Chuyên đề Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển đường biển tại Bảo Minh Hà Nội

Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình hội nhập với kinh tế trong khu vực cũng như nền kinh tế thế giới. Chính vì vậy hoạt động thông thương buôn bán quốc tế đang diễn ra rất nhộn nhịp góp phần thúc đẩy tiến trình hội nhập của nền kinh tế nước ta. Với vai trò là tấm lá chắn cho các doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh, bảo hiểm hàng hoá nói chung và bảo hiểm hàng vận chuyển đường biển nói riêng đã không ngừng phát triển và góp phần vào sự phát triển chung của nền kinh tế. Cũng như các doanh nghiệp bảo hiểm khác trên thị trường Việt Nam, Bảo Minh Hà Nội cũng đã và đang triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển, và đã nắm giữ được một thị phần không nhỏ đối với nghiệp vụ này, đóng góp chung vào kết quả của cả công ty. Vì vậy vấn đề đặt ra cho các công ty bảo hiểm trong nước cũng như Bảo Minh là phải tự hoàn thiện mình, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường, cải tiến các sản phẩm cho phù hợp hơn với các yêu cầu của khách hàng. Về phía Nhà nước cũng cần có những biện pháp hỗ trợ để hàng hoá xuất nhập khẩu của Việt Nam được bảo hiểm tại thị trường trong nước nhằm thúc đẩy ngành bảo hiểm phát triển cũng như tiết kiệm ngoại tệ cho đất nước phục vụ cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.

doc71 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1603 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển đường biển tại Bảo Minh Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Vận đơn đường biển Hoá đơn thương mại Quy cách đóng gói Các chứng từ giao nhận hàng hoá giữa tàu và cảng, COR (biên bản hư hỏng đổ vỡ), ROROC (chứng từ kết toán nhận hàng với tàu) hoặc biên bản giao nhận của người chuyên chở và các chứng từ liên quan để chứng minh tổn thất nếu giám định viên yêu cầu. 3.2. Tiến hành thực hiện giám định Công việc này được thực hiện tại nơi xẩy ra tai nạn. Cán bộ giám định của chi nhánh sẽ thực hiện các công việc sau: Giám định bên ngoài kiện hàng, so sánh đối chiếu với sự miêu tả trong chứng từ vận chuyển Giám định bên trong kiện hàng Xác định mức độ tổn thất Trong quá trình giám định cán bộ giám định luôn chú ý ghi rõ số lượng hàng bị thiếu, số lượng từng loại bị hư hỏng và mức độ hư hỏng. Đồng thời ước tính các khoản chi phí khắc phục, sửa chữa tỷ lệ giám giá và giá trị còn lại của hàng hoá để có thể xác định mức độ tổn thất hợp lý Xác định nguyên nhân tổn thất. Để có thể tìm ra nguyên nhân, đòi hỏi các cán bộ giám định phải có khả năng quan sát và phán đoán hết sức nhạy bén cũng như trình độ chuyên môn cao, phải hiểu rõ được đặc tính của hàng hoá bảo hiểm, đặc điểm của tuyến hành trình, điều kiện khí hậu thuỷ văn, trạng thái kỹ thuật của con tàu, ý thức và trình độ của sỹ quan thuỷ thủ, thuyền viên. Chẳng hạn đối với tổn thất xảy ra cho lô hàng gạo chuyên chở trên tàu Wujiang của công ty Vinafood xuất sang Irắc, vận đơn MOLV621541300 và đã mua bảo hiểm tại Bảo Minh Hà Nội. Sau khi xẩu ra tổn thất chi nhánh đã cửa giám định viên sang phối hợp với phía Irắc giám định tại cảng Um-Quaser. Các giám định viên phát hiện ra rằng trong 5 nghìn tấn gạo xuất khẩu có 1.200 tấn bị ướt và biến chất. Nguyên nhân là do vật liệu đệm lót bằng che còn tươi, mặt khác giữa các bao gạo không được phủ lớp giấy nâu sạch để hút ẩm, đồng thời trong số các bao bì hỏng, đa phần được xếp cạnh các bó thép để trần- đây là loại hàng hay ra mồ hôi. Ngoài ra hầm thông gió kém làm cho hơi nước thoát ra từ hàng khó bay ra ngoài. Với đặc tính dễ hút ẩm và khi bị ẩm thường ngả sang màu vàng, biến chất, nên vì thế gạo đã bị ẩm ướt và không còn nguyên giá trị như ban đầu: Phân định dạng tổn thất: Hàng hoá vận chuyển bằng đường biển có thể gặp phải các tổn thất như: mất mát hao hụt, hỏng do nước ngấm, bị cong, bẹp, méo, xước, vỡ gẫy, bao kiện bị móc rách, hàng bị ô nhiễm mùi vị hoặc bị lấm bẩn, bị mốc, thối, ôi thiu, bị cháy, han rỉ… Mỗi dạng tổn thất có thể phát sinh do nhiều nguyên nhân có xuất xứ khác nhau, vì thế đã tìm ra nguyên nhân gây ra tổn thất thì cần phải xác định rõ cả nguồn gốc phát sinh ra nguyên nhân. Chẳng hạn khi xác định nguyên nhân tổn thất là do cháy thì cần phải phân tích xem cháy là do đặc tính của hàng hoá tự bốc cháy hay do hành vi sơ suất của thuyền viên. Hoặc khi xác định nguyên nhân tổn thất là do va đập thì phải xem xét rằng va đập là do hàng hoá bị rơi từ trên cao xuống, bị đè nặng, chèn ép hay do sóng lớn gây ra chấn động đổ vỡ… 3.3. Lập biên bản giám định Sau khi hoàn tất việc giám định, giám định viên chọn lọc các chi tiết cơ bản để phản ánh toàn bộ những gì đã chứng kiến tại hiện trường vào một văn bản gọi là “biên bản giám định” Đây là kết quả của quá trình giám định và cũng là cơ sở pháp lý để khiếu nại người có trách nhiệm với vụ tổn thất đó. Nội dung của biên bản giám định phải đảm bảo các yêu cầu trung thực, chính xác, rõ ràng, cụ thể, các số liệu trên biên bản phải phù hợp với thực tế tổn thất, và thống nhất với các tài liệu khác liên quan đến chuyến hành trình. Điểm quan trọng nhất, cũng là nội dung chính của biên bản giám định là phải ghi rõ mức độ và nguyên nhân gây ra tổn thất đó. 3.4. Cung cấp biên bản giám định và thu phí giám định Sau khi lên biên bản giám định, cán bộ giám định của Bảo Minh sẽ cung cấp cho người hoặc tổ chức yêu cầu giám định. Việc cấp thêm biên bản cho bất cứ người nào khác phải được sự đồng ý của người yêu cầu giám định bằng văn bản và phải tính thêm phí nếu cần. Đối với các chi phí và công lao động đã thực hiện trong quá trình giám định, theo yêu cầu của người nhận hàng, giám định viên có thể ghi thêm vào biên bản giám định và phải ghi thêm vào chứng từ, hoá đơn đầy đủ về các chi phí đó. Về nguyên tắc, chi phí giám định chỉ được thu trực tiếp từ người yêu cầu giám định nếu lô hàng không tham gia. Nếu bảo hiểm tại Bảo Minh thì phí giám định được tính vào số tiền hàng bồi thường hoặc Bảo Minh tự chịu trong trường hợp tổn thất không thuộc trách nhiệm của mình. Ngoài ra trong trường hợp Bảo Minh Hà Nội giám định hộ các đơn vị khác trong công ty thì phí giám định được tính vào số tiền bồi thường, số tiền này đơn vị nhờ giám định sẽ phải trả cho Bảo Minh Hà Nội. Quy trình không chỉ được áp dụng ở chi nhánh Hà Nội mà còn ở tất cả các đơn vị khác trong công ty. Trong một số trường hợp, tuỳ theo đIều kiện đã thoả thuận trong đơn bảo hiểm thì khi xẩy ra tổn thất, Bảo Minh Hà Nội có thể phối hợp