Đặc điểm sốt cấp tính ở trẻ từ 1 - 36 tháng nhập khoa tổng hợp 3 - bệnh viện Nhi đồng 2

KẾT LUẬN Qua nghiên cứu 487 trẻ từ 1- 36 tháng tuổi bị sốt cấp tính nhập khoa Nội Tổng hợp 3, bệnh viện Nhi Đồng 2 từ tháng 7/2005 đến tháng 3/2006 chúng tôi có được các kết quả sau: Các nguyên nhân gây sốt cấp tính: Viêm mũi họng (24,6%), viêm tai giữa (9%), viêm thanh quản (3,3%),nhiễm siêu vi (14,2%), viêm tiểu phế quản (2,7%), viêm phổi (28,3%),viêm màng não (1,2%), tiêu chảy cấp (4,5%), tiêu chảy nhiễm trùng (3,3%), nhiễm trùng tiểu (1,4%), sốt xuất huyết (1,2%), viêm mô tế bào (3,7%), nhiễm trùng không xác định (2%), Kawasaki (0,4%), nhiễm trùng huyết có 01 trường hợp nằm trong bệnh cảnh nhiễm trùng tiêu hóa. Mối liên quan giữa các yếu tố chỉ điểm và nhiễm trùng - Có mối liên quan giữa thang điểm Yales và nhiễm trùng nặng: thang điểm Yales càng cao thì tỉ lệ nhiễm trùng càng tăng. Có mối liên quan giữa gia tăng số lượng bạch cầu và bạch cầu đa nhân trung tính trong máu ngọai vi với nhiễm trùng nặng. Không có mối liên quan giữa mức độ sốt và sốt co giật với nhiễm trùng nặng. Không có mối liên quan giữa giá trị CRP/ huyết thanh và nhiễm trùng nặng.

pdf7 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 27/01/2022 | Lượt xem: 126 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm sốt cấp tính ở trẻ từ 1 - 36 tháng nhập khoa tổng hợp 3 - bệnh viện Nhi đồng 2, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 11 * Phụ bản Số 1* 2007 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Sức Khỏe Bà Mẹ – Trẻ Em 104 ĐẶC ĐIỂM SỐT CẤP TÍNH Ở TRẺ TỪ 1 - 36 THÁNG NHẬP KHOA TỔNG HỢP 3 - BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 2 Đỗ Ngọc Đức*, Nguyễn Thị Thanh Lan** TÓM TẮT Mục tiêu: Xác định nguyên nhân gây sốt cấp tính ở trẻ từ 1-36 tháng và một số yếu tố có liên quan đến mức độ nặng nhẹ của nguyên nhân gây sốt. Phương pháp nghiên cứu: tiền cứu, mô tả và phân tích. Kết quả: Phân bố nguyên nhân gây sốt: viêm mũi họng (24,6%), viêm tai giữa (9%), viêm thanh quản (3,3%), nhiễm siêu vi (14,2%), viêm tiểu phế quản (2,7%), viêm phổi (28,3%), viêm màng não (1,2%), tiêu chảy cấp (4,5%), tiêu chảy nhiễm trùng (3,3%), nhiễm trùng tiểu (1,4%), sốt xuất huyết (1,2%), viêm mô tế bào (3,7%), nhiễm trùng không xác định (2%), Kawasaki (0,4%), nhiễm trùng huyết có 01 trường hợp nằm trong bệnh cảnh nhiễm trùng tiêu hóa. Có mối liên quan giữa thang điểm Yales và nhiễm trùng nặng: thang điểm Yales càng cao thì tỉ lệ nhiễm trùng càng tăng (16: 66,7%, p= 0,0001). Có mối liên quan giữa gia tăng số lượng bạch cầu (< 15.000/mm 3 : 35,5%, > 15.000/mm 3 : 40,6%, p=0,003) và bạch cầu đa nhân trung tính trong máu ngoại vi với tình trạng nhiễm trùng nặng (< 10.000/mm 3 : 31%, > 10.000/mm 3 : 52,9%, p=0,072). Không có mối liên quan giữa mức độ sốt (p=0,68) và sốt co giật với nhiễm trùng nặng (p= 0,06). Không có mối liên quan giữa giá trị CRP và nhiễm trùng nặng (p= 0,072). Kết luận: Các yếu tố gia tăng BC và BCĐNTT trong máu ngoại vi, thang điểm Yales có ý nghĩa ước đoán bệnh nhiễm trùng nặng ở trẻ em. SUMMARY THE CHARACTERISTICS OF ACUTE FEVER IN CHILDREN 1 – 36 MONTHS OLD AT DEPARTEMENT 3 – CHILDREN HOSPITAL NO2 Do Ngoc Duc, Nguyen Thi Thanh Lan * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 11 – Supplement of No 1 – 2007: 104 – 109 Objective: identification of causes and several factors that correlate to severity of etiology of acute fever. Methode: prospective study, description and analysis of series of cases. Results: Etiology of fever: ORL infection (24.6%), middle otitis (9%), laryngitis (3.3%), viral infection (14.2%), bronchiolitis (2.7%), pneumonia (28.3%), meningitis (1.2%), acute diarrhea (4.5%), bacterial diarrhea (3.3%), urinary tract infection(1.4%), dengue fever (1.2%), cellulitis (3.7%), undetermined infection(2%), kawasaki (0.4%). This study shows in evidence that there is significant correlation between Yales scores (16: 66.7%, p= 0.0001), WBC counts to severity of etiology of fever (< 15.000/mm 3 : 35.5%, > 15.000/mm 3 : 40,6%, p=0.003). Conclusion:The Yales scores and WBC counts are significant in predicting a severity of etiology of fever in children. * Bệnh viện Nhi Đồng 2 TP. Hồ Chí Minh. ** Bộ môn Nhi Đại học Y dược Tp. Hồ Chí Minh Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 11 * Phụ bản Số 1* 2007 Nhi Khoa 105 MỞ ĐẦU Sốt là triệu chứng rất thường gặp ở các phòng cấp cứu nhi khoa, đặc biệt ở trẻ dưới 3 tuổi. Biểu hiện lâm sàng của sốt ở trẻ nhỏ rất đa dạng và không đặc hiệu, đôi khi rất phức tạp, trẻ có thể tử vong nhanh chóng nếu không được chẩn đoán chính xác và cấp cứu kịp thời. Do đó làm thế nào để tiếp cận bệnh nhi nhỏ tuổi sốt mà không bỏ sót các trường hợp nặng cần chăm sóc tích cực là một yêu cầu bức thiết của thực tế lâm sàng. Trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu sốt ở trẻ nhỏ dưới 36 tháng, trong khi tình hình nghiên cứu trong nước về sốt ở nhóm tuổi này không nhiều. Do đó tìm hiểu các nguyên nhân gây sốt thường gặp, cũng như các yếu tố liên quan đến mức độ trầm trọng của sốt ở trẻ nhỏ từ 1 - 36 tháng tuổi trong hoàn cảnh Việt Nam là mục tiêu của nghiên cứu này. ĐỐI TƯỢNG & PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Tất cả trẻ từ 1-36 tháng tuổi bị sốt cấp tính > 38 0 C nhập khoa Tổng hợp 3 bệnh viện Nhi đồng 2 TP HCM trong thời gian từ tháng 7/2005 đến tháng 03/2006. Phương pháp nghiên cứu là tiền cứu, mô tả và phân tích. Số liệu thu thập được sẽ xử lý bằng phần mềm thống