân tố tiềm ẩn rất lớn khả năng rủi ro mất vốn của ngân hàng nếu như nhân viên ngân hàng không đi sâu, đi sát với các đối tượng vay vốn. Hơn nữa, do hoạt động của Ngân hàng phục vụ người nghèo chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp, gắn với chu kỳ sinh trưởng của cây, con... với mức độ rủi ro do thiên tai lớn cũng làm cho khả năng rủi ro mất vốn của ngân hàng lớn. Thực tế này cho thấy Ngân hàng phục vụ người nghèo phải có những biện pháp, cơ chế để thích ứng với điều kiện hoàn cảnh để làm sao một mặt không ngừng tăng cường tín dụng cho hộ nghèo thiếu vốn sản xuất kinh doanh trong cả nước, mặt khác phải đảm bảo hạn chế rủi ro mất vốn. Vậy cần có những giải pháp gì để tăng cường hoạt động cho vay đối với hộ nghèo? Chúng ta có thể đưa ra đây một số giả pháp: a. Về chính sách lãi suất cho vay hộ nghèo. Nói đến cho vay hộ nghèo nó sẽ làm người ta liên tưởng ngay đến cho vay ưu đãi với lãi suất thấp vì đây là những người cần được sự giúp đỡ của xã hội. Thế nhưng điều này lại gây ra một sự mâu thuẫn cơ bản trong hoạt động của ngân hàng, đó là quan hệ giữa rủi ro và lãi suất. Theo lý luận cơ bản, nếu rủi ro cao thì lãi suất sẽ cao và ngược lại, nếu rủi ro thấp thì lãi suất sẽ thấp. Như ta đã thấy cho vay hộ nghèo rủi ro lớn thì lãi suất sẽ phải cao, điều này hoàn toàn phù hợp với quan hệ giữa rủi ro và lãi suất. Cứ theo lý luận này thì tín dụng cung cấp cho hộ nghèo sẽ là tín dụng lãi suất cao. Nhưng có lẽ vấn đề lại không phải hoàn toàn như thế. Ta thấy rằng quan hệ giữa rủi ro và lãi suất chỉ đúng trong trường hợp đó là ngân hàng thương mại mà mục tiêu hoạt động của nó là tìm kiếm lợi nhuận còn trong trường hợp Ngân hàng phục vụ người nghèo cung cấp tín dụng cho hộ nghèo thì lại khác. Vì sao lại có sự khác biệt này? Phải chăng Ngân hàng phục vụ người nghèo là một ngân hàng chính sách hoạt động trên cơ sở nguồn vốn chủ yếu từ ngân sách Nhà nước và có sự cấp bù lãi suất ? Chúng ta có thể làm rõ điều này như sau: Như chúng ta đều biết hộ nông dân nghèo là những người sản suất nhỏ vì thế mà lợi nhuận họ kiếm được trên đồng vốn kinh doanh là rất nhỏ, không kể đến do thiên tai mà mất trắng. Nếu ngân hàng cho vay với lãi suất cao thì phần lợi nhuận họ thu được không thể trả đủ lãi suất cho ngân hàng. Điều này sẽ làm cho người dân có tâm lý sợ vay vốn ngân hàng và thứ nữa, nếu cho vay với lãi suất cao không giúp được hộ nông dân phát triển sản xuất thì làm sao họ có thể xoá được đói, giảm được nghèo. Như vậy, theo lý luận trên đây thì một điều cần thấy rõ là không thể cho vay hộ nghèo với lãi suất cao hơn lãi suất thị trường. Vậy nếu như thế có lẽ nên cho vay hộ nghèo với lãi suất rất ưu đãi ? Điều này lại càng không được phép bởi vì như thế chưa chắc nó đã xoá được đói giảm được nghèo mà hoạt động của Ngân hàng phục vụ người nghèo cũng không được đảm bảo. Vì sao lại có hiện tượng này? Nếu cứ cho vay như thế thì không thể gọi là ngân hàng mà nên gọi là một quỹ giải ngân cho Nhà nước vì mục