Chuyên đề Về khả năng hình thành đồng tiền chung ASEAN

Như vậy, xét về quan điểm kinh tế ASEAN thích hợp với đồng tiền chung như đồng EURO ở Châu âu. Tuy nhiên có những khó khăn phát sinh khi thực hiện liên minh tiền tệ như: mức thu nhập chênh lệch giữa các nước trong khu vực ASEAN, trình độ phát triển không đồng đều, ASEAN chưa có ngân sách tập trung ở mức liên minh, những tranh chấp chủ quyền còn tồn tại trong khu vực hay những rào cản cạnh tranh từ phía Mỹ hay các tổ chức khác đối việc hình thành đồng tiền chung. dù vậy,ASEAN cũng có những thuận lợi từ AFTA, và đặc biệt là từ kế hoạch thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc đang dần dần được triển khai sẽ là những tác động tích cực thúc đẩy ASEAN thực hiện tiến trình này. Phát triển đến một đồng tiền chung ASEAN là một thách thức không nhỏ nhưng nếu ASEAN xuất phát từ AFTA để tiến tới một đồng tiền chung thì những thách thức phía trước tuy còn nhiều nhưng vẫn có khả năng vượt qua được. Để có một đồng tiền chung ASEAN cũng cần phải nghiên cứu kỹ những kinh nghiệm của khu vực đồng tiền chung Châu âu để rút ra được những bài học bổ ích cho việc xây dựng và hoàn thiện tiến trình.

doc35 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2177 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Về khả năng hình thành đồng tiền chung ASEAN, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Hợp tác khu vực đang là một xu thế phổ biến trong nền kinh tế thế giới, nhất là từ đầu những năm 90 của thế kỷ trước. Trong vòng 5 năm qua, có khoảng 66 khu vực mậu dịch tự do được thành lập. Theo thống kê của WTO, hiện nay đang có hơn 150 hiệp định hợp tác khu vực có hiệu lực trên thế giới. Đại bộ phận các hiệp định này được ký kết giữa các nước đang phát triển. Năm 2004, Hiệp hội các nước Đông Nam á (ASEAN) tròn 37 tuổi. So với lịch sử phát triển của các tổ chức khác, lịch sử ASEAN không phải là quá dài song phải đến độ tuổi này, ASEAN đã trở thành một cơ cấu hợp tác kinh tế mạnh mẽ và hiệu quả, tương xứng với các nước trong khu vực. Thực hiện mục tiêu hội nhập kinh tế sâu sắc hơn nữa, ngoài khu vực mậu dịch tự do AFTA, ASEAN cũng đang hướng tới mở rộng triển khai thị trường, tự do hoá thương mại với các nước Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Austraylia, Newzealand… Ngoài ra ASEAN cũng lập các diễn đàn nhằm tăng cường đối thoại giải quyết các vấn đề chính trị, an ninh khu vực. Với tình hình và điều kiện khu vực ASEAN đang ngày càng chuyển biến theo hướng tích cực như vậy, có một câu hỏi đặt ra là đến khi nào ASEAN sẽ thúc đẩy tiến trình hội nhập khu vực sang bước tiếp theo là hình thành đồng tiền chung ASEAN và liệu khả năng này có trở thành hiện thực? Vấn đề này sẽ trở nên quan trọng hơn khi chúng ta nhận thức được những nguồn lợi đặc biệt mà đồng tiền chung ASEAN có thể mang lại trong tất cả những lĩnh vực kinh tế, thương mại, ngân hàng, đối ngoại,… đồng thời sự ra đời của đồng tiền chung ASEAN sẽ đem lại sức mạnh cho các nước Đông Nam á trong những cuộc cạnh tranh khốc liệt của thế kỷ này. Thêm vào đó, vị thế quốc tế của ASEAN cũng được nâng lên một tầm cao mới nhờ đồng tiền chung… Tuy nhiên để thực hiện tiến trình này, ASEAN cũng phải vượt qua rất nhiều thách thức lớn phía trước. Vậy khả năng ASEAN hình thành đồng tiền chung như thế nào? Những thuận lợi, khó khăn, thách thức, tác động mà ASEAN sẽ gặp phải trong tiến trình này là gì? Liệu khu vực Đông Nam á sẽ có một đồng tiền chung trong vòng 10 năm, 15 năm hay thời gian ngắn và dài hơn nữa hay không… Chúng ta hãy cùng phân tích vài nét cơ bản. "Về khả năng hình thành đồng tiền chung ASEAN" trong các phần sau của tiểu luận này. Do những hạn chế về lý luận và thực tiễn, nên trong quá trình thực hiện khó tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Em rất mong nhận được sự chỉ bảo của thầy cô và ý kiến đóng góp của các bạn. Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo TS. Nguyễn Trọng Tài đã tận tình hướng dẫn em hoàn thành chuyên đề này. Chương I Nhìn nhận chung về tình hình kinh tế ASEAN 1.1. Lịch sử hình thành ASEAN Hiệp hội các nước Đông Nam á (ASEAN) được thành lập vào ngày 08/08/1967 bằng sự kiện các Bộ trưởng Ngoại giao các nước Indonesia, Philipin, Singapore và ThaiLand kí vào bản tuyên bố ASEAN (hay tuyên bố Băng Cốc). Từ đó đến nay, ASEAN đã mở rộng tổ chức và phát triển thành ASEAN 10 với diện tích 4,3 triệu km2, số dân khoảng 490 triệu người, lực lượng lao dộng rẻ và hiệu quả, tài nguyên thiên nhiên phong phú… Đây là hiệp hội của tất cả các nước Đông Nam á theo đúng ý tưởng ban đầu của những người sáng tạo ra hiệp hội. ASEAN ra đời trong bối cảnh nội bộ từ các nước trong khu vực đến các nước trên thế giới có nhiều biến động. Cuộc chiến tranh ở Việt Nam đang diễn ra ác liệt và các nước Đông Nam á tham gia vào cuộc chiến. Đồng thời, các nước Đông Nam á phải xử lý nhiều vấn đề về chính trị, kinh tế trong từng nước và cả xung đột trong quan hệ giữa các nước với nhau. Trước bối cảnh đó, ASEAN ra đời để đối phó với những khó khăn bên trong và thách thức bên ngoài. 1.1.1. Mục đích thành lập ASEAN được thành lập với các mục đích sau: - Thúc đẩy hoà bình và ổn định khu vực trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc Luật pháp trong quan hệ giữa các nước trong khu vực và tuân thủ các nguyên tắc của Hiến chương Liên Hợp Quốc. - Thúc đẩy sự hợp tác tích cực và giúp đỡ lẫn nhau về các vấn đề cúng quan tâm trên các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học kỹ thuật, hành chính. - Hợp tác trên lĩnh vực đào tạo và cung cấp các phương tiện nghiên cứu trong lĩnh vực giáo dục, chuyên môn, kỹ thuật và hành chính. - Phát triển các ngành nông nghiệp, công nghiệp, mởi rộng oạt động thương mại quốc tế, cải thiện hệ thống thông tin liên lạc vận tải và nâng cao mức sống của nhân dân. - Thúc đẩy việc nghiên cứu về Đông Nam á. - Duy trì quan hệ hợp tác chặt chẽ cùng có lợi với các tổ chức quốc tế và khu vực có tôn chỉ và mục đích tương tự và đề xuất cac biện pháp để tăng cường hợp tác giữa các tổ chức này. 1.1.2. Cơ cấu tổ chức của ASEAN Hiện nay cơ cấu tổ chức của ASEAN gồm các cơ quan sau đây: - Các cơ quan hoạch định chính sách bao gồm: Hội nghị cấp cao ASEAN, hội nghị Bộ trưởng ASEAN, Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế, Các hội nghị Bộ trưởng các ngành khác. Hội nghị liên Bộ trưởng, Tổng thư ký ASEAN, cuộc họp các quan chức cao cấp, cuộc họp các quan chức kinh tế cao cấp, cuộc họp các quan chức cao cấp khác, cuộc họp tư vấn chung. - Các Uỷ ban của ASEAN gồm có: Uỷ ban thường trực ASEAN, các Uỷ ban hợp tác chuyên ngành. - Các ban thư ký ASEAN gồm có Ban thư ký ASEAN quốc tế và ban thư ký ASEAN quốc gia. Ngoài ra còn có các cơ chế hợp tác với các nước thứ 3 bao gồm hội nghi sau Bộ trưởng, cuộc họp của ASEAN với các nước bên đối thoại và Uỷ ban ASEAN ở các nước thứ 3. 