kê SPSS 12.0 for windows. KẾT QUẢ Trong khoảng thời gian từ tháng 07/2005 đến tháng 03/2006, có 487 trẻ dưới 36 tháng tuổi bị sốt cấp tính nhập khoa Nội tổng hợp 3 - Bệnh viện Nhi đồng 2. Đặc điểm đối tượng nghiên cứu Giới: nam: 284 t/h (58,3%), nữ: 203 t/h (41,7%). Tuổi: 3 tháng: 462 t/h (94,9%). Nơi cư trú: TP: 394 t/h (80,9%), tỉnh: 93 t/h (19,1%). Tiền căn bú mẹ: 404/487 t/h (82,9%). Chủng ngừa cơ bản: 478/487 t/h (98,2%). Chủng ngừa ActHib: 190/487 t/h (39%). Kháng sinh trước nhập viện: 246/487 t/h (50,5%). Ngày sốt trước nhập viện: < 3 ngày: 425 t/h (87,3%), > 3 ngày: 62 t/h (12,7%). Đặc điểm sốt Sốt cao > 38 0 5C chiếm 77,2%, sốt vừa 38 0 - < 38 0 5C chiếm 22,8%, sốt đơn thuần có 42/487 t/h (8,6%), sốt có đi kèm các triệu chứng khác: 445/487 t/h (91,4%). Các triệu chứng ho, sổ mũi (71,2%), và ói (47%) là các triệu chứng thường gặp đi kèm với sốt. Sốt đi kèm co giật chiếm 17,6%, chủ yếu xảy ra ở nhóm tuổi > 3 tháng (97,7%), và chủ yếu ở nhóm trẻ sốt cao (75,6%). Tuy nhiên, trẻ sốt vừa cũng có đến 24,4% bị co giật. Đặc điểm cận lâm sàng Số lượng bạch cầu trong máu ngọai vi 49,1% có BC trong máu ngọai vi > 15.000/mm 3 . Số lượng bạch cầu đa nhân trung tính trong máu ngọai vi > 10.000/mm 3 chỉ chiếm 31,8%. Nồng độ CRP trong huyết thanh Nồng độ CRP < 20mg/l chiếm 60%. X quang phổi Hình ảnh x quang phổi bình thường (56,7%), viêm phổi (28,3%), viêm phế quản (13%), và viêm tiểu phế quản (2%). Cấy nước tiểu Được thực hiện cho tất cả trẻ trong nghiên cứu này, tỉ lệ cấy dương tính rất thấp (1,4%), tỉ lệ ngoại nhiễm (21,8%). Tác nhân chủ yếu là E.coli. Ngoài ra, qua thử nước tiểu bằng que thử ghi nhận Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 11 * Phụ bản Số 1* 2007 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Sức Khỏe Bà Mẹ – Trẻ Em 106 có 9 trường hợp bạch cầu dương (1,8%) và 4 trường hợp nitrite dương (0,8%), nhưng chỉ có 3/9 trường hợp có BC niệu dương tính cho kết quả cấy dương tính. Cấy máu 143 trường hợp được cấy máu, tỉ lệ cấy máu dương tính rất thấp, chỉ có 1 trường hợp chiếm 0,7%, tác nhân nhiễm trùng được xác định là Acinetobacter. Phân bố nguyên nhân gây sốt Viêm mũi họng (24,6%), viêm tai giữa (9%), viêm thanh quản (3,3%),nhiễm siêu vi (14,2%), viêm tiểu phế quản (2,7%), viêm phổi (28,3%), viêm màng não (1,2%), tiêu chảy cấp (4,5%), tiêu chảy nhiễm trùng (3,3%), nhiễm trùng tiểu (1,4%), sốt xuất huyết (1,2%), viêm mô tế bào (3,7%), nhiễm trùng không xác định (2%), Kawasaki (0,4%), nhiễm trùng huyết 01 trường hợp nằm trong bệnh cảnh nhiễm trùng tiêu hóa. Tỷ lệ nhiễm trùng nặng Trong nghiên cứu này chúng tôi xếp viêm màng não, viêm phổi, viêm mô tế bào, nhiễm trùng tiểu, tiêu chảy nhiễm trùng vào nhóm nhiễm trùng nặng. Kết quả ghi nhận có 