Chuyên đề Vai trò của di dân trong vấn đề giải quyết việc làm ở tỉnh Thanh Hoá

Trong điều kiện nước ta đang thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì vấn đề di dân đến các khu vực khác trong nước và quốc tế vẫn còn tiếp tục diễn ra mạnh mẽ. Đây là quy luật về cung cầu lao động, chúng ta không thể ngăn cản luồng di dân này được. Nhưng có thể tạo ra những luồng di dân “hiệu quả” thông qua việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đẩy mạnh thông tin thị trường lao động đề người di dân có thể có sự lựa chọn chính xác hơn về nơi nhập cư. Đứng trên góc độ vĩ mô, Nhà nước cần tối đa hoá lợi ích từ di dân mang lại và tránh được những hậu quả tiềm tàng rất nguy hại của nó. Chúng ta phải đặt ra câu hỏi là làm thế nào để việc di dân trở thành một trò chơi “tất cả các bên cùng thắng”.

doc56 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1796 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Vai trò của di dân trong vấn đề giải quyết việc làm ở tỉnh Thanh Hoá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u bổ. Với những thành tựu trên lao động trong ngành công nghiệp- dịch vụ ngày càng tăng lên một cách nhanh chóng từ 192.260 người năm 2001 đến 357.741 người năm 2007, chiếm 17% tổng số lao động đang làm việc trong nền kinh tế. a3. Dịch vụ: Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của ngành dịch vụ là 10%/ năm. Với một địa hình dọc theo bờ biển dài hơn 1.200 km, Thanh hoá có tiềm năng về khai thác du lịch biển. Các điểm du lịch nổi tiếng như: Sầm Sơn, Hàm Rồng, Bến En, khu di tích Lam Kinh, thành Nhà Hồ, suối cá thần Cẩm Lương, động Từ Thức…đã thu hút được nhiều lao động có việc làm trực tiếp và gián tiếp, nâng tổng số lao động trong ngành dịch vụ lên 357.741 người chiếm 17% tổng số lao động trong nền kinh tế. Các chương trình hỗ trợ giải quyết việc làm. b1. Chương trình xuất khẩu lao đồng. Tỉnh Thanh Hoá được Bộ Lao động- TBXH đánh giá là tỉnh đứng thứ hai về xuất khẩu lao động. Các thị trường xuất khẩu chính như: Malaysia, Đài Loan, Hàn Quốc,Trung Đông…Trong giai đoạn 2001- 2005 tỉnh đã đưa được 14.984 người, phấn đấu trong giai đoạn 2006- 2010 tỉnh đưa thêm 50.000 người. Có thể nói, công tác xuất khẩu lao động đã được tỉnh quan tâm, khuyến kích, tạo điều kiện thông thoáng cho các doanh nghiệp xuất khẩu lao động. Số tiền mà người tham gia xuất khẩu lao động gửi về tiếp tục tham gia vào đầu tư phát triển kinh tế, tạo việc làm, xoá đói giảm nghèo. b2. Chương trình vay vốn giải quyết việc làm. Trong điều kiện kinh tế thị trường, cơ hội tìm kiến việc làm trở nên khó khăn hơn đối với những đối tượng yếu thế: Lao động nữ, lao động tàn tật, lao động bị thu hồi đất nông nghiệp, lao động dân tộc thiểu số, lao nông thôn. Do đó nhóm đối tượng này cần được sự hỗ trợ của Nhà nước và cộng đồng để tạo việc làm. Trong đó có hỗ trợ về vốn vay từ Quỹ giải quyết việc làm. Trong những năm qua Quỹ hỗ trợ giải quyêt việc làm đã cho vay hơn 3.500 dự án, giải quyết việc làm mới cho hàng chục ngàn lao động, với tổng kinh phí cho vay trong giai đoạn 2006- 2010 là 1.284.000 triệu đồng. Các lĩnh vực cho vay chủ yếu là: Ngành nghề tiểu thủ công nghiệp (chiếm tới 40% tổng số vốn cho vay), chăn nuôi… b3. Một số chương trình khác. - Đào tạo nghề: Nhằm nâng cao khả năng tự tạo việc làm, tự tìm việc làm cho người lao động, ưu tiên hỗ trợ dạy nghề cho lao động dân tộc thiểu số, lao động nông thôn, lao động người tàn tật. - Phát triển mạnh thị trường lao động: Nhằm cung cấp các thông tin, tư vấn, giới thiệu việc làm cho người lao động. Hoặc các hội trợ việc làm hàng năm góp phần đa dạng hoá thị trường lao động Bảng 2.3: Giải quyết việc làm mới theo hiệu quả của các chương trình Chỉ tiêu Phát triển kinh tế- xã hội (người) Xuất khẩu lao động (người) Quỹ hỗ trợ giải quyết việc làm (người) Tỷ lệ thất nghiệp thành thị (%) Tỷ lệ sử dụng thời gian LĐ ở nông thôn (%) 2001 28.079 421 7.500 6,12 75,15 2002 26.115 1.995 8.390 6,01 75,26 2003 24.441 4.059 9.000 5,7 75,7 2004 24.661 4.589 9.300 5,27 76,5 2005 27.970 3.920 9.810 4,98 77,52 2006 29.500 8.000 7.500 4,85 78,5 2007 30.500 9.000 7.500 4,75 80,4 Nguồn:- Sở Lao động- TBXH. - Báo cáo các huyện, thị xã, thành phố. 2.3.1.2. Thất nghiệp. Tỷ lệ thất nghiệp thành thị có xu hướng giảm xuống và tỷ lệ thời gian lao động ở khu vực nông thôn có xu hướng tăng lên. Mức thất nghiệp năm 2007 là 4,75 thấp hơn so với mức trung bình của cả nước (phấn đấu năm 2010 đạt mức thất nghiệp < 5%). Để đạt được những thành tựu trên là do có rất nhiều nguyên nhân, trong đó sự chỉ đạo của các cấp uỷ đảng, chính quyền, đoàn thể đối với công tác lao động- việc làm. Ông cha ta đã từng nói “Nhàn cư vi bất thiện”, hơn nữa có việc làm mới tạo ra thu nhập để cải thiện đời sống. Xuất phát từ tư tưởng đó, tỉnh đã xem giải quyết việc làm là vấn đề quan trọng để thực hiện các mục tiêu khác. Tuy nhiên, trên thực tê ở tỉnh con số thất nghiệp còn thấp hơn và tỷ lệ thời gian lao động ở nông thôn cao hơn. Nội lực phát triển của tỉnh chỉ giải quyết được 70% nhu cầu việc làm, số còn lại một phần di cư ra các vùng khác để làm ăn. Đối tượng di cư chủ yếu là người nông dânà nguồn lực sản xuất trên đầu người tăng một cách tương đốià Tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn tăng lên. Bắc Trung Bộ là vùng có tỷ lệ di cư đến các khu vực khác cao nhất trong cả nước. Đây chủ yếu là luồng di cư tự do nên việc quản lý là rất khó khăn vì nó không chỉ liên quan đến khu vực xuất cư mà còn ảnh hưởng đến nơi nhập cư. 2.3.1.3. Các nguyên nhân dẫn đến di cư. Xét ở tầm vi mô, di cư xảy ra do sự khác biệt về những cơ hội giữa nơi đi và nơi đến. Một người có di cư hay không phụ thuộc vào việc các hệ thống xã hội liên kết các vùng thuộc nơi đi và nơi đến và các cơ hội có phù hợp với họ hay không. Biết được các lý do di cư có thể giúp cho việc xây dựng các chính sách tác động đến di cư. Có rất nhiều lý do dẫn đến di cư như: Tìm được việc làm hay việc làm tốt hơn ở nơi ở mới, cải thiện đời sống, đi học, gần người thân, không hợp với nơi ở cũ, kết hôn… Nhưng tóm lại có hai nhóm nguyên nhân là: Nhóm nguyên nhân về kinh tế và nhóm nguyên nhân về tinh thần. Trong đó nguyên nhân về kinh tế là chủ yếu. Theo một cuộc điều tra về di cư ở Thanh hoá, thì có khoảng 70% số người được hỏi trả lời nguyên nhân di dân là do nơi ở cũ họ không tìm được việc hoặc có việc nhưng mức lương quá thấp không đủ nuôi bản thân. Trong khi đó, nơi nhập cư lại dễ dàng tìm kiếm được một công việc với mức lương khá, có dư gửi về cho gia đình. Thanh hoá là tỉnh có dân số đông, diện tích đất nông nghiệp ít (chiếm khoảng 14% tổng diện tích đất), mức thu nhập bình quân đầu người thấp 480- 520 USD/năm. Ngược lại, ở các thành phố lớn như: Hà Nội, Thanh phố Hố Chí Minh, các khu công nghiệp đang thiếu lao động nhưng mức thu nhập lại cao hơn. Chính những yếu tố trên đã tạo ra lực đẩy từ nơi đi và lực hút từ nơi đến để có quyết định di dân. Ngoài ra, nhóm yếu tố về tinh thần: Không hợp nơi ở cũ, muốn cải thiện môi trường sống, kết hôn, gần người thân, quan niệm…cũng góp phần tạo nên nguồn di cư này. Thanh hoá là vùng có khí hậu khắc nghiệt, mùa hè rất nóng và mùa đông cũng rất lạnh, thiên tai thường xuyên xảy ra nên có một số người quyết định di dân đến một vùng đất mới có điều kiện tự nhiên thuận lợi hơn. Hoặc một số người lao động nông thôn trẻ tuổi quan niệm rằng “địa chủ nhà quê không bằng ngồi lê thành phố”. Đặc điểm của di dân. Nghiên cứu nắm bắt được các đặc điểm của người di dân là rất quan trọng trong việc hoạt định chính sách di dân. Qua nghiên cứu về đặc điểm di chúng ta biết được đa phần người di dân thuộc độ tuổi nào, trình độ, giới tính… từ đó nắm bắt được những mặt tích cực, tiêu cực và giúp cho việc hoạt định chính sách. Trình độ, độ tuổi, giới tính. Đa phần những người di cư là người trẻ, trong độ tuổi từ 15- 34 tuổi chiếm 90% tổng số dân di cư. Trong cuộc điều tra về di dân năm 2004 của Tỉnh Thanh Hoá có số liệu như sau. Bảng 2.4: Độ tuổi, giới tính của người di cư trong năm 2004. Đơn vị: người Tuổi Nhập cư Xuất cư Di cư thuần Nam Nữ Tổng 0- 4 27 20 15 35 8 5- 9 32 37 21 58 26 10- 14 230 233 354 587 357 15- 19 469 1.417 1.316 2.733 2.264 20- 24 1.161 3.720 1.881 5.601 4.440 25- 29 978 500 632 1.132 154 30- 34 735 537 320 857 122 35- 39 284 293 118 411 127 40- 44 192 72 75 147 - 45 45-49 75 32 36 68 - 7 50- 54 63 21 33 54 - 9 55- 59 72 46 32 78 6 60+ 94 57 52 109 15 Nguồn: - Tổng cục thống kê về điều tra di dân năm 2004. - Sở Lao động- TBXH tỉnh Thanh Hoá. Năm 2004 tổng mức di cư thuần 7.475 người, đứng đầu trong cả nước về số người di cư. Trong đó, xuất khẩu lao động là 4.589 người, di cư theo chủ trương của nhà nước ra các đảo là 234 người, còn lại là di dân tự phát 2.652 người. Những người di dân là những người trẻ, có sức khoẻ, trình độ học vấn và trình độ tay nghề nói chung là thấp, nam di cư nhiều hơn nữ. Nhìn vào bảng số liệu ta thấy có đến 80% số người di dân nằm từ độ tuổi 15- 30 tuổi. Số người từ độ tuổi 0- 19 tuổi chiếm 30%, đây là độ tuổi học sinh đang học phổ thông. Như vậy, đa phần những người di cư là những người có trình độ học vấn thấp, kéo theo trình độ chuyên môn, kỹ thuật, tay nghề cũng không cao. Các nghề chính mà người di cư làm là: Công nhân trong các doanh nghiệp tư nhân, thợ xây dựng, giúp việc gia đình, bốc vác cửu vạn, đánh giầy, bán báo, bán vé số…đây là những công việc đơn giản. Và hậu quả là công việc thường không ổn định. Địa điểm di cư. Rất phong phú và đa dạng, bao gồm 64 tỉnh, thành trong cả nước. Theo một cuộc điều tra của Tổng cục thống kê về “ảnh hưởng của di dân đến sức khoẻ” thì nguồn hiểu biết của những người di cư về nơi nhập cư chủ yếu thông qua bạn bè hoặc người thân giới thiệu. Điều này phản ánh một thực trạng là: Người di dân sẽ đến bất cứ vùng nào mà họ chắc rằng ở nơi đó thu nhập “dự kiến” cao hơn mức thu nhập hiện tại. Tuy nhiên, có 05 khu vực điển hình mà số người di cư chiếm tỷ lệ cao đó là: Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Khu kinh tế Đông Nam bộ (bao gồm Bình Dương, Đồng Nai), Khu kinh tế Đông Bắc ( gồm Quảng Ninh, Hải Phòng, Hải Dương), Tây Nguyên (gồm: Gia Lai, Đắc Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng). Số người di cư đến các khu vực có sự thay đổi theo thời gian. Trước kia, vào những năm 90, theo chủ trương của nhà nước di dân kinh tế mới và di dân ổn định biên giới thì số người di cư vào Tây Nguyên chiếm một tỷ lệ cao. Nhưng trong những năm gân đây, cơ chế thông thoáng, các khu công nghiệp ngày càng phát triển mạnh và mở rộng quy mô, cần một số lượng lớn lao động thì nơi đây đã trở thành điểm đến của đa số người di cư tự phát. Bảng 2.5: Số người di cư giữa các vùng trong năm. Đơn vị: Người Năm Xuất cư Xuất khẩu LĐ Nhập cư Tây Nguyên Hà Nội TP. Hồ Chí Minh KKT Đông Nam Bộ KKT Đông Bắc 2001 7.273 421 973 1.165 920 1.036 853 2002 8.941 1.995 720 959 1.075 944 1.112 2003 11.632 4.059 413 901 1.013 912 1.390 2004 11.569 4.589 406 854 1.795 1.375 1.013 2005 12.173 3.920 371 998 1.142 1.452 1.238 2006 16.200 10.000 351 865 1.313 1.661 1.316 Tổng 67.788 24.984 3.234 5.742 7.258 8.273 6.922 Nguồn: - Tổng cục Thống kê. - Cục Thống kê Thanh Hoá. Trình độ, giới tính của người di cư đến các vùng trên cũng khác nhau. Những người đến Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh thì có trình độ cao hơn so với các nơi khác, khoảng 30% đã tốt nghiệp phổ thông trung học. Đối tượng đến hai thành phố này bao gồm: Những người đang đi học hoặc đã học xong ở lại thành phố để làm việc, những người nông dân ra làm giúp việc, cửu vạn… Ngược lại, những người di cư đến Tây Nguyên có trình độ học vấn cũng như tay nghề thấp nhất trong 5 khu vực trên. Di cư đến khu vực này chủ yếu theo hình thức hộ gia đình, tức là cả gia đình cùng vào trong đó làm ăn sinh sống. Mức thu nhập giữa người di cư và người dân bản địa ở Tây Nguyên không có sự chênh lệch cao. Điều này khác hoàn toàn với Hà Nội và thành phố Hố Chí Minh, dân bản địa có mức thu nhập cao gấp 2-3 lần người di cư. Có sự khác biệt về giới tính giữa người đến vùng kinh tế Đông Nam Bộ và Đông Bắc. Đa số người di cư đến khu kinh tế Đông Nam Bộ là Nam, còn Đông Bắc là nữ. Điều này được giải thích do sự gần gũi về địa lý, Thanh Hoá gần khu kinh tế Đông Bắc hơn, hơn nữa nữ giới lại có xu hướng di chuyển đến những nơi gần. Về trình độ học vấn của người di cư Thanh Hoá đến hai khu công nghiệp này là như nhau, khoảng 85% tốt nghiệp tiểu học, 27% tốt nghiệp trung học. Thời gian cư trú. Nguyện vọng của đa số người di dân là: “Chỉ muốn kiếm thêm một chút tiền cho gia đình ở nông thôn chứ không có ý định ở đây lâu dài”. Bởi vì, phần lớn người di dân là những người nghèo, không có hoặc ít đất canh tác. Họ chỉ muốn đi làm trước hết là giúp đỡ gia đình, sau đó là kiếm ít vốn về làm ăn. Vì vậy, khoảng thời gian 5- 10 năm là thích hợp cho người di cư. Khi người di dân đến nơi cư trú mới họ gặp phải rất nhiều khó khăn về chỗ ở, đăng ký hộ khẩu, thái độ phân biệt của dân bản địa…Chính những khó khăn này đã dập tắt hy vọng muốn định cư tại vùng