1.1.3. Nguyên tắc hoạt động chủ yếu của ASEAN Các nguyên tắc hoạt động của ASEAN được phản ánh trong nhiều văn kiện được ASEAN thông qua bao gồm: - Các nguyên tắc làm nền tảng cho quan hệ giữa các quốc gia thành viên với bên ngoài có 6 nguyên tắc chính là: - Cùng tôn trọng độc lập chủ quyền, bình đẳng, toàn vẹn lãnh thổ và bản sắc dân tộc của tất cả các dân tộc. - Quyền của mọi quốc gia được lãnh đạo hoạt động của dân tộc mình, không có sự can thiệp, lật đổ hoặc cưỡng ép của bên ngoài. - Không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. - Giải quyết bất dồng hoặc tranh chấp bằng các biện pháp hoà bình. - Không đe doạ hoặc sử dụng vũ lực. - Hợp tác với nhau một cách hiệu quả. Các nguyên tắc điều phối của Hiệp hội. - Nguyên tắc nhất trí: Nguyên tắc này quy định mọi quyết định về các vấn đề quan trọng chỉ được coi là của ASEAN khi được tất cả các thành viên nhất trí thông qua. - Nguyên tắc bình đẳng thể hiện trên hai mặt. Thứ nhất, các nước thành viên ASEAN dù ở trình độ phát triển nào đều bình đẳng với nhau trong nghĩ vụ đóng góp cũng như chia sẻ quyền lợi. Thứ hai, hoạt dộng của tổ chức ASEAN được duy trì trên cơ sở luân phiên, các chức chủ toạ các cuộc họp của ASEAN từ cấp chuyên viên đến cấp cao cũng như địa điểm tổ chức các cuộc họp được phân công đều giữa các nước thành viên trên cơ sơ luân phiên theo vần A, B, C của Tiếng Anh. Ngoài ra, trong quan hệ giữa các nước ASEAN cũng đang hình thành một số nguyên tắc khác như: Nguyên tắc có đi có lại, không đối đầu, thân thiện, không tuyên truyền tố cáo nhau qua báo chí, giữ gìn đoàn kết ASEAN và giữ bản sắc chung của Hiệp hội. 1.2. Liên kết kinh tế ASEAN trong những năm gần đây. Trong một thập niên đầu, nội dung hợp tác trong ASEAN chủ yếu là chính trị và đối ngoại. Hợp tác kinh tế chỉ bắt đầu vào cuối những năm 1970 với chương tình quan trọng nhất là thảo thuận thương mại ưu đãi (PTA) giữa 5 thành viên ban đầu. Sau đó có thêm một số chương trình hợp tác về công nghiệp như AIP (ASEAN Industrial Projects), AIJV (ASEAN Industrial Joint venture)... Tuy nhiên tác dụng và hiệu quả của các chương trình hợp tác này rất hạn chế, không tạo được bước chuyển đáng kể trong hợp tác kinh tế ASEAN, vì quy mô và phạm vi nhỏ bé của chúng, hơn nữa lại thiếu vốn để thực hiện. Hợp tác kinh tế ASEAN trên cơ sở các nguyên tắc của tự do hoá thương mại chỉ được bắt đầu với việc ASEAN ký và thực hiện Hiệp định thương mại ưu đãi có hiệu lực chung (CEPT) vào đầu thập niên 1990 tiến trình tự do hoá trao đổi dịch vụ với việc ký Hiệp định khung về dịch vụ ASEAN (AFAS) năm 1995, và sau đó là tiến trình tự do hoá trong lĩnh vực đầu tư với việc ký hiệp định khung về đầu tư ASEAN (AIA) năm 1998. Tự do hoá trong lĩnh vực thông tin và công nghệ thông tin (ICT) cũng được khởi động với việc ký Hiệp định khung E- ASEAN năm 2000. Ngoài các lĩnh vực hợp tác trên trong hơn hai thập kỷ qua, ASEAN cũng đẫ phát triển ngày một mạnh hơn và chặt chẽ hơn sự hợp tác trong nhiều lĩnh vực kinh tế chuyên nghành khác. Đến nay quan hệ hợp tác ASEAN đã bao quát hầu hết mọi phương diện trên cơ sở đa phương và song phương giữa các quốc gia với nhau. 1.3. Kinh tế ASEAN những năm gần đây. Vào những năm 1997 cuộc khủng hoảng tiền tệ kinh tế ở Châu á sảy ra đã làm cho hợp tác ASEAN nói chung và kinh tế nói riêng bị ảnh hưởng nghiêm trọng: Một loạt các công ty tài chính và các ngân hàng bị phá sản, hàng loạt người dân bị thất nghiệp, xuất nhập khẩu trì trệ. Cuộc khủng hoảng này đã cho thấy tiềm lực và khả năng kinh tế của ASEAN còn rất nhiều hạn chế. Các nước đã không thể tự giúp nhau đưa ra một giải pháp thống nhất chung, có tính hữu hiệu để vượt qua được cuộc khủng hoảng. Thêm vào đó là quyền lợi dân tộc cộng với sự phụ thuộc quá lớn vào các nước bên ngoài cũng là nguyên nhân làm cho kinh tế các nước ASEAN bị trì trệ. Hiện nay kinh tế các nước ASEAN đang dần phục hồi trở lại. Biểu đồ: Tốc độ tăng trưởng kinh tế phần trăm năm. ở Thái Lan, nợ nước ngoài của các công ty đã giảm mạnh xuống khoảng 37 tỷ USD so với 90 tỷ USD năm 1996, xuất khẩu của nước này trong tháng 5/2002 đã tăng 3.16% so với cùng kì năm trước, thặng dư thương mại đạt 58 tỷ Baht. Thái Lan phấn đấu đến cuối năm nước này sẽ đạt kim ngạch xuất khẩu trung bình 5,94 tỷ USD/ tháng . Qua đó ta có thể nhận thấy, qua cuộc khủng hoảng năm 97, các nước ASEAN đã có những sách lược nhằm đẩy nhanh quá trình cải cách hệ thống ngân hàng, giúp hệ thống này tăng khả năng cạnh tranh. Ngoài ra , ASEAN cũng thúc đẩy tiến trình AFTA sớm hơn, tăng cường đối thoại bên ngoài về an ninh, kinh tế, thống nhất các nguyên tắc nhất trí, nguyên tắc bình đẳng và vào tháng 6/2002, tại Hội nghị bộ trưởng kinh tế ASEAN đã thông qua “nguyên tắc 10-X” để 4 nước gia nhập ASEAN sau là Việt Nam, Lào, Campuchia, Mianma được thực hiện các biện pháp xoá bỏ hàng rào thuế quan chậm hơn 6 nứơc thành viên cũ, tạo điều kiện cho những nước này có thêm thời gian chuẩn bị để tiến trình hội nhập được thành công hơn. Năm 2003 vừa qua, bất chấp những tác động tiêu cực của dịch sars và cuộc chiến tranh irac hồi đầu năm các nước asean vẫn phục hồi và phát triển tương đối khả quan với tốc độ tăng trưởng trung bình là 5% so với 4,5% năm 2002. Nhân tố quan trọng nhất giúp cho ASEAN đạt mức tăng trưởng mạnh này là sự phục hồi nền kinh tế toàn cầu đặc biệt là sự phục hồi cao hơn so với dự kiến của Nhật Bản. Đối với một số nước, sự tăng trưởng còn có được nhờ sự gia tăng trở lại của các hoạt động xuất nhập khẩu và đầu tư, nhất là đầu tư trực tiếp từ nước ngoài. Hầu hết các thị trường vốn trong nước đã trở nên sôi động hơn. Mặt khác cũng phải kể đến các chính sách tài chính và tiện tệ phù hợp đã được từng nước áp dụng trong thời gian qua để thúc đẩy tăng trưởng. Nhìn chung, phần lớn các nước đều tiếp tục duy trì chính sách tài khoá