với một tổ chức giám định khác đã được chỉ định trong đơn để cùng tham gia giám định. Do giám định là một công việc rất khó khăn phức tạp, đòi hỏi giám định viên phải có trình độ kỹ thuật nghiệp vụ cao, am hiểu sâu sắc về nhiều lĩnh vực như vật lý, hoá học, sinh học, tâm lý học, cơ khí… nên để đảm bảo tính chính xác và công bằng trong khâu giám định, hiện nay chi nhánh thường thuê các chuyên gia giám định về tổn thất hàng hoá có uy tín như: Công ty giám định nhà nước (Vinacontrol), hay công ty liên doanh giám định là công ty Davidcontrol và FCC. Căn cứ vào biên bản mà các chuyên gia cung cấp, chi nhánh sẽ lên biên bản chính thức và từ đó làm căn cứ giải quyết bồi thường cho những hàng hoá được bảo hiểm. Tình hình chi cho giám định trong mối quan hệ với chi bồi thường của chi nhánh trong thời gian qua như sau: Bảng 3: Chi giám định và chi bồi thường cho nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển. Năm Chi phí giám định ngoài trách nhiệm bồi thường (tr.đ) Chi phí giám định thuộc trách nhiệm bồi thường (tr.đ) Thực chi bồi thường (tr.đ) Tổng chi bồi thường (tr.đ) 1 2 3 4 5 = 3+4 1998 39,50 201,61 4582,50 4784,11 1999 41,50 336,25 4811,63 5147,87 2000 45,24 488,75 5195,56 5685,31 2001 49,22 520,24 5875,75 6395,99 2002 53,4 660,78 6262,67 6923,45 2003 58,02 800,05 6583,72 7383,77 (nguồn: số liệu tổng kết của Bảo Minh Hà Nội) Từ số liệu bảng 3 cho thấy chi phí giám định thuộc trách nhiệm bồi thường tăng qua các năm cả số tuyệt đối và tỷ trọng của nó so với thực chi bồi thường. Cụ thể là về số tuyệt đối thì chi phí giám định thuộc trách nhiệm bồi thường năm 1999 tăng 134,63 triệu so với 1998, năm 2000 tăng 152,51 triệu so với năm 1999, năm 2001 tăng 31,49 triệu so với năm 2001 và năm 2002 tăng 140,54 triệu so với năm 2001, năm 2003 tăng 139,27 so với năm 2002. Tỷ số giữa chi phí giám định thuộc trách nhiệm bồi thường và thực chi bồi thường của các năm là: năm 1998 bằng 4,39%, năm 1999 là 6,98%, năm 2000 là 9,40%, năm 2001 là 8,85%, năm 2002 là 10,55%, năm 2003 là 12,15%. Sở dĩ tỷ số này tăng từ 1998 đến năm 2003 là vì trước đây có một số vụ tự nhân viên của chi nhánh thực hiện, do do tính chất ngày một phức tạp của tổn thất đòi hỏi phải tốn nhiều thời gian tiền của hơn, phải bỏ thêm chi phí để thuê các chuyên gia giám định tổn thất nên chi phí thuộc bồi thường tăng lên. Đối với các khoản chi ngoài trách nhiệm bồi thường, đây là chi cho các vụ tổn thất có nguyên nhân là các rủi ro loại trừ. Ta thấy mức tăng của khoản chi này qua các năm 1999 và 2000 là không đáng kể và có sự giảm đi vào năm 2001 và 2002. Điều này chứng tỏ số vụ tổn thất ngoài trách nhiệm của Bảo Minh đã dần ổn định. Do thực tế ở chi nhánh, số tiền giám định các vụ tổn thất thuộc trách nhiệm bồi thường được tính gộp vào tiền bồi thường nên có sự phân biệt giữa chi phí giám định thuộc trách nhiệm bồi thường và chi phí giám định không thuộc trách nhiệm bồi thường cũng như giữa chi phí thực bồi thường và tổng chi bồi thường. 4. GiảI quyết khiếu nạI đòi bồi thường đối với hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển của chi nhánh. Trên tinh thần nguyên tắc tăng cường quyền hạn và ý thức trách nhiệm của chi nhánh khu vực cũng như nhằm phục vụ khách hàng một cách nhanh chóng và hiệu quả nhất, công ty Bảo Minh đã quy định phân cấp bồi thường cho các chi nhánh. Bảo Minh Hà Nội là chi nhánh cấp I và cũng là chi nhánh lớn nhất miền Bắc nên được công ty quy định hạn mức phân cấp bồi thường đối với nghiệp vụ này là 15.000USD/vụ (tương đương VNĐ). Trong trường hợp có những hồ sơ vượt phân cấp, chi nhánh phảI thu nhập đầy đủ hồ sơ bồi thường theo quy định, khẩn trương làm báo cáo có ý kiến của đơn vị gửi về công ty để xem xét bồi thường. Quy trình giải quyết bồi thường ở Bảo Minh Hà Nội cũng được tiến hàng theo các bước sau: 4.1. Tiếp nhận hồ sơ khiếu nại Bộ hồ sơ khiếu nại đối với tổn thất hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển có: Hợp đồng bảo hiểm và giấy sửa đổi bổ sung (nếu có ) Vận đơn đường biển (bản gốc) Phiếu đóng gói (bản gốc) Biên bản giám định (bản gốc) Các chứng từ giao nhận hàng của cảng hoặc cơ quan chức năng Thông báo tổn thất Hợp đồng vận chuyển Hoá đơn biên lai các chi phí khác Các chứng từ liên quan (nếu tổn thất phát sinh do lỗi của người thứ ba) . Kiểm tra chứng từ Khi tiếp nhận, cán bộ làm công tác giải quyết bồi thường của chi nhánh sẽ kiểm tra cẩn thận tính đầy đủ và hợp pháp của bộ chứng từ. Nếu có thiếu sót, nhầm lẫn thì phải yêu cầu khách hàng bổ sung hoặc hiệu đính lại. 4.3. Xác minh phí Kiểm tra xem người được bảo hiểm có thực hiện và thực hiện đúng nghĩa vụ đóng phí của mình không đây là một trong các biện pháp ngăn ngừa tình trạng gian lận trong bảo hiểm có ý đồ trục lợi cho riêng mình. Nói chung đối với mọi trường hợp (trừ khi có thoả thuận khác bằng văn bản) thì việc chưa đóng phí bảo hiểm theo hợp đồng vào thời điểm phát sinh khiếu nại đều đồng nghĩa với việc tổn thất nằm ngoại phạm vi trách nhiệm của bảo hiểm. 4.4. Xem xét tổn thất thuộc phạm vi trách nhiệm của hợp đồng hay không? Lúc này cán bộ làm công tác bồi thường sẽ nghiên cứu những vấn đề sau: Người khiếu nại có quyền lợi bảo hiểm không? Tổn thất xảy ra có trong thời hạn hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm không? Tổn thất có phải do những rủi ro loại trừ gây ra không? Tổn thất có được bảo hiểm theo các đIều kiện bảo hiểm như đã thoả thuận không?. Chỉ cần không đáp ứng được một trong các câu hỏi trên thì có nghĩa là nó đã nằm ngoài phạm vi trách nhiệm bảo hiểm. Khi đó chi nhánh sẽ lập công văn gửi người khiếu nại (bằng Fax hoặc gửi qua bưu điện) để từ chối việc bồi thường tổn thất mà anh ta yêu cầu. Trong công văn phải nêu tóm tắt sự việc và lý do khước từ trách nhiệm bảo hiểm sao cho có tình có lý nhất. 4.5. Nếu tổn thất thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm. Cán bộ xét bồi thường lúc này phải tính đến số tiền dự tính bồi thường, rồi làm tờ trình để trình lãnh đạo theo phân cấp bồi thường xem xét và cho ý kiến về việc bồi thường. Cách tính số tiền dự tính bồi thường của chi nhánh cũng tuân theo phương pháp chung như đã giới thiệu ở chương II. 4.6. Thanh toán bồi thường Giai đoạn cuối cùng trong quá trình giải quyết bồi thường là việc thanh toán bồi thường. Sau khi lãnh đạo xem xét và đồng ý phên duyệt bồi thường, cán bộ xét bồi thường phải gửi thông báo số tiền bồi thường để lấy ý kiến chấp nhận từ phía khách hàng, đồng thời chuẩn bị hồ sơ để đòi người nhận tái bảo hiểm hay đòi người