185 trường hợp nhiễm trùng nặng chiếm 38%, trong đó trẻ < 3 tháng có 9/487 trường hợp chiếm 4,9%, và > 3 tháng có 176/487 trường hợp chiếm 95,1%. Tỉ lệ nhiễm trùng nặng trong từng nhóm tuổi như sau: nhóm trẻ 3 tháng: 38% (176/462). Nhận xét về mối liên quan giữa sốt và nhiễm trùng nặng Mối liên quan giữa mức độ sốt và nhiễm trùng nặng Bảng 1: Mức độ sốt và nhiễm trùng nặng Nhiễm trùng nặng Có Không Số trường hợp Tỉ lệ % Số trường hợp Tỉ lệ % Sốt vừa 56 50,5 55 49,5 Sốt cao 129 34,3 247 65,7 Tổng cộng 185 302 Không có mối liên quan giữa mức độ sốt và nhiễm trùng nặng (p = 0,68). Mối liên quan giữa sốt co giật và nhiễm trùng nặng Bảng 2: Sốt co giật và nhiễm trùng nặng Nhiễm trùng nặng Có Không Số trường hợp Tỉ lệ % Số trường hợp Tỉ lệ % Co giật 23 26,7 63 73,3 Không co giật 162 40,4 239 59,6 Tổng cộng 185 302 Không có mối liên quan giữa sốt co giật và nhiễm trùng nặng (p = 0,06). Mối liên quan giữa thang điểm Yales và nhiễm trùng nặng. Bảng 3: Mối liên quan giữa thang điểm Yales và nhiễm trùng nặng Thang điểm Yales Không nhiễm trùng nặng Nhiễm trùng nặng Số trường hợp % Số trường hợp % < 10 248 65,9 128 34,1 10 -16 52 49,5 53 50,5 > 16 2 33,3 4 66,7 Tổng cộng 302 185 Có mối liên quan có ý nghĩa giữa thang điểm Yales và nhiễm trùng nặng. Thang điểm Yales cao thì khả năng trẻ bị nhiễm trùng nặng cao (p = 0,0001). Khảo sát về mối liên quan giữa một số yếu tố chỉ điểm nhiễm trùng và nhiễm trùng nặng Số lượng bạch cầu /máu và nhiễm trùng nặng Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 11 * Phụ bản Số 1* 2007 Nhi Khoa 107 Kết quả cho thấy: nguy cơ nhiễm trùng nặng cao nếu số lượng bạch cầu trong máu ngoại vi 15000/mm 3 (p < 0,05). Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê. Số lượng bạch cầu đa nhân trung tính trong máu và nhiễm trùng nặng Bạch cầu đa nhân trung tính tăng cao thì nguy cơ nhiễm trùng nặng xảy ra cao. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) Mối liên quan giữa CRP và nhiễm trùng nặng Bảng 4: Mối liên quan giữa CRP và nhiễm trùng nặng CRP (mg/ml) Nhiễm trùng nặng Có % Không % < 20 123 42,1 169 57,9 20 62 31,8 133 68,2 Tổng cộng 185 302 Không có mối liên quan giữa CRP và tình trạng nhiễm trùng nặng, (p > 0,05). BÀN LUẬN Phân bố nguyên nhân gây sôt theo nhóm tuổi Ở nhóm < 3 tháng đa số trẻ bị NSV (56%), kế đến là viêm phổi (20%), viêm màng não(8%) và viêm mũi họng (4%). Ở nhóm > 3 tháng, đứng đầu là viêm phổi (28,8%), kế đến là viêm mũi họng (25,8%), nhiễm siêu vi (11,9%), còn lại là các bệnh lý khác. Tỉ lệ nhiễm trùng nặng trong dân số nghiên cứu chiếm tỉ lệ 38%, bao gồm các bệnh như: viêm màng não, viêm phổi, viêm mô tế bào, nhiễm trùng tiểu, tiêu chảy nhiễm trùng. Phân bố nhiễm trùng nặng theo nhóm tuổi, chúng tôi nhận thấy ở