mở rộng trong khi hướng tới củng cố ngân sách trong kế hoạch trung hạn. Chính sách tiền tệ nới lỏng được tiếp tục duy trì với mức lãi suất thấp hoặc ổn định do hầu hết các nước đều kiểm soát được tỷ lệ lạm phát của mình. Bảng 1: Cán cân thương mại, cán cân vãng lai và dự trữ ngoại hối của một số nước ASEAN 2001 2002 2003 Cán cân thương mại (tỷ USD) Indonesia 25,36 25,70 25,25 Malaysia 14,14 13,54 19,01 Thái Lan 2,53 3,45 19,01 Philippines -0,22 -1,50 -2,70 Cán cân vãng lai (tỷ USD) Indonesia 6,90 7,26 5,59 Malaysia 7,3 7,2 11,6 Thái Lan 6,24 7,63 5,74 Philippines 1,32 4,20 1,68 Dự trữ ngoại hối (tỷ USD) Indonesia 27,25 30,50 34,16 Malaysia 30,47 34,22 34,20 Thái Lan 32,36 38,05 39,40 Philippines 12,44 13,14 13,80 Nguồn: Asia Monitor, Business Monitor International, Vol 14,Oct 2003. Theo đánh giá, triển vọng phát triển của các nước ASEAN trong năm 2004 còn sáng sủa hơn mức tăng trưởng dự kiến của cả khu vực đạt từ 5,5% đến 5,9% mức tăng trưởng cao nhất kể từ cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực năm 1997-1998 đến nay. Theo dự báo của WB, tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2004 của khu vực đông nam á có thể đạt mức 5,7%. Sự phát triển mạnh của nền kinh tế Thái Lan có thể giúp nước này đạt giá trị xuất khẩu khoảng 80 tỷ USD cao hơn năm 2003 khoảng 6 tỷ USD. Các quan chức Indonesia dự đoán tăng trưởng kinh tế nước này vẫn tiếp tục sáng sủa do có sự đóng góp tích cực của khu vực xuất khẩu có thể đạt tới 64,64 tỷ USD. Malaysia có thể giảm bớt nợ nước ngoài từ 48,6 tỷ USD năm 2003 xuống còn 45,60 tỷ USD năm 2004. Đối với Philippines, gánh nặng thâm hụt ngân sách Nhà nước tuy có chiều hướng giảm bớt nhưng thực sự chưASEAN đủ mạnh để cải thiện các chỉ số kinh tế vĩ mô. Dự đoán của chính phủ Philippines về tốc độ tăng trưởng kinh tế sang năm có thể đạt khoảng 4,2%-5,2%. ASEAN đã đi được chặng đường 35 năm, qua thời gian này, hiệp hội các quốc gia Đông Nam á đã chứng tỏ là một tổ chức khu vực thành công nhất thế giới. ASEAN nay bao gồm 10 quốc gia của toàn khu vực Đông Nam á năng động. Trong giai đoạn này ASEAN không chỉ tăng cường hợp tác lẫn nhau giữASEAN các thành viên mà ngày càng phát triển quan hệ kinh tế, đối ngoại với các nước bên ngoài. Có thể nói cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1997 đã khiến cho kinh tế các nước Đông Nam á tăng trưởng chậm nhưng lại mở ra con đường phát triển kinh tế vững chắc và ổn định hơn cho khu vực này. Chương II Khả năng hình thành đồng tiền chung ASEAN 2.1. Các tác động có thể dẫn tới đồng tiền chung ASEAN 2.1.1 Bối cảnh quốc tế và khu vực Bối cảnh quốc tế và khu vực trong những năm qua diễn ra hết sức sôi động đẫ ảnh hưởng trực tiếp đến các nền kinh tế ASEAN và ASEAN với tư cách là một tổ chức khu vực. Những nhân tố đó gồm: Thứ nhất: Quá trình toàn cầu hoá cùng với sự phát triển vượt bậc của công nghệ thông tin đã tạo ra sự liên kết thị trường hàng hoá, dịch vụ tài chính xuyên biên giới. Trong quá trình đó, các công ty xuyên quốc gia trở thành lực lượng hùng mạnh về kinh tế và tài chính dẫn đến quá trình sản xuất được quốc tế hoá. Toàn cầu hoá mở ra thời kỳ phát triển với sự tuỳ thuộc và tương tác giữa các nề kinh tế, các khu vực tăng lên. Nó chứa đựng cả những nhân tố tích cực đổi mới và năng động nhưng cũng bao hàm các yếu tố tiêu cực, bất ổn và trở thành một thách thức đối với khu vực ASEAN. Thứ hai: Cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vực xảy ra từ giữa năm 1997 đã gây ra những bất ổn về kinh tế mặc dù các nước ASEAN đã bước đầu hợp tác trong việc phối hợp các chính sách kinh tế vĩ mô nhưng tất cả mới chỉ là bước đầu và chưa có hiệu quả thực sự. Trong khi đó những chính sách đa dạng, những phản ứng rất khác nhau của các nước ASEAN nhằm đối phó với khủng hoảng lại cho thấy những hình ảnh trái ngược. Thứ ba: Cũng trong thời kì khủng hoảng, quá trình hợp tác ASEAN + 3 (ASEAN và ba nước Đông Bắc á là Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc) được hình thành trước đó đã phát triển mạnh và dần dần tạo ra một cơ chế hợp tác mới trong khu vực. Hợp tác ASEAN + 3 (ASEAN và ba nước Đông Bắc á là Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc) được hình thành trước đó đã phát triển mạnh và dần dần tạo ra một cơ chế hợp tác mới trong khu vực. Hợp tác ASEAN + 3 chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực thương mại, đầu tư và tài chính. Vào tháng 4 – 2000, Hội nghị bộ trưởng tài chính giữa ASEAN và ba nước Đông Bắc á họp tại Chiềng Mai mà nội dung chính là thiết lập cơ chế trao đổi tiền tệ giữa các nước ASEAN và Đông Bắc á để phòng ngừa và giảm bớt rủi ro tiền tệ. Các nước ASEAN và Trung Quốc đang tiến dần tới một hiệp định thương mại tự do trong thời gian tới. Như vậy, có thể nói quá trình hợp tác ASEAN + 3 sẽ là một nhân tố tác động lớn đến quá trình phát triển của thể chế hợp tác khác như diễn đàn hợp tác châu á - Thái Bình Dương APEC, diễn đàn hợp tác á - Âu ASEAN và tổ chức thương mại thế giới WTO. Toàn cầu hóa, khu vực hóa đã mang lại cho ASEAN nhiều cơ hội phát triển mới, tăng trưởng kinh tế cao và liên tục trong nhiều năm, làm thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, làm tăng nhanh tổng sản phẩm xã hội và cải thiện nhanh mức sống của dân chúng, tạo ra cơ sở vật chất cũng như môi trường pháp lý thúc đẩy tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế. Tuy nhiên, các nước ASEAN cũng phải gánh chịu những mặt trái của quá trình này. Đó là cuộc cạnh tranh không cân sức, mà bằng chứng hùng hồn là cuộc khủng hoảng tiền tệ vừa nổ ra làm cho kinh tế ASEAN rơi vào tình trạng trì trệ và suy thoái. Nhưng cũng đó mà ASEAN đã biết phối hợp và xây dựng triển khai nhiều loại hình hợp tác đa phương và song phương, khu vực thương mại AFTA , diễn đàn khu vực ARF, mở rộng thành viên, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các nước thành viên... Hiện tại trong những năm sắp tới chắc chẵn ASEAN tiếp tục bị sức ép càng lớn của toàn cầu hóa. Vì vậy vấn đề đặt ra cho các nước ASEAN và tổ chức ASEAN phải biết tận dụng cơ hội của toàn cầu hóa, chủ động hội nhập quá trình này mà mục tiêu hướng tới là thành lập một đồng tiền chung khu vực ASEAN . Có thể nói toàn cầu hóa, khu vực hóa chính là tác động đầu tiên của tiến trình này. Trong bối cảnh toàn cầu hòa tuy hoàn cảnh và tên gọi khác nhau nhưng