đất mới. Tuy nhiên, người di cư đến Tây Nguyên lại có sự khác biệt, do đặc thù riêng biệt của di cư vào vùng này theo hình thức cả gia đình, và chủ yếu là đi theo chủ trương của Nhà nước, những người di cư vào đây gặp ít khó khăn hơn trong việc đăng ký hộ khẩu, nên họ quyết định ở lại đây vĩnh viễn. Số người được ở lại vĩnh viễn tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh chỉ bao gồm người có trình độ cao, có mức lương cao hoặc những người mà người thân có nhà ở đây. Tuy vây, con số này rất ít. Trong cuộc điều tra về di dân của tỉnh năm 2004, mẫu được chọn để hỏi là 1000 người, những người này là di cư tự phát. Khi được hỏi họ sẽ quyết định ở đó trong bao lâu thì 69% trả lời rằng họ sẽ không ở một nơi cố định, nhưng thời gian đi làm ăn xa là khoảng 5- 10 năm; 9% trả lời là không có ý định quay trở về quê hương, tức là thời gian di cư là vĩnh viễn; 15% trả lời là họ sẽ đi xa trong vòng 2- 5 năm, đa số những người này là phụ nữ; số còn lại nói rằng họ không biết sẽ di cư trong bao lâu, tuỳ vào điều kiện. Con số này một lần nữa khẳng định: Người di cư luôn có xu hướng quay trở về quê hương để ổn định cuộc sống lâu dài. Một điều đáng chú ý ở đây, thời gian cư trú càng lâu thì trình độ học vấn, kỹ năng tay nghề, tác phong công việc, bản lĩnh… hay chất lượng nguồn nhân lực càng được nâng cao. Một câu mà ông cha hay nói “đi một ngày đàng, học một sàng khôn”. Đây là mặt tích cực của di cư, sau một thời gian cư trú, người di cư trở về quê với ít vốn và tay nghề để làm ăn. Hậu quả của di cư. Như đã biết, có rất nhiều hình thức di cư, theo đặc trưng của di cư thì có di cư theo tổ chức (ra biên giới, hải đảo hoặc xuất khẩu lao động) và di cư tự phát; theo khoảng cách di cư có di cư nông thôn- nông thôn (Thanh Hoá- Tây Nguyên), di cư nông thôn- thành thị (Thanh Hoá- Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh…). Tuỳ theo từng hình thức di cư mà hậu quả khác nhau. Những luồng di cư có tổ chức thường được Nhà nước cũng như chính quyền địa phương ở nơi nhập cư hỗ trợ về nhiều mặt: Đất sản xuất, hộ khẩu, tiếp cận với các dịch vụ y tế, tín dụng… Vì vậy, đối với bản thân họ cũng như đối với nơi đến và nơi đi gặp ít khó khăn hơn. Ngược lại, nguồn di cư tự phát thì tự bản thân người di cư phải lo liệu mọi mặt, đôi khi còn gặp phải sự xem thường của người dân gốc tại nơi cư trú. Nếu chúng ta chỉ xem xét di cư ở góc độ của nơi đến hay nơi đi thì chưa thấy hêt được tác động của di cư. Vì vậy, xét ở tầm vĩ mô di cư có những mặt tích cực và tiêu cực sau: Mặt tích cực. Đối với người di cư: Đầu tiên mà họ cảm nhận được lợi ích của việc di cư đó là có việc làm hoặc việc làm tốt hơn trước. Khoảng 92% số người di cư tìm được việc làm ở nơi nhập cư. Tuỳ theo trình độ, độ tuổi, giới tính mà người di cư có thể tìm được công việc phù hợp với bản thân. Những công việc chủ yếu mà người di cư Thanh Hoá làm là: Công nhân trong các các nhà máy cơ khí, dệt, bán hàng dong… Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh là nơi mà hầu hết những người chuyển đến cho rằng tình trạng công việc tốt hơn trước rất nhiều. Điều thứ hai mà người dư cư nhận được từ việc di cư là đời sống được cải thiện. Khoảng 75% người di cư cho rằng mức thu nhập của họ tăng lên so với khi không di cư. Mặc dù những công việc trên không tạo ra thu nhập cao nhưng so với ở nhà làm ruộng thì rất cao. Sự cải thiện về đời sống không chỉ dừng lại ở những người trực tiếp di dân mà còn có tác động tích cực đối với gia đình của họ ở quê thông qua tiền gửi về. Hàng tháng, hàng quý hoặc hàng năm thường có một lượng tiền tiết kiệm gửi về cho gia đình. Khoản tiền này chủ yếu để tiêu dùng cho lương thực, thực phẩm, các dịch vụ y tế… Số rất ít còn lại để tiết kiệm dưới dạng tiền mặt. Khoảng 59% người di cư cho rằng trình độ học vấn, kỹ năng nghề nghiệp được cải thiện hơn trước rất nhiều. Nhưng điều này lại không đúng với những người chuyển đến Tây Nguyên, phần lớn họ cho rằng không có cải thiện gì về cơ hội học tập. Một số điểm khác cũng được xem là mặt tích cực đối với người di cư như: Thoả mẵn chí tò mò ở một vùng đất hứa, thay đổi môi trường sống, giao lưu học hỏi văn hoá phong tục ở các vùng miền khác nhau… Đối với nơi nhập cư: Chúng ta xem xét ở hai góc độ, đó là khu vực đô thị ( Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh…) hoặc khu vực nông thôn (Tây Nguyên). Luồng di cư nông thôn- nông thôn đã góp phần phân bố lại lao động dân cư để khai thác tốt hơn các tiềm năng đất đai, rừng, mặt nước ven biển phục vụ cho phát triển kinh tế của đất nước và vùng lãnh thổ. Đáp ứng kịp thời nhu cầu lao động cho các nông lâm trường và các cơ sở sản xuất khác tại địa phương trong tháng thời vụ căng thẳng (thu hái cà phê, chè, cao su..). Đồng thời còn cung cấp một lực lượng đáng kể lao động là cán bộ quản lý, kỹ thuật cho địa phương nơi nhập cư (đặc biệt là những nơi đang quá thiếu lực lượng này). Đưa thêm ngành nghề mới đến nơi nhập cư, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Tất cả những điều trên đều có tác động trực tiếp đến việc thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội ở các địa phương nơi nhập cư. Ngoài ra, sự giao lưu hoà nhập về văn hoá giữa các cộng đồng dân tộc. Có nhiều ý kiến cho rằng, lao động di chuyển tự do vào thành phố tìm việc làm và đã làm tăng sức ép về việc làm ở thành phố. Người di cư vào thành phố có thể làm bất cứ công việc gì với giá thuê lao động thấp mà người lao động ở thành phố không muốn làm. Vì vậy, lao động nông thôn ra thành phố không thể gọi là tăng sức ép về việc làm ở thành phố. Tuy nhiên, luồng di cư này vẫn có ý nghĩa thúc đẩy sự cạnh tranh về việc làm. Lực lượng di cư đông đảo này vào thành phố đã xuất hiện một số nghề dịch vụ “bình dân” rẻ tiền, tạo thêm việc làm và nguồn thu nhập cho lực lượng tại chỗ đó như: Quán cơm “bình dân”, nhà trọ “bình dân”, dịch vụ cho thuê các phương tiện, dụng cụ hành nghề: Xích lô, xe đạp, quang gánh… một vài nơi xuất hiện dịch vụ gửi tiền thuê cho những người lao động trước khi họ trở về quê. Tóm lại, dù là nguồn di cư vào thành phố hay nông thôn thì nó cũng không làm tăng sức ép về việc làm mà còn cung cấp một lực lượng lao động trẻ, có sức khoẻ, chịu khó có thể làm nhiều việc nặng nhọc, vất vả với đồng lương ít hơnà Thúc đẩy phát triển kinh tế nơi nhập cư. Đối với nơi xuất cư: Mặt tích cực đầu tiên được nhắc đến là giảm áp lực về việc làm. Dân đông, đất đai ít, kém màu mỡ, nền kinh tế của tỉnh chưa đủ khả năng giải quyết việc làm cho người lao động, thì di dân là giải pháp mà người lao động “tự cứu mình”. Có việc làm sẽ có thu nhập cho bản thân và gia đình. Hiểu theo một cách khác, di dân giúp xoá đói giảm nghèo nơi xuất cư. Những đồng tiết kiệm gửi về không chỉ làm tăng tiêu dùng của gia đình mà đây còn là những khoản tiền giúp em út của họ lấy tiền ăn học. Như vậy, dù là nơi xuất cư hay nhập cư thì di dân đều có ý nghĩa thúc đấy sự phát triển kinh tế. Theo báo cáo của Tổng cục thống kê năm 2004 về “ảnh hưởng của di dân đến sức khoẻ” thì số người di dân vào thành phố Hà Nội đóng góp 9% GDP của thành phố. Mặt tiêu cực. Đối với người di cư: Khi đến một vùng đất mới họ gặp phải rất nhiều khó khăn; về chỗ ở, hộ khẩu, điện nước, thay đổi môi trường sống…Khoảng 65% người di cư trả lời rằng họ gặp khó khăn trong vấn đề nhà ở. Tỷ lệ người di cư đến Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh sống trong các ngôi nhà ổ chuột, bến xe, công viên hoặc một túp liều dựng lên từ chỗ đất bỏ hoang… là cao nhất. Họ cố gắng chọn chỗ ở rẻ nhất để tiết kiệm chi phí. Chính vì vậy, những ngôi nhà này có độ an toàn không cao, người di cư luôn gặp phải các mối nguy hiểm: Trộm cắp, nghiện hút… Vấn đề thứ hai là hộ khẩu, việc đăng ký hộ khẩu rất quan trọng đối với những người di cư đến Tây Nguyên, vì nó giúp dân nhập cư tiếp cận với các dịch vụ giáo dục, tín dụng, y tế một cách dễ dàng. Chỉ có khoảng 12% dân di cư là được đăng ký hộ khẩu. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do một phần người di cư không quan tâm đến chuyện này, họ có ý định về quê sinh sống; một phần do họ “không thuộc diện đăng ký”, đây chính là nguyên nhân cơ bản. Để thuộc diện đăng ký thì người di cư phải có đủ 03 điều kiện, thứ nhất có giấy phép tại nơi chuyển đi, thứ hai có việc làm ổn định tại nơi ở mới, thứ ba có nhà ở tại nơi ở mới. Điều kiện thứ ba là điều kiện khó thực hiện nhất, vì đa phần di cư là người nghèo lấy đâu ra tiền mà mua nhà. Tuy vậy, năm 2007 vừa qua chính phủ đã ban hành một quyết định mới đối với người nhập cư, chỉ cần có giấy xác nhận của cơ quan đang công tác trên một năm và có sự bảo lãnh của chủ nhà đang ở thì người di dân có thể đăng ký hộ khẩu. Dân đô thị thường có nhiều thành kiến với dân nhập cư và người lao động di cư từ nông thôn. Họ thường phải đối mặt với thái độ cố chấp và phân biệt đối sử của người thành phố. Họ bị coi là những kẻ “không có giáo dục”, không có tay nghề hoặc thậm chí là “không văn minh”, không biết gì về các thông lệ pháp luật, vệ sinh và quan trọng nhất họ bị coi là những kẻ có tiềm tàng trở thành tội phạm. Cũng không phủ nhận rằng điều này cũng đúng với một số đối tượng. Đối với nơi nhập cư: Khó khăn lớn nhất mà người di dân tự do gây ra đó là vấn đề quản lý nguồn di cư này. Thứ nhất, luồng di chuyển nông thôn- nông thôn, trong những năm 90 số người di cư đến Tây Nguyên tăng rất cao. Sự xuất hiện của dân di cư tự do đã gây xáo trộn nhiều vùng định cư của người dân sở tại. Người đến trước khoanh chiếm đất đai rồi bán lại làm giàu. Số hộ không biết làm ăn thì bán đất, di cư đến nơi khác tiếp tục phá rừng để làm nương rẫy. Gây nên tình trạng chặt phá rừng ồ ạt, ảnh hưởng xấu đến môi trường. Chỉ tính riêng Đắc Lắc diện tích rừng bị chặt phá trong thời gian 5 năm từ 1991- 1996 là 13.515,6 ha. Tình trạng nhập cư ồ ạt còn gây ra sự quá tải về cơ sở hạ tầng, các dịch vụ xã hội vượt quá khả năng đáp ứng của địa phương. Thứ hai, di chuyển tự do ra thành phố, lực lượng lao động này đã làm phức tạp thêm việc đảm bảo trật tự trị an. Đặc biệt số lao động ở các tụ điểm, các “chợ lao động”, họ chờ việc, ăn ngủ qua đêm, sinh hoạt hết sức tuỳ tiện và không cố định, làm mất mỹ quan thành phố, gây nên nhiều lộn xộn trên địa bàn. Ngoài ra họ còn không thông thạo luật lệ giao thông đường phố, không nắm vững những quy định hiện hành nên nhiều trường hợp gây ách tắc giao thông, hoặc thậm chí là tai nạn. Phần lớn, người di cư vào thành phố không có nghề nghiệp chuyên môn, không có nơi ở cố định, họ lang thang, di chuyển thường xuyên đến khắp nơi trong thành phố để tìm việc và làm việc. Họ dễ dàng mắc các tệ nạn xã hội và tội phạm. Đặc biệt là trẻ em lang thang là đối tượng dễ bị lôi kéo vào các tệ nạn xã hội nhất. Đối với nơi xuất cư: Người di cư tự do chuyển đi không khai báo tạm vắng cho chính quyền địa phương, gây khó khăn trong công tác quản lý dân cư và trật tự an ninh xã hội. Những người có sức khoẻ, trẻ đều di cư đi làm ăn xa, trong làng chỉ còn lại bà già, trẻ em, phụ nữ gây khó khăn trong công tác đoàn, các hoạt động văn hoá thể thao. Điều này đôi khi còn gây ra một sự phát triển không lành mạnh về tâm lý. Kết luận: Với những tác động tích cực, tiêu cực mà vấn đề di dân mang lại thì việc khuyến khích hoặc kìm hãm nguồn di dân này phải được xem xét đáng giá trên góc độ vĩ mô và phải được tiến hành một cách cụ thể: Nơi nào nên hay không nên khuyến khích người di dân đến? Cần có những chính sách gì để quản lý hiệu quả nguồn di dân này?... Điều này đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp chính quyền trong phạm vi cả nước. Chương 3: GIẢI PHÁP CHO VẤN ĐỀ DI DÂN VÀ VIỆC LÀM. 3.1. Quan điểm của tỉnh về di dân Xét trên phạm vi toàn quốc, việc lao động di chuyển từ vùng này đến vùng khác là do quy luật cung- cầu về thị trường lao động. Tức là, lao động sẽ chuyển từ nơi dư thừa lao động, giá công rẻ đến nơi thiếu lao động, giá công đắt hơn. Việc lao động di chuyển tự do từ nông thôn ra thành phố hoặc ra các vùng nông thôn khác là một quy luật tất yếu. Theo một nghiên cứu của tỉnh về vấn đề di cư năm 2004, thì tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở khu vực nông thôn là 76,5%, nhưng tỷ lệ này là 80,1% nếu tính cả nguồn di dân tự do. Vai trò của di dân đã được phân tích kỹ ở trên, giảm áp lực về việc làmà Tăng thu nhậpà Giúp xoá đói giảm nghèo. Như vậy, di dân vừa có tác động trực tiếp và gián tiếp đến việc thúc đẩy phát triển kinh tế. Trong giai đoạn trước mắt, với tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh là 10- 12,5%/năm, thì nội lực phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh chỉ giải quyết được 70% số lao động có nhu cầu việc làm, vì vậy nguồn lao động hiện nay vẫn tạo ra áp lực lớn về việc làm và di dân (bao gồm cả di dân chính thức và di dân tự phát) giúp tỉnh giải quyết việc làm. Đối với nguồn di dân chính thức: Xuất khẩu lao động, di dân theo chính sách của nhà nước thì tỉnh khuyến khích. Mặc dù công tác xuất lao động hiện nay đang gặp nhiều khó khăn do tình hình kinh tế, chính trị có nhiều biến động, một số thị trường