tiêu xoá đói giảm nghèo. Lãi suất cho vay mà không bù đắp được các chi phí và có mức sinh lời tối thiểu thì ngân hàng sẽ dần dần cạn vốn và đi đến phá sản hoặc luôn luôn phụ thuộc vào nguồn tài trợ. Ngân hàng đó sẽ không bền vững khi nó không còn nhận được sự tài trợ hoặc nhận được sự tài trợ chậm trễ để bù đắp thiếu hụt về tài chính cho ngân hàng. Ngoài ra, nếu được vay ưu đãi người nghèo nhận vốn dễ nhầm hiểu là nguồn trợ cấp từ đó họ không có ý thức tiến thủ, không đầu tư sức lực vào công việc sản suất, chăn nuôi mà luôn luôn mong có nguồn tài trợ từ phía bên ngoài. Không sai khi có ý cho rằng: nếu muốn giúp người nông dân thì tốt nhất là cho người ta cái cần câu chứ đừng cho người ta con cá. Điều này có ý rằng chúng ta nên giúp người nghèo các phương tiện sản suất để họ tự tạo ra thu nhập từ đó người ta mới có ý trí tiến thủ trong sản xuất kinh doanh. Còn có một điều nữa là nếu nhận được vốn vay từ nguồn ưu đãi có người còn mang gửi tiết kiệm ở các tổ chức tín dụng khác để ăn chênh lệch. Đến đây chúng ta có thể nói không thể cho vay hộ nghèo theo mức lãi suất quá ưu đãi mà cũng không thể cho vay hộ nghèo với mức lãi suất cao hơn lãi suất thị trường. Vì vậy, lãi suất cho vay hộ nghèo nên áp dụng ở mức thấp hơn lãi suất thị trường và cao hơn mức lãi suất quá ưu đãi. Lãi suất cho vay hộ nghèo áp dụng theo công thức: LS huy động + Chi phí ngân hàng < LS cho vay hộ nghèo < LS thị trường Nhưng chúng ta có thể áp dụng thống nhất lãi suất cho vay thị trường với lãi suất cho vay hộ nghèo và có thể kết hợp với việc áp dụng các hình thức thưởng, phạt như một đòn bẩy khuyến khích trả nợ. Việc xử lý lãi suất cho vay của ngân hàng không thể tiến hành cục bộ mà phải phối hợp đồng bộ trong hệ thống cũng như với các tổ chức tín dụng khác trên cùng địa bàn. Lãi suất cho vay hộ nghèo phải vừa đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng vừa phải tạo ra động lực khuyến khích kinh tế hộ sản xuất nông nghiệp phát triển. Lãi suất phải mềm dẻo, linh hoạt căn cứ theo địa lý và tình hình phát triển kinh tế xã hội của từng nơi và phù hợp với diễn biến lãi suất trên thị trường. Bản thân ngân hàng phải tìm mọi cách để giảm lãi suất huy động, đồng thời tiết kiệm chi phí để hạ lãi suất cho vay. Có xử lý như vậy mới tạo điều kiện cho kinh tế hộ gia đình nông dân nghèo phát triển, từ đó có thu nhập và trả nợ ngân hàng cả gốc và lãi. b. Điều kiện vay vốn. Điều kiện cơ bản để người nghèo được vay vốn là theo căn cứ phân loại người nghèo quy định ở từng thời kỳ. Tiêu chuẩn phân loại hộ nghèo là căn cứ để lựa chọn, còn giữa các vùng, các làng, xã việc lựa chọn hộ nghèo thường căn cứ vào đánh giá có sự tham gia trực tiếp của cộng đồng ngươì nghèo. Người nghèo phải là người sinh sống thường xuyên tại địa bàn không phải là người mất trí, là người có khả năng lao động, có khả năng sản xuất kinh doanh không mắc các tệ nạn xã hội và không nợ bất cứ một tổ chức tín dụng nào. c. Loại cho vay. Đối với việc cho vay vốn hộ nghèo vẫn có thể áp dụng nhiều loại cho vay: ngắn hạn, trung hạn, trả góp... nhưng nên cho vay ngắn hạn là chủ yếu. Các ngân hàng nên xác định tỷ trọng hợp lý giữa cho vay ngắn hạn và trung hạn. Tuy nhiên, tuỳ theo tình hình hoạt động của từng ngân hàng, đặc điểm phát triển kinh tế xã hội của từng vùng mà tỷ trọng này có thể thay đổi. Nhưng có thể có một vấn đề là chưa nên mở rộng cho vay trung hạn đối với người nghèo bởi vì: mục tiêu cho vay người nghèo là nhằm giúp họ vốn để duy trì sản xuất kinh doanh, ổn định cuộc sống. Khi họ đầu tư lớn và mở rộng sản xuất thì họ không còn là người nghèo nữa. Hơn nữa cho vay trung hạn, dài hạn là loại cho vay chủ yếu nhằm mục đích mở rộng sản xuất, đầu tư mua sắm tài sản cố định đòi hỏi người vay phải có vốn tự có, có cơ sở sản xuất, trình độ chuyên môn và tiềm lực sản xuất tham gia vào dự án, thời gian hoàn vốn dài. Các điều kiện này người nghèo không thể có được. Tuy nhiên, trong một số trường hợp vẫn có thể cho người nghèo vay vốn để đầu tư vào những đối tượng trung hạn như: mua trâu, bò, lợn, trồng các loại cây lưu gốc... Thế nhưng, việc định kỳ hạn nợ và thời hạn thu nợ không nhất thiết phải đợi trích đủ khấu hao qua từng mùa vụ mà còn tuỳ thuộc vào khả năng thu nhập bằng tiền của người nghèo thông qua việc phát triển sản xuất kinh doanh tổng hợp của nhiều đối tượng ngắn hạn khác. Ngoài ra, có thể áp dụng hình thức cho vay theo trả góp, cho vay theo tuần, tháng. d. Thời hạn cho vay Cần xác định rõ chu kỳ sản xuất của cây trồng, vật nuôi để có thể xác định tốt thời hạn thu hồi nợ. Thời hạn cho vay phải phù hợp với chu kỳ sản xuất nông nghiệp theo công thức sau: Thời hạn cho vay = Chu kỳ SX của đối tượng vay + Thời gian tiêu thụ SP. áp dụng công thức trên thì các thành viên mới đảm bảo có thời gian thu hồi trả nợ, từ đó hạn chế tỷ lệ nợ quá hạn do người vay chưa có nguồn thu sản phẩm để trả nợ ngân hàng, dẫn đến nâng cao chất lượng tín dụng và hiệu quả sử dụng vốn vay. e. Thủ tục và quy trình cho vay. Thủ tục cho vay đảm bảo tính nguyên tắc nhưng phải hết sức đơn giản để phù hợp với trình độ dân trí của người nghèo. Chẳng hạn, không yêu cầu người nghèo phải lập dự án sản xuất kinh doanh như: làm gì, mua gì, số lượng thành tiền, vốn tự có,... Cán bộ ngân hàng cần nắm vững các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật của từng loại cây, con, ngành nghề ở từng vùng để xác định nhu cầu vay vốn một cách chuẩn xác cho người vay. Phải xác định được luồng tiền ra, tiền vào của mỗi khách hàng để có thể cho vay cũng như thu nợ một cách kịp thời, tránh lãng phí vốn dẫn đến tình trạng người vay không sử dụng vốn vào mục đích sản xuất kinh doanh vẫn phải trả lãi ngân hàng. Nên thực hiện và mở rộng việc cấp sổ vay vốn để hộ sản xuất trả nhiều lần. Điều này rất thuận tiện cho việc theo dõi của ngân hàng và việc vay vốn nhiều lần của thành viên vì các thành viên chỉ làm thủ tục vay một lần, các lần vay tiếp theo chỉ cần có thêm một đơn xin vay vốn là đủ để nhận tiền vay. Việc phê duyệt cho vay cần xác định đúng đối tượng là người nghèo, xác định đúng nhu cầu vay vốn và khả năng sản xuất kinh doanh của người vay nhưng phải đảm bảo tránh phiền hà và thủ tục rườm rà. f. Đa dạng hóa phương thức cho vay. Phương thức cho vay được hoạch định tuỳ theo quy mô của một ngân hàng. Có thể khái quát các phương thức cho vay như sau: - Thực hiện cho vay trực tiếp tới từng thành viên nếu như những người nghèo này có đủ khả năng trả nợ và giao dịch với ngân hàng một cách độc lập ( những người nghèo ở thành phố, thị xã ) và phê duyệt cho vay trực tiếp đến hộ gia đình nghèo. Nhưng cần có sự phối hợp quản lý tín dụng với các tổ chức kinh tế xã hội và những nhóm liên đới trách nhiệm. - Cho vay gián tiếp: Hình thức này áp dụng đối với các hộ nghèo không giao dịch được với ngân hàng một cách trực tiếp. Trong điều kiện hiện nay thì đây được coi là một hình thức ưu việt nhất. Do cán bộ tín dụng Ngân hàng phục vụ người nghèo thường là hoạt động kiêm nhiệm cho nên khối công việc nhiều trong khi đó lại phải giao dịch trực tiếp với từng khách hàng nghèo một thì sẽ rất khó khăn. Mặt khác do trình độ hiểu biết của người nghèo có hạn cho nên trong giao dịch sẽ rất mất thời gian mà hiệu quả công việc laị không cao. Bởi vậy cho vay theo nhóm là hình thức ưu việt hơn cả. Tất nhiên, theo mô hình cho vay gián tiếp nhưng Ngân hàng phục vụ người nghèo vẫn phải trực tiếp giải ngân tới từng hộ nghèo được vay vốn mà không để cho các Tổ, nhóm giải ngân vì như thế dễ dẫn đến nguồn vốn không đến được tay người nghèo mà nó sẽ được sử dụng vào mục đích khác, gây thất thoát nguồn vốn. Một lợi thế nữa của việc cho vay theo loại hình này là giảm bớt gánh nặng phải giám sát món vay của cán bộ tín dụng mà việc này chuyển cho Tổ. g. Coi trọng và tăng cường việc quản lý và giám sát món vay. Việc này được làm thông qua từng nhóm tương trợ và nhóm liên đới trách nhiệm. Điều kiện và công nghệ ngân hàng chưa cho phép ngân hàng có thể hoàn toàn quản lý và giám sát tới từng hộ nghèo với các món vay nhỏ. Để tăng cường công tác quản lý và giám sát món vay thì ở đây vai trò của Tổ tiết kiệm và vay vốn có một ý nghĩa quan trọng. Hơn ai hết nhóm và ban quản lý nhóm hiểu rõ khả năng và hoàn cảnh của từng thành viên trong nhóm. Vì thế chúng ta nên gắn chặt hiệu quả sử dụng vốn vay của từng thành viên với cả nhóm. Nếu trong nhóm có một thành viên không trả được nợ thì các thành viên khác trong nhóm nếu không quyên góp tiền để trả hộ thì sẽ không được vay vốn. Điều này nó làm cho các thành viên theo dõi nhau được chặt chẽ hơn, quan tâm đến công việc của nhau hơn, bày cho nhau những kinh nghiệm quý báu trong làm ăn, như thế thì hiệu quả sản xuất kinh doanh sẽ tốt hơn, sẽ không có hiện tượng sử dụng vốn sai mục đích dẫn tới thất thoát vốn. Đến đây ta có thể nói rằng việc nâng cao hiệu quả hoạt động của các Tổ tương trợ đặc biệt là Tổ tiết kiệm & vay vốn có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc tăng