thứ ba nếu có. Khi nhận được ý kiến chấp nhận của khách hàng số tiền bồi thường sẽ được chuyển khoản theo số tài khoản của khách hàng. Bên cạnh hoạt động khai thác, thu phí thì xét giải quyết bồi thường cũng là một khâu then chốt tác động đến số lãi thực thu cuả chi nhánh nói chung và trong nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển nói riên, nếu hiệu quả của công tác giải quyết khiếu nại bồi thường nâng lên thì góp phần giảm khoản chi, từ đó tăng lợi nhuận và cũng là hiệu quả kinh doanh. Theo số liệu thống kê của Bộ Tài chính về tình hình tổn thất lớn hàng hoá từ 1995 đến 1999, trong 27 vụ tổn thất, Bảo Minh có 12 vụ chiếm 44,4%, tổng số tiền bồi thường là 18.974.228USD, trong đó Bảo Minh đã bồi thường 8.165.183USD, bằng 43% tổng số tiền bồi thường, cao hơn rất nhiều so với Bảo Việt là7.092.955 USD, PIJICO là587.072USD, Bảo Long là1.973.867USD vàPVIC là 355.140USD. Để hiểu rõ hơn kết quả chi bồi thường tổn thất trong bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển ở Bảo Minh Hà Nội, ta hãy nghiên cứu tình hình thực hiện công tác này qua bảng sau: Bảng 4: Tỷ lệ bồi thường của nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển. Năm Tổng thu phí (tr.đ) Chi bồi thường (tr.đ) Tỷ lệ bồi thường (%) 1998 8.041,88 4.582,50 56,98 1999 9.650,16 4.811,63 49,86 2000 11.773,2 5.196,56 44,13 2001 13.812,3 5.875,75 42,54 2002 15.011,2 6.262,67 41,72 2003 17.021,2 6583,72 38,67 (nguồn: Số liệu thống kê của Bảo Minh Hà Nội) Qua số liệu trên cho thấy tỷ lệ bồi thường có xu hướng giảm qua các năm 56,98 năm 1998 xuống còn 381670% năm 2003, nhưng số tiền thực chi bồi thường lại tăng lên qua các năm. Tốc độ tăng bồi thường nhỏ hơn tốc độ tăng của doanh thu phí bảo hiểm và kim ngạch bảo hiểm. Điều này không hàm ý rằng việc bồi thường của chi nhánh Bảo Minh Hà Nội là dây dưa nợ đọng, ở đây nó nói lên chất lượng của công tác đề phòng hạn chế tổn thất ngày càng tốt, đồng thời các công đoạn từ khai thác, giám định bồi thường được nâng cao nó đảm bảo hợp lý quyền lợi của người được bảo hiểm, nâng cao uy tín cho chi nhánh cũng như công ty và số lượng khách hàng đến với công ty càng nhiều. Biểu 1: So sánh tổng phí thu và chi bồi thường của công ty qua các năm Nếu chỉ nhìn vào cột chi bồi thường thì thấy chi bồi thường tổn thất của công ty tăng lên nhưng khi xem phần kim ngạch bảo hiểm thì ta thấy ngay việc tăng tổn thất của công ty là do sự tăng lên của kim ngạch bảo hiểm. Từ đây cho thấy hiệu quả của công tác giám định bồi thường được nâng cao lên đảm bảo quyền hợp lý của khách hàng, nâng cao uy tín của chi nhánh cũng như của công ty. 5. Những kết quả đạt được trong kinh doanh bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển ở Bảo Minh Hà Nội. Sau gần 6 năm hoạt động trên địa bàn Hà Nội kể từ tháng 6 năm 1995 nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển ở Bảo Minh Hà Nội đã thu được nhiều kết quả. Nếu như 6 tháng cuối năm 1995 doanh thu của doanh nghiệp chỉ là 2004 triệu đồng, sang năm 1996 doanh thu đạt 6204,29 triệu, năm 1997 con số này là 6415 triệu, năm 1998 là 8041,88 triệu và năm 2000 là 1173,20 triệu. Điều này chứng tỏ số lượng hàng hoá xuất nhập khẩu đ ược bảo hiểm tại chi nhánh ngày càng tăng. Doanh thu từ nghiệp vụ mang lại chiếm 16-17% doanh thu từ tất cả các nghiệp vụ. Bảng 5: Kết quả và hiệu quả kinh doanh bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển tại Bảo Minh – Hà Nội . Năm Doanh thu phí bảo hiểm Các khoản chi Lợi nhuận (tr.đ) DT/CP (%) LN/CP (%) Thực chi bồi thường (tr.đ) Chi hoa hồng (tr.đ) Chi đề phòng hạn chế tổn thất (tr.đ) Chi quản lý (tr.đ) Thuế (tr.đ) Chi giám định Tổng chi (tr.đ) Thuộc TN bồi thường Thuộc TN ngoài bồi thường Chi khác (tr.đ) 1998 8041,8 4582,5 102,96 69,12 643,34 321,67 201,64 39,52 8,04 6041,7 2000,63 1,33 0,33 1999 9650,8 4811,63 106,11 88,31 772,02 965,01 336,64 41,50 9,65 7299,38 2430,70 1,34 0,34 2000 11773 5196,56 159,78 126,14 1202,78 1177,3 488,32 45,24 10,70 8409,44 3363,76 1,40 0,40 2001 13800 4945,25 55,37 41,28 821,72 1203,8 320,64 42,13 6,26 7436,45 6363,55 1,86 0,86 2002 15000 3122,57 60,24 20,32 612,56 1850,5 160,27 42,37 8,34 5879,17 9131,83 2,25 1,25 2003 17.020 3628,61 62,18 52,18 654,23 1968,6 172,3 38,64 10,8 6587,54 10433,46 2,5 1,58 Trước hết ta thấy khoản chi chủ yếu mà chi nhán chi cho doanh nghiệp vụ này là khoản chi bồi thường, tỷ lệ chi bồi thường của một số năm như sau: năm 1998 là 75,85%, năm 1999 là 65,92% và năm 2000 là61,79% nhìn vào con số này ta thấy tỷ lệ chi bồi thường giảm rõ rệt có thể nguyên nhân là do tỷ lệ chi cho các khoản khác tăng lên trong tổng chi. Cụ thể các khoản chi này được thể hiện trong bảng sau: Bảng 6: cơ cấu các khoản chi của chi nhánh Bảo Minh Hà Nội Năm Cơ cấu các khoản 1998 1999 2000 2001 2002 1. Chi bồi thường 75,85 65,92 61,79 65,50 53,11 2. Chi hoa hồng 1,70 1,5 1,9 0,74 1,02 3. Chi quản lý+thuế + khác 17,32 26,19 28,43 27,32 42,07 4. Chi giám định 3,99 5,18 6,35 5,88 3,45 5. Chi đề phòng H/C TT 1,14 1,21 1,52 0,56 0,35 (nguồn: số liệu tổng kết của Bảo Minh Hà Nội) Trước kia là về các khoản chi hoa hồng cho các đại lý và cộng tác viên cũng tăng lên năm 1998, tỷ lệ chi hoa hồng là 1,70% cho đến năm 2000 thì tỷ lệ này là 1,9% như vậy thì tỷ lệ chi hoa hồng cũng có ảnh hưởng đến sự giảm tỷ lệ chi bồi thường. Việc chi hoa hồng bảo hiểm cho các đại lý cộng tác viên, chi nhánh Hà Nội đã áp dụng theo đúng quy định của Bộ Tài chính ban hàng kèm theo thông tư số 76/TC/TCNH ngày 25/10/1996 mức tối đa là2% cho nghiệp vụ này. Thời gian qua để khuyến khích các đại lý và cộng tác viên công ty đã áp dụng mức cao nhất là 2%. Với tỷ lệ này có thể tính được doanh thu mà đại lý mang lại. Doanh thu đại lý = Doanh thu đại lý 1998 = triệu đồng Doanh thu đại lý 1999 = triệu đồng Doanh thu đại lý 2000 = triệu đồng Doanh thu đại lý 2001 = triệu đồng Doanh thu đại lý 2002 = triệu đồng Doanh thu đại lý 2003 = triệu đồng Nếu so sánh doanh thu đại lý mang lại với tổng doanh thu thì năm 1998 là64,01% năm 1999 là56,01%, năm 2000 tăng vọt lên 67,86%. Điều này chứng tỏ hệ thống đại lý và cộng tác viên của công ty hoạt động tốt lên. Nhưng trong hai năm 2002 và 2003 doanh thu doanh thu do đại lý mang lại lại có sự giảm sút lớn như vậy là vì tỷ lệ tái tục hợp đồng đối với những khách hàng cũ là rất cao, như vậy không hẳn là sự hoạt động của các đại lý kém đi. Khoản chi thứ hai cũng chiếm tỷ trọng cao trong tổng phí là chi quản lý. Khoản chi này chiếm tỷ trọng lần lượt qua các năm là 10,64%, 10,57%, 