chính như Malaysia thì lương thấp…nhưng tỉnh vẫn cố gắng hoàn thành mục tiêu đề ra (trong giai đoạn 2006- 2010 mỗi năm xuất khẩu 10.000 lao động). Đối với việc di dân theo chủ trương, chính sách Nhà nước hàng năm Chi cục di dân và phát triển vùng kinh tế mới vẫn thực hiện tốt các chỉ tiêu Nhà nước đề ra. Đặc biệt đối với luồng di dân tự do tỉnh đã đẩy mạnh phát triển nội lực, nhất là phát triển nông nghiệp nông thôn; tăng cường công tác giáo dục đào tạo nghề; phát triển thị trường lao động…nhằm tăng cường khả năng giải quyết việc làm tại chỗ cho người lao động. Và điều quan trọng hơn là để quản lý nguồn di dân tự do này hiệu quả cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp chính quyền với nhau cũng như các cấp chính quyền với các doanh nghiệp trong phạm vi cả nước. Các bên có liên quan thấy được lợi ích cũng như tác hại mà di cư mang lại, từ đó có những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của vấn đề di cư. Nhưng phối hợp như thế nào hay cách thức để tiến hành sao cho hiệu quả thì là vấn đề đang cần bàn. Trên thực tế đã có một vài mô hình có sự liên kết giữa các cấp chính quyền và các doanh nghiệp. Đó là các doanh nghiệp có nhu cầu về lao động họ sẽ đến tỉnh Thanh Hóa và trực tiếp tuyển chọn, thỏa thuận với người lao động về mức lương cũng như điều kiện làm việc, người lao động sẽ không mất chi phí khi vào làm việc cho các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp này sẽ cho xe ra đưa đón và thu xếp chỗ ở cho người lao động. Với cách làm này, chúng ta khắc phục được nhược điểm của di cư tự do. 3.2. Giải pháp Đẩy mạnh phát triển các ngành, các vùng kinh tế. Khoảng 67% người di cư tự do ở Thanh Hoá có nguồn gốc từ nông thôn. Như vậy, nông dân là đối tượng di cư tự do chính. Vì vậy, việc thúc đẩy phát triển nông nghiệp, nông thôn là giải pháp quan trọng để giải quyết việc làm, ổn định dân cư. Nông nghiệp- nông thôn. Cơ cấu lao động hiện nay của tỉnh là: Nông- Lâm- Ngư nghiệp: 65%, công nghiệp- xây dựng: 18%, dịch vụ: 17%. Vì vậy,cần xây dựng một chiến lược lâu dài về tạo việc làm cho lao động nông nghiệp- nông thôn. Mục tiêu của chiến lược là giải phóng mạnh mẽ các hình thức lao động đơn giản tạo thêm việc làm phi nông nghiệp; xem công tác khuyến nông khuyến ngư là yếu tố quan trọng trong chiến lược với việc hỗ trợ về kỹ thuật sản xuất, áp dụng các mô hình sản xuất mới. a. Đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp. Thực tế nhiều địa phương cho thấy việc đa dạng hoá và chuyển dịch cơ cấu cây trồng, con nuôi có giá trị kinh tế có đã không chỉ giúp tăng thu nhập cải thiện đời sống mà còn tạo thêm được nhiều việc làm mới cho người lao động cũng như rút ngắn khoảng thời gian nông nhàn. Chuyển dịch cơ cấu và đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp hướng vào việc khai thác tiềm năng, lợi thế so sánh của tỉnh. Với địa hình chủ yếu là đất đồi núi thì việc phát triển các cây công nghiệp: Mía, lạc, đậu tương… vừa cho năng suất cao lại cung cấp nguyên liệu cho ngành công nghiệp chế biến. Việc đa dạng hoá sản xuất nông- lâm- ngư nghiệp phải theo từng vùng sinh thái, đối với từng vùng dựa vào đặc điển tự nhiên, tình hình phát triển hiện tại mà có xu hướng chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá. Vùng đồng bằng và trung du: Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, quy hoạch các vùng lúa, vùng màu, rau quả tập trung, nâng cao giá trị trên đơn vị diện tích, tăng thu nhập trên tựng hộ; hình thành các vùng sản xuất hàng hoá tập trung có năng xuất cao, chất lượng cao gắn với công nghiệp chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Đẩy mạnh phát triển chăn nuôi, lựa chọn con nuôi phù hợp, có giá trị kinh tế cao theo hướng công nghiệp mô hình trang trại, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường tiêu thụ. Đẩy mạnh phát triển công nghiệp, ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ để thu hút lao động và việc làm. Vùng ven biển: Khai thác tốt mọi tiềm năng vùng để phát triển kinh tế biển, phát triển các ngành công nghiệp gắn với cảng nước sâu, du lịch biển, nông nghiệp, khai thác, nuôi trồng thuỷ sản và công nghiệp chế biến thuỷ hải sản. thực phẩm, phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ gắn với tiềm năng thế mạnh của vùng. Vùng đô thị: Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tăng trưởng kinh tế cao và bền vững, tạo sự hấp dẫn mới thu hút các nhà đầu tư xây dựng phát triển các cơ sở sản xuất kinh doanh, tạo ra nhiều việc làm cho lao động. Các khu đô thị tập trung như: Thành phố Thanh Hoá, khu kinh tế tổng hợp Nghi Sơn, đô thị Ngọc Lặc la các trung tâm kinh tế, văn hoá, xã hội đóng vai trò quan trọng của vùng về ứng dụng và chuyển giao các thành tựu khoa học công nghệ vào sản xuất, phát triển công nghiệp, dịch vụ; có tác dụng lan toả đến các thị trấn, thị tứ và các địa phương trong tỉnh nhằm phát triển kinh tế- xã hội thu hút nhiều lao động có việc làm. Vùng niềm núi: Thực hiện chương trình phát triển kinh tế- xã hội miền Tây theo Quyết định 253 của Thủ tướng Chính phủ. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tê, khai thác tiềm năng lợi thế so sánh của vùng để tạo ra đột phá về sản xuất hàng hoá nông, lâm nghiệp, công nghiệp, mở rộng các hoạt động dịch vụ. Phát triển các trang trại nông, lâm kết hợp, các vùng cây công nghiệp tập trung, chuyển giao theo hướng sản xuất hàng hoá. Tiếp tục thực hiện Chương trình 135, Quyết định 134, dự án 5 triệu ha rừng; ưu tiên các nguồn lực cho đẩu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội, giao thông, thuỷ lợi… b. Đẩy mạnh các hoạt động phi nông nghiệp ở nông thôn. Các hoạt động được gọi là phi nông nghiệp ở nông thôn bao gồm: Các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, các hoạt động chế biến nông- lâm- thuỷ sản, các dịch vụ nông thôn… Các làng nghề tiểu thủ công nghiệp: Khai thác và sử dụng có hiệu quả các tiềm năng và lợi thế so sánh về nguồn nguyên liệu tại chỗ sẵn có, nghề truyền thống của địa phương, thị trường có nhu cầu về loại sản phẩm đó, lao động rồi dào, giá nhân công thấp. Hiện tại một số nghề thủ công như: Thêu ren, hàng thủ công mỹ nghệ, các ngành nghề mây, tre đan…đang chiếm ưu thế và có lợi thế cạnh tranh của tỉnh. Tỉnh cũng đã có chính sách cho vay vốn hỗ trợ các làng nghề áp dụng công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất. Vấn đề quan trọng cho các làng nghề là thị trường đầu ra, thị trường đầu ra mà ổn định thì thu nhập của người nông dân được cải thiện và giải quyết được