cường tín dụng ngân hàng cho người nghèo. h. Quản lý nợ có vấn đề. - Ngăn chặn nợ quá hạn phát sinh: Xây dựng kế hoạch kinh doanh (xây dựng chiến lược khách hàng, tăng cường công tác thẩm định cho vay và thường xuyên tiến hành kiểm tra kiểm soát trước, trong và sau khi vay vốn). - Thực hiện các biện pháp phòng ngừa: Thực hiện nghiêm túc các quy định về nghiệp vụ cho vay, phân tán khách hàng để tránh rủi ro, tăng cường bảo hiểm mùa màng, vật nuôi trong sản xuất nông nghiệp, thực hiện việc trích lập quỹ bù đắp rủi ro và thường xuyên hướng dẫn nông dân các mặt kiến thức về khoa học kỹ thuật, thị trường và cách thức sản xuất. - Xử lý nợ quá hạn một cách đúng đắn: Phân loại nợ quá hạn, phân tích nguyên nhân, xác định nguồn thu hồi nợ quá hạn và chọn phương án xử lý cụ thể để đạt được hiệu quả tối ưu. III. Những điều kiện cần thiết để thực hiện các giải pháp tín dụng đối với hộ nghèo. 1. Sự đồng bộ về chính sách kinh tế trong nông nghiệp-nông thôn Xoá đói giảm nghèo là mục tiêu cao cả, là chương trình lớn của Đảng và Nhà nước. Muốn thực hiện thành công ngoài giải pháp về hỗ trợ vốn, cần có sự phối hợp đồng bộ các chính sách kinh tế- xã hội khác nhằm tác động vào nông nghiệp-nông thôn nói chung, hộ nông dân nghèo nói riêng. Cụ thể là: a. Đổi mới, hoàn thiện và thực thi chính sách ruộng đất. Để nhanh chóng đưa luật đất đai vào cuộc sống Nhà nước cần phải: - Sớm ban hành các văn bản dưới luật có liên quan đến quyền sử dụng, thừa kế, chuyển đổi, chuyển nhượng, thế chấp và cho thuê ruộng đất để thực hiện. - Triển khai khẩn trương việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng ruộng đất cho hộ nông dân trên phạm vi cả nước. - Điều chỉnh lại thời gian cho thuê ruộng đất sao cho phù hợp với thực tế. b. Định hướng chính sách đầu tư vốn ngân sách chú trọng hơn nữa vào nông nghiệp-nông thôn. Cùng với tín dụng ngân hàng , Nhà nước cần phải dùng một khoản Ngân sách đáng kể để đầu tư cho nông nghiệp-nông thôn và hộ nông dân. Khoản vốn này nên tập trung vào việc xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng (như: giao thông nông thôn, thuỷ lợi, lưới điện,...) và đầu tư vào công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản. c. Không ngừng cải thiện và thực hiện chính sách khuyến nông. Việc đầu tư vốn tín dụng cho hộ nông dân nghèo phải được kết hợp chặt chẽ với công tác khuyến nông và chương trình chuyển giao kỹ thuật trong nông nghiệp. Có như vậy mới giúp hộ nông dân nghèo xoá bỏ thói quen canh tác lỗi thời, lạc hậu để tìm ra các biện pháp sản xuất đạt hiệu quả cao hơn đáp ứng những đòi hỏi của nền kinh tế thị trường. Vốn đầu tư theo các chương trình khuyến nông, chuyển giao kỹ thuật sẽ không ngừng giúp hộ nông dân nghèo sử dụng vốn vay đúng mục đích mà còn hạn chế rủi ro đến mức thấp nhất. d. Xây dựng quy chế chính sách nhằm bảo vệ sản xuất kinh doanh ở nông thôn nước ta. Hiện nay, nông thôn nước ta đang từng bước hòa nhập vào cơ chế thị trường và hoạt động sản xuất hàng hóa. Vì