Chuyên đề Ước tính sơ bộ thiệt hại môi trường do sự cố tràn dầu gây ra tại Cù Lao Chàm và Cửa Đại (Quảng Nam)

Để thực hiện tốt các giải pháp phòng tránh và khắc phục sự cố, các phương tiện kỹ thuật sau cần sẵn sàng: - Phao quây chống lan (Boom) - Bơm hút (skimmer) - Tàu cứu hộ (oilspill response vessels) - Tàu chứa dầu (tank vessels) - Xe téc chứa dầu (Vaccuum Trucks/Trailers) - Kho bãi di động (portable storage) - Các bơm hút vận chuyển khác (Product tranfer pump) - Đội cứu hộ (personels) - Trực thăng (helicopter) Nếu công tác ngăn ngừa, khắc phục sự cố được tiến hành hiệu quả sẽ giúp giảm bớt tác động của tràn dầu lên môi trường, các hoạt động kinh tế, xã hội của con người và qua đó, giảm được thiệt hại mà sự cố gây ra.

doc85 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1742 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Ước tính sơ bộ thiệt hại môi trường do sự cố tràn dầu gây ra tại Cù Lao Chàm và Cửa Đại (Quảng Nam), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1,4 công nhân kỹ thuật, so với tình chung của cả nước và khu vực thì chỉ số trên còn quá thấp, nguyên nhân chủ yếu là lực lượng lao động tập trung trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp và đa phần là lao động thủ công. Tình hình kinh tế-xã hội Tình hình kinh tế Kinh tế của tỉnh năm 2007 đạt mức tăng trưởng cao nhất trong vòng 11 năm qua (14,38%), tạo khả năng hoàn thành nhiều mức chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm 2006 - 2010 ngay trong năm 2008. Cơ cấu kinh tế công nghiệp – xây dựng và dịch vụ trong GDP từ 69% năm 2005 lên 74% năm 2007. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng trưởng 29%, vượt chỉ tiêu. Giá trị các ngành dịch vụ đạt kế hoạch và có tốc độ tăng cao nhất từ trước đến nay 18%. Kim ngạch xuất khẩu vượt 07 triệu USD so với chỉ tiêu và tăng trên 24,5% ngay trong năm đầu khi gia nhập WTO. Riêng ngành nông nghiệp tuy gặp nhiều khó khăn do thiên tai, dịch bệnh nhưng vẫn xấp xỉ đạt kế hoạch (98,3%). Trong năm 2007đã thu hút và cấp phép 12 dự án đầu tư trong và ngoài nước với tổng vốn 260 triệu USD. Kết cấu hạ tầng quan trọng bắt đầu được phát huy: Sân bay Chu Lai tăng chuyến; hàng hóa bốc xếp qua cảng Kỳ Hà trên 650 ngàn tấn. Một số nhà máy sản xuất sản phẩm qui mô lớn như: Ô tô lắp ráp trên 10.000 chiếc; bắt đầu sản xuất gạch men, linh kiện điện tử. Đã phối hợp tích cực với các địa phương liên quan (Tam Kỳ, Núi Thành) thực hiện tốt công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng. Trên địa bàn tỉnh, nhiều công trình hạ tầng và cơ sở sản xuất được đưa vào sử dụng, tạo động lực quan trọng để thúc đẩy phát triển. Đưa vào sử dụng nhà máy thủy điện Khe Diên, các nhà máy thủy điện lớn đảm bảo tiến độ, dự kiến sẽ đưa vào vận hành một số tổ máy trong năm 2008 như thủy điện A Vương, Sông Kôn 2. Trong lĩnh vực dịch vụ, du lịch đã khởi công dự án sân golf. Hoàn thành đưa vào sử dụng khu du lịch Nam Hải với qui mô 5 sao; corpmart Tam Kỳ góp phần thúc đẩy phát triển và thị hiếu tiêu dùng trong nhân dân. Môi trường đầu tư từng bước được chấn chỉnh. Tổng số vốn đầu tư toàn xã hội 5.712 tỷ đồng, chiếm trên 44% GDP, tăng trên 9,5%. Thu nội địa vượt trên 144 tỷ đồng so với dự toán năm và tăng trên 17% so với năm 2006. Tình hình văn hoá – xã hội Các lĩnh vực văn hóa - xã hội năm 2007 có những chuyển biến tích cực. Đã xử lý quyết liệt để ngăn chặn dịch cúm gia cầm, dịch lở mồm long móng, dịch lợn tai xanh. Công tác xoá đói giảm nghèo tiếp tục đạt được kết quả nổi bật. Giải quyết việc làm 35.000 lao động, Thực hiện xóa trên 3.600 ngôi nhà tạm thuộc chương trình 134, nâng tổng số qua 3 năm thực hiện xóa 12.200 ngôi nhà tạm, góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 26,6% năm 2006 xuống còn 24% năm 2007; giảm tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng từ 23% xuống còn 21,6%. Công tác cải cách hành chính, phân cấp, ủy quyền được đẩy mạnh. Phòng, chống tham nhũng và thực hành tiết kiện được quan tâm chỉ đạo và kiên quyết. Công tác bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng chống các loại tội phạm được tăng cường. Quốc phòng và an ninh được giữ vững. Đối ngoại tiếp tục được phát triển. Thông tin cơ bản về địa điểm nghiên cứu.  Đảo Cù Lao Chàm:  Nằm cách bãi biển Cửa Đại (Hội An) 18 km về phía biển đông, Cù Lao Chàm là quần đảo gồm 8 đảo nhỏ nối sát nhau: hòn Lao, hòn Khô Mẹ, hòn Khô Con, hòn Tai, hòn Dài, hòn Mồ, hòn Lá, hòn Ông. Ở Cù Lao Chàm có những làng chài, bãi tắm đẹp. Dưới biển có nhiều ghềnh đá, nhiều dãy san hô với hàng trăm nghìn loài cá, loài hải sản miền nhiệt đới, trong đó có các món hải sản địa phương rất nổi tiếng như cua đá, vú xao, vú nàng... Trên đảo, hệ động thực vật khá phong phú, đặc biệt có loài chim Yến quý hiếm cư ngụ cùng nhiều loài động vật hoang dã. Dân cư Cù Lao Chàm chủ yếu tập trung tại 4 thôn là: bãi Hương, bãi Làng, thôn Cấm, thôn Bãi Ông. Cù Lao Chàm còn là địa danh được nhắc đến khá nhiều qua văn sử, từng là thương cảng số một - cửa ngõ thông thương của vương quốc Champa với thế giới bên ngoài. Cửa đại và sông Thu Bồn Bắt nguồn từ đỉnh núi Ngọc Linh cao 2598 mét, ban đầu Thu Bồn chỉ là dòng sông nhỏ chảy qua các ghềnh đá vùng núi phía tây nam của tỉnh Quảng Nam. Nhờ thêm lưu lượng nước từ sông Tiên, sông Tranh trên địa hạt Trà My và Tiên Phước, sông Thu Bồn trở thành dòng lớn chảy qua vùng Quế Sơn, Đại Lộc, Duy Xuyên. Sông Thu Bồn tại vùng Điện Bàn và chia hai hướng: hướng bắc vẫn là hướng chính với tên Thu Bồn (có nơi còn gọi là sông Chợ Củi), hướng nam nhánh nhỏ hơn là sông Bà Rén. Gần đến biển, Thu Bồn và Bà Rén gặp lại nhau chảy qua phố cổ Hội An rồi đổ ra biển Cửa Đại. Các hoạt động kinh tế được coi là nhạy cảm nhất với tác động của sự cố tràn dầu tại khu vực Cù Lao Chàm, Cửa Đại là hoạt động du lịch và hoạt động đánh bắt, nuôi trồng thuỷ, hải sản. Nghề đánh bắt hải sản khu vực Cửa Đại, Cù Lao Chàm có thể chia làm những loại hình hoạt động như sau: Đánh bắt cá xa bờ: đây là những hộ ngư nghiệp có tàu thuyền lớn, thuê thêm nhân công đánh bắt cá ngoài đại dương theo những chuyến đi dài ngày. Đánh bắt gần bờ gồm hai nhóm nhỏ: Thứ nhất là nhóm hộ ngư nghiệp có thuyền đánh bắt cá, tôm, mực trong vùng biển gần bờ, cách bờ vài km tới trên dưới 10 km; thứ 2 là nhóm đánh bắt hải sản sát bờ. Đây là nhóm những ngư dân chuyên dùng lưới đánh bắt cá, hải sản dọc bờ cát. Thu nhập của nhóm