tựu trung lại các nước đều trải qua 2 bước với 5 cấp độ phát triển của hội nhập quốc tế như sau: * Cộng đồng Khu vực mậu dịch tự do Liên minh hải quan Khối thị trường chung * Liên minh: Liên minh kinh tế Liên minh kinh tế và tiền tệ Trong đó khu mậu dịch tự do là hình thức sơ đẳng nhất, là khởi điểm của quá trình liên minh liên kết. 2.1.2. Tác động của AFTA. AFTA ra đời chính là giai đoạn khởi đầu cho bước đầu hình thành đồng tiền chung ASEAN. Khu mậu dịch tự do ASEAN hay gọi tắt là AFTA được quyết định thành lập từ năm 1992. Theo tuyên bố AFTA bắt đầu được thực hiện từ 1/1/1993 và hoàn thành vào năm 2008. nhưng vào tháng 9 năm 1994 các nước ASEAN đã quyết định rút ngắn thời gian hoàn thành AFTA xuống còn 10 năm tức là vào năm 2003. Riêng đói với Việt Nam do gia nhập ASEAN muộn hơn 3 năm so với các thành viên khác nên thời gian thực hiện AFTAcủa Việt Nam được bắt đầu từ 1/1/2006. Việc AFTA ra đời đối với ASEAN có nhiều tác động khác nhau. Về mặt lợi ích trực tiếp của nhà nước là nguồn thu thuế xuất nhập khẩu sẽ bị giảm sút nếu AFTA không có tác dụng kích thích năng lượng buôn bán đến mức số lượng thuế thu được không tăng doanh thu không bù đắp được sự cắt giảm thu do thuế xuất. Về mặt doanh nghiệp, sản xuất và buôn bán chịu 2 loại tác động ngược chiều: được lợi do tăng khả năng cạnh tranh về giá cả và chịu sức ép về cạnh tranh lớn hơn do sự xóa bỏ các hàng rào bảo hộ thuế và phi thuế. Việc cắt giảm thuế xuất nhập khẩu không ảnh hưởng trực tiếp tới tài chính doanh nghiệp. Còn người tiêu dùng được lợi do giá cả rẻ hơn và chủng loại hàng phong phú hơn. Về hợp tác đầu tư, AFTA ra đời đầu tư nội bộ khu vực được tăng cường đáng kể cho dù nguồn cung cấp từ bên ngoài vào ASEAN vẫn chiếm tỷ lệ áp đảo. Như vậy, AFTA ra đời chính là giai đoạn khởi sở cho bước đầu hình thành động tiền chung ASEAN. Bởi vì để thông nhất một đồng tiền chung, khu vực phải đi từ cấp độ đầu tiên là xây dựng khu vực mậu dịch tự do rồi mới đến các tiêu thức khác như liên minh hải quan, khối thị trường chung liên minh tiền tệ. Nếu ASEAN nỗ lực hoàn thành sớm khu vực mậu dịch AFTA sẽ thúc đẩy tiến trình xây dựng đồng tiền chung cho khu vực Đông Nam á. 2.1.3. Kế hoạch thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc (AC - FTA). Có một câu hỏi được đặt ra với các nước ASEAN là liệu ASEAN sẽ đi theo định hướng hội nhập nào sau AFTA, trong khi mối quan hệ ASEAN – Trung Quốc ngày càng phát triển. Việc Trung Quốc gia nhập WTO, gần gũi về vị trí địa lý và văn hóa thì viẹc lựa chọn thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN –Trung Quốc (AC – FTA) Trong tương lai có thể là câu trả lời. ASEAN và Trung Quốc là những nước phát triển kinh tế ở những giai đoạn khác nhau nhưng đang cùng phải đối mặt với những cơ hội và thách thức của xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa kinh tế một cách mạnh mẽ của thế kỉ 21. Việc thành lập một hiệp định thương mại tự do giữa 2 bên và tăng cường quan hệ song phương là một quyết định sáng suốt của ASEAN và Trung Quốc trong quá trình theo đuổi những cơ hội phát triển mới. Việc các nhà lãnh đạo 2 bên đồng ý thông qua việc thành lập xây dựng khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc trong vòng 10 năm tới sẽ tạo ra viễn cảnh một khu vực kinh tế với 1.7 tỷ người tiêu dùng, GDP là 2 ngàn tỷ USD và tổng kim ngạch thương mại khoảng 1.23 ngàn tỷ USD. Như vậy, đây sẽ là khu vực mậu dịch tự do (FTA) Lớn nhất thế giới với các chỉ số kể trên trong số các nước đang phát triển. Việc thiết lập AC – FTA sẽ góp phần loại bỏ hàng rào thuế quan giữa ASEAN và Trung Quốc , giảm chi phí thúc đẩy thương mại trong khu vực và tăng tính hiệu quả kinh tế. Hơn nữa sẽ tạo ra một cơ chế quan trọng đảm bảo sự ổn định kinh tế khu vực, đồng thời cho phép ASEAN và Trung Quốc có tiếng nói trọng lượng hơn trong các vấn đề thương mại quốc tế. Trong thời gian tới 2 bên sẽ tăng cường hợp tác kinh tế và thương mại bao gồm các lĩnh vực: nông nghiệp, công nghệ thông tin và liên lạc, phát triển nguồn nhân lực, đầu tư song phương và phát triển lưu vực sông Mekong. Trung Quốc sẽ giành sự ưu đãi đối với 3 nước kém phát triển nhất ASEAN là Mianma, Lào, và Campuchia đồng thời hỗ trợ cho ASEAN trong nỗ lực thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các nước thành viên. Với rất nhiều lợi ích đạt được từ AC – AFT ASEAN cũng cần được tăng cường sức mạnh bằng việc lưu hành một đồng tiền chung. Tiến tới ASEAN cũng có những ý định mở rộng thị trường hợp tác thương mại với các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Newzeland, Austraulia, ấn độ,... các nước thuộc khối EU. 2.1.4. Quan hệ kinh tế ASEAN và một số nước. ASEAN - Nhật: Hợp tác kinh tế ASEAN – Nhật đã có từ nhiều năm nay chủ yếu từ việc Nhật tham gia vào các chương trình Nhật hỗ trợ cho ASEAN. Tháng 11/2002 Hội nghị cấp cao ASEAN – Nhật đã thông qua tuyên bố thiết lập đối tác kinh tế toàn diện trong đó gồm cả yếu tố của một khu vực mậu dịch tự do giữa 2 bên trong vòng 10 năm một ủy ban chung giữa 2 bên đã được thành lập nhằm xây dựng một văn bản khuôn khổ về đối tác kinh tế này. Văn bản trên đã được các nhà lãnh đạo ASEAN ký nhân dịp hội nghị cấp cao ASEAN – Nhật tháng 10/2003. ASEAN - ấn Độ: Bắt đầu từ 2003 Việt nam cùng các nước ASEAN và ấn Độ triển khai tuyên bố của hội nghị cấp cao ASEAN – ấn Độ tháng 11/2002 về xây dựng đối tác kinh tế toàn diện ASEAN – ấn Độ (AICEP) hướng tới việc thành lập một khu vực mậu dịch tự do giữa 2 bên. ASEAN - CER (úc và Newzeland): Tháng 9/2002 tại Brunei các nước ASEAN và CER đã ký tuyên bố chung thiết lập đối tác kinh tế chặt chẽ (CEP) giữa 2 bên hiện nay 2 bên đang tiếp tục thảo luận các biện pháp cụ thể để thực hiện các biện pháp kinh tế này. Những biện pháp thuận lợi hóa và cả một số biện pháp tự do hóa thương mại và đầu tư giữa 2 bên sẽ là nội dung chủ yếu của đối tác kinh tế hợp tác chặt chẽ ASEAN – CER. ASEAN - EU: Gần đây EU đưa ra một chương trình hợp tác theo hướng tăng cường kinh tế giữa 2 bên có tên là TREATI (hợp tác xuyên khu vực giữa EU và ASEAN về thương mại và đầu tư. Với tất cả các điều kiện kinh tế thuận lợi trên chắc chắn ASEAN sẽ ngày càng lớn mạnh. ASEAN cần được tăng cường sức mạnh bằng việc lưu hành một đồng tiền chung, đó cũng là logic tự nhiên. Đồng thời chính sức mạnh của thị trường thống nhất đó sẽ tạo ra cơ sở kinh tế cho sự ra đời của đồng tiền chung ASEAN. 