vậy, những biến động và rủi ro là điều khó tránh khỏi và không thể lường trước được. Các hộ nông dân phải đương đầu với những khó khăn bất ngờ như mùa màng thất bát do thiên tai, dịch bệnh, giá cả đột biến,... Họ có thể bị mất hết vốn và có thể bị phá sản, bị bần cùng hóa và trở thành trắng tay bất cứ lúc nào. Vì vậy, cần phải xây dựng quy chế chính sách nhằm bảo vệ sản xuất kinh doanh ở nông thôn khi có rủi ro xảy ra như bảo hiểm cây trồng vật nuôi, bảo trợ giá lương thực khi có biến động giá, tăng cường công tác nghiên cứu khoa học và khuyến nông, phát triển hệ thống giáo dục. Ngoài ra, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ kịp thời đối với thị trường nông sản khi có đột biến xảy ra để người nông dân không bị thua thiệt. Có như vậy, hộ nông dân mới yên tâm, không bị dao động trước những biến động của xã hội, đứng vững trên mảnh đất của mình, mạnh dạn vay vốn ngân hàng để mở rộng sản xuất, tăng thu nhập, cải thiện đời sống, tiến kịp cộng đồng. 2. Cần có môi trường sản xuất kinh doanh thuận lợi. Nhà nước luôn có chính sách tạo điều kiện cho ngành nông nghiệp phát triển, có như vậy mới tạo cơ sở tín dụng bền vững. Muốn thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế nông thôn và nâng cao tỷ lệ để dành/ GDP ở khu vực nông thôn cần phải đẩy mạnh đa dạng hóa sản xuất nông nghiệp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng khuyến khích các hoạt động phi nông nghiệp tại nông thôn, tạo môi trường thuận lợi ở các thị xã, thị trấn để thu hút đầu tư, hình thành các xí nghiệp vừa và nhỏ để thu hút nông dân vào các hoạt động công nghiệp và dịch vụ. Nhà nước thúc đẩy, khuyến khích sự phát triển của thị trường tài chính nông thôn bằng cách tạo cơ sở pháp lý cho các công ty tài chính ra đời và phát triển dịch vụ tài chính tới mọi người dân, đặc biệt là bảo hiểm tín dụng. 3. Chương trình tín dụng ngân hàng phải được thực hiện đồng bộ với chương trình xóa đói giảm nghèo. Người nghèo gặp khó khăn ở nhiều mặt nên cần thiết phải có nhiều ngành, nhiều cấp cùng có kế hoạch đồng bộ để hỗ trợ họ. Điều đó chỉ có thể điều phối và thực hiện trong chương trình quốc gia về xóa đói giảm nghèo. Chương trình xóa đói giảm nghèo và chương trình tín dụng cho hộ nghèo là chương trình rộng lớn, bao hàm nội dung kinh tế đồng thời mang tính chất xã hội, nhân đạo sâu sắc. Cụ thể, Ban đại diện Hội đồng quản trị Ngân hàng phục vụ người nghèo ở các tỉnh chỉ đạo Ngân hàng phục vụ người nghèo và các ngành hữu quan gắn việc cho vay vốn với các giải pháp đồng bộ trong chương trình xoá đói giảm nghèo, động viên nguồn lực tổng hợp của các cấp, các ngành, của xã hội cho người nghèo. 