này nhỏ lẻ, không đáng kể. Nhiều người đánh bắt gần bờ chủ yếu bắt hải sản tầng đáy (ngao, sò, vẹm…) bằng các dụng cụ cầm tay. Nhóm nuôi trồng hải sản: Đặc thù của việc nuôi trồng hải sản ở Cửa Đại là các hộ chủ yếu nuôi trồng trong khu vực sông Thu Bồn. Hầu như không có hộ nuôi trồng hải sản trên bờ biển hoặc quanh Cù Lao Chàm. Một số hộ nuôi cá nước ngọt trên bờ (Số này hoàn toàn không chịu tác động ô nhiễm tràn dầu). Như vậy, có thể kết luận rằng đối tượng ngư dân chịu tác động chủ yếu từ ô nhiễm môi trường do sự cố tràn dầu tại khu vực Cù Lao Chàm, Cửa Đại là những người đánh bắt ven bờ. Hoạt động du lịch Hoạt động du lịch chịu tác động lớn của sự cố tràn dầu. Thiệt hại đối với hoạt động này chủ yếu do tổn thất trong thu nhập của các khách sạn, nhà nghỉ và các hoạt động dịch vụ phục vụ du lịch. Theo nhiều nguồn tin, sự cố tràn dầu thang 1/2007 đã khiến nhiều tour du lịch bị hoãn, gây ảnh hưởng lớn đến ngành du lịch của tỉnh Quảng Nam nhưng chưa có thông tin nào tổng hợp mức độ thiệt hại này. SỰ CỐ TRÀN DẦU THÁNG 1 NĂM 2007 TẠI BIỂN QUẢNG NAM Diễn biến Sự cố tràn dầu tháng 1 năm 2007 được đánh giá có quy mô tác động rất lớn đối với các tỉnh ven biển nước ta. Sự cố ô nhiễm dầu đã được phát hiện đầu tiên vào 28 tháng 01 năm 2007 tại Quảng Nam, sau đó ảnh hưởng đến 20 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Diễn biến ảnh hưởng của dầu ô nhiễm có thể chia thành 4 đợt theo thời gian phát hiện như sau: Đợt 1: Từ ngày 28 tháng 01 đến ngày 07 tháng 02, ảnh hưởng đến 06 tỉnh miền Trung: Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi; Đợt 2: Từ ngày 01 tháng 3 đến 31 tháng 3 năm 2007, ảnh hưởng đến 12 tỉnh miền Trung và miền Nam: Hà Tĩnh, Quảng Bình, Thừa Thiên Huế, Bình Định, Phú Yên, Bà Rịa – Vũng Tàu, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau; Đợt 3: Từ ngày 11 tháng 4 đến ngày 19 tháng 4 năm 2007, ảnh hưởng đến 4 tỉnh miền Bắc và miền Trung: Hải Phòng, Phú Yên, Khánh Hoà và Ninh Thuận; Đợt 4: Ngày 20 tháng 5 năm 2007 tiếp tục ảnh hưởng đến tỉnh Tiền Giang (lần 3) và ngày 4 tháng 5 năm 2007 dầu xuất hiện trở lại tại tỉnh Cà Mau. Cùng thời điểm tháng 01 năm 2007, chính xác là đêm 30 tháng 01, chiếc xà lan Marco Polo 168 chở gỗ từ Nha Trang đi Trung Quốc, được kéo bởi tàu TB. Terusdaya 21 của Indonesia, đã mắc nạn tại khu vực Cù Lao Chàm, Hội An (Quảng Nam) do va đập vào đá và nghiêng khoảng 300. Hơn 3.000 tấn dăm gỗ và dầu trên xà lan đã tràn ra biển. Tới sáng 31 tháng 01, dầu đã loang khắp bờ biển Quảng Nam, kéo dài hơn 10 cây số, nơi tọa lạc các khách sạn và khu du lịch của tỉnh. Đến sáng ngày 01 tháng 02, xà lan Marco Polo 168 vẫn đang trong tình trạng “treo” trên ghềnh đá. Chiếc xà lan này đang bị thủng và nghiêng khoảng 300, dăm gỗ và dầu từ sà lan tràn ra, loang khắp mặt ảnh biển trong khu vực. Đặc biệt là có nguy cơ gây hại cho các rạn san hô tại khu bảo tồn biển Cù Lao Chàm. Những tảng dầu nặng, vón cục đã dạt vào bờ, trải dài trên cát, sát mép nước dọc bờ biển từ Hội An đến Điện Dương gần 10km. Tuy nhiên sau 5 ngày thu gom váng dầu trên biển, đến sáng ngày 4 tháng 2 năm 2007, theo người dân khu vực phường Cửa Đại, Cẩm An, thị xã Hội An (Quảng Nam) thì lượng dầu tràn vào bờ còn rất ít, chỉ những hạt li ti. Sự cố tràn dầu đầu tháng 01 trải khắp các biển miền Trung cộng với việc chiếc xà lan Marco Polo mắc nạn đã tác động lớn đến khu vực ven biển Quảng Nam. Quảng Nam, do đó, là tỉnh chịu tác động lớn nhất từ sự cố tràn dầu. Điều này cũng đúng theo kết quả điều tra của Uỷ ban Quốc gia Tìm kiếm Cứu nạn trong đợt 1 của sự cố tràn dầu đầu năm 2007, được thể hiện ở bảng sau: Bảng 2.2 : Số lượng dầu thu gom và chi phí ứng phó tại các địa phương thuộc đợt 1 TT Tỉnh, thành phố Dầu đã thu gom (tấn) Chi phí ứng phó, thu gom, vận chuyển, xử lý (triệu đồng) 1 Hà Tĩnh 294 899,92 2 Quảng Bình 68,5 942,00 3 Quảng Trị 22,97 76,51 4 Thừa Thiên Huế 326,72 506,04 5 Đà Nẵng 50 51,50 6 Quảng Nam 978 1.021,265 7 Quảng Ngãi 127 36,00 Tồng cộng 1.867,19 3.481,735 Nguồn: Uỷ ban Quốc gia Tìm kiếm Cứu nạn (2007) Nguyên nhân Cho đến nay, chưa có cơ quan nào khẳng định chính xác nguyên nhân của sự cố tràn dầu xảy ra vào đầu năm 2007. Uỷ ban Quốc gia Tìm kiếm Cứu Nạn mới chỉ đưa nhận định ban đầu về nguyên nhân gây ra sự cố dựa trên cơ sở tổng hợp các kết quả phân mẫu, ảnh viễn thám, mô hình lan truyền dầu ô nhiễm và các điều kiện khí hậu, thuỷ văn trong khu vực tại thời điểm phát hiện sự cố tràn dầu trong các tỉnh miền Trung như sau: Sự cố tràn dầu thô từ các hoạt động thăm dò, khai thác, vận chuyển dầu khí hoặc các hoạt động xúc rửa đổ xuống biển dầu thô cặn từ các tàu chứa, vận chuyển ở khu vực Biển Đông, đặc biệt là vùng biển phía Đông, Đông Nam đảo Hải Nam, Trung Quốc. Sự cố dò, tràn dầu thô từ giếng dầu đã ngừng khai thác và đã đóng miệng giếng. Do điều kiện bất thường về địa chất, giếng dầu đã bị ảnh hưởng của chấn động làm tăng áp suất trong giếng gây hiện tượng rò rỉ dầu ra bên ngoài. Phạm vi Theo kết quả nghiên cứu của Viện Tài Nguyên và Môi trường biển Hải Phòng, phạm vi chịu tác động của kéo dài dọc bờ biển gần 100km (từ Cửa Đại đến An Hoà) cùng với chiều rộng của sự ảnh hưởng vào sâu trong cửa sông 3km và ra ngoài biển tận đảo Cù Lao Chàm (toạ độ địa lý 15057’’N và 108031’’) cách bờ biển khoảng 15 hải lý. Các biểu hiện của phạm vi ảnh hưởng gồm các dấu vết của dầu còn đọng trên bãi cát, vách đá, đồng hành cùng với sự gia tăng của hàm lượng dầu trong nước biển tại khu vực này. Qua hình ảnh chụp ngoài hiện trường và sự mô tả của các cơ quan, dân địa phương thì sự cố tràn dầu đã kết tủa thành các cục nhỏ, to khác nhau và phủ kín bề mặt các bãi biển, bám đen các vách đá. Do chính quyền địa phương đã nhanh chóng huy động các lực lượng thu gom dầu, nên chỉ sau vài ngày bãi biển cơ bản được dọn sạch. Tuy vậy, các loại dầu có chứa lưu huỳnh như nhựa đường, hắc ín… thì vẫn vón cục nằm dải dác dọc theo bãi biển và bám vào các rạn đá. Các cục dầu như vậy cũng đã được tìm thấy trong khu rừng ngập mặn nằm ở khu vực du lịch sinh thái Thuận Tình, sâu vào trong cửa sông khoảng 3 km. Các HST mà dấu vết để lại do tác động của dầu tràn là các HST bãi cát biển, HST rừng ngập mặn, HST cỏ biển, HST cửa sông đáy mềm và HST rạn san hô, bãi triều đá. Tổng diện tích tác động khoảng 1000 km2. Trong đó có 1 km2 cỏ biển, 0,5 km2 rừng ngập mặn, 20 km2 bãi cát, 50 km2 rạn san hô còn lại là phần cửa