14,3%, 16,3%, 16,19%, 31,48%. Đây là những khoản chi như trả lương cho công nhân viên, chi phí ký kết hợp đồng, chi phí theo dõi quản lý hợp đồng, thu phí. Việc tăng này có tghể do sự tăng lên về kim ngạch bảo hiểm kéo theo tăng lên về chi phí quản lý. Tỷ lệ tăng lên của chi quản lý cũng góp phần làm giảm tỷ lệ chi bồi thường trong tổng chi. Từ việc áp dụng các biện pháp kinh doanh có hiệu quả cùng đội ngũ cán bộ phòng hảng hải trẻ, khỏe, nhiệt tình, có chuyên môn cao, doanh thu phí của công ty trong nghiệp vụ này đã có sự tăng trưởng vượt bậc. Năm 1999 tăng 20% so với năm 1998, năm 2001 tăng 17,22% so với năm 2000, năm 2002 tiếp tục tăng 8,77% so với năm 2001, năm 2003 tăng 8,51% so với năm 2003. Đây là một sự cố gắng nỗ lực của toàn bộ các cán bộ của công ty vì ngày càng có sự cạnh tranh trên thị trường bảo hiểm càng lớn. Cùng với sự tăng lên của doanh thu phí, tốc độ tăng lợi nhuận của chi nhánh cũng khá cao. Sự tăng trưởng này có sự đột biến từ năm 2000 khi lợi nhuận của chi nhánh năm 2000 tăng 933,06 triệu đồng so với năm 1999, năm 2001 tăng 2999,79 triệu đồng so với năm 2001 về số tuyệt đối hay tăng 89,19% và năm 2002 tăng 2768,28 triệu đồng so với năm 2001 hay tăng 45,5%. Nhìn tổng quát ta thấy cả chi phí và doanh thu của chi nhánh đều tăng nhưng để đánh giá được hiệu quả của hoạt động kinh doanh thì ta căn cứ vào chỉ tiêu doanh thu trên chi phí và lợi nhuận trên chi phí. Qua các năm 1998, 1999, 2000 cứ một đồng chi phí bỏ ra thì lợi nhuận của công ty thu được lần lượt là 0,33 đồng, 0,45 đồng và 0,51 đồng. Nhưng đến năm 2001 và2002 thì công ty đạt kết quả rất cao ở chỉ tiêu này. Năm 2001 cứ một đồng chi phí bỏ ra công ty thu được 1,86 đồng doanh thu hay 0,86 đồng lợi nhuận. Năm 2002, cứ một đồng chi phí bỏ ra công ty thu được 2,62 đồng doanh thu hay 1,62 đồng lợi nhuận. Năm 2003 cứ một đồng chi phí thu được 2,82% đồng doanh thu và 1,081 đồng lợi nhuận. Để đạt được kết quả khả quan như trên thì công ty cũng như chi nhnáh đã tạo ra sự đoàn kết nhất trí và có một quyết tâm cao từ Ban giám đốc đến tất cả các đội ngũ cán bộ nhân viên trong công ty. Công ty đã mạnh dạn giao nhiệm vụ, mở rộng quyền hạn và tin tưởng ở đội ngũ cán bộ của mình để tạo tâm lý tốt nhất giúp họ làm việc có năng suất và hiệu quả cao. Một điều kiện quan trọng hơn nữa để đạt được hiệu quả tăng trưởng cao như hiện nay là vào chất lượng và thái độ phục vụ khách hàng chu đáo nhiệt tình của chi nhánh từ đó tạo được lòng tin của khách hàng đối với chi nhánh và công ty. Việc giải quyết khiếu nại đòi bồi thường tổn thất cho khách hàng cũng ngày một đơn giản và nhanh chóng. Những cố gắng này không chỉ thúc đẩy việc tái tục hợp đồng đối với các khách hàng cũ mà còn thu hút các khách hàng mới đến với công ty. Điều này làm giảm các khoản chi và làm tăng lợi nhuận cho công ty, tạo những bước phát triển nhanh và vững chắc, dần dần khẳng định vị thế của công ty trên thị trường bảo hiểm trong nước cũng như trên thế giới. Chương III GiảI pháp và kiến nghị nhằm phát triển nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển tại Bảo Minh Hà Nội. 1. mục tiêu của Bảo Minh Hà Nội Từ năm 1995 với sự ra đời của hàng loạt các công ty bảo hiểm liên doanh cũng như các công ty bảo hiểm 100% vốn nước ngoài phát triển mạnh. Từ đó dẫn đến thị trường bị chia xẻ và mức độ cạnh tranh cao. Tuy còn rất nhiều tiềm năng song các công ty bảo hiểm hiện nay còn thực hiện chủ yếu các nghiệp vụ truyền thống. Cũng vì lý do đó một mặt sự cạnh tranh của các công ty bảo hiểm này càng tăng và có phần thiếu lành mạnh. Nhằm lôi kéo khách hàng về phía doanh nghiệp mình, các doanh nghiệp đã tuỳ tiện giảm phí, tuỳ tiện bồi thường…. Mặt khác việc chỉ khai thác nghiệp vụ truyền thống với cách làm truyền thống đã bỏ phí rất nhiều tiềm năng của thị trường bảo hiểm Việt Nam. Bảo Minh Hà Nội là một chi nhánh nằm trên địa bàn có nhiều sự góp mặt của nhiều công ty bảo hiểm tầm cỡ nên vấn đề này ngày càng trở nên khó khăn hơn, nan giải hơn. Đứng trước những thách thức đó, đồng thời để khắc phục những tồn tại của mình, đồng thời cũng phải củng cố, hoàn thiện bộ máy tổ chức, nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng để tăng thị phần giúp công ty có thể đứng vững và phát triển trong tình hình mới. Để đạt được mục tiêu đó, Bảo Minh Hà Nội phải giành được khách hàng quen mua bảo hiểm tại các doanh nghiệp nước ngoài và cạnh tranh thành công với các doanh nghiệp khác của Hà Nội. 2. Giải pháp 2.1. Về công tác khách hàng. Đây là khâu quan trọng trong chiến lược Marketing của doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp bảo hiểm nói riêng và trong cơ chế thị trường khi mà cung luôn vượt quá cầu. Mục tiêu thu hút khách hàng luôn được đặt ra đối với tất cả các doanh nghiệp bảo hiểm. Trước hết phải kể đến việc nghiên cứu thị trường và khách hàng. Đây là công việc cần làm trước khi hoạch định các chiến lược chính sách và đề ra kế hoạch cho năm nghiệp vụ, nhằm xác định được những bộ phận thị trường mục tiêu mà doanh nghiệp có thể hoạt động với nhiều lợi thế nhất, mặt khác giúp doanh nghiệp hiểu rõ về khách hàng, đối thủ cạnh tranh, tình hình thị trường. Để làm được điều này hàng năm chi nhánh cần phải có kế hoạch thu thập các thông tin về hạn ngạch xuất nhập khẩu cho từng mặt hàng nắm được định hướng xuất nhập khẩu trong năm. Chi nhánh cần cử các nhân viên xuống gặp gỡ với các công ty xuất nhập khẩu để có thể tư vấn cho họ về việc mua bảo hiểm của công ty mình. Mặt khác cũng thông qua tiếp cận với khách hàng tìm hiểu nhu cầu xuất nhập khẩu của từng đơn vị để phân chia khách hàng thành từng nhóm: nhóm khách hàng có nhu cầu thường xuyên, nhóm có nhu cầu không thường xuyên hay nhóm các khách hàng chuyên xuất mặt hàng gạo, nông thuỷ sản, hoa quả, hàng thủ công mỹ nghệ… nhóm khách hàng chuyên nhập các mặt hàng phục vụ cho sản xuất như xi măng, sắt thép, phân bón… đồng thời căn cứ vào nhu cầu thực tế của từng đơn vị để có thể thành lập một bảng kế hoạch chi tiết trong đó có sự phân nhóm rõ ràng và kế hoạch tiếp cận, khai thác đối với từng đối tượng. Công ty có thể phân chia khách hàng theo nhóm khách hàng truyền thống và nhóm khách hàng mới để có những chính sách ưu đãI phù hợp. Bên cạnh việc nghiên cứu thị trường, khách hàng thì vấn đề nâng cao chất lượng cũng là một đIều cần bàn. Như chúng ta đã biết sản phẩm bảo hiểm là một dịch vụ tài chính vô hình khách hàng rất khó cảm nhận được lợi ích của nó thông qua các giác quan, chính vì vậy mà chúng ta phải nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng để tăng tính hữu hình của sản phẩm. Cụ thể là công ty cần phải có những nội quy rõ ràng để hướng dẫn các nhân viên trong việc tiếp xúc khách hàng, giải quyết khiếu nại, thu phí. Mấy năm vừa qua vấn đề này được Bảo Minh Hà Nội quan tâm giải quyết, cho đến nay kết quả đã thấy rõ rệt. Một thực trạng trong hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá ở nước ta hiện nay chính là việc các doanh nghiệp tiến hành xuất nhập khẩu hàng hoá theo điều kiện CIF. Điều này đồng nghĩa với việc chúng ta giành quyền vận chuyển và bảo hiểm hàng hoá cho phía đối tác nước ngoài. Đây chính là nguyên nhân khiến cho hàng năm chúng ta làm thất thoát một khối lượng lớn ngoại tệ ra nước ngoài. Nhiệm vụ của doanh nghiệp bảo hiểm ở đây là tạo dựng cho khách hàng sự tin tưởng vào chất lượng phục vụ của công ty, căn cứ vào tình hình thực tế của doanh nghiệp để tư vấn cho doanh nghiệp về các đIều kiện xuất và nhập hàng, khuyến khích họ xuất khẩu theo giá CIF và nhập theo giá Dđược đặt ra đối với FOB. Tất nhiên, trong tình hiềnh thực tế của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, đây là một vấn đề khó khăn nhưng nếu không làm được như vậy thì hàng năm chúng ta vẫn phảI chấp nhận một khối lượng khổng lồ hàng hoá xuất nhập khẩu của chúng ta tham gia bảo hiểm ở các công ty nước ngoài. Mặt khác, khách hàng luôn mong muốn được bồi thường khi tổn thất xẩy ra đối với phí bảo hiểm thấp nhất vì vậy đôi khi họ mua bảo hiểm không phù hợp với hàng hoá. Bảo Minh Hà Nội cần tránh những vụ từ chối bồi thường đáng tiếc để đảm bảo lợi ích và tạo tin tưởng cho khách hàng. Thứ nhất: Lúc ký hợp đồng, cán bộ khai thác cần phải dựa trên tính chất, đặc điểm của hàng, cách đóng gói bao bì, cách thức xếp hàng trên tàu, khả năng xẩy ra các rủi ro để tư vấn điều kiện thích hợp cho khách hàng. Ví dụ: Các mặt hàng như quặng, gỗ, sắt thép, xăng dầu chỉ cần bảo hiểm theo điều kiện C Loại hàng được vận chuyển trên boong tàu và loại hàng cồng kềnh như sắt thanh, gỗ tròn, than đá, bột, và bắp nên được bảo hiểm theo điều kiện B Các mặt hàng quý có giá trị cao, dễ vỡ, như hàng điện tử, hàng dễ hư thiếu hụt như thuốc men, gạo lúa mỳ, đường, hoá chất, phân bón phải bảo hiểm theo điều kiện A Ngoài ra một số loại hàng không nhất thiết phải mua bảo hiểm theo điều kiện A mà có thể mua bảo hiểm theo điều kiện C hay B rồi mua bảo hiểm thêm một số rủi ro phụ hay xảy ra đối với hàng đó. Ví dụ: Bông thô: điều kiện A cộng với điều khoản hư hỏng từ nơi xuất xứ như hư hỏng gây ra do mưa, bùn trước khi gửi hàng. Than: do đặc tính dễ bắt lửa và tự bốc cháy, người được bảo hiểm nên mua đIều kiện bảo hiểm C và cộng thêm điều kiện bảo hiểm nóng. Nếu trộm cắp hay xảy ra trên hành trình, khách hàng có thể mua thêm rủi ro trộm cắp, không giao hàng. Thứ hai: cần hướng dẫn khách hàng lập những chứng từ cần thiết chứng minh tổn thất và khiếu nại người thứ ba để đảm bảo quyền được bồi thường của khách hàng. 2.2. Mức phí bảo hiểm Như chúng ta đã biết sản phẩm bảo hiểm là một loại hình dịch vụ đặc biệt đó là một cơ chế chuyển giao rủi ro với đặc tính là có hiệu quả xê dịch và có chu trình kinh doanh đảo ngược. Vì thế người mua khó nhận biết về lợi ích kinh doanh của nó, họ thường quan tâm tới mức phí (giá cả của sản phẩm bảo hiểm). Phí bảo hiểm không thể quá cao làm cho khách hàng tham gia bảo hiểm ở công ty khác, nhưng cũng không được quá thấp vì còn phải đủ để bồi thường các khiếu nại dự tính trong suốt thời gian bảo hiểm và trang trải các chi phí như: hoa hồng, chi phí quản lý, trích lập dự phòng nghiệp vụ… Công ty cần phải có những chính sách giảm phí cho những khách hàng truyền thống, có kim ngạch bảo hiểm lớn. Phí bảo hiểm cần phải được xây dựng trên cơ sở thống kê rủi ro, tổn thất qua các năm từ đó xác định được phí thuần, sau khi cộng thêm một số chi phí như: chi phí ký kết hợp đồng, chi phí quản lý…. Ta sẽ được phí thương mại. Để có mức phí hợp lý công ty phải căn cứ vào một số yếu tố… thị trường, khách hàng, đối thủ cạnh tranh… rồi sau đó mới đưa ra được biểu phí cho khách hàng. Ngoài ra chi nhánh cần phải thường xuyên theo dõi ảnh hhưởng của mức phí đến tâm lý khách hàng cũng như sự tương quan với mức phí của các công ty khác để có sự điều chỉnh kịp thời. 2.3. Về công tác phòng, hạn chế tổn thất Với những đặc điểm của mình, vận tải đường biển thường gặp phải rất nhiều rủi ro bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Vì thế, để công tác đề phòng, hạn chế tổn thất có hiệu quả thì công tác này cần được thực hiện ngay từ khi xếp hàng lên tàu và tiếp tục duy trì trong suốt hành trình cho đến khi dỡ hàng tại cảng đến. Hiện nay việc đề phòng hạn chế tổn thất đang được công ty thực hiện bằng cách chỉ định một chi nhánh khác của bảo hiểm tại bến cảng hoặc thuộc đơn vị chuyên trách tiến hành quá trình bốc xếp hàng hoá lên, xuống tàu nhằm ngăn chặn những công nhân bốc xếp không làm đúng quy cách hoặc dùng phương tiện không thích hợp trong việc bốc xếp hàng hoá. Từ những biện pháp này, công ty đã hạn chế số vụ tổn thất bồi thường của chi nhánh trong thời gian qua. Chi nhánh cũng tăng cường công tác đề phòng hạn chế tổn thất qua việc tăng chi cho công tác này. Năm 2000, chi nhánh đã tăng chi cho công tác đề phòng hạn chế tổn thất 1.53% trong tổng chi nghiệp vụ. Hiệu quả được thể hiện là trong năm 2001 và năm 2002, thực chi bồi thường của công ty đã giảm rõ rệt. Chi nhánh lên tiếp tục phát huy và làm tốt hơn một số vấn đề như: Đối với luồng vận chuyển, từng chuyến hành trình chi nhánh vẫn nghiên cứu kỹ những đặc đIểm của cảng đi, cảng đến, cảng chuyển tải, cảng lánh nạn (nếu có), những rủi ro có thể xảy ra … Đồng thời với cáccon tàu vận chuyển cho từng chuyến hàng, chi nhánh cũng cần xem xét, tìm hiểu các đặc tính như cấp hạn tàu, tuổi tàu cỡ hạn tàu, chủ tàu… Trên cơ sở đó phòng hàng hải sẽ lập ra bản hướng dẫn đối với những khách hàng mua bảo hiểm cho hàng hoá xuất xuất nhập khẩu bao gồm: Một bản chung áp dụng cho tất cả những khách hàng trong đó ghi thông tin về tất cả các đặc điểm của luồng vận chuyển, từng nhóm tàu kèm theo là lời khuyên nên chọn nhóm tàu nàovà biện pháp cho việc phòng tránh rủi ro. Một bản khác sẽ được sử dụng trong từng trường hợp cụ thể đối với từng khách hàng và hợp đồng cụ thể trên đó phân tích các đặc tính của tàu, của lô hàng tham gia bảo hiểm và kèm theo các khuyến cáo về phòng chánh rủi ro, tổn thất. Đối với khách hàng tham gia hợp đồng bảo hiểm bao, Bảo Minh Hà Nội nên đề nghị khách hàng nên