trẻ <3 tháng có 9/185 trường hợp, chiếm 4,9% dân số trẻ nhiễm trùng nặng và chiếm 36% trong nhóm trẻ < 3 tuổi (9/25). Trong khi đó ở trẻ > 3 tháng có 176/185 trường hợp bị nhiễm trùng nặng, chiếm 95,1% và chiếm 38% trong nhóm trẻ > 3 tháng (176/462). Như vậy tỉ lệ nhiễm trùng nặng trong từng nhóm tuổi không có sự khác biệt (36% so với 38%), nhưng nếu so sánh trong toàn bộ dân số trẻ bệnh nặng thì trẻ < 3 tháng chiếm tỉ lệ thấp. Nhận xét sự liên quan giữa sốt và nhiễm trùng nặng Mối liên quan giữa mức độ sốt và nhiễm trùng nặng Tỉ lệ nhiễm trùng nặng ở nhóm trẻ sốt vừa là 50,5% và ở trẻ sốt cao là 34,3%. Phân tích thống kê cho thấy không có mối liên quan giữa 2 yếu tố này (p< 0,05). Điều này có thể giải thích do cỡ mẫu của chúng tôi chưa đủ lớn, thời điểm lấy nhiệt độ lúc vào có thể trẻ đã được uống hạ nhiệt trước hoặc làm mát bằng phương pháp vật lý trước khi đến bệnh viện nên không phản ánh một cách chính xác thân nhiệt của trẻ. Theo nhiều tác giả, nhiệt độ tăng cao > 40 O C ở trẻ < 3 tháng có ý nghĩa tiên đoán khả năng nhiễm trùng nặng (2,7,8,9) . Luszczak cho rằng nguy cơ du khuẩn huyết gia tăng khi thân nhiệt trẻ > 40,9 O C (5) . Tuy nhiên, ở trẻ nhỏ thân nhiệt bình thường hoặc hạ nhiệt cũng có thể có nhiễm trùng nặng (2) . Mối liên quan giữa sốt co giật và nhiễm trùng nặng Ở nhóm trẻ có co giật, tỉ lệ nhiễm trùng nặng là 26,7%, và ở nhóm trẻ không co giật, tỉ lệ nhiễm trùng nặng là 40,4%. Phân tích thống kê cũng cho thấy không có mối liên quan giữa sốt co giật và nhiễm trùng nặng (p< 0,05). Như vậy yếu tố co giật đi kèm sốt không phải là yếu tố nói lên bệnh nặng, theo một số tác giả sốt cao co giật phần lớn có nguyên nhân do siêu vi trùng. Tuy nhiên, theo chương trình lồng ghép của Bộ Y tế và Tổ chức Y Tế Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 11 * Phụ bản Số 1* 2007 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Sức Khỏe Bà Mẹ – Trẻ Em 108 Thế giới co giật luôn luôn là một dấu hiệu nguy hiểm toàn thân, mỗi bác sĩ nhi khoa cần phải đánh giá đúng mức để tránh bỏ sót bệnh nặng, nhất là biểu hiện sốt co giật xảy ra ở lứa tuổi nhỏ, cần phải loại trừ nguyên nhân nhiễm trùng thần kinh (1) . Mối liên quan giữa thang điểm Yales và nhiễm trùng nặng Thang điểm Yales được McCarthy đề xuất như là một phương tiện ước đoán trên lâm sàng khả năng nặng nhẹ của nguyên nhân gây sốt. Việc cho điểm chủ yếu dựa trên quan sát mức độ phản ứng tâm thần vận động của trẻ với môi trường xung quanh. Theo McCarthy, điểm Yales càng cao, trẻ càng có nguy cơ nhiễm trùng nặng (7,8) . Qua nghiên cứu này, chúng tôi cũng sơ bộ áp dụng cách cho điểm Yales, kết quả cho thấy ở nhóm trẻ có điểm Yales < 10, tỉ lệ nhiễm trùng nặng là 34,1%, ở trẻ có điểm Yales từ 10 - 16, tỉ lệ này