sông và đáy mềm. Độ che phủ của rừng ngập mặn không bị tác động nhưng độ che phủ của cỏ biển bị giảm khoảng 50% diện tích, san hô độ phủ giảm 50 – 95%. Các tác động môi trường do sự cố tràn dầu gây ra Tác động của dầu đến môi trường sống Theo Viện Sinh thái và Môi trường biển Hải Phòng, kết quả phân tích các tiêu chí môi trường trong nước và trầm tích của các HST đều chỉ ra rằng, sau sự cố tràn dầu môi trường sinh thái bị suy giảm nghiêm trọng. Nhiệt độ nước biển: Tại khu vực Cửa Đại, nhiệt độ nước biển tầng mặt trong thời điểm khảo sát nằm trong khoảng từ 25,5 – 270C, trung bình là 26,40C, dừng ở mức độ bình thường. Hàm lượng dầu trong nước tại khu vực Cửa Đại dao động khá lớn từ 0,3mg/l đến 1,56 mg/l. Càng vào sâu trong lục địa, hàm lượng dầu trong nước càng cao gấp từ 3 – 15 lấn giới hạn cho phép và giới hạn phông nền đã nghiên cứu trước sự cố tràn dầu. Tại Cù Lao Chàm, nồng độ dầu trung bình là 0,79 mg/l, ở tầng đáy là 1,24 mg/l cũng cao hơn 2 -3 lần kết quả phân tích trước đây. Dầu trong trầm tích: Các kết quả phân tích cho thấy, dầu trong trầm tích dao động từ 52,27- 660, 27 mg/kg, nhưng vẫn thấp hơn giới hạn cho phép nhiều lần. Kim loại nặng trong nước: Hàm lượng Cu trong nước biển ven bờ dọc theo khu vực hàm lượng phát hiện doa động từ 5,39 – 33,29µg/l. Tại Cửa Đại, tầng mặt cao gấp 6,2 lần tầng đáy. Theo TCVN (8µg/l), hàm lượng này cao hơn 4 lần và cũng cao hơn giá trị đo dược trước khi dầu tràn. Hàm lượng Zn dao động trong môi trường nước biển ven bờ của khu vực Cửa Đại từ 8,3 đến 27,62µg/l. Trong khi đó khu vực Cẩm Thanh phát hiện được là 72,87 (TCVN 10µg/l). Vi sinh vật: số lượng tế bào phân huỷ hydrocacbon dao động mạnh từ 2,5.102tb/ml đến 8.104tb/ml. HST cửa sông (8.104tb/ml) và cỏ biển (2,9.104tb/ml) bị ô nhiễm dầu cao, bãi cát Hoà An có dấu hiệu bị ô nhiễm dầu (3,2.103tb/ml) trong khi đó bãi cát Cửa Đại không thấy có dấu hiệu ô nhiễm dầu (2,5.102tb/ml) trong đợt khảo sát này. Tác động của dầu tràn làm biến đổi cấu trúc Biến đổi thành phần loài: Số loài trong từng nhóm sinh vật tại một địa điểm sau khi có sự cố tràn dầu thể hiện rõ nhất ở nhóm động vật đáy. Sau sự cố tràn dầu năm 2007, quần xã động vật đáy đã suy giảm về số loài, mật độ, khối lượng và chỉ số đa dạng sinh học. Số loài trung bình trong và ngoài HST cỏ biển biến động từ 1,33 – 6,5 loài/trạm. Trong khi đó năm 2002 giá trị này đạt trung bình 7 loài/trạm, như vậy số loài bị giảm từ 1,5 – 6 lấn so với giá trị ban đầu. Tương tự như vậy, khối lượng động vật đáy tại Cửa Đại tại phần lớn các trạm đều thấp hơn giá trị trung bình (88g/m2) và thấp hơn trong khoảng 1,5 – 5 lấn. So sánh với kết quả nghiên cứu về thành phần cá thuộc rạn san hô ở cùng mặt cắt của các tác giả Võ Sỹ Tuấn và cộng sự (2004); Nguyễn Văn Quân và cộng sự (2005) cho thấy tỷ lệ suy giảm về thành phần loài này ở Bãi Bắc doa động từ 28, 57 – 34, 21% và Bãi Hương là 18,51 – 22, 35%. Số lượng: Mật độ động vật đáy sau khi tràn dầu biến động từ 52 – 136 con/m2, bằng 38% mật độ trung bình trước khi tràn dầu. Xu hướng chung cho thấy có sự giảm sút về mật độ của quần xã cá trên các mặt cắt so với các nghiên cứu trước đây. Đối với mặt cắt nông, tỷ lệ % mật độ suy giảm là 44,28 – 48,82%; trong khi đó, mặt cắt sâu có suy giảm 26,13% nhưng lại gia tăng 24,14% so với năm 2004. Loài sinh vật bị đe doạ, loài đặc hữu: Các loài thuộc hải sâm vú, tôm hùm, trai tai tượng đã di cư ra khỏi khu vực bị tác động và tốc độ phục hồi quay trở lại là rất chậm. Suy giảm các chỉ số đa dạng của HST: Kết quả tính toán chỉ số đa dạng H’ cho thấy tại Cửa Đại, Cẩm Thanh có chỉ số H’ thấp nhất từ 0,8 – 1,19. So sánh với bảng phân loại mức ô nhiễm của các vùng nước được lấy theo phân mức của Staub et al (1970), Sunoko (1950), nhận thấy các khu vực nghiên cứu đều đang trong tình trạng ô nhiễm ở mức độ 2 và 3 - mức độ ô nhiễm trung bình loại Alpha (α - mesosaprobic) và Beta (β - mesosaprobic). Mức độ ô nhiễm 2 chủ yếu chủ yếu tập trung tại các HST vùng triều cửa sông và HST cỏ biển cũng như tại đảo Cù Lao Chàm. Động vật đáy: Chỉ số đa dạng sinh học ở tất cả các trạm quan trắc đều thấp, ở 5 mặt cắt có giá trị 1,24 – 0,781 và nằm ở mức bị tác động mạnh, chỉ có 2 mặt cắt có giá trị > 1. Như vậy, khu vực chịu tác động nhiều nhất là đảo Cù Lao Chàm và Cửa Đại. Thành phần môi trường chính bị tác động là các hệ sinh thái ven biển: - Hệ sinh thái bãi cát - Giảm 50% - 90% độ che phủ của san hô - Giảm 50% diện tích cỏ biển - Giảm chỉ số đa dạng sinh học - Chết nhiều nguồn giống (cá, tôm hùm, trai tai tượng, ...) CHƯƠNG III : ƯỚC TÍNH SƠ BỘ THIỆT HẠI MÔI TRƯỜNG DO SỰ CỐ TRÀN DẦU GÂY RA TẠI KHU VỰC CÙ LAO CHÀM, CỬA ĐẠI (QUẢNG NAM) XÁC ĐỊNH THIỆT HẠI MÔI TRƯỜNG DO SỰ CỐ TRÀN DẦU GÂY RA TẠI KHU VỰC CÙ LAO CHÀM, CỬA ĐẠI Khái quát chung về các loại thiệt hại môi trường Như đã phân tích ở trên, tác động môi trường chủ yếu của sự cố tràn dầu tháng 1/2007 tại vùng biển Quảng Nam là làm suy giảm nghiêm trọng các hệ sinh thái ven biển, đặc biệt là khu vực Cù Lao Chàm, Cửa Đại. Theo cách tiếp cận tổng giá trị kinh tế của hệ sinh thái thì thiệt hại môi trường do sự cố tràn dầu gây ra tại khu vực này bao gồm: Thiệt hại đối với nhóm giá trị sử dụng trực tiếp; Thiệt hại đối với nhóm giá trị sử dụng gián tiếp; Thiệt hại đối với nhóm giá trị lựa chọn; Thiệt hại đối với nhóm giá trị phi sử dụng.  Thiệt hại đối với nhóm giá trị sử dụng trực tiếp Giá trị sử dụng trực tiếp của các hệ sinh thái khu vực Cù Lao Chàm và Cửa Đại là giá trị hàng hoá, sản phẩm mà các hệ sinh thái đó cung cấp như cá, tôm, cua, ốc, ngao, vẹm... được trao đổi, buôn bán trên thị trường và giá trị giải trí (du lịch). Thiệt hại đối với nhóm giá trị này bao gồm năng suất của các loài thuỷ hải sản bị suy giảm, điều này tác động đến doanh thu ngành thuỷ sản. Bên cạnh đó là việc khách du lịch bỏ tour, hoãn tour hoặc suy giảm về số lượng. Thiệt hại đối với giá trị sử dụng gián tiếp Hệ sinh thái biển (san hô, cỏ biển, rừng ngập mặn,...) cung cấp rất nhiều dịch vụ quan trọng hỗ trợ cho đời sống và hoạt động sản xuất của người dân ven biển. Đối với khu vực Cù Lao Chàm và Cửa Đại, một số dịch vụ chính mà các hệ sinh thái ở đây mang lại là chống xói lở bờ biển do gió bão và nước biển dâng, tăng bồi tụ trầm tích mở mang đất đai và là nơi cư trú và sinh sản của các loài sinh vật ven biển... Thiệt hại đối với nhóm giá trị sử dụng gián tiếp là sự suy giảm dịch