3. Phân tích khả năng hình thành đồng tiền chung ASEAN. Về mặt cơ bản đại bộ phận đều nhất trí liên minh tiền tệ khu vực sẽ là hình thức hợp tác hiệu quả trong dài hạn của Đông Nam á. Việc thành lập một liên minh tiền tệ khu vực với một đồng tiền chung sẽ nâng cao sức đề kháng chống lại đầu cơ tiền tệ. Tháng 12/1998 các nước ASEAN họp tại Hà Nội trong đó yêu cầu ban thư ký ASEAN nghiên cứu tính khả thi của đồng tiền chung ASEAN. Tuy nhiên vẫn còn mất nhiều năm để có đồng tiền chung ASEAN. Về lý thuyết liên minh tiền tệ có những lợi ích sau: Hệ thống tỷ giá hối đoái sẽ có độ tin cậy cao hơn do các nước thành viên có trách nhiệm hỗ trợ cho nhau để thực hiện cam kết của mình. Khả năng chống đầu cơ tiền tệ cao hơn. Khuyến khích thương mại đầu tư khu vực kể cả nhà đầu tư ngoài khu vực. Tránh được tình trạng đồng tiền phá giá cạnh tranh nhau. 3.1. Những nguồn lợi mà đồng tiền chung ASEAN có thể mang lại. Sự ra đời của đồng tiền chung ASEAN sẽ mang lại rất nhiều lợi ích cho các nước thành viên trong mọi mặt cụ thể như kinh tế, thương mại, ngân hàng đối ngoại... đồng thời cũng là nhân tố cơ bản làm thay đổi vị trí địa lý kinh tế – tiền tệ – tài chính quốc tế cho khu vực. Đồng tiền chung ASEAN ra đời cũng sẽ tạo ra một cuộc cạnh tranh quyết liệt với USD, Yên Nhật và đồng EURO trên tất cả các cần sự có mặt của tiền tệ. Sự kiện này cũng sẽ đưa vị trí của Châu á nói chung và ASEAN nói riêng lên một tầm cao mới. Cụ thể các nước thành viên sẽ ảnh hưởng những lợi ích quan trọng và căn bản như sau: Châu á sẽ thực sự đi vào con đường hội nhập quốc tế, có giải pháp cụ thể ứng phó với quá trình toàn cầu hóa kinh tế. Thị trường chung Châu á sẽ trở nên thực sự đồng nhất và có hiệu quả hơn. Tiết kiệm đáng kể chi phí giao dịch ngoại hối. Giảm rủi ro và chi phí bảo hiểm rủi ro về tỷ giá đối hoái, tăng cường sự ổn định tiền tệ và ổn định kinh tế vĩ mô đồng thời khuyến khích đầu tư, kích thích tăng trưởng, thúc đẩy kinh tế phát triển, tìm lại tốc độ tăng trưởng cao, hạn chế thất nghiệp, tạo thêm nhiều việc làm mới. Việc ra đời của một đồng tiền chung trong khu vực có hội tụ tất cả các cơ sở đảm bảo duy trì ổn định của nó thì khi được tung ra thị trường sẽ trở thành một đồng tiền quốc tế. Sẽ vị tính toán, công cụ dự trữ trong các quan hệ kinh tế, thương mại, tài chính, tiền tệ ở bên ngoài phát hành. Chính vì vậy khi ASEAN hình thành đồng tiền chung trên cơ sở của một tảng kinh tế – chính trị – xã hội vững chắc tương tự như trường hợp đồng EURO thì những nguồn lợi mà Đông Nam á thu được là rất lớn. Điều này cũng tạo điều kiện tiền để cho ASEAN vươn lên khẳng định vai trò quốc tế của mình. Thêm vào đó, có được một đồng tiền chung mạnh và ổn định cũng đồng nghĩa với việc ASEAN muốn có sức cạnh tranh với đồng đô la Mỹ, đồng Yên Nhật, và cả đồng EURO. Nhưng không vì thế mà làm tuột mất những lợi ích mà Mỹ, Nhật và Châu âu mang lại cho ASEAN mà ngược lại thông qua đó có thể củng cố vị thể quốc tế, chia sẻ quyền lực tiền tệ và quyền lực kinh tế có lợi cho Đông Nam á. Như vậy việc ra đời của đồng tiền vhung ASEAN được xem như là một nhân tố mới góp phần chuyển dịch sự cân bằng của hệ thống tiền toàn cầu và sẽ là một trong những yếu tố cơ bản giúp Đông Nam á cũng như từng nước thành viên nói riêng trên mọi phương diện chính trị, kinh tế, thương mại hối đoái, đầu tư trực tiếp cũng như đầu tư gián tiếp. ASEAN có được đồng tiền chung ổn định sẽ tăng cường sức cạnh tranh cơ bản của nền kinh tế , củng cố tiềm lực, mang lại sức mạnh cho ASEAN trong cạnh tranh quốc tế khốc liệt của thế kỷ tới. Đồng thời cũng sẽ cấu thành một trong những yếu tố cơ bản, hiệu quả giúp ASEAN vững vàng tiến bước trên con đường hội nhập toàn cầu hóa kinh tế, đủ sức cạnh tranh với các tổ chức khác. 3.2. Những khó khăn khi hình thành đồng tiền chung ASEAN. Thứ nhất: Xét về quan điểm thực tế, ASEAN thích hợp với một đồng tiền chung như đồng EURO tại Châu âu. Tuy nhiên điều này không có nghĩa là ASEAN không quan tâm đến những vấn đề phát sinh khi thực hiện liên minh tiền tệ này. Xuất phát từ thực tế các nước ASEAN đang ở những trình độ phát triển kinh tế khác nhau. Sự khác nhau diễn ra ngay cả trong ASEAN, các nước này đang ở trình độ phát triển khác nhau về trình độ công nghiệp hóa, thu nhập, mức sống, dự trữ ngoại tệ, tỷ lệ lạm phát, vốn đầu tư, trình độ công nghệ...Cho thấy sự cách biệt quá lớn giữa các nước thành viên. Lấy một vài ví dụ như sau: Thu nhập đầu người ở Singapore cao gấp 40 lần thu nhập đầu người ở Inđonexia. Một số nước trong khu vực có nền công nghệ kỹ thuật tiên tiến và trình độ kỹ thuật phát triển đi trước Việt Nam từ 10 đến 25 năm và đã làm chủ được một số công nghệ nguồn, thâm nhập được vào thị trường thế giới trong khi các doanh nghiệp của Việt Nam, Lào, Campuchia, Mianma chỉ vừa mới bước vào thương trường, còn thiếu kinh nghiệm, thiếu vốn kinh doanh cũng như trình độ quản lý... Thêm vào đó việc mở rộng ASEAN ra toàn bộ khu vực Đông Nam á càng làm cho sự tách biệt trong ASEAN đặc biệt là ASEAN6 và ASEAN4. Sự cách biệt này là một trở ngại lớn cho liên kết kinh tế khu vực, trên thực tế việc phát triển các quan hệ hợp tác kinh tế vẫn chịu sự quyết định của các ý muốn chính trị chứ không phải do nhu cầu phát triển thị trường của quy luật phát triển kinh tế khách quan Thứ hai: ASEAN là một khu vực không hoàn toàn đồng nhất với lịch sử văn hóa và truyền thống pháp lý đa dạng. Sự đa dạng về truyền thống lịch sử văn hóa xã hội diễn ra trong suốt chiều dài lịch sử của đất nước. Hơn nữa các nước trong khu vực còn khác biệt về văn hóa dân tộc và tôn giáo. Vì vậy đối với việc ASEAN mở rộng ra toàn khu vực Đông Nam á thành ASEAN10 thì tính chất đa dạng và khác biệt về chính trị, văn hóa xã hội, luật pháp... càng trở nên sâu sắc. Thứ ba: Liên quan đến những nguyên nhân trên điều kiện cơ bản cho liên kết kinh tế khu vực là các nước tham gia vào quá trình hợp tác phải thu được lợi ích như nhau. Câu hỏi được đặt ra là điều này có thể xảy ra khi các nước đang ở những trình độ, giai đoạn phát triển khác nhau? Từ những khó khăn trên chúng ta lại nhìn ra một khó khăn tiếp theo trong tiến trình hình thành đồng tiền chung ASEAN đó là chính sách tiền tệ. Xét ở giai đoạn Đông Nam á hiện nay khó có một ngân sách tập trung nào ở mức liên minh để thực hiện các