nhiều việc làm. Muốn sản phẩm có thể cạnh tranh được phải tận dụng lợi thế để giảm giá thành, đồng thời nâng cao độ tinh xảo trong mỗi sản phẩm làng nghề thủ công. Đẩy mạnh phát triển các hoạt động công nghiệp chế biến nông- lâm- thuỷ sản: Phát triển công nghiệp chế biến nông- lâm- thuỷ sản là yếu tố quan trọng không chỉ góp phần giải quyết việc làm cho số lao động trực tiếp tham gia vào hoạt động chế biến, mà khi sản phẩm chế biến có tính cạnh tranh caoà doanh nghiệp mở rộng sản xuấtà tăng nhu cầu đầu vàoà thúc đẩy ngành nông nghiệp sản xuất đầu vào phát triển, tức là góp phần giải quyết việc làm gián tiếp. Tại các nơi hình thành vùng trồng các cây công nghiệp như: Mía, dứa, lạc…Hoặc tại các khu nuôi trồng thuỷ sản, đánh bắt thuỷ sản thì cần phát triển các cơ sở chể biến quy mô lớn, hiện đại. Phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn. Đây là giải pháp lâu dài và hữu hiệu để thực hiện chủ trương tạo việc làm cho lao động ở nông thôn. Hiện nay số lượng các doanh nghiệp vừa và nhỏ có đăng ký hoạt động không nhiều, mà chủ yếu là kinh tế hộ không có đăng ký, điều này dẫn đến sự phát triển kinh tế hộ chưa được pháp lý bảo hộ, nên chưa đủ điều kiện phát huy hết tiềm năng phát triển kinh tế, tạo việc làm ở nông thôn. Để nhanh chóng mở rộng thêm số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn cần tạo điều kiện thuận lợi tối đa về mặt thủ tục để cơ sở sản xuất đăng ký thành lập doanh nghiệp một cách dễ dàng. Trên thực tế, các mô hình doanh nghiệp vừa và nhỏ hình thành ở nông thôn đã thu hút nhiều lao động ở nông thôn vào làm việc. Các doanh nghiệp này đã khai thác được thế mạnh của lao động nông thôn giá rẻ và người dân nông thôn rất cần cù chịu khó. Tuy nhiên, cũng có một hạn chế là trình độ lao động của dân nông thôn chưa cao, trình độ tổ chức quản lý doanh nghiệp còn yếu kém, đặc biện trong là hạn chế trong tiếp cận thông tin kinh tế, đánh giá thị trường và trong giao tiếp với bộ máy chính quyền sở tại để phát triển kinh doanh. Chính vì vậy rất cần sự hỗ trợ của nhà nước về công tác đào tạo tay nghề và quan trọng là trong việc tìm kiến thị trường xuất khẩu. 3.2.1.2. Ngành công nghiệp. Tiếp tục thu hút đầu tư không những về vốn mà còn khoa học công nghệ vào các khu đô thị tập trung: Thành phố Thanh Hoá, khu kinh tế tổng hợp Nghi Sơn, đô thị Ngọc Lặc… để nó có tác dụng lan toả đến các vùng khác. Đối với vùng núi và nông thôn cần có chính sách ưu đãi về thuế, hoặc doanh nghiệp và tỉnh cùng đầu tư để thúc đẩy phát triển các vùng khó khăn, tạo việc làm, tăng thu nhập. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, tỉnh cũng đã có nhiều chính sách ưu đãi đối với các doanh nghiệp đầu tư vào các vùng khó khăn như: Miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, chi phí đền bù giải phóng mặt bằng, hỗ trợ cho các doanh nghiệp… Nhưng khi các doanh nghiệp này đi thực hiện các hoạt động đầu tư thì việc thực hiện các chính sách ưu đãi của tỉnh như cam kết đã không thực hiện hoặc thực hiện không đúng như đã cam kết. Điều này đã làm thiệt hại đến các doanh nghiệp và điều quan trọng hơn là gây mất lòng tin của các doanh nghiệp đối với tỉnh. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, do bên phía doanh nghiệp, do bên phía tỉnh. Nhưng nó phản ánh năng lực các cán bộ của tỉnh trong việc hoạch định, thẩm định các dự án. Đây cũng là bài học kinh nghiệm. 3.2.1.3. Dịch vụ Đẩy mạnh phát triển các ngành kinh tế dịch vụ có tiềm năng, phát triển thị trường nội địa, hoà nhập thị trường khu vực và thế giới. Chuyển đổi mạnh cơ cấu hàng xuất khẩu theo hướng tăng tỷ trọng hàng nông, lâm, hải sản chế biến, đá ốp lát, đá mỹ nghệ, hàng công nghiệp tiêu dùng và tiểu thủ công nghiệp thu hút nhiều lao động. Khai thác tối đa thế mạnh du lịch của tỉnh như du lịch tắm biển, du lịch sinh thái, du lịch lịch sử- văn hoá và các loại hình du lịch khác, thực hiện liên doanh liên kết để xây dựng các tua du lịch trong và ngoài tỉnh. Đầu tư du lịch có trọng điển, có sản phẩm độc đáo. Để ngành du lịch của Thanh Hoá phát triển tương xứng với tiềm năng thì một yếu tố rất quan trọng là thái độ của cộng đồng người dân đối với khách du lịch (hay còn gọi là văn hóa du lịch). Nếu thái độ chúng ta đón tiếp một cách niềm nở, lịch sự, “vui lòng khách đến vừa lòng khách đi” thì số lượng khách quay lại và giới thiệu cho người khác sẽ là rất đông. Đảm bảo cho sự phát triển bền vững của du lịch Thanh Hoá. Du khách đi tắm biển đều thích đến Sầm Sơn tắm, vì ở đây có lợi thế hơn các vùng biển khác là sóng biển rất to. Tuy nhiên, khoảng 83% du khách sau khi đi nghỉ về đều nói rằng: Quang cảnh rất tuyệt vời, nhưng thái độ của cộng đồng dân cư đã làm cho họ mất hứng, nào là “ăn xin”, “bắt chẹt”, rồi tình trạng lôi kéo khách… và họ không có ý định quay trở lại. Nếu chúng ta không có những giải pháp để quản lý vấn đề này và nâng cao nhận thức, trách nhiệm của mỗi người dân về hành động của mình thì rất khó lòng để ngành du lịch Thanh Hoá trở thành ngành mũi nhọn của tỉnh. Có lẽ “ăn xin” đã trở thành “thương hiệu” khi nhắc tới Thanh Hoá. Vấn đề ở đây là họ “ăn xin” không phải vì quá nghèo, không có bất kỳ nguồn lực nào trong tay (sức khoẻ, đất đai…) mà là công việc này tạo ra thu nhập cao hơn lại không vất vả. Để giải quyết triệt để tình trạng này, chúng ta nên học mô hình của Nhật Bản. Ở Nhật Bản, bài học đầu tiên các em học là “Nhật Bản là một nước nghèo tài nguyên, vì vậy chúng ta không có cách nào khác là phải học”. Có lẽ, ngay từ khi các đang học mẫu giáo hoặc tiểu học chúng ta nên có những bài học thêm giáo dục cho các em nhận thức đúng đắn về vấn đề này. Đẩy mạnh chương trình xuất khẩu lao động Là một tỉnh còn nghèo, trong khi đó tỷ lệ tăng dân số lại cao thì xuất khẩu lao động là một hướng đi rất quan trọng trong vấn đề giải quyết việc làm và phát triển kinh tế xã hội của tỉnh. Số tiền hàng năm mà lao động xuất khẩu gửi về góp phần trực tiếp vào công cuộc xóa đói giảm nghèo, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội. Trong giai đoạn 2006- 2010 tỉnh phấn đấu mỗi năm đưa 10.000 người ra các nước. Thị trường chính là: Malaysia, Hàn Quốc, Trung Đông…Để thực hiện được mục tiêu trên tỉnh đã: - Rà soát, bổ sung các chính sách hỗ trợ đào tạo, giáo dục định hướng cho lao động đi xuất khẩu. - Khuyến khích, tạo điều kiện thông thoáng cho các doanh nghiệp xuất khẩu lao động mạnh, có uy tín tin cậy đối với người lao động tuyển chọn lao động trên địa bàn tỉnh đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. - Hướng cho lao động