vụ chức năng của hệ sinh thái do xói lở bờ biển, giảm bồi tụ trầm tích cửa sông, mất nơi cư trú và sinh sản của sinh vật... Thiệt hại đối với giá trị lựa chọn Giá trị lựa chọn đối với hệ sinh thái khu vực Cù Lao Chàm và Cửa Đại là giá trị sử dụng tiềm năng trong tương lai của nguồn tài nguyên thuộc hệ sinh thái hoặc là giá trị tương lai của nguồn thông tin. Đây là giá trị do nhận thức, lựa chọn của con người đặt ra đối với mỗi hệ sinh thái và giá trị này không có tính thống nhất chung và cũng phải được tính về mặt tiền tệ theo tính chất lựa chọn của nó. Thiệt hại đối với giá trị phi sử dụng Như chúng ta đã biết giá trị sử dụng của hệ sinh thái liên quan đến việc sử dụng trực tiếp hoặc gián tiếp hàng hoá, dịch vụ mà hệ sinh thái cung cấp. Trong khi đó giá trị phi sử dụng lại là giá trị hiện tại hoặc tương lai của nguồn tài nguyên dựa trên sự tồn tại chứ không dựa trên việc sử dụng chúng. Giá trị phi sử dụng của hệ sinh thái khu vực Cù Lao Chàm, Cửa Đại bao gồm giá trị đa dạng sinh học, giá trị văn hoá, giá trị tuỳ thuộc... Việc làm suy giảm hoặc mất đi các giá trị nói trên chính là thiệt hại đối với giá trị phi sử dụng khu vực Cù Lao Chàm, Cửa Đại. Xác định dạng thiệt hại môi trường tại khu vực Cù Lao Chàm, Cửa Đại (Quảng Nam) Tác động môi trường chính mà sự cố tràn dầu tháng 1/2007 gây ra tại khu vực Cù Lao Chàm và Cửa Đại là tác động đối các hệ sinh thái ven biển khu vực này. Để đánh giá được đầy đủ thiệt hại môi trường cần phải thu thập thông tin về tổn thất đối với các nhóm giá trị đã trình bày ở phần 3.1.1. Tuy nhiên, do hạn chế về tài chính, thời gian và nguồn số liệu nên đề tài chỉ lựa chọn trong mỗi nhóm giá trị một đại diện để tính thiệt hại. Cụ thể : Đối với nhóm giá trị sử dụng trực tiếp, kết quả điều tra không cung cấp năng suất của các loài thuỷ hải sản cũng như giá trị du lịch trước và sau khi có sự cố tràn dầu diễn ra. Vậy để đánh giá được thiệt hại đối với giá trị sử dụng trực tiếp, đề tài dựa vào số liệu về thu nhập giảm của các đối tượng đánh bắt ven bờ - đây là đối tượng chịu tác động lớn nhất của sự cố tràn dầu tại khu vực biển Quảng Nam. Tương tự đối với giá trị du lịch, chuyên đề chỉ tính thiệt hại do thu nhập của các khách sạn bị giảm đi do sự cố tràn dầu (phía cung du lịch) chứ không tính được thiệt hại đối với khách du lịch (phía cầu du lịch). Đối với nhóm giá trị sử dụng gián tiếp, đề tài đánh giá thiệt hại đối chức năng của hệ sinh thái do sự cố tràn dầu tác động làm mất nơi cư trú của các sinh vật ven biển. Đối với nhóm giá trị phi sử dụng, do các hệ sinh thái ven biển khu vực Cù Lao Chàm và Cửa Đại bị tác động làm suy giảm đa dạng sinh học nên thiệt hại chính đối với nhóm giá trị phi sử dụng là thiệt hại về đa dạng sinh học. Các dạng thiệt hại được tóm tắt ở bảng sau: Bảng 3.1 : Dạng thiệt hại môi trường do dự cố tràn dầu tại khu vực Cù Lao Chàm và Cửa Đại Giá trị Dạng thiệt hại Giá trị sử dụng trực tiếp (C1) Giảm thu nhập của đối tượng đánh bắt ven bờ (D1) Giảm thu nhập của các khách sạn khu du lịch (K1) Giá trị sử dụng gián tiếp (C2) Chi phí thay thế san hô (S) Chi phí thay thế cỏ biển (B) Giá trị phi sử dụng (C3) Suy giảm đa dạng sinh học Nguồn: Tác giả tự xử lý (2008) Thông tin liên quan Cách tiếp cận tổng giá trị kinh tế cho ta một cái nhìn rất rõ ràng về thiệt hại đối với từng nhóm giá trị của các hệ sinh thái môi trường ven biển. Tuy nhiên, do các tác động môi trường diễn ra trong khoảng thời gian khác nhau nên thiệt hại cũng khác nhau về mức độ và thời gian kéo dài. Trong trường hợp nghiên cứu này, thiệt hại do giảm thu nhập của đối tượng đánh bắt ven bờ là khác nhau. Trong quá trình điều tra các đối tượng này được hỏi là thu nhập của anh/chị giảm đi bao nhiêu? trong thời gian bao lâu? do sự cố tràn dầu. Kết quả điều tra cho thấy thời gian giảm thu nhập tối đa là 12 tháng và tối thiểu là 2 tháng. Dù vậy thì những thiệt hại này cũng được tính cho cùng thời điểm xảy ra sự cố là năm 2007. Tương tự với đối tượng là khách sạn khu du lịch. Số lượng khách hoãn đặt phòng và trả phòng sớm hơn dự kiến nhiều nhất vào tháng 2, tháng 3 và tháng 4 năm 2007; vì vậy coi thiệt hại đối với đối tượng khách sạn chỉ diễn ra vào thời điểm năm 2007. Thiệt hại đối với giá trị sử dụng gián tiếp chỉ tính đối với hệ sinh thái san hô, cỏ biển, còn rừng ngập mặn khu vực này có diện tích rất nhỏ nên giả thiết là chịu tác động không đáng kể. Để khôi phục lại nơi cư trú của sinh vật ven biển cần trồng lại san hô, cỏ biển. Công việc này đòi hỏi một thời gian dài và khác nhau đối với mỗi loại. Với san hô, phải mất 10 năm sau khi trồng nó mới khôi phục được chức năng như ban đầu và với cỏ biển là 3 năm. Trong chuyên đề này, giả thiết được đặt ra là việc trồng lại diễn ra ngay trong năm 2007 và chi phí vận hành hàng năm cũng được quy về cùng thời điểm. Việc phục hồi lại đa dạng sinh học cùng đòi hỏi một khoảng thời gian khá dài. Trong trường hợp nghiên này, việc đánh giá thiệt hại đối với giá trị phi sử dụng dựa trên sự sẵn lòng đóng góp cho quỹ bảo tồn đa dạng sinh học. Người dân được yêu cầu đóng góp một lần để phục hồi lại đa dạng sinh học nên tổng giá trị mà họ chi trả chính là tổng thiệt hại đối với giá trị phi sử dụng của hệ sinh thái ven biển. ĐÁNH GIÁ THIỆT HẠI MÔI TRƯỜNG Mỗi thành phần trong tổng giá trị kinh tế của hệ sinh thái đều có thể dùng nhiều phương pháp để lượng hoá chúng. Tuy nhiên, dựa vào phân tích ở trên cũng như điều kiện về nguồn số liệu, đề tài lựa chọn những phương pháp sau cho tính toán thiệt hại : Thiệt hại đối với nhóm giá trị sử dụng trực tiếp (C1) Phương pháp lượng giá Như đã phân tích ở trên, với trường hợp nghiên cứu này, thiệt hại đối với giá trị sử dụng trực tiếp là thiệt hại trong thu nhập của các đối tượng đánh bắt ven bờ, và thu nhập giảm đi của khách sạn, nhà nghỉ (cung du lịch.). C1 = D1 + K1 D1: thu nhập giảm đi của lực lượng đánh bắt ven bờ (toàn khu vực); K1: thu nhập giảm đi của các khách sạn (toàn khu vực). Tính D1: D1 = Với Nvenbo: Số hộ đánh bắt ven bờ có thu nhập giảm (của tổng thể). nvenbo : Số hộ đánh bắt ven bờ có thu nhập giảm (của mẫu). : Tổng thu nhập giảm của các hộ đánh bắt ven bờ (của mẫu). Số hộ tổng thể (toàn khu vực Cù Lao Chàm, Cửa Đại) là N = 3000 (hộ) Tính K1 Thu nhập của các khách sạn giảm đi do 2 lý do chính: khách huỷ đặt phòng và khách trả phòng trước dự kiến. Theo như điều tra, sự cố tràn dầu tác động đến các khách