là 50,5%, và ở nhóm trẻ có điểm Yales > 16 tỉ lệ nhiễm trùng nặng là 66,7%. Phân tích thống kê cho thấy có mối liên quan giữa thang điểm Yales và nhiễm trùng nặng, thang điểm càng cao >16 thì khả năng trẻ bị nhiễm trùng nặng càng cao (p = 0,0001). Như vậy, theo chúng tôi nếu áp dụng thang điểm Yales sẽ định hướng cho thầy thuốc đánh giá đúng mức độ nặng của bệnh, tránh bỏ sót các nguyên nhân có thể nguy hiểm đến tính mạng của trẻ. Nhận xét mối liên quan giữa một số yếu tố chỉ điểm nhiễm trùng và nhiễm trùng nặng Mối liên quan giữa bạch cầu máu với nhiễm trùng nặng Nhóm trẻ có BC < 15.000/mm 3 , tỉ lệ nhiễm trùng nặng là 35,5%. Trong khi, nhóm BC 15.000/mm 3 tỉ lệ nhiễm trùng nặng là 40,6%. Phân tích thống kê cho thấy nguy cơ nhiễm trùng nặng cao nếu số lượng bạch cầu trong máu 15.000/mm 3 (p < 0,005). Tương tự, qua khảo sát mối liên quan giữa BCĐNTT và nhiễm trùng nặng chúng tôi cũng thấy có mối liên quan có ý nghĩa thống kê, BCĐNTT > 10.000/mm 3 thì khả năng trẻ có nhiễm trùng nặng cao (p= 0,0001). Mối liên quan này đã được nhiều tác giả đề cập. Năm 1977, McCarthy và cộng sự đã khảo sát 330 lượt trẻ sốt < 24 tháng và đã tìm thấy có mối liên quan giữa trẻ sốt có tăng bạch cầu máu 15.000/mm 3 và du khuẩn huyết. Tác giả nhấn mạnh rằng BCĐNTT > 10.000/mm 3 là một chỉ điểm của nhiễm trùng nặng như du khuẩn huyết, viêm phổi và các bệnh lý nhiễm trùng nặng khác như viêm dạ dày ruột, viêm màng não (6) . Nhiều tác giả khác như Asa’d Al – Toomsi và Ibrahim Al – Mohsen, Michael Luszczak cũng có cùng nhận định nếu trẻ sốt cao đi kèm gia tăng BC trong máu ngoại vi thì nguy cơ nhiễm trùng nặng tăng cao (6) . Theo Bonsu Bema K, Gajdos, Foix L’Helias L, Labrune P và cộng sự khuyến cáo cho đến hiện nay không có một yếu tố nào có thể tiên đoán chính xác 100% sự vắng mặt của nhiễm vi trùng nặng khi sử dụng đơn độc, cần phải phối hợp với CRP/máu và Procalcitonin để việc chẩn đoán bệnh sốt nhiễm trùng ở trẻ nhỏ được chính xác hơn (10) . Tóm lại, theo nghiên cứu của chúng tôi và nhiều tác giả cho đến hiện nay, việc phối hợp khám lâm sàng kết hợp với xét nghiệm bạch cầu máu, bạch cầu ĐNTT vẫn còn là một xét nghiệm có giá trị trong chẩn đoán nguyên nhân sốt ở trẻ 3 – 36 tháng. Đối với trẻ dưới 3 tháng, vẫn chưa có dữ kiện nào dám khẳng định sự vắng mặt của Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 11 * Phụ bản Số 1* 2007 Nhi Khoa 109 nhiễm vi trùng nặng. Cần phải luôn cảnh giác với nhóm tuổi này. Khám lâm sàng cẩn thận và khám lại thường xuyên cùng với bilan đánh giá nhiễm trùng huyết toàn bộ bao gồm bạch cầu máu, cấy máu, cấy nước tiểu, x quang phổi và chọc dò tủy sống luôn luôn được các tác giả quan tâm (7,8,9) . Mối liên quan giữa CRP với nhiễm trùng nặng Trong nghiên cứu