đề nghị khách hàng thông báo gửi về cho chi nhánh trước mỗi chuyến hành trình, phải ghi thật đầy đủ, cụ thể về các đặc đIểm của chuyến hàng theo đó chi nhánh sẽ theo đó thông báo lại cho khách hàng về con tàu nên thuê, cách thức đóng gói, bốc, dỡ, chất xếp hàng cần làm… Bên cạnh đó chi nhánh cũng lên tham mưu cho khách hàng về các mặt: đIều kiện bảo hiểm tốt nhất, chất lượng hàng, bao bì đóng gói, điều kiện bốc dỡ, đóng gói, tình trạng tàu, tình trạng tài chính của tàu. Nếu như lô hàng có giá trị lớn, số lượng nhiều, chiếm một khoảng không gian đáng kể trong hầm tàu thì chủ hàng nên đề nghị chủ tàu tiến hành việc nâng hàng và chăm sóc hàng ngay từ đầu. Trong trường hợp khách hàng lớn, thường xuyên tiến hành xuất nhập khẩu và hay bốc dỡ tại một cảng nào đó thì chi nhánh cũng nên để khuyến cáo khách hàng cần có đề xuất với cảng chấp nhận phương án sau. Nếu trong một thời gian nhất định (có thể là một quý hoặc một năm) các lô hàng hoá xuất nhập khẩu trong quá trình bốc xếp khong xảy ra mất mát, hao hụt, trả lại hoặc xảy ra nhưng với điều kiện nhỏ hơn mức độ ấn định thì cũng sẽ được thưởng một khoản tiền tương xứng. Còn nếu ngược lại thì các giá trị tổn thất xảy ra vượt quá mức cho phép thì cảng phải trả cho chủ hàng một số tiền tỷ lệ với giá trị tổn thất. Bằng cách này sẽ nâng cao được trách nhiệm của cảng đối với hàng hoá, qua đó có thể giảm được đáng kể các tổn thất khi bốc rỡ và xếp hàng. 2.4. Về công tác giám định Qua số liệu tổng kết của chi nhánh trong thời gian gần đây ta thấy khoản chi cho giám định hàng hoá tăng lên. Điều này có thể lý giải là do những năm đầu số vụ tổn thất còn ít nên hầu hết các vụ đều do cán bộ của chi nhánh hoặc của công ty giám định. Song càng về sau số vụ tổn thất càng tăng lên theo số lượng hợp đồng trong khi đó số lượng cán bộ phòng hằng hải của Bảo Minh lại quá mỏng lại phải đảm đương tất cả các khâu từ khai thác đến bồi thường nhiều nghiệp vụ: bảo hiểm tàu biển, bảo hiểm tàu phà sông biển, … đồng thời tính chất phức tạp của tổn thất cũng tăng lên vì thế chi nhánh phải thuê các chuyên gia giám định có uy tín để thực hiện. Do đó đã làm chi phí giám định tăng lên. Để tăng cường chất lượng công tác giám định đồng thời đảm bảo tiết kiệm chi phí, một mặt chi nhánh cần phải không ngừng đào tạo nâng cao trình độ cho cán bộ giám định, mặt khác lên để chuyên môn hoá khâu giám định bằng cách mỗi cán bộ phòng hằng hải chịu trách nhiệm giám định cho một số mặt hàng cụ thể nào đó. Có như vậy thì mới có thể đi sâu nghiên cứu và chuyên môn hoá trong lĩnh vực của mình để nhằm hạn chế bớt các chi phí phát sinh và nâng cao hiệu suất của công việc. 2.5. Công tác bồi thường Hiệu quả công tác bồi thường phụ thuộc rất lớn vào việc triển khai các biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất và đơn giản hoá các thủ tục trong quá trình xét giải quyết khiếu nại, đòi bồi thường. Vì thế, để nâng cao chất lượng công tác này, công ty và chi nhánh không chỉ cần làm tốt các yếu tố trên mà còn phải có những biện pháp ngăn ngừa những gian lận có thể xảy ra trong quá trình khiếu nại đòi bồi thường . Để ngăn ngừa những gian lận có thể xảy ra tổn thất khi xem xét khiếu nại đòi bồi thường tổn thất, chi nhánh cần tìm hiểu và xác định rõ các tổn thất. Kinh nghiệm thực tế và trình độ chuyên môn của các cán bộ của chi nhánh nên đề ra những chuẩn mực và các đIểm chú ý cần thiết trong quá trình giảI quyết khiếu nại cho tất cả cán bộ phòng hàng hải của công ty. Mặt khác, công ty cũng cần đề ra những yêu cầu đối với khách hàng về tinh thần trung thực cũng như thiện chí khi ký kết hợp đồng, đặc biệt là đối với những khách hàng mới. Nếu họ vi phạm những thoả thuận đó thì chi nhánh có thể xử phạt tuỳ theo mức độ nặng nhẹ. Có thực hiện được như trên thì mới tạo được những hiệu quả thiết thực trong việc ngăn ngừa gian lận trong bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển, từ đó góp phần nâng cao chất lượng công tác giải quyết khiếu nại bồi thường của chi nhánh cũng như công ty. 2.6. Về công tác cán bộ Hiện nay ở chi nhánh Bảo Minh Hà Nội, đội ngũ cán bộ công tác trong phòng hàng hải đều rất tâm huyết với công việc và có trình độ chuyên môn cao trong lĩnh vực bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển. Những cán bộ này được đào tạo các kiến thức về chuyên ngnàh bảo hiểm, hàng hải, ngoại thương, luật trong các trường đại học có uy tín. Ngoài ra hàng năm các cán bộ này còn tham gia nhiều khoá huấn luyện hội thảo trong nước cũng như ngoài nước (Anh, Mỹ, Hàn Quốc…). Mặt khác đa phần trong số họ đều làm việc cho công ty ngay từ những ngày đầu thành lập nên rất am hiểu thực trạng của công ty, vị thế của công ty trên thị trường, các khách hàng truyền thống,… đây có thể nói là những thuận lợi của chi nhánh về mặt nhân sự, có ảnh hưởng tới sự tăng trưởng của chi nhánh trong thời gian qua. Tuy nhiên hiện nay cán bộ trong phòng hàng hải của công ty còn ít so với khối lượng đồ sợ của công việc và thường xuyên phải thực hiện những chuyến công tác dài ngày để giám định bồi thường tổn thất. Vì vậy xin đề nghị với công ty cũng như chi nhánh lưu tâm hơn đến chế độ đãi nghộ cũng như lương thưởng đối với cán bộ phòng bảo hiểm để khuyến khích họ ngày càng làm việc tốt hơn và hiệu quả hơn. 3. Kiến nghị Việc luật kinh doanh bảo hiểm được quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 09/12/2000 là một thành công của các nhà luật phát. Tiếp theo đó là các nghị định của Chính phủ, thông tư của Bộ Tài chính…thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm, tạo đIều kiện và cơ sở pháp lý đầy đủ cho các doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động cũng như tạo sự bình đẳng, đảm bảo lợi ích chính đáng và hợp pháp giữa những người bảo hiểm với những người tham gia bảo hiểm. Tuy nhiên, các văn bản pháp quy này phải đưa vào thực hiện một cách đồng bộ và hoàn chỉnh. 