sạn khu du lịch trong 3 tháng: tháng 2, tháng 3 và tháng 4. Trong số 15 khách sạn của mẫu, chỉ có 8 khách sạn, nhà nghỉ được điều tra là có khách hủy và trả phòng trong 3 tháng: 2, 3, 4 (đây là thời gian chịu ảnh hưởng nhiều nhất do sự cố tràn dầu). Tính toán thiệt hại của khu vực khách sạn (chỉ xét trường hợp khách hủy đặt phòng và trả phòng trước sự kiến) theo công thức sau: K1 = Trong đó: NKS: Số khách sạn bị hủy đặt phòng và trả phòng sớm (của tổng thể). NKS = = 38 (khách sạn) nKS: Số khách sạn bị hủy đặt phòng và trả phòng sớm (của mẫu): nKS = 8 (khách sạn) - : Tổng thiệt hại do các khách sạn bị hủy, trả phòng (của mẫu). = ( x x ) + ( x x ) : Số phòng bị hủy của khách sạn i; : Số phòng bị trả trước dự kiến của khách sạn i; : Số ngày bị hủy (trung bình); : Số ngày bị trả (trung bình) : Giá mỗi phòng (trung bình) của khách sạn i. Kết quả Tính D1 Theo kết quả điều tra, trong 300 hộ của mẫu, số hộ đánh bắt hải sản tự nhiên ven bờ là 93 hộ, trong đó chỉ có 28 hộ có thu nhập giảm do tràn dầu, ta có: nvenbo = 28 (hộ). Theo đó, ta cũng tính được số hộ đánh bắt ven bờ có thu nhập giảm của tổng thể: Nvenbo = = 280 (hộ) Theo tính toán, tổng thu nhập giảm đi của các hộ đánh bắt ven bờ là: = 39.912.500 (đồng). Suy ra, thu nhập giảm đi của lực lượng đánh bắt ven bờ toàn khu vực là: D1 = = 390.912.500 (đồng). Tính K1 Dựa vào công thức trên, quá trình tính toán cho kết quả như sau: Bảng 3.2: Thiệt hại của các khách sạn do khách hủy đặt phòng và trả phòng sớm. Tên Khách Sạn Loại Khách Số phòng bị hủy Tổng số phòng bị huỷ/trả Giá phòng (nghìn đồng) Số ngày TB Thiệt hại (nghìn đồng ) Tháng 2 Tháng 3 Tháng 4 USD -VND Exchange = 16 Victoria Hoi An Khách huỷ phòng Nội địa 0 0 1 23 $219 VND 3,504 5 402,960 Quốc tế 7 5 10 Khách trả phòng sớm Nội địa 0 0 2 22 3 231,264 Quốc tế 5 4 11 Hội an Beach Resort Khách huỷ phòng Nội địa 9 10 7 126 $150 VND 2,400 5 1,512,000 Quốc tế 25 40 35 Khách trả phòng sớm Nội địa 9 10 7 45 3 309,600 Quốc tế 4 6 7 Họa My Khách huỷ phòng Nội địa 0 0 0 6 $180 VND 2,880 5 86,400 Quốc tế 2 2 2 Khách trả phòng sớm Nội địa 0 0 0 6 3 51,840 Quốc tế 2 2 2 Vĩnh Hưng Khách huỷ phòng Nội địa 2 1 1 30 $180 VND 2,880 5 432,000 Quốc tế 2 2 22 Khách trả phòng sớm Nội địa 1 1 1 8 3 69,120 Quốc tế 2 2 1 Nhà khách thành ủy Hội An Khách huỷ phòng Nội địa 0 0 0 0 $150 VND 2,400 5 0 Quốc tế 0 0 0 Khách trả phòng sớm Nội địa 20 10 30 60 3 432,000 Quốc tế 0 0 0 Thiên Nga Khách huỷ phòng Nội địa 0 0 0 0 $20 VND 320 5 0 Quốc tế 0 0 0 Khách trả phòng sớm Nội địa 1 2 0 9 3 8,640 Quốc tế 2 1 3 Cửa Đại Khách huỷ phòng Nội địa 0 0 0 18 $40 VND 640 5 57,600 Quốc tế 6 6 6 Khách trả phòng sớm Nội địa 0 0 0 3 3 5,760 Quốc tế 1 1 1 Đồng Khánh Khách huỷ phòng Nội địa 0 0 0 48 $200 VND 3,200 5 768,000 Quốc tế 0 0 48 Khách trả phòng sớm Nội địa 0 0 0 0 3 0 Quốc tế 0 0 0 Nguồn: Đại học kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội (2008) Suy ra, = 4.367.184 (nghìn đồng) hay 4.367.184.000 (đồng) K1 = = 20.744.124.000 (đồng) C1 = D1 + K1 = 390.912.500 + 20.744.124.000 = 21.135.036.500 (đồng) Vậy thiệt hại đối với giá trị sử dụng trực tiếp của hệ sinh thái khu vực Cù Lao Chàm và Cửa Đại là : 21.135.036.500 (đồng) Thiệt hại đối với giá trị sử dụng gián tiếp (C2) Phương pháp lượng giá Phương pháp chi phí thay thế được sử dụng để lượng giá thiệt hại môi trường tại khu vực Cù Lao Chàm và Cửa Đại do sự cố tràn dầu tháng 1/2007 gây ra. Chi phí thay thế bao gồm chi phí trồng lại san hô và chi phí trồng lại cỏ biển. Bảng 3.3 : Dữ liệu đầu vào để tính chi phí thay thế đối với san hô và cỏ biển San hô Cỏ biển USD VNĐ USD VNĐ Chi phí đầu tư ban đầu (chi phí mua và trồng mới) 18.000/ha 99.630.000/ha 250.000/ha 1.303.750.000/ha Chi phí vận hành hàng năm (chi phí chăm sóc) 1.800/ha/năm 9.963.000/ha/năm 25.000/ha/năm 130.375.000/ha/năm Diện tích cần trồng lại 13,5ha 60ha Số năm phục hồi 10 năm 3 năm Tỷ lệ chiết khấu 12,0 %/năm Nguồn: IMER, 12/2007 Với 1 USD = 5,535 VNĐ (PPP, Huệ - 2005) Ta có công thức tính chi phí trồng lại san hô: S = S0 + x 13,5 Trong đó: S0: Chi phí đầu tư ban đầu Si: Chi phí vận hành hằng năm (= 10% S0) Công thức tính chi phí trồng lại 1 ha cỏ biển: B = B0 + x 60 Trong đó: B0: Chi phí đầu tư ban đầu Bj: Chi phí vận hành hàng năm (= 10% B0) Kết quả Chi phí trồng lại san hô (S) Chi phí đầu tư ban đầu S0 = 99.630.000 VNĐ/ha Chi phí vận hành hàng năm đối với 1 ha san hô được biểu diễn theo sơ đồ sau: Hình 3.1: Dòng chi phí vận hành hàng năm đối với 1 ha san hô 7.901.466.6 VNĐ 2008 2016 2007 2010 2009 Năm 9.963.000 VNĐ 8.895.535,7 VNĐ 7.942.442,6 VNĐ 3.207.819,36 VNĐ …… …… …….. …… …… …….. = 63.048.352,68/ha Như vậy để phục hồi lại hệ sinh thái san hô cần trồng lại 1125ha san hô với chi phí trồng lại là S = (99.630.000 + 63.048.352,68) x 13,5 = 2.196.157.761,18 VNĐ Chi phí trồng lại cỏ biển (B) Chi phí đầu tư ban đầu B0 = 1.303.750.000 VNĐ/ha Chi phí vận hành hàng năm: Hình 3.2: Dòng chi phí vận hành hàng năm đối với cỏ biển 2007 2009 2008 130.375.000 VNĐ Năm 116.406.250 VNĐ 103.934.151,8 VNĐ = 350.715.401,8VNĐ/ha Như vậy để phục hồi lại hệ sinh thái cỏ biển cần trồng lại 60ha cỏ biển bị chết với chi phí trồng lại là: B = (1.303.750.000 + 350.715.401,8) x 60 = 99.267.924.108 VNĐ Suy ra, thiệt hại đối với giá trị sử dụng gián tiếp là C2 = S + B = 2,196,157,761.18 + 99.267.924.108 = 101,464,081,869.18 VNĐ Thiệt hại đối với giá trị phi sử dụng (C3). Thiệt hại đối với giá trị phi sử dụng chính là giá trị bị mất đi do suy giảm tính đa dạng sinh học của hệ sinh thái. Khoản tiền để khôi phục lại sự đa dạng sinh học của khu vực, đồng thời khắc phục và đề phòng những sự cố tương tự xảy ra chính là khoản thiệt hại đối với giá trị phi sử dụng khu vực chịu tác động của dầu tràn. Phương pháp lượng giá Chọn mẫu và điều tra Việc chọn mẫu tại điểm khảo sát theo phương pháp chọn ngẫu nhiên, sử dụng danh sách hộ gia đình do chính quyền địa phương cung cấp, chọn bước nhảy (khoảng 1/10) lấy tên hộ cần điều tra: Phường Cẩm An 100 hộ Phường Cửa Đại 100 hộ Xã Cẩm Thanh là 50 hộ Cù lao Chàm 50 hộ (chọn ngẫu nhiên tại 4 thôn gồm: bãi Hương, bãi Làng, thôn Cấm, thôn Bãi Ông). Như vậy tổng mẫu điều tra là 300 hộ trên 3000 hộ của tổng thể. Thu thập thông tin qua bảng hỏi. Phần đánh giá trị phi sử dụng trong bảng hỏi được bắt đầu bằng đoạn mô tả những giá trị phi sử dụng của hệ sinh thái của khu vực Cù Lao Chàm và Cửa Đại đang chịu những