vụ chuyển tiền mặt trên phạm vi rộng xuyên biên giới. Thêm vào đó các nước ASEAN lại muốn đặt giới hạn đối với mức thâm hụt tài chính mà mỗi nước có thể chịu đựng được. Vì nó sẽ giúp các nước hạn chế phạm vi dùng chính sách tài chính quốc gia để đối phó với các cơn sốc xảy ra ở mỗi nước trong khi đó sử dụng đồng tiền chung thì rủi ro kinh tế ở nước này sẽ ảnh hưởng đến kinh tế nước khác, như vậy đòi hỏi ở đây là ASEAN không chỉ nâng cao chính sách và cơ cấu cho phép huy động cả nguồn vốn và sức lao động qua biên giới mà còn đòi hỏi sự đoàn kết về chính trị giữa các quốc gia liên minh. Để hiểu thêm về vấn đề này chúng ta hãy cùng điểm qua vài mốc thời gian của các nươc thành viên gia nhập ASEAN . ASEAN ra đời được hơn 35 năm gồm 5 nước ban đầu là Thái Lan, Indonexia, Malaixia, Philipin và singapore. Đến năm 1984 ASEAN kết nạp thêm Brunei và ngày càng mở rộng đến tháng 7/1995 Việt Nam gia nhập, đến năm 1997 ASEAN kết nạp thêm Lào và Mianma, đến năm 1999 Campuchia mới tham gia vào tổ chức này. Với thời gian gia nhập Đông Nam á khác nhau như vậy, liệu ASEAN có sớm tìm được sự thống nhất để thành lập các ngân hàng trung ương chịu trách nhiệm về tài chính, tiền tệ hay công bố các tỷ giá hối đoái vĩnh viễn giữa các nước hay không? Trong khi để làm được những điều này, EU đã thành lập nhiều cơ quan chung và phối hợp liên minh tiền tệ sau thời gian rất dài. Đây là một khó khăn mà sự khắc phục của nó gắn liền với thời gian. Thêm vào đó, ở khu vực ASEAN còn tồn tại rất lớn các tranh chấp chủ quyền đất liền, vùng biển đảo, đặc biệt là tranh chấp biển Đông và các cuộc xung đột sắc tộc – tôn giáo, phong trào li khai và chủ nghĩa khủng bố đang có xu hướng gia tăng cùng với sự bất ổn về chính trị trong một số nước thành viên là những khó khăn ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình liên minh tiền tệ ASEAN . Chúng ta cũng nên xét đến thái độ cuả Mỹ về vấn đề này. Hiện này đồng USD đang được sử dụng đến 50% trong các hoạt động thương mại và 80% trên thị trường hối đoái quốc tế. Việc đồng EURO ra đời đã làm cho vai trò độc tôn của USD giảm đi đáng kể. Thế giới bớt lệ thuộc hơn vào đồng đô la, rủi ro về biến động tỉ giá được phân tán...chính vì vậy nếu ở Đông Nam á cũng hình thành thêm một đồng tiền chung thì hẳn Mỹ sẽ gây khó khăn cho tiến trình này. Và thực tế vị trí của đồng USD trên thế giới vẫn còn rất lớn. Ta biết rằng, thế giới của hội nhập hóa, khu vực hóa phát triển theo 5 cấp độ, từ khu vực mậu dịch tự do chung đến liên minh hải quan, khối thị trường chung, xây dựng liên minh kinh tế và cuối cùng là liên minh tiền tệ. Khó khăn của Đông Nam á trong việc hình thành đồng tiền chung là các nước chúng ta mới đang dừng ở hiệp hội chứ chưa phải là cộng đồng kinh tế như liên minh Châu âu. Trong khi để có được đồng tiền chung EURO như hiện naythì Châu âu đã thành lập nhiều cơ quan tài chính như Hội đồng Châu âu, UB Châu âu, ngân hàng trung ương Châu âu...Sau hàng thập kỉ làm thí nghiệm. đương nhiên trong bối cảnh mới những người đi sau sẽ tiết kiệm được thời gian nhưng không thể bỏ qua các bước của tiến trình vận động. Như vậy để có thể tiến tới một đồng tiền chung ASEAN phải vượt qua rất nhiều thử thách, khó khăn, nhưng bù lại nguồn lợi là vô cùng to lớn. ASEAN cần phải nghiên cứu kỹ những kinh nghiệm của khu vực đồng tiền chung Châu âu và những giải pháp để đẩy nhanh quá trình hình thành đồng tiền chung ASEAN. Chương 3. Kinh nghiệm của EU trong việc hình thành đồng tiền chung và những giải pháp thúc đẩy nhanh tiến trình hội nhập liên minh tiền tệ ASEAN 3. Các cơ sở cho sự ra đời của đồng EURO Việc xác lập được EMU và EURO chứng tỏ sự thành công nỗ lực của các nước tham gia EU. Kết quả đó theo các nhà Châu Âu khác, không phải là ngẫu nhiên mà có, những cơ sở kinh tế và chính trị chín muồi đã góp phần thúc đẩy việc ra đời của đồng EURO. 3.1. Cơ sở kinh tế. Đồng EURO ra đời là sự thống nhất về thị trường Châu Âu. Quá trình hợp nhất thị trường giữa các thành viên tham gia EU được mở ra từ 1/7/1968, khi mà các quốc gia thành viên EU thỏa thuận và thống nhất thiết lập trung một biểu thuế quan. Thời điểm này, biểu thuế quan đó được áp dụng với các hàng công nghiệp, còn các mặt hàng nông nghiệp được áp dụng vào tháng 1/1970. Sự nhất thể hóa thị trường được đẩy mạnh vào những năm cuối thập kỉ 80 của thế kỉ 20 và đến 1/1/1999, thị trường thống nhất bắt đầu chính thức hoạt động. Việc tự do hóa lưu thông hàng hóa dịch vụ, sự vận động của các nguồn vốn, các nguồn lao động và sự đi lại tự do của các công dân giữa các quốc gia trong EU đòi hỏi phải có một chính sách tiền tệ chung thống nhất. Thực tế cho thấy, việc nhất thể hóa sẽ khó thúc đẩy nếu thiếu một cơ chế chung về thanh toán các luồng tiền vốn nói chung và hàng hóa nói riêng. Sự bất cập đó phải được khắc phục bằng việc súc tiến để cho ra đời một hệ thống tiền tệ chung, yêu cầu Châu Âu phải có một phương tiện trao đổi thống nhất được điều tiết bằng một chính sách tiền tệ thống nhất. Ngay sau khi thị trường chung hình thành và đi vào hoạt động, người ta đã tìm thấy một thực trạng khá rõ ràng là thiếu một hệ thống chính sách tiền tệ thống nhất nếu như mỗi quốc gia thành viên vẫn cứ duy trì đồng tiền của nước mình và do đó sẽ không có cơ sở để thực thi một chính sách tỷ giá chung trong khi tham gia vào thị trường thương mại Quốc tế, như thế sẽ khó có thể hình thành một thị trường thống nhất thực sự. Đợt khủng hoảng cơ chế tỷ giá Châu Âu vào năm 92-93 chỉ ra rằng, trong điều kiện đó mọi cơ chế điều chỉnh tỷ giá đều trở thành kém hiệu quả hơn bao giờ hết. Mâu thuẫn ở đây là: Trong khi các nước cố gắng xúc tiến hoạt động của một thị trường chung thống nhất song lại thiếu đi một chính sách tiền tệ chung và do vậy những nỗ lực đó khó mà đạt hiệu quả được. Vì vậy, Grainville, một chuyên gia kinh tế Châu Âu khẳng định: "Nếu không có một đồng tiền chung thống nhất, thị trường thống nhất sẽ trở thành một thị trường bất công nhất." Việc lưu hành một đồng tiền chung cùng với việc xóa bỏ tỉ giá hối đoái khác nhau giữa các nước khác nhau trong khu vực tao nên động lực mạnh cho khả năng tăng cương sức mạnh kinh tế, tăng cường sức mạnh cạnh tranh trên thị trường Quốc tế trong lĩnh vực hàng hóa và dịch vụ nói chung, đồng thời tăng tổng cầu trên toàn lãnh thổ Châu Âu. Tạo môi trường thuận lợi đầu tư ổn định, thông