học các nghề mà thị trường cần như: Cơ khí, xây dựng, điện công nghiệp… để đi làm việc tại các nước phát triển, có thu nhập cao như: Nhật Bản, Hàn Quốc và các nước Tây Âu… - Nâng cao trách nhiệm và tăng cường hoạt động của Ban chỉ đạo xuất khẩu lao động từ tỉnh đến cơ sở; mở rộng và khai thác thị trường lao động, nhất là thị trường ổn định có thu nhập cao; đẩy mạnh công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức của nhân dân và người lao động về xuất khẩu lao động; đẩy mạnh xuất khẩu lao động trong giai đoạn hiện nay là bước đi vững chắc, đi nhanh để có việc làm, có thu nhập, thu nguồn ngoại tệ về làm giầu cho gia đình xã hội. - Lập Quỹ hỗ trợ xuất khẩu lao động để cho người lao động vay vốn đi làm việc ở nước ngoài và hỗ trợ chính sách cấp bù chênh lệch lãi suất cho đối tượng chính sách, hộ nghèo vay đi xuất khẩu lao động qua Ngân hàng chính sách xã hội. Quỹ xuất khẩu lao động được hình thành từ các nguồn: Ngân sách TW hỗ trợ hàng năm để cấp bù lãi xuất cho vay chênh lệch, trích ngân sách tỉnh, các doanh nghiệp, người lao động đóng góp. Trong những năm gần đây tình trạng lao động xuất khẩu sang các nước đặc biệt là thị trường Trung đông bị đuổi về ngày càng tăng do đánh nhau, không chấp hành nội quy lao động, gây rối mất trật tự hoặc tự ý chấm dứt hợp đồng lao động ra ngoài làm ăn; đã gây thiệt hại không chỉ cho người lao động mà còn ảnh hưởng đến uy tiến của quốc gia. Nguyên nhân chính là do đối tượng xuất khẩu lao động của tỉnh phần lớn xuất thân từ người nông dân, họ được gọi là những lao đông “03 không” (không nghề nghiệp, không ngoại ngữ, không ý thức và tác phong công nghiệp), sau khi đăng ký đi xuất khẩu lao động họ mới được học một khóa nghề và khóa ngoại ngữ cấp tốc. Trong khi đó vì chạy theo số lượng và thành tích mà không phải bất cứ doanh nghiệp nào cũng có thể đào tạo một cách bài bản cho người lao động, đấy là chưa kể đến các doanh nghiệp xuất khẩu lao động không có giấy phép hoạt động thì công tác đào tạo càng dễ dãi hơn. Điều này đã dẫn đến một tình trạng chất lượng nguồn lao động xuất khẩu kém, họ chưa có đủ kiến thức về chuyên môn tay nghề cũng như trình độ ngoại ngữ và đặc biệt là tác phong công nghiệp thì chưa bao giờ được làm quen. Để khắc phục tình trạng này, đầu tiên phải từ bỏ việc chạy theo số lượng mà quan trọng hơn là nâng cao chất lượng lao động xuất khẩu, tìm kiếm các thị trường có mức lương cao. 3.2.3. Mở rộng, nâng cao hiệu quả của các chương trình giáo dục, đào tạo nghề Khoảng 40% số người di dân tự do ở Thanh Hoá là trong độ tuổi từ 0- 19 tuổi. Đây là độ tuổi mà các em đang học phổ thông, con số này chiếm 10% trong tổng dân số Thanh Hoá từ độ tuổi 0- 19 tuổi. Như vậy, Thanh Hoá đang phải đối mặt với việc giải quyết việc làm cho một nguồn lao động đông nhưng chất lượng kém. Một giải pháp vừa nhằm ổn định dân cư, vừa nâng cao chất lượng nguồn lao động là tạo điều kiện cho các em học tập. Nhưng đa phần những người di cư là những người nghèo, không có điều kiện để học hành nên họ mới bỏ học sớm để đi làm kiếm tiền giúp đỡ gia đình. Bắc Trung Bộ được đánh giá là khu vực có tỷ lệ nghèo lớn thứ hai trong cả nước sau Tây Bắc, năm 2007 tỷ lệ nghèo của Thanh Hoá là 27,02%, đây là con số vẫn còn rất cao. Nó giống như một cái vòng luẩn quẩn: Nghèoà di cư tự doà bỏ họcà chất lượng nguồn nhân lực kémà thất nghiệp hoặc có việc nhưng lương thấpà nghèo. Để phá vòng luẩn quẩn này cần nâng cao hiệu quả của các chương trình xoá đói giảm nghèo: Chương trình 134, Chương trình 135, chương trình vay vốn và tín dụng ưu đãi phát triển sản xuất giảm nghèo, các chương trình khuyến học, chương trình khuyến nông…và đặc biệt cần có sự quan tâm, quyết tâm của các cấp chính quyền trong công tác xoá đói giảm nghèo. Về đào tạo nghề, hiện nay tỷ lệ lao động qua đào tạo của tỉnh là 31% trong đó 20,3% là đào tạo nghề (năm 2007). Đào tạo nghề nhằm nâng cao khả năng tự tạo việc làm và tự tìm việc làm cho người lao động. Nhưng trên thực tế, con số qua đào tạo có thể có được việc làm là rất ít. Nguyên nhân chính là các ngành đào tạo ra không gắn với nhu cầu tuyển dụng của các doanh nghiệp, hoặc không gắn với thực tế đến người lao động có thể tự tạo việc, hay nói cách khác là cơ cấu đào tạo không gắn với thị trường. Đây là yếu kém trong công tác đào tạo nghề không chỉ đối với riêng tỉnh Thanh Hoá mà là tình trạng chung trong cả nước. Cơ sở vật trang bị cho thực hành còn yếu kém, đội ngũ giáo viên còn thiếu kinh nghiện thực tế sản xuất, dẫn đến chất lượng đào tạo thấp. Một phần là do mức học phí và lệ phí, với mức học phí hiện nay thì các cơ sở dạy nghề chỉ bảo đảm hoạt động thường xuyên, chưa đảm bảo trang trải chi phí cẩn thiết và không thể có tích luỹ đầu tư phát triển, mua sắm trang thiết bị, nâng cao chất lượng đào tạo. Để giải quyết tình trạng trên, sau đây xin đưa ra một số giải pháp chủ yếu: Gắn kết việc đào tạo nghề với thị trường lao động Thực tế đào tạo nghề ra là nhằm nâng cao hiểu biết của người lao động, giúp cho họ có nhiều cơ hội để kiếm việc hơn. Nhưng đào tạo mà không gắn với thị trường lao động tức là ngành nghề đào tạo ra mà xã hội không sử dụng thì rất lãng phí. Vì vậy, cần gắn kết công tác đào tạo với thị trường lao động đặc biệt là các doanh nghiệp. Vì các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh hiện nay có nhu cầu về sử dụng nguồn nhân lực qua đào tạo nghề là rất lớn, hơn nữa nếu sử dụng nguồn lao động của tỉnh mình sẽ giúp họ tiết kiệm được chi phí, nhưng họ muốn tuyển những người đã qua đào tạo phù hợp ngành sản xuất của họ để không tốn chi phí cho việc đào tạo lại. Việc gắn kết ở đây không chỉ là đào tạo nghề phù hợp với doanh nghiệp mà nó bao hàm ý nghĩa liên kết giữa các trung tâm dậy nghề, cao đẳng nghề với các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp sẽ hỗ trợ cho các trường dậy nghề về: Trang thiết bị thực hành hoặc các học sinh của trường sẽ thực hành tại các doanh nghiệp, vốn… nhưng bên phía các trung tâm phải đào tạo theo đúng các yêu cầu của các doanh nghiệp. Học sinh tốt nghiệp được các doanh nghiệp nhận vào làm việc luôn. Như vậy, về phía trường vừa tiết kiệm được chi phí đầu tư dụng cụ học tập vừa nâng cao được hiệu quả của đào tạo. Xây dựng nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý dạy nghề - Quy hoạch xây dựng đội ngũ giáo viên ở các cơ sở dạy nghề đủ về số lượng, đạt tiêu chuẩn trình độ đào tạo về lý thuyết, thực hành, nghiệp vụ sư phạm kỹ thuật dạy nghề, có trình độ tin học, ngoại ngữ, có phẩm chất đạo đức và lương tâm nghề