tác động của vụ tràn dầu tháng 1/2007. Điều tra viên sẽ đọc cho người dân những thông tin sau: “Theo các nhà khoa học, Cù lao Chàm có 135 loài san hô, trong đó có 6 loài lần đầu tiên ghi nhận ở vùng biển Việt Nam. Cù lao Chàm cũng có 947 loài sinh vật sống trên các vùng nước quanh đảo, trong đó có 178 loài sinh vật biển, hơn 50 loại cá, 56 loài thân mềm như ốc, ngọc trai, nhiều loại nằm trong sách đỏ của Việt Nam. Sự cố dầu tràn Tháng 1/2007 đã ảnh hưởng lớn tới đời sống kinh tế xã hội của người dân tại Cửa Đại và Cù Lao Chàm, giảm năng suất đánh bắt, nuôi trồng thủy hải sản, gây thiệt hại nặng nề cho các hoạt động du lịch, có ảnh hưởng tiêu cực tới đa dạng sinh học, hệ sinh thái san hô và cỏ biển của khu vực.” Sau đó, một tình huống giả định được đưa ra là địa phương sẽ xây dựng một Quỹ bảo tồn trong đó huy động sự tham gia đóng góp về tài chính của người dân nhằm phục hồi lại sự đa dạng sinh học của khu vực sau sự cố dầu tràn, khắc phục và đề phòng những sự cố tương tự xảy ra. Khoản tài chính này sẽ được sử dụng hoàn toàn với mục đích bảo tồn và phục hồi lại toàn bộ hiện trạng giá trị đa dạng sinh học tại khu vực Cửa Đại/Cù Lao Chàm như trước khi xảy ra sự cố. Bằng cách hỏi người dân sẵn lòng đóng góp tiền ở mức nào sẽ cho phép tìm ra tổng WTP để bảo tồn đa dạng sinh học. Đây chính là giá trị mất đi do suy giảm đa dạng sinh học hay chính là thiệt hại đối với các giá trị phi sử dụng. Phần thứ ba trong bảng hỏi liên quan đến phần giá trị phi sử dụng là thông tin về cá nhân người được hỏi, bao gồm tuổi, giới tính, trình độ học vấn, nghề nghiệp, nhân khẩu, thu nhập. (Trường hợp này các thông tin về người được hỏi nằm trong phần đầu bảng hỏi). Đây đều là những yếu tố ảnh hưởng đến WTP của người được hỏi. Chúng sẽ được đưa vào hàm hồi quy, bằng phần mềm SPSS để phân tích tác động của các yếu tố đến WTP của người dân. Quy trình tính toán và phân tích: Tất cả thông tin thu thập được đều được nhập vào một worksheet của Excel. Các quy trình tính toán sẽ được thực hiện bằng công cụ Excel và SPSS. Tính tổng WTP: =N x Trong đó: N: Tổng số hộ của mẫu. N = 3000 (hộ). : Mức sẵn lòng chi trả trung bình của mẫu. = WTPi x pi WTPi: Mức sẵn lòng đóng góp i (bidi); pi : Xác suất lựa chọn mức giá i. Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến WTP: Bảng 3.4: Các yếu tố có thể ảnh hưởng đên mức sẵn lòng chi trả (WTP) Các yếu tố ảnh hưởng Mô tả 1. Thu nhập (I) Thu nhập được xem là yếu tố ảnh hưởng lớn nhất đến mức sẵn lòng chi trả (đóng góp) của người được hỏi. Khi thu nhập cao hơn thông thường mọi người sẽ chi trả nhiều hơn cho hàng hóa, dịch vụ môi trường 2. Trình độ học vấn (E) Khi trình độ học vấn cao, mọi người có nhận thức tốt hơn về tác động của dầu tràn cũng như giá trị của hàng hóa, dịch vụ môi trường nên họ có xu hướng chi trả nhiều hơn. 3. Giới tính (G) Theo lý thuyết thì mức sẵn lòng chi trả của nam thường cao hơn của nữ. 4. Tuổi (A) Nghề nghiệp và tuối tác ảnh hưởng không rõ ràng đến WTP do chịu nhiều sự chi phối của các yếu tố khác như thu nhập hay trình độ học vấn 5. Nghề nghiệp (O) 6. Nhân khẩu (D) Người được hỏi đại diện cho gia đình để đưa ra mức sẵn lòng chi trả nên cũng ảnh hưởng nhiều bởi các yếu tố khác. Ví dụ gia đình đông người nhưng thu nhập thấp thì có thể chi trả ít hơn gia đình ít người nhưng có thu nhập cao… Từ bảng trên, ta có mô hình phương trình WTP như sau: WTP = a0 + a1G + a2E + a3O + a4A + a5D + a6I Trong đó: a0: hệ số chặn a1, a2, a3, a4, a5, a6 : hệ số hồi quy. Kết quả WTP của mẫu Kết quả điều tra cho thấy trong 300 hộ được điều tra có 20 hộ đưa ra câu trả lời Protest bids, như vậy chỉ có 280 hộ đưa ra các mức giá từ 0 đến 100.000 với xác suất lựa chọn các mức giá như sau: WTPi 0 5.000 10.000 15.000 20.000 25.000 30.000 3.5000 40.000 50.000 100.000 pi (%) 7.5 9.29 29.29 5.36 18.21 3.21 8.57 0.36 2.5 12.14 3.57 Từ đây, ta tính được = 2.198.214,29 (đồng/hộ) Hồi quy WTP theo các biến giải thích: Sử dụng SPSS cho 6 dãy dữ liệu: WTP (biến phụ thuộc), A, G, E, I, O, D (biến độc lập). Mức ý nghĩa chọn là 90%. Kết quả thu được như sau: Model Summary Model R Square Adjusted R Square Std. Error of the Estimate 1 .49 .203 18732.283 a Predictors: (Constant), thu nhap, nghe nghiep, tuoi, nhan khau, gioi tinh, trinh do gd ANOVA(b) Model Sum of Squares df Mean Square F Sig. 1 Regression 13597604507.237 6 2266267417.873 6.458 .000(a) Residual 97549763913.816 278 350898431.345 Total 111147368421.053 284 a Predictors: (Constant), thu nhap, nghe nghiep, tuoi, nhan khau, gioi tinh, trinh do gd b Dependent Variable: san long chi tra Coefficients(a) Model Unstandardized Coefficients Standardized Coefficients t Sig. B Std. Error Beta B Std. Error 1 (Constant) 16506.404 8354.477 1.976 .049 gioi tinh -1887.310 2676.167 -.043 -.705 .038 trinh do gd 1948.368 1480.583 .088 1.316 .043 nghe nghiep -540.203 344.244 -.094 -1.569 .118 tuoi -58.265 106.528 -.035 -.547 .585 nhan khau 467.842 722.704 -.037 -.647 .074 thu nhap .002 .000 .299 5.064 .000 Dependent Variable: san long chi tra Các nhân tố ảnh hưởng đến WTP được biểu diễn trong hàm sau: WTP = 16506,4 + (-188,3)G + 1948,37E + (-540,2)O + + (-58,3)A + 467,8D + 0,002I Dựa vào bảng kết quả, ta đưa ra một số nhận xét như sau: P- value của F - Statistic = 0.000 < mức ý nghĩa, vì vậy hàm trên là hoàn toàn phù hợp. R2 = 0,49 tức là các biến độc lập giải thích được khoảng 49% sự biến động của biến phụ thuộc (WTP). P – value của các nhân tố I (thu nhập theo tháng), G (giới tính), E (trình độ học vấn) và D (nhân khẩu) đều nhỏ hơn mức ý nghĩa. Do vậy, các yếu tố này được xem là ảnh hưởng có nghĩa đến WTP của người được hỏi. Đặc biệt, P – value của I bằng 0.000 nhỏ hơn rất nhiều so với mức ý nghĩa chứng tỏ thu nhập ảnh hưởng rất lớn đến WTP. P – value của tuổi (A), nghề nghiệp (O) lớn hơn mức ý nghĩa. Điều này kết luận là tuổi và nghề nghiệp của người được hỏi ảnh hưởng không có ý nghĩa đến WTP của họ. Hệ số chặn bằng 16506.4 chứng tỏ: nếu A, E, I, D, O đều bằng 0 thì WTP vẫn giữ ở mức là 16.506 đồng. Điều này cho thấy hẳn là có một số những nhân tố khác cũng chi phối WTP (theo chiều thuận) làm cho nó cao hơn mức bình thường, ví dụ như thái độ của người đó với môi trường, sở thích, công việc… Hệ số của nhân khẩu và thu nhập cùng dấu với WTP nên hai nhân tố này có ảnh hưởng thuận chiều lên WTP. Nếu nhân khẩu trong gia đình tăng hoặc thu nhập hộ gia