thoáng với các mức rủi ro thấp, giảm chi phi giao dịch trong qua trình trao đổi giữa các quốc gia. Việc thống nhất tiền tệ sẽ thúc đẩy nhanh quá trình thống nhất kinh tế trong toàn khu vực, tạo ra sức cạnh tranh mới trong cho cộng đồng Châu Âu trên thị trường Quốc tế. Khi đồng EURO được lưu hành thống nhất sẽ loại bỏ sự khác biệt giữa các quốc gia thành viên, tạo một thị trường thống nhất đủ mạnh như một quốc gia lớn, đủ sức cạnh tranh với Mỹ và Nhật Bản. Khi liên minh tiền tệ được thành lập sẽ tạo khả năng tham gia mạnh hơn vào thương mại Quốc tế, thị trường vốn và dự trữ Quốc tế. Những cơ sở kinh tế đó tạo thành những đòi hỏi khách quan, thúc đẩy sự ra đời của đồng EURO nhằm đáp ứng trước hết lợi ích của các quốc gia thành viên, sau nưa là lợi ích của Châu Âu trước sự lớn mạnh của các khu vực khác. 3.2. Cơ sở chính trị. Trước hết, sự hình thành đồng tiền chung Châu Âu là kết quả tất yếu của mong muốn chia sẻ quyền lực, tiềm lực tiền tệ giữa các quốc gia thành viên EU: một mặt đảm bảo các lợi ích quốc gia thành viên trong các quan hệ kinh tế, mặt khác hạn chế quyền lực của nước Đức trong việc quyết định các vấn đề liên quan đến tiền tệ. Sự kiện tái hợp nước Đức( Đông và Tây Đức) là một trong những tác động trực tiếp thúc đẩy sự nhất trí đưa đên hiệp ước Maastricht(năm 90 tổng thống Pháp đề xuất nước Đức chia sẻ quyền lực tiền tệ để đổi lấy sự đồng ý thống nhất nước Đức của các nước đồng minh). Trong thời gian đó, đồng Denmark có sức mạnh trong hệ thống tiền tệ thế giới chỉ sau đồng USD. Khi ấy nước Đức như một anh cả về kinh tế trong các nước EC. Vì vậy, để tất cả các nền kinh tế khác có thể lớn mạnh, điều cần làm là phải không để quyền lực tiền tệ duy nhất rơi vào tay nước Đức. Mặt khác, sau khi Liên Xô sụp đổ và Đông Âu tan rã, cục diện chính trị thế giới thay đổi, quyền lực chính trị ngày càng nghiêng về phía Mỹ. Sự tồn tại của liên minh Châu Âu vời tiềm lực kinh tế vững chắc sẽ hậu thuẫn cho vai trò của EU trên bàn đàm phán các vấn đề liên quan đến trật tự thế giới, cũng như các cuộc thỏa thuận trên chính trường Quốc tế về các vấn đề liên quan đến vị thế của EU trong một thế giới mà Liên Xô không còn nữa. Bức tranh chính trị của Châu Âu những năm 91-92 biến đổi sâu sắc. Đứng trước bối cảnh đó, cần sớm ổn định tình hình và chấm dứt tình trạng đối đầu về chính trị, các nước EU xúc tiến mạnh việc nhất thể hóa thị trường nhằm giảm bớt những khác nhau về quan điểm trong các thương lượng chính trị và đó cũng là nhân tố thúc đẩy hiệp ước Maastricht ra đời. Có thể nói, đồng EURO ra đời là kết quả của sự thay đổi sâu sắc của bức tranh địa chính trị của Châu Âu vào thời điểm này. 3.3. Cơ sở pháp lý: Cơ sở pháp lý cho sự ra đời của EURO là các văn bản pháp quy của liên minh, cao nhất thể hiện trong các hiệp ước hoặc các nghị quyết có liên quan được nghị viện Châu Âu, Uỷ ban Châu Âu, hội đồng Châu Âu, hội đồng các bộ trưởng kinh tế tài chính Châu Âu phê chuẩn. Bên cạnh đó, hệ thống pháp luật của mỗi nhà nước thành viên phải ban hành nhiều văn bản luật cần thiết khác đảm bảo đầy đủ cơ sở pháp lý cho đồng EURO ra đời và thay thế hợp pháp, vĩnh viễn các đồng tiền Quốc gia đã lưu hành từ bao đời nay. 4. Kinh nghiệm của EU trong việc hình thành đồng EURO Đồng EURO ra đời sau một quá trình chuẩn bị công phu về mọi phương diện: Hợp tác chính trị, hợp tác kinh tế tài chính tiền tệ. EURO có đầy đủ cơ sở pháp lý đảm bảo sự ra đời hợp pháp như một đồng tiền thực thụ. Từ ngày 1/1/1999 đến 1/1/2002 là giai đoạn đổi tiền, diễn ra trong 6 tháng, kết thúc vào 1/7/2002, EURO đã chính thức tung vào lưu thông tiền tệ đồng EURO bằng tiền mặt(gồm tiền giấy và tiền kim loại). Từ 1/7/2002 các đồng bản tệ sẽ hoàn toàn rút khỏi lưu thông, nhường chỗ duy nhất cho đồng EURO lưu hành hợp pháp trong khối EU - 11. Việc đồng EURO ra đời đã nâng vị trí Quốc tế của liên minh Châu Âu lên một tầm cao mới, báo hiệu một chiến tranh giành vị trí độc tôn của đồng Đôla, tạo ra một tam giác tiền tệ là đồng EURO, đồng Đô la Mỹ và đồng Yên Nhật. Ngoài ra, khi EU lưu hành một đồng tiền chung thì các nước thành viên sẽ được hưởng những lợi ích hết sức quan trọng và căn bản như: có một thị trường chung đồng nhất và hiệu quả, tiết kiệm đáng kể chi phí giao dịch ngoại hối, giảm rủi ro và chi phí bảo hiểm về tỷ giá hối đoái, khuyến khích đầu tư, khuyến khích tăng trưởng kinh tế... Vậy những yếu tố nào đã làm nền tảng cho việc ra đời và ổn định sức mạnh của đồng EURO? Trước hết, Châu Âu đã hình thành một loạt các cơ quan tài chính để chia sẻ nguồn dự trữ của khu vực và phối hợp liên minh tiền tệ. Quan trọng nhất là 3 quyết định thành lập sau: Thành lập liên minh tiền tệ Châu Âu gồm 11 nước thành viên. Quyết định thành lập ngân hàng Trung ương Châu Âu chịu trach nhiệm vận hành chính sách tiền tệ. Công bố tỷ giá hối đoái song phương cố định và vĩnh viễn cho các đồng tiền thành viên. Đây chính là những cơ sở pháp lý để tạo nên đông EURO-đồng tiền đã thay thế 11 đồng tiền Quốc gia thành viên Châu Âu và đã được chào đón ở thị trường chứng khoán ở Châu Âu, Châu á và cuối cùng ở Mỹ. Ngoài các yêu tố pháp lý, liên minh Châu Âu còn chuẩn bị những yếu tố chính trị - xã hội để đảm bảo cho sự ra đời và thành công của đồng EURO. Đó là các yếu tố như quyết tâm chính trị cao; công tác chuẩn bị có những bước đi hợp lý; có kỷ luật tài chính hà khắc; có chính sách tiền tệ thống nhất; ngân hàng Trung ương độc lập... Qua tiến trình chuẩn bị và hình thành đồng EURO, chúng ta có thể nhận thấy việc hình thành đồng tiền chung ASEAN xét vào hoàn cảnh hiện nay thì ASEAN chỉ đi những bước khởi động cho qua trình này. Điều mà ASEAN cần làm là thu hẹp khoảng cách giữa các nước và các nhóm nước thành viên, tăng cường thúc đẩy hơn nữa việc tham gia thực hiện các chương trình hợp tác ASEAN, tiến hành hội nhập từng bước mở cửa thị trường dần dần với lộ trình hợp lý, giải quyết các vấn đề về an ninh khu vực và tính chưa nhất quán về chính trị tư tưởng của các nước thành viên, từ đó có thể tiến tới việc thành lập các cơ quan tài chính ASEAN mở đường cho việc hình thành đồng tiền chung của khu vực Đông Nam á. 5. Triển khai lộ trình hội nhập liên minh tiền tệ ASEAN. Về cơ bản, các nghiên cứu và phân tích cho rằng có 2 phương pháp chính để thành lập liên minh tiền tệ khu vực. Phương pháp thứ nhất, hợp tác tiền tệ được tiến hành