4. Tín dụng cho người nghèo cần được sự hỗ trợ của Chính phủ. Nhà nước và Chính phủ có kế hoạch dành một tỷ lệ ngân sách hàng năm để tạo nguồn vốn cho vay hộ nghèo mà cụ thể là để tăng trưởng nguồn vốn điều lệ cho Ngân hàng phục vụ người nghèo. Chính phủ phải trợ cấp để tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho người nghèo có trình độ văn hóa thấp ở những vùng sâu, vùng xa và tích cực hỗ trợ đào tạo những người đứng đầu các nhóm liên đới trách nhiệm. Việc này đòi hỏi phải có một chi phí đáng kể. Chính phủ cần có chính sách để tạo lập quỹ cho vay ưu đãi hộ nghèo đối với: - Các doanh nghiệp trong đó có các doanh nghiệp ngân hàng. Cụ thể là: Các doanh nghiệp ( cả trong và ngoài quốc doanh, trong và ngoài nước ) trích từ 3-5% lợi nhuận để lại hàng năm góp vào quỹ cho vay ưu đãi hộ nghèo, các ngân hàng trích 5% vốn huy động tăng thêm hàng năm để lập quỹ cho vay hộ nghèo. - Các địa phương: Thông qua Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố phát động phong trào góp vốn cho vay hộ nghèo và được phép mở rộng cho vay tại địa phương tuỳ theo nguồn vốn huy động. Đồng thời Trung ương hỗ trợ vốn cho địa phương tuỳ theo mức độ huy động được nguồn vốn ở các tỉnh, thành phố - Trung ương: Đề nghị Chính phủ dành một phần vốn vay ưu đãi của các tổ chức tài chính Quốc tế để lập quỹ cho vay ưu đãi hộ nghèo. Kết luận Khi xã hội có sự chiếm hữu khác nhau về tư liệu sản xuất thì xã hội cũng có sự phân chia giai cấp, phân hóa giàu nghèo. Sự phân hóa đó diễn ra đặc biệt nhanh chóng hơn, sâu sắc hơn trong nền kinh tế thị trường vì bản chất của kinh tế thị trường là lấy lợi nhuận làm mục tiêu và cạnh tranh làm phương thức hoạt động chủ yếu. ở Việt Nam, sự tồn tại của một bộ phận người nghèo là một tất yếu đối với một đất nước có nền kinh tế lạc hậu và trải qua hai cuộc chiến tranh như nước ta. Vấn đề xóa đói giảm nghèo ở nước ta đã được Chính phủ và các cấp, các ngành quan tâm đặc biệt. Thế nhưng để có một hệ thống tài chính tín dụng nông thôn hoạt động có hiệu quả thì không phải là dễ bởi vì tín dụng cho người nghèo có những điểm khó khăn cơ bản như: số lượng khách hàng lớn, trình độ dân trí thấp, món vay nhỏ, rủi ro lớn, chi phí cao,... Trong thời gian qua, các tổ chức tín dụng nông thôn mà đặc biệt là Ngân hàng phục vụ người nghèo đã góp phần tích vào công cuộc xóa đói giảm nghèo thông qua hoạt động tín dụng dành cho người nghèo. Cùng với sự giúp đỡ của Chính phủ chương trình tín dụng cho người nghèo đã góp phần giải quyết nhu cầu cấp thiết của họ, giúp họ có vốn để sản xuất kinh doanh, tạo ra thu nhập, cải thiện cuộc sống, dần dần giảm được tỷ lệ hộ đói nghèo trên toàn quốc. Tuy nhiên, hoạt động tín dụng ngân hàng dành cho người nghèo cũng còn một số hạn chế cần giải quyết. Để đạt được mục tiêu trong “Chương trình mục tiêu quốc gia xoá đói giảm nghèo giai đoạn 2001 – 2005”, tín dụng ngân hàng cho người nghèo cần có sự giúp đỡ đặc biệt từ phía Chính phủ bằng các chính sách vĩ mô và hỗ trợ về tài chính. Tín dụng ngân hàng cho người nghèo còn cần có sự giúp đỡ đắc lực của các ngành, các cấp, các tổ chức đoàn thể xã hội và chính quyền địa phương. Có như thế thì việc tăng cường tín dụng ngân hàng cho người nghèo mới có được kết quả tốt./.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0114.doc
Tài liệu liên quan