đình tăng thì WTP cũng tăng và ngược lại. Dấu hệ số của giới tính ngược chiều với dấu của WTP, (do trong tính toán code nam = 0, nữ = 1), điều này cho thấy, nam giới có mức sẵn lòng chi trả cao hơn nữ giới. Và trung bình một nam giới trả cao hơn nữ giới 188,3 đồng. a2 = 1948,37 được giải thích là khi trình độ học vấn tăng lên một bậc (ví dụ như từ Trung học cơ sở lên Trung học phổ thông/Trung học chuyên nghiệp) thì WTP tăng lên 1948,37 đồng. a5 = 467,8 nghĩa là khi hộ gia đình nhiều hơn một người thì mức sẵn lòng chi trả của họ tăng lên 467,8 đồng. a6 = 0.002 cho thấy thu nhập tăng thêm 1đồng/tháng thì WTP tăng 0.002 đồng, có nghĩa là để WTP tăng thêm khoảng 1000 đồng thì thu nhập của người đó phải tăng thêm 500.000 đồng/tháng. Tổng WTP Từ kết quả tính toán trên, mức sẵn lòng chi trả của toàn khu vực Cù Lao Chàm, Cửa Đại sẽ là: = 3.000 x 2.198.214,29 = 6.594.642.857,14 (VNĐ) Như vậy, thiệt hại đối giá trị phi sử dụng khu vực Cù Lao Chàm, Cửa Đại là: C3 = 6.594.642.857,14 (VNĐ) Bảng 3.5: Tổng hợp thiệt hại môi trường do ô nhiễm dầu tại khu vực Cù Lao Chàm, Cửa Đại Giá trị Thiệt hại (VNĐ) Giá trị sử dụng trực tiếp (C1) 21.135.036.500 Giá trị sử dụng gián tiếp (C2) 101,464,081,869.18 Giá trị phi sử dụng (C3) 6.594.642.857,14 Tổng 129.193.761.226,32 Tổng thiệt hại môi trường do ô nhiễm dầu tràn tại khu vực Cù Lao Chàm, Cửa Đại. Xét cơ cấu ba dạng thiệt hại đối với ba nhóm giá trị hệ sinh thái khu vực Cù Lao Chàm, Cửa Đại ta thu được kết quả như hình 3.1. Trong đó, thiệt hại đối với giá trị sử dụng gián tiếp là lớn nhất, chiếm 79% tổng giá trị (do giá cỏ biển và san hô rất lớn), còn thiệt hại đối với giá trị phi sử dụng chiếm ít nhất là 5% tổng thiệt hại môi trường (điều này có thể giải thích là vì phụ thuộc phần lớn vào thu thập nên mức sẵn lòng chi trả của người dân thấp). CHƯƠNG IV: KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP KIẾN NGHỊ Tổng thiệt hại môi trường mà đề tài đưa ra là xấp xỉ 130 tỷ VNĐ, đây là một con số không hề nhỏ. Uỷ ban Quốc gia Tìm kiếm Cứu nạn đã thống kê tổng chí phí ứng phó, thu gom, xử lý, và thiệt hại về kinh tế, môi trường do ô nhiễm dầu tràn cho 20 tỉnh trong đợt tràn dầu kéo dài từ 28/1 đến 4/5 năm ngoái ước tính là 213.179.966.000 đồng. Trong đó: Kinh phí ứng phó, thu gom, vận chuyển và xử lý là 8.606.692.000 đồng Thiệt hại về kinh tế và môi trường là 204.573.304.000 đồng gồm: + Thiệt hại về thuỷ sản: 138.002.250.000 đồng + Thiệt hại về du lịch: 58.829.249.000 đồng + Thiệt hại về nông nghiệp: 3.398.650.000 đồng + Thiệt hại về sức khoẻ cộng đồng: 34.085.000 đồng + Thiệt hại về môi trường: 4.238.400.000 đồng + Thiệt hại khác: 70.670.000 đồng Nếu lấy con số mà đề tài tính toán được làm đại diện về thiệt hại môi trường cho tỉnh Quảng Nam thì nó cũng lớn hơn tổng chi phí cho 20 tỉnh mà cơ quan này thống kê (213.179.966.000 đồng) và gấp khoảng 7,5 lần con số thiệt hại về môi trường (4.3238.400.000 đồng). Như vậy nếu lượng giá đầy đủ, thì riêng thiệt hại môi trường không thôi cũng là con số rất đáng kể. Từ đó thấy được các giá trị mà hàng hoá, dịch vụ môi trường cung cấp là rất lớn. Do đó, phải đánh giá đầy đủ thiệt hại để giúp nhà nước có được những quyết định về chính sách đúng đắn. Sự cố tràn dầu diễn ra vào đầu tháng 1/2007, nhưng đến tháng 1/2008 mới có một cuộc khảo sát được Viện Tài nguyên Môi trường biển và trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc Gia Hà Nội tiến hành. Số liệu về tác động cũng như thiệt hại môi trường, do đó, không được thu thập một cách đầy đủ, gây khó khăn trong việc lượng giá. Vì vậy, cần phải tiến hành điều tra, đánh giá thiệt hại của tràn dầu ngay sau khi sự cố xảy ra. Bên cạnh đó phải tiến hành theo dõi liên tục, định kỳ để đánh giá tác động lâu dài của ô nhiễm dầu tràn. GIẢI PHÁP Thiệt hại chung từ ô nhiễm dầu tràn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, trong đó không chỉ có các yếu tố như tính chất, mức độ của sự cố, mà còn do năng lực về thể chế, chính sách, tổ chức, kỹ thật, về tài chính, truyền thông hay hợp tác quốc tế...Vì vậy để hạn chế đến mức tối đa thiệt hại của tràn dầu, để xây dựng được cơ chế đền bù, gắn trách nhiệm sau sự cố thì cần phải kết hợp các giải pháp sau: Giải pháp về mặt thể chế, chính sách Hiện nay, Việt Nam mới đưa ra được các văn bản pháp luật liên quan đến công tác ngăn ngừa và ứng phó với sự cố tràn dầu. Cần phải hoàn thiện hơn nữa khung chính sách bao gồm cả việc lượng giá đầy đủ thiệt hại về kinh tế, xã hội và môi trường để có cơ chế đền bù thoả đáng đối với các đối tượng chịu tác động và đưa ra các quyết định sách hợp lý khác. Giải pháp về mặt tổ chức và quản lý Về mặt tổ chức, nhà nước ta đã có nhiều cố gắng trong tổ chức và quản lý các sự cố liên quan đến bảo vệ môi trường biển và dầu tràn, như đã thành lập Uỷ ban quốc gia về Tìm kiếm và Cứu nạn, đã xây dựng 3 trung tâm cứu hộ dầu đặt ở 3 miền Bắc, Trung, Nam với đầu đủ trang thiết bị kỹ thuật nhằm đảm bảo giải quyết sự cố kịp thời và hiệu quả nhất. Tuy nhiên cần bổ sung các tổ chức có khả năng: Quan trắc để phát hiện kịp thời sự cố khi đám dầu còn ở xa bờ và dự báo khả năng lan truyền để có biện pháp ứng cứu kịp thời Thu thập mẫu vật môi trường tự nhiên và sinh học biển nhằm đánh giá tác động thiệt hại kịp thời ngay khi xảy ra sự cố. Các tổ chức có chức năng bảo vệ và phục hồi nguồn lợi cũng cần được huy động đầy đủ và rộng rãi hơn nữa nhằm cứu hộ, thậm chí di chuyển kịp thờicác loài quý hiếm đi lơi khác. Cơ quan có năng lực về lượng giá đầy đủ nguồn tài nguyên, thiên nhiên để đánh giá chính xác nhất tổng thiệt hại do sự cố tràn dầu Giải pháp về mặt kỹ thuật Để thực hiện tốt các giải pháp phòng tránh và khắc phục sự cố, các phương tiện kỹ thuật sau cần sẵn sàng: Phao quây chống lan (Boom) Bơm hút (skimmer) Tàu cứu hộ (oilspill response vessels) Tàu chứa dầu (tank vessels) Xe téc chứa dầu (Vaccuum Trucks/Trailers) Kho bãi di động (portable storage) Các bơm hút vận chuyển khác (Product tranfer pump) Đội cứu hộ (personels) Trực thăng (helicopter) Nếu công tác ngăn ngừa, khắc phục sự cố được tiến hành hiệu quả sẽ giúp giảm bớt tác động của tràn dầu lên môi trường, các hoạt động kinh tế, xã hội của con người và qua đó, giảm được thiệt hại mà sự cố gây ra. Giải pháp truyền thông Tuyên truyền tác hại của dầu tràn lên các lĩnh vực kinh tế và sinh thái biển nhằm nâng cao nhận thức của cộng đồng góp phần ngăn ngừa tối