3.1. Đối với Nhà nước Cùng với việc mở cửa của thị trường bảo hiểm, sự cạnh tranh trên thị trường bảo hiểm Việt Nam tuy không dài song mức độ và tính chất đã diễn ra rất gay gắt thậm chí nhiều lúc đã mang tính tiêu cực, vì thế sự can thiệp của nhà nước nhằm định hướng cho nghành bảo hiểm nước ta liên tục phát triển một cách bền vững và lành mạnh để có thể đủ sức cạnh tranh với các công ty bảo hiểm 100% vốn nước ngoài trong giai đoạn hiện nay là rất cần thiết. Trước lúc nhận bảo hiểm phục vụ giám định hiện trường kịp thời, giảm thiểu nguy cơ, cơ hội tồn tại vấn đến trục lợi. Khi có sự tổn thất cần làm tốt các khâu: giám định hiện trường, giám định chính thức, bổ sung; giám định sửa chữa một cách chi tiết, cụ thể mẫn cán, trung thực. Để tránh tình trạng hạ phí làm ảnh hưởng đến tốc độ phát triển của thị trường, nhà nước (cụ thể là Bộ Tài chính) cần đưa ra mức phí sàn đối với từng mặt hàng. Tăng cường các biện pháp quản lý chặt chẽ các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp bảo hiểm, tái bảo hiểm và môi giới bảo hiểm đang hoạt động trên thị trường Việt Nam, đồng thời khuyến khích các công ty tái bảo hiểm ở trong nước trước khi tái ra nước ngoài. Một thực tế hiện nay là tỷ lệ tái bảo hiểm cho các công ty nước ngoài rất cao, phần tái bảo hiểm cho VINRARE hầu như chỉ vừa đủ theo quy định của Nhà nước. Thực trạng này bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, trong đó phải kể đến: + Khi tái bảo hiểm Nhà nước ra nước ngoài, do tiềm lực tài chính của các công ty tái bảo hiểm nước ngoài rất mạnh nên các công ty bảo hiểm của Việt Nam tỏ ra yên tâm hơn, đồng thời khi tái bảo hiểm ra nước ngoài thì lợi nhuận công ty nhận được thông thường lớn hơn so với khi tái bảo hiểm trong nước. + Khi tái bảo hiểm ra nước ngoài, các công ty bảo hiểm còn có thể tranh thủ được công nghệ, kỹ thuật cao của các công ty đó. Đặc biệt những trường hợp xẩy ra tổn thất có tính chất phức tạp hoặc tranh chấp liên quan đến phạm vi quốc tế thì việc giải quyết thông qua các công ty tái bảo hiểm đó thường hiệu quả hơn. Vì những lý do trên nên hiện nay tỷ lệ tái bảo hiểm ra nước ngoài trong nghiệp vụ hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển ở nước ta là rất cao, giải quyết vấn đề này cần có sự định hướng phát triển đúng đắn cũng như những chính sách nhất quán từ phía nhà nước. Cải tiến cơ chế quản lý tài chính đối với các doanh nghiệp bảo hiểm nhà nước để giúp các doanh nghiệp này tự chủ trong hoạt động kinh doanh. Mặt khác, trong ngành bảo hiểm việc tố tụng hay xảy ra giữa người được bảo hiểm và người bảo hiểm, kiểm tra tính chính xác của việc giải quyết khiếu nại, ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp bảo hiểm. Ngoài ra kiện tụng còn xảy ra giữa người bảo hiểm với bên thứ ba, thường là chủ tàu. Vì vậy tính chính xác của các bản án rất quan trọng đối với các doanh nghiệp bảo hiểm. So với các luật khác, luật bảo hiểm vẫn còn chưa hoàn chỉnh. Mặc dù luật kinh doanh bảo hiểm ra đời là bước ngoặt quan trọng trong ngành bảo hiểm Việt Nam nhưng nó chỉ là điều chỉnh về mặt kinh doanh, thành lập và kiểm tra của Nhà nước. Việc giải quyết các tố tụng trong bảo hiểm vẫn chưa được xét đến. Pháp luật cần xác định rõ Toà án nào có thẩm quyền xét xử các vụ kiện trong bảo hiểm Việc bắt gữ tàu nước ngoài gây thiệt hại cho doanh nghiệp bảo hiểm quá khó khăn, làm cho doanh nghiệp bảo hiểm không đòi lại được số tiền đã bồi thường. Do đó, Nhà nước cần xem xét bổ sung luật tố tụng trong bảo hiểm và có các chương trình đào tạo kiến thức về bảo hiểm cho quan toà. 3.2. Đối với Bảo Minh 3.2.1. Về mặt nghiệp vụ * Công tác khai thác và dịch vụ chăm sóc khách hàng: Trước sức ép cạnh tranh từ phía các công ty bảo hiểm khác, thị phần của toàn Công ty Bảo Minh sẽ bị san sẻ, vì vậy Công ty cần phải tìm kiếm thêm khách cho mình. Sự an toàn trong hoạt động bảo hiểm phụ thuộc vào số phí thu được, mà số phí thu được lại phụ thuộc vào khả năng khai thác của các đại lý và các chính sách kháng hàng. Chính sách khách hàng tại Bảo Minh nói chung và Bảo Minh chi nhánh Hà Nội nói riêng được thực hiện như sau: Hàng năm, hàng quý chi nhánh có thể tổ chức hội nghị khách hàng. Đây là dịp tốt để chi nhánh tạo nên ấn tượng của mình với khách hàng. Ngoài ra còn giúp góp phần hạn chế rủi ro trong kinh doanh. Phân loại khách hàng thường xuyên để có những chính sách thích hợp, khuyến khích, ưu đãi khách hàng về phía có ưu tiên đối với những khách hàng lớn và khách hàng truyền thống của chi nhánh. Tuyên truyền phổ biến chính sách khách hàng đến tất cả các nhân viên trong chi nhánh, có quy trình về trách nhiệm, có sơ kết, cố đề suất với lãnh đạo, để đưa công tác khách hàng không ngừng phát triển về chất lượng phục vụ. * Củng cố và phát triển đại lý, cộng tác viên Hệ thống đại lý, cộng tác viên của công ty có đảm bảo thì Công ty mới hoàn thành tốt được kế hoạch đề ra. Công ty và Chi nhánh nhận thấy tầm quan trọng của hệ thống đại lý, công tác viên trong việc kinh doanh bảo hiểm nên đã không ngừng phát triển và mở rộng hệ thống đại lý, đồng thời nâng cao trình độ của các đại lý. Công ty, Chi nhánh đã tổ chức các lớp bồi dưỡng, đào tạo các đại lý. Song Công ty, Chi nhánh cần tập trung vào việc xây dựng quy trình phát triển hệ thống đại lý mới. Các đơn vị trong toàn Công ty cần phải thấy được tầm quan trọng của đại lý và thực sự quan tâm đến hoạt động của đại lý, cộng tác viên. Thực hiện tốt cá quy định về quản lý tài chính đối với đại lý, cộng tác viên: ấn chỉ, hoá đơn, thu nộp phí… * Chương trình tái bảo hiểm. Tái bảo hiểm cũng là một công việc quan trọng trong các nghiệp vụ bảo hiểm, nếu các Công ty bảo hiểm tính toán đúng các phương thức và tỷ lệ tái không những sẽ giúp cho Công ty tránh được phá sản khi có tổn thất quá lớn xảy ra mà còn giúp cho Công ty tăng lợi nhuận. Đối với Bảo Minh và Chi nhánh Hà Nội các chương trình tái cũng đã được Công ty quan tâm đáng kể nhưng cũng cần phải chú ý đến một số vấn đề sau: Tập trung hướng dẫn giúp đỡ lãnh đạo, cán bộ nghiệp vụ kế toán, thống kế của các địa phương nắm vững nội dung của các chương trình tái, tỷ lệ nhượng tái, thu hoa hồng nhượng tái… Thông báo kịp thời tình hình tái cho các đơn vị để làm cơ sở tính toán hiệu quả. Tăng cường trách nhiệm của phòng tái về đòi bồi thường, hoa hồng từ tái bảo hiểm. 3.2.2 Về mặt quản lý: a/ Về công tác cổ phần hoá và đổi mới doanh nghiệp. Theo định hướng chung của toàn quốc, đến hết năm 2005, tất cả các doanh nghiệp bảo hiểm nhà nước (trừ Bảo Việt) đều được tiến hành cổ phần hoá. Công ty Bảo Minh cũng đã và đang chuẩn bị cho việc cổ phần hoá này vào tháng 7/2004 Công ty cũng đã chuẩn bị được rất nhiều công việc như tái cơ cấu tổ chức, thực hiện một số phương pháp quản lý mới như khoán lương 100% theo hiệu quả kinh doanh,… Trong thời gian tới Công ty cần xúc tiến thuê tư vấn xây dựng chiến lược kinh doanh và tiếp tục tái cơ cấu tổ chức Công ty trong tình hình mới. b/ Công tác kế hoạch thống kê. Thực hiện triệt để định hướng kinh doanh: Hiệu quả là mục tieu hàng đầu, xây dựng chỉ tiêu doanh thu thuần và khoản định mức theo chỉ tiêu này. Tăng cường kiểm tra theo dõi