nghiệp. - Thực hiện chế độ định kỳ bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm cho đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý dạy nghề. - Có cơ chế chính sách khuyến khích giáo viên dạy nghề đào tạo sau đại học; thu hút người có trình độ cao, các nghệ nhân giỏi, thợ giỏi có năng lực, kinh nghiệm về làm giáo viên dạy nghề. 3.2.3.3. Xây dựng nội dung, chương trình đào tạo nghề Xây dựng và đổi mới nội dung, chương trình, giáo trình dạy nghề phù hợp với tiến độ kỹ thuật, công nghệ trong sản xuất, từng bước chuyển sang chương trình dạy nghề theo mô đun, tiếp cận với trình độ tiên tiến trong khu vực và thế giới, đảm bảo đào tạo liên thông. Nội dung chương trình phải đảm bảo tính giáo dục, đào tạo toàn diện, xây dựng các tiêu chí đánh giá, kiểm định chất lượng đào tạo. Đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm làm cho người học nâng cao tính tích cực, năng động, sáng tạo. Phát triển mạnh thị trường lao động Hơn 60% những người di khi được hỏi về nguồn thông tin mà họ biết về nơi ở mới là do người thân cung cấp, chỉ có 5,2% trả lời do chính quyền địa phương nơi ở cũ cung cấp. Như vậy, nếu phát triển mạnh thông tin về thị trường lao động thì chúng ta có thể điều chỉnh được nơi đến của nguồn di dân tự do. Hướng cho họ đến những nơi cần đến, tránh tình trạng ồ ạt kéo nhau ra thành phố. Vì vậy, tỉnh cần: - Xây dựng từng bước hoàn thiện, hiện đại hoá hệ thống thông tin thị trường lao động, tạo điều kiện để mọi người tiếp cận với các thông tin về lao động việc làm trong nước và nước ngoài. Các thông tin cung cấp phải đảm bảo đầy đủ, chính xác, kịp thời diễn biến của thị trường lao động và người sử dụng lao động đạt được mục tiêu và mong muốn của mình trong thị trường lao động “ Người tìm việc và Việc tìm người”, giúp người lao động tìm được việc làm nhanh nhất. Tạo điều kiện thông thoáng cho các đơn vị làm tốt công tác giới thiệu việc làm, đồng thời sử lý nghiêm khắc các đơn vị cá nhân vi phạm. - Quy hoạch về địa điểm, nâng cao năng lực hoạt động của các Trung tâm Giới thiệu việc làm. Cung cấp các dịch vụ việc làm thuận lợi cho người lao động và người sử dụng lao động. Tổ chức hội trợ việc làm theo hình thức tháng việc làm, tuần việc làm, đưa hội trợ việc làm về các huyện, cụm huyện. - Nâng cao kiến thức và kỹ năng xây dựng, quản lý, triển khai thực hiện Chương trình việc làm. KẾT BÀI Trong điều kiện nước ta đang thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì vấn đề di dân đến các khu vực khác trong nước và quốc tế vẫn còn tiếp tục diễn ra mạnh mẽ. Đây là quy luật về cung cầu lao động, chúng ta không thể ngăn cản luồng di dân này được. Nhưng có thể tạo ra những luồng di dân “hiệu quả” thông qua việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đẩy mạnh thông tin thị trường lao động đề người di dân có thể có sự lựa chọn chính xác hơn về nơi nhập cư. Đứng trên góc độ vĩ mô, Nhà nước cần tối đa hoá lợi ích từ di dân mang lại và tránh được những hậu quả tiềm tàng rất nguy hại của nó. Chúng ta phải đặt ra câu hỏi là làm thế nào để việc di dân trở thành một trò chơi “tất cả các bên cùng thắng”. Di dân tự do đã góp một phần quan trọng trong vấn đề giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống trong tỉnh Thanh Hoá. Tuy nhiên, nó chỉ là giải pháp tạm thời, vấn đề quan trọng đối với giải quyết việc làm là phải đẩy mạnh phát triển nội lực, tăng cường giáo dục, tuyên truyền các chương trình kế hoạch hoá gia đình. DANH MỤC CÁC BẢNG, SƠ ĐỒ MỤC LỤC MỞ BÀI 1 Chương 1: MỘT VÀI LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ VIỆC LÀM VÀ DI DÂN 4 1.1. Khái niệm việc làm 4 1.1.1. Một số khái niệm có liên quan 4 1.1.2. Khái niệm việc làm 4 1.1.3. Phân loại việc làm 5 1.2. Di dân 6 1.2.1. Khái niệm di dân. 6 1.2.2. Phân loại di dân. 7 1.2.2.1. Theo khoảng cách di chuyển: 7 1.2.2.2. Theo độ dài thời gian cư trú: 8 1.2.2.3. Theo đặc trương di dân: 8 1.2.3. Các lý thuyết di dân. 9 1.2.3.1. Lý thuyết Micheal P.Todaro. 9 1.2.3.2. Lý thuyết của Ravenstein. 10 1.2.3.3. Lý thuyết đô thị hoá: 10 1.2.3.4. Lý thuyết lực “hút- đẩy” 10 1.3. Vai trò của di dân trong vấn đề giải quyết việc làm 12 1.3.1. Nơi xuất cư 12 1.3.2. Nơi nhập cư. 13 Chương 2: THỰC TRẠNG VỀ VIỆC LÀM VÀ DI CƯ Ở THANH HOÁ. 14 2.1. Tổng quan về Thanh Hoá 14 2.1.1. Điều kiện tự nhiên. 14 2.1.1.1. Vị trí địa lý: 14 2.1.1.2. Địa hình 14 2.1.1.3. Khí hậu: 15 2.1.1.4. Tài nguyên thiên nhiên: 15 2.1.2. Tình hình kinh tế. 17 2.1.2.1. Về kinh tế: 17 2.1.2.2. Về cơ sở hạ tầng. 17 2.2. Thực trạng về nguồn nhân lực Thanh Hóa 18 2.3. Thực trạng về di dân ở Thanh Hóa 21 2.3.1. Các yếu tố quyết định di dân. 21 2.3.1.1. Thực trạng về giải quyết việc làm của tỉnh. 21 2.3.1.2. Thất nghiệp. 25 2.3.1.3. Các nguyên nhân dẫn đến di cư. 26 2.3.2. Đặc điểm của di dân. 27 2.3.2.1. Trình độ, độ tuổi, giới tính. 27 2.3.2.2. Địa điểm di cư. 29 2.3.2.3. Thời gian cư trú. 31 2.3.3. Hậu quả của di cư. 32 2.3.3.1. Mặt tích cực. 32 2.3.3.2. Mặt tiêu cực. 35 Chương 3: GIẢI PHÁP CHO VẤN ĐỀ DI DÂN VÀ VIỆC LÀM 38 3.1. Quan điểm của tỉnh về di dân 38 3.2. Giải pháp 39 3.2.1. Đẩy mạnh phát triển các ngành, các vùng kinh tế. 39 3.2.1.1. Nông nghiệp- nông thôn. 39 3.2.1.2. Ngành công nghiệp. 43 3.2.1.3. Dịch vụ 43 3.2.2. Đẩy mạnh chương trình xuất khẩu lao động 45 3.2.3. Mở rộng, nâng cao hiệu quả của các chương trình giáo dục, đào tạo nghề 46 3.2.3.1. Gắn kết việc đào tạo nghề với thị trường lao động 47 3.2.3.2. Xây dựng nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý dạy nghề 48 3.2.3.3. Xây dựng nội dung, chương trình đào tạo nghề 49 3.2.4. Phát triển mạnh thị trường lao động 49 TÀI LIỆU THAM KHẢO 57 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Sở Lao động- thương binh và xã hội, Chương trình việc làm tỉnh Thanh Hoá thời kỳ 2006- 2010. 2. Cơ quan phát triển quốc tế, Anh (DFID), Di dân tới đô thị ở Trung Quốc. 3. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Lao động và việc làm ở nông thôn. 4. Tổng cục thống kê, Điều tra biến động dân số và kế hoạch hoá gia đình năm 2004, 2005, 2006. 5. Tổng cục thống kê, Điều tra biến động dân số và kế hoạch hoá gia đình năm 2004: Những kết quả chủ yếu. 6. Sở Lao động- thương binh xã hội, Báo các tổng kết công tác lao động- thương binh và xã hội năm 2005, 2006, 2007. 7. Nguyễn Hữu Bằng, Chính sách di dân trong quá trình phát triển kinh tế xã hội ở các tỉnh miền núi. 8. Bộ môn Kinh tế phát triển, Giáo trình Kinh tế phát triển.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33047.doc
Tài liệu liên quan