đa các tai nạn và huy động được tối đa lực lượng ứng cứu và giải quyết sự cố. Việc bảo vệ môi trường, phòng chống thiên tai, sự cố (như tràn dầu) chính là bảo vệ lợi ích kinh tế của các tổ chức kinh tế và cộng đồng dân cư. Vì vậy, cần thường xuyên có công tác tuyên truyền, kêu gọi để nhận được sự đóng góp tối đa về kinh phí, nhân lực từ cộng đồng để sẵn sàng phòng tránh, ứng cứu và khắc phục sự cố. Giải pháp tài chính Thiết lập các quỹ thường trực từ các nguồn ngân sách, tài trợ, đóng góp, thuế môi trường, các khoản phạt từ các vụ vi phạm... để có thể giải quyết khẩn cấp các hoạt động ứng cứu cấp bách sau sự cố. Ngoài ra, nguồn tài chính cần được cung cấp kịp thời, đúng việc để các hoạt động ứng cứu, xử lý, quan trắc và thu thập mẫu đánh giá tác động lên các HST biển đạt hiệu quả tốt nhất. Như trong đề tài đã phân tích, mức thu nhập ảnh hưởng rất có ý nghĩa đến mức sẵn lòng chi trả của người dân để phục hồi môi trường nên việc lập quỹ với mức đóng góp khác nhau sẽ đạt được kết quả tốt phục vụ cho việc khắc phục sự cố tràn dầu. Giải pháp hợp tác quốc tế Cần mở rộng hợp tác quốc tế để thu thập kinh nghiệm cũng như các giải pháp kỹ thuật mới nhất trong phòng tránh và khắc phục sự cố tràn dầu. Ngoài ra, hợp tác quốc tế còn nhằm trao đổi các thông tin từ hệ thống vệ tinh, từ các trạm quan trắc xuyên biên giới về các yếu tố môi trường và sinh thái, và các thông tin về sự cố xuất phát từ ngoài quốc gia và có thể gây ảnh hưởng xuyên biên giới. KẾT LUẬN Tràn dầu là một vấn đề môi trường hết sức nghiêm trọng trên quy mô toàn cầu, ở tất cả các nước có biển trong đó có Việt Nam. Tác hại của tràn dầu đã được biết đến rất nhiều do sự thiệt hại của các ngành kinh tế biển liên quan đến dầu như vận chuyển, khai thác, du lịch, dịch vụ và chi phí làm sạch môi trường,...Tuy vậy, chúng ta chưa có một quy trình ứng xử phù hợp với điều kiện Việt Nam. Nhiều vụ việc còn chưa xác định được nguyên nhân, chủ thể gây ô nhiễm cũng như việc tiến hành đền bù còn rất hạn chế. Việc đánh giá thiệt hại không đầy đủ sẽ dẫn đến những quyết định sai trong phân bổ nguồn lực của các cơ quan có trách nhiệm. Đề tài được tiến hành dựa trên cơ sở lý thuyết kinh tế môi trường và kinh nghiệm các nước, đã cố gắng đưa ra những ước tính sơ bộ về thiệt hại môi trường do tác động của tràn dầu. Tuy nhiên, do hạn chế về năng lực, thời gian và tài chính, nên đề tài có một số hạn chế như đề tài mới chỉ lượng giá được thiệt hại đối với các khách sạn, còn nhiều loại hình dịch vụ du lịch khác chưa được tính tới do không đủ dữ liệu. Mới tính được tiệt hại phía cung du lịch, bỏ qua những lợi ích bị mất đi của khách du lịch - cầu du lịch (Giá trị này có thể rất đáng kể nếu tính toán đầy đủ). Tuy nhiên kết quả hy vọng là sẽ có ích cho các phân tích sau này. Tài liệu tham khảo Tài liệu tiếng Việt Barry Field & Nancy Olewiler. ‘Kinh tế môi trường’ GS. TS Đặng Như Toàn, PGS Nguyễn Thế Chinh, Lê Trọng Hoa, ‘Bài giảng Kinh tế môi trường’, Khoa Kinh tế - Quản lý Môi trường và Đô thị, trường Đại học Kinh tế quốc dân, 1998 PGS. TS. Nguyễn Thế Chinh, ‘Giáo trình Kinh tế và quản lý môi trường’. NXB Thống kê, 2003 Trần Ngọc Vũ, ‘Hướng dẫn sử dụng SPSS’ ‘Báo cáo tình hình thực hiện phát triển kinh tế - xã hội năm 2007 và định hướng phát triển năm 2008’, UBND tỉnh Quảng Nam, 2007 ‘Báo cáo tổng hợp về tình hình diễn biến sự cố tràn dầu trôi dạt vào bờ tại bờ biển các tỉnh miền Trung, miền Nam Việt Nam từ cuối thang 1/2007 đến nay’, Uỷ ban quốc gia Tìm kiếm Cứu Nạn 2007 ‘Kết quả khảo sát tác động của dầu tràn tại tỉnh Quảng Nam’, Viện Tài nguyên Môi trường biển Hải Phòng 2007 ‘Kỷ yếu hội thảo khoa học’, Hội bảo vệ thiên nhiên và môi trường Việt Nam, ĐH Kinh tế Quốc dân, Mạng lưới giáo dục môi trường Việt Nam. ‘Niên giám thống kê Quảng Nam năm 2005’. Chi cục Thống kê Quảng Nam Tài liệu tiếng Anh Andrea Bigano, Mariaester Cassinelli, Anil Markandya, Fabio Sferra, ‘Risk Aversion, Lay Risk Assessment and Oil Spill Externalities’ Bill Mundy, MAI, PhD, and David McLean, ‘Using the Contingent Value Approach for Natural Resource and Environmental Damage Applications’, NOAA Edward B Barrier, Mike Acreman and Duncan Knowler, ‘Economic Valuation of wetlands’, IUCN 1997 François Bonnieux, ‘Economic assessment of market & non-market damages of oil spills’, Unite D’economie Et Sociologie Rurales I.C. White và F.C. Molloy, ‘Factors that determine the cost of oil spills’, The International Tanker Owners Pollution Federation Limited, 2003 Katherine Bolt, Giovanni Ruta, Maria Sarraf, ‘Estimating the cost of environmental degradation’, The World Bank 2005 Loureiro, M. L., J.B. Loomis and M.X. Vázquez, ‘Estimating the Non-Market Environmental Damages caused by the Prestige Oil Spill’, IDEGA-Universidade de Santiago de Compostela, 2007 Mark Sanctuary, Jonas Fejes, ‘What’s missing from measures of Oil Spill Damages?’, Swedish Environmental Research Institute 2006 Panay & Guimaras, ‘A discussion guide on oil spill disaster 2006’, 2006 Richard T. Carson, Robert C. Mitchell, Micheal Hanemann, Raymond J. Kopp, Stanley Pressers và Paul A. Ruud3, ‘Contingent Valuation and Lost - Passive Use: Damages from the Exxon Valdez Oil Spill’, Kluwer Academic Publishers. 2003 Sara Sundberg, ‘Replacement costs as economic values of environmental change: A review and an application to Swedish sea trout habitats’, Beijer International Institute of Ecological Economics, The Royal Swedish Academy of Sciences ‘Financial consequences of oil spills’, International Oil Pollution Compensation Funds, 2006 ‘Introduction to environmental economic valuation and its relationship to environmental impact assessment’, Environmental Protection Agency –Queensland Parks and Wildlife Services ‘Oil spill effects on fisheries’, ITOPF ‘Prestige oil spill –Who foots the bill?’ Friends of the Earth 2002 ‘Techniques for environmental economic valuation’, Environmental Protection Agency – Queensland Parks and Wildlife Services Các trang web PHỤ LỤC 1. Các hình ảnh về hoạt động làm sạch dầu trôi dạt vào ven biển các tỉnh miền Trung 2. Thiệt hại đối với môi trường Chim biển bị dính dầu Động vật biển bị chết Hệ sinh thái biển bị tác động 3. Thiệt hại đối với kinh tế 4. Một sô thiết bị ứng phó cần thiết Phao quây Thiết bị hút dầu Chất làm phân tán dầu

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28498.doc
Tài liệu liên quan