công tác thực hiện kế hoạch và có biện pháp trấn chỉnh kịp thời. c/ Công tác tài chính kế toán Nhanh chóng hoàn chỉnh và triển khai phần mềm quản lý tài chính kế toán FAST. Xây dựng và thực hiện tốt quy trình quyết toán tài chính cho các đơn vị quyết toán nhanh các công trình xây dựng cơ bản hoàn thành. Tăng cường công tác kiểm tra quản lý tài chính, hướng dẫn chi tiêu phù hợp tới sự đổi mới của Công ty. Hướng dẫn các biện pháp tiết kiệm chi phí quản lý. 3.2.3. Phát triển bộ máy nhân sự: Sự thành công của việc kinh doanh bảo hiểm phụ thuộc phần lớn vào trình độ nghiệp vụ của các cán bộ trong Công ty nói chung và trong từng đơn vị nói riêng. Các cán bộ trong từng Chi nhánh cần phải am hiểu tường tận các nghiệp vụ bảo hiểm, các điều luật liên quan và có khả năng phân tích mọi điều khoản của các bộ luật, các văn bản chuyên ngành và các văn bản liên quan nhằm phục vụ cho công việc như: phân tích cho khách hàng những thắc mắc của họ, giải quyết các yêu cầu của khách hàng đúng luật, tạo nên uy tín trong khách hàng về đội ngũ nhân viên am hiểu về nghiệp vụ và các vấn đề có liên quan. Bổ xung thêm kiến thức cho nhân viên trong toàn Chi nhánh về các lĩnh vực như: tin học, ngoại ngữ, công nghệ mới trong ngành… Chi nhánh cần kiểm tra định kỳ các nhân viên của mình về các kỹ năng nghiệp vụ của họ nhằm sắp xếp công việc phù hợp cho nhân viên của mình tạo năng suất và hiệu quả làm việc cao nhất. Chi nhánh nên có chế độ khen thưởng hợp lý đối với những nhân viên có thành tích tốt trong công tác, phải phê bình nghiêm khắc đối với các nhân viên vi phạm các quy chế của Chi nhánh, của Công ty. Chi nhánh có thể tổ chức một buổi họp khen thưởng và phê bình, điều này là rất tốt vì như thế sẽ thúc đẩy các nhân viên làm việc tốt hơn để đạt được những thành tích tốt trong công việc. Công ty và Chi nhánh cần đặt ra chế độ thi tuyển nhân viên rộng rãi khắp toàn quốc nhằm thu hút người tài, có năng lực về làm việc trong công ty, chi nhánh. Chi nhánh cần tự tổ chức các lớp bồi dưỡng nâng cao trình độ mọi mặt, cập nhật thường xuyên các kiến thức, thông tin cho cán bộ. Tổ chức các lớp huấn luyện nghiệp vụ cho nhân viên giúp họ theo kịp yêu cầu của công tác mới. Kết luận Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình hội nhập với kinh tế trong khu vực cũng như nền kinh tế thế giới. Chính vì vậy hoạt động thông thương buôn bán quốc tế đang diễn ra rất nhộn nhịp góp phần thúc đẩy tiến trình hội nhập của nền kinh tế nước ta. Với vai trò là tấm lá chắn cho các doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh, bảo hiểm hàng hoá nói chung và bảo hiểm hàng vận chuyển đường biển nói riêng đã không ngừng phát triển và góp phần vào sự phát triển chung của nền kinh tế. Cũng như các doanh nghiệp bảo hiểm khác trên thị trường Việt Nam, Bảo Minh Hà Nội cũng đã và đang triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển, và đã nắm giữ được một thị phần không nhỏ đối với nghiệp vụ này, đóng góp chung vào kết quả của cả công ty. Vì vậy vấn đề đặt ra cho các công ty bảo hiểm trong nước cũng như Bảo Minh là phải tự hoàn thiện mình, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường, cải tiến các sản phẩm cho phù hợp hơn với các yêu cầu của khách hàng. Về phía Nhà nước cũng cần có những biện pháp hỗ trợ để hàng hoá xuất nhập khẩu của Việt Nam được bảo hiểm tại thị trường trong nước nhằm thúc đẩy ngành bảo hiểm phát triển cũng như tiết kiệm ngoại tệ cho đất nước phục vụ cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Tài liệu tham khảo Giáo trình kinh tế học – NXB Thống kê 2000 Giáo trình quản trị kinh doanh Các tạp chí thông tin thị trường bảo hiểm, tái bảo hiểm, VINARARE Tạp chí bảo hiểm. Báo cáo tổng kết tình hình hoạt động kinh doanh của Bảo Minh Hà Nội các năm 1998 – 2003 Tài liệu phòng bảo hiểm hàng hải – chi nhánh Bảo Minh Hà Nội. Mục lục Lời nói đầu 1 Chương I: Lý luận chung về bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển 3 1. Vai trò của vận tải biển và sự cần thiết của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển 3 1.I. Vai trò của vận chuyển bằng đường biển 3 1.2. Sự cần thiết của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển. 4 2. Luật điều chỉnh ngihệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển 5 3. Các loại rủi ro và tổn thất trong bảo hiểm hàng hoá Xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển 7 3.1. Các loại rủi ro 7 3.2. Các loại tổn thất 8 4. Nội dung cơ bản của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển 11 4.1. Đối tượng và phạm vi bảo hiểm 11 4.2. Giá trị bảo hiểm, số tiền bảo hiểm, phí bảo hiểm. 12 4.3. Điều kiện bảo hiểm 14 4.4. Hợp đồng bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển 17 Chương II: Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển tại chi nhánh bảo minh – hà nội. 21 1. Vài nét về công ty bảo minh và chi nhánh bảo minh hà nội. 21 2. Quá trình khai thác bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển ở công ty Bảo Minh chi nhánh Hà nội. 26 2.1. Hoạt động khai thác bảo hiểm. 26 2.2. Cấp đơn bảo hiểm. 28 3. Công tác giám định hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển tại công ty bảo hiểm Bảo Minh. 37 3.1.Nhận yêu cầu giám định 38 3.2. Tiến hành thực hiện giám định 39 3.3. Lập biên bản giám định 40 3.4. Cung cấp biên bản giám định và thu phí giám định 41 4. Giải quyết khiếu nại đòi bồi thường đối với hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển của chi nhánh. 43 4.1. Tiếp nhận hồ sơ khiếu nại 44 4.2. Kiểm tra chứng từ 44 4.3. Xác minh phí 44 4.4. Xem xét tổn thất thuộc phạm vi trách nhiệm của hợp đồng hay không? 45 4.5. Nếu tổn thất thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm. 45 4.6. Thanh toán bồi thường 45 5. Những kết quả đạt được trong kinh doanh bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển ở Bảo Minh Hà Nội. 48 Chương III: Giải pháp và kiến nghị nhằm phát triển nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển tại Bảo Minh Hà Nội. 52 1. Mục tiêu của Bảo Minh Hà Nội 52 2. Giải pháp 52 2.1. Về công tác khách hàng. 52 2.2. Mức phí bảo hiểm 55 2.3. Về công tác phòng, hạn chế tổn thất 56 2.4. Về công tác giám định 58 2.5. Công tác bồi thường 58 2.6. Về công tác cán bộ 59 3. Kiến nghị 60 3.1. Đối với Nhà nước 60 3.2. Đối với Bảo Minh 62 3.2.1. Về mặt nghiệp vụ 62 3.2.2 Về mặt quản lý 63 3.2.3. Phát triển bộ máy nhân sự 64 Kết luận 66 Tài liệu tham khảo 67

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28682.doc
Tài liệu liên quan