cho cả khu vực cùng một lúc. Phương pháp thứ 2 thận trọng hơn và đề xuất hợp tác theo từng nhóm nhỏ trước khi tiến hành nhất thể hóa tiền tệ cho cả khu vực. Phương pháp thứ nhất đề xuất thu được sự ủng hộ cao nhất là tỷ giá neo theo tiền tệ chung. Đây là hình thức trung gian giữa thả nổi tự do và liên minh tiền tệ, dẫu tiền tệ được đề xuất ở đây là đồng đo la Mỹ, đồng Yên và đồng EURO, bởi các nước Đông Nam á chủ yếu có quan hệ thương mại với các khu vực và nước sử dụng đồng tiền này. Một đề xuất nữa là thành lập một đồng tiền chung Châu á, cố định tỷ giá của các đồng tiền và thả nổi đồng tiền tuy nhiên đề xuất này không góp phần ổn định thương mại với Mỹ và EU nên đề xuất này không thuyết phục. Một nội dung quan trọng trong vấn đề hợp tác tiền tệ giữa các nước ASEAN là thiết lập hệ thống thanh toán tiền tệ ASEAN đối với các giao dịch hàng hóa để giảm bớt nhu cầu đồng USD trong khu vựcvà góp phần ổn định các đồng tiền trong khu vực chẳng hạn như tạo nên một hệ thống thương mại nội vùng ASEAN mà chỉ dùng một đồng tiền chung để thanh toán. Tuy nhiên để thực hiện điều này không chỉ bản thân các nước có môi trường kinh tế vi mô có ổn định mà vấn đề còn là tăng cường liên kết khu vực, bởi lẽ các nền kinh tế ASEAN càng hội nhập thì tính khả thi của việc ra đời đồng tiền chung ASEAN càng cao. Ngoài ra các nước ASEAN và các nước Đông Nam á nên có một cơ cấu phối hợp tỷ giá hối đoái linh hoạt, có thể chống lại sức ép của Mỹ đối với chính sách thị trường và thương mại. Đồng thời trong các cuộc họp tài chính ASEAN hàng năm nên có sự tham gia của các thống đốc ngân hàng trung ương để thảo luận cụ thể hơn về các biện pháp ổn định thị trường tài chính – tiền tệ, tương tự như diễn đàn các thống đốc ngân hàng trung ương và các bộ trưởng tài chính cuả nhóm G7 dự kiến trong tháng 5 này trong thời gian diễn ra cuộc họp thường niên của các ngân hàng phát triển Châu á, các thủ trưởng tài chính của 13 nước Châu á sẽ có một quyết định cụ thể về vấn đề hợp nhất các hiệp định song phương theo sáng kiến Chiềng mai và thành lập một hiệp định đa phương về vấn đề này. Đây được coi là bước đi đầu tiên nhằm tiến tới một liên minh tiền tệ của Đông Nam á trong tương lai. Rõ ràng, tăng cường hợp tác tài chính là một giải pháp hiệu quả nhất và hữu ích nhất đối với các nước ASEAN để có thể tạo nên sức mạnh của cả khối thành lập một liên minh tiền tệ trong tương lai. Muốn vậy họ phải tăng cường giao dịch, tăng cừơng đầu tư và tăng cường thu hút du lịch trong nội khối ASEAN và mở rộng sang các nước khác như Trung Quốc, ấn độ, Nhật Bản để thu được lợi từ chính sự phát triển của các nước láng giềng này. Tuy nhiên, để đạt được điều này đòi hỏi các quyết định dứt khoát, ý chí chính trị và nỗ lực vượt bậc của các nước thành viên. Kết luận Như vậy, xét về quan điểm kinh tế ASEAN thích hợp với đồng tiền chung như đồng EURO ở Châu âu. Tuy nhiên có những khó khăn phát sinh khi thực hiện liên minh tiền tệ như: mức thu nhập chênh lệch giữa các nước trong khu vực ASEAN, trình độ phát triển không đồng đều, ASEAN chưa có ngân sách tập trung ở mức liên minh, những tranh chấp chủ quyền còn tồn tại trong khu vực hay những rào cản cạnh tranh từ phía Mỹ hay các tổ chức khác đối việc hình thành đồng tiền chung... dù vậy,ASEAN cũng có những thuận lợi từ AFTA, và đặc biệt là từ kế hoạch thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc đang dần dần được triển khai sẽ là những tác động tích cực thúc đẩy ASEAN thực hiện tiến trình này. Phát triển đến một đồng tiền chung ASEAN là một thách thức không nhỏ nhưng nếu ASEAN xuất phát từ AFTA để tiến tới một đồng tiền chung thì những thách thức phía trước tuy còn nhiều nhưng vẫn có khả năng vượt qua được. Để có một đồng tiền chung ASEAN cũng cần phải nghiên cứu kỹ những kinh nghiệm của khu vực đồng tiền chung Châu âu để rút ra được những bài học bổ ích cho việc xây dựng và hoàn thiện tiến trình. Sự ra đời của đồng ASEAN phải là kết quả của cả một quá trình chuẩn bị lâu dài, cẩn thận từ thấp đến cao, không vội vàng, không đột ngột, thích hợp với sự vận động của thực tế. Đạt được tiến trình này ASEAN sẽ thu được rất nhiều lợi ích trên mọi lĩnh vực kinh tế, thương mại, ngân hàng, đối ngoại,... điều đó sẽ nâng cao vị trí của khu vực, giúp kinh tế Đông Nam á tăng trưởng và phát triển đồng đều với các khu vực khác trên thế giới. Có được đồng tiền chung ASEAN sẽ vững vàng tiến bước trên con đường toàn cầu hóa kinh tế, đủ sức cạnh tranh với các tổ chức khác. Thế kỉ 21 là thế kỉ của Châu á ! Tài liệu tham khảo Báo: Thời báo tài chính Việt Nam ra ngày 26/6/2003 - 20/9/2003. Thời báo tài chính tháng 5/2004. Tin tức ra ngày 8/8/2003. Nghiên cứu Đông Nam á tháng 1/2003. Nghiên cứu Đông Nam á tháng 2/2004. Các nghiên cứu quốc tế số 54, 55. Kinh tế Châu á - Thái bình dương tháng 2/2004. Hợp tác kinh tế và khu vực. Sách: EURO vị thế quốc tế - Nhà xuất bản tài chính 2002 Thời báo ngân hàng số 2002, 2003, 2004. Các website: Bvom.com Vninvetst.com Mofa.gov.vn/quocte Media.vdc.com.vn Mục lục Lời nói đầu 1 Chương I: Nhìn nhận chung về tình hình kinh tế ASEAN 3 1.1. Lịch sử hình thành ASEAN 3 1.1.1. Mục đích thành lập 3 1.1.2. Cơ cấu tổ chức của ASEAN 4 1.1.3. Nguyên tắc hoạt động chủ yếu của ASEAN 5 1.2. Liên kết kinh tế ASEAN trong những năm gần đây. 7 1.3. Kinh tế ASEAN những năm gần đây. 7 Chương II: Khả năng hình thành đồng tiền chung ASEAN 12 2.1. Các tác động có thể dẫn tới đồng tiền chung ASEAN 2.1.1 Bối cảnh quốc tế và khu vực 12 2.1.2. Tác động của AFTA. 14 2.1.3. Kế hoạch thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc (AC - FTA). 16 2.1.4. Quan hệ kinh tế ASEAN và một số nước. 17 3. Phân tích khả năng hình thành đồng tiền chung ASEAN. 19 3.1. Những nguồn lợi mà đồng tiền chung ASEAN có thể mang lại. 20 3.2. Những khó khăn khi hình thành đồng tiền chung ASEAN. 21 Chương 3. Kinh nghiệm của EU trong việc hình thành đồng tiền chung và những giải pháp thúc đẩy nhanh tiến trình hội nhập liên minh tiền tệ ASEAN 24 3. Các cơ sở cho sự ra đời của đồng EURO 24 3.1. Cơ sở kinh tế. 24 3.2. Cơ sở chính trị. 26 3.3. Cơ sở pháp lý 27 4. Kinh nghiệm của EU trong việc hình thành đồng EURO 27 5. Triển khai lộ trình hội nhập liên minh tiền tệ ASEAN. 29 Kết luận 32 Tài liệu tham khảo 33

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29174.doc
Tài liệu liên quan