này, nhiễm trùng nặng chiếm 42,1% ở nhóm CRP thấp < 20mg/l, và 31,8% ở nhóm CRP cao 20mg/l. Kết quả phân tích cho thấy không có mối liên quan giữa CRP và nhiễm trùng nặng (p > 0,05). Theo Gendrel Dominique và Tạ Thị Ánh Hoa, CRP mặc dù có những hạn chế nhưng vẫn hữu ích trong việc góp phần chẩn đoán bệnh lý nhiễm trùng ở trẻ em nhất là dễ dàng thực hiện ở các phòng xét nghiệm với độ nhạy cao và rẻ tiền (5) . CRP là phương tiện giúp ích cho các bác sĩ theo dõi quá trình điều trị. Theo nhiều tác giả như Berger RM, Berger MY và cộng sự, CRP vẫn còn là 1 xét nghiệm có độ nhạy cao trong chẩn đoán các bệnh nhiễm trùng nặng như viêm màng não ở trẻ nhũ nhi (2,6) . Theo Pulliam và cộng sự, nồng độ CRP dễ đo, kết quả nhanh chóng và rẻ tiền, có ý nghĩa trong việc chẩn đoán nhiễm vi trùng nặng và du khuẩn huyết (10) . Theo Jaye David, CRP gia tăng nhiều trong nhiễm vi trùng nặng với ngưỡng 150 – 350mg/l. Nếu CRP trong ngưỡng < 20 đến 40mg/l phần lớn là do nhiễm siêu vi (10) . KẾT LUẬN Qua nghiên cứu 487 trẻ từ 1- 36 tháng tuổi bị sốt cấp tính nhập khoa Nội Tổng hợp 3, bệnh viện Nhi Đồng 2 từ tháng 7/2005 đến tháng 3/2006 chúng tôi có được các kết quả sau: Các nguyên nhân gây sốt cấp tính: Viêm mũi họng (24,6%), viêm tai giữa (9%), viêm thanh quản (3,3%),nhiễm siêu vi (14,2%), viêm tiểu phế quản (2,7%), viêm phổi (28,3%),viêm màng não (1,2%), tiêu chảy cấp (4,5%), tiêu chảy nhiễm trùng (3,3%), nhiễm trùng tiểu (1,4%), sốt xuất huyết (1,2%), viêm mô tế bào (3,7%), nhiễm trùng không xác định (2%), Kawasaki (0,4%), nhiễm trùng huyết có 01 trường hợp nằm trong bệnh cảnh nhiễm trùng tiêu hóa. Mối liên quan giữa các yếu tố chỉ điểm và nhiễm trùng - Có mối liên quan giữa thang điểm Yales và nhiễm trùng nặng: thang điểm Yales càng cao thì tỉ lệ nhiễm trùng càng tăng. Có mối liên quan giữa gia tăng số lượng bạch cầu và bạch cầu đa nhân trung tính trong máu ngọai vi với nhiễm trùng nặng. Không có mối liên quan giữa mức độ sốt và sốt co giật với nhiễm trùng nặng. Không có mối liên quan giữa giá trị CRP/ huyết thanh và nhiễm trùng nặng. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Baker MD, McCarthy PL (2002), “Fever and occult bacteremia in infants and young children”, Pediatric infectious diseases: principles and practice, WB Saunders Company, second edition, pp. 268-274. 2. Berger RM, Berger MY, Vansteelsen MA (1996), “A predictive model to estimate the risk of serious bacterial infections in febrile infants”, Eur Jour Pediatr, 155(6), pp. 468-473. 3. Bộ Y Tế (2003), Xử trí lồng ghép các bệnh thường gặp ở trẻ em, Nhà xuất bản Y học, Thành phố HCM, tr. 13. 4. Bourrillon A (2003), “Fièvre aigue du nourrisson”, Pédiatrie pour le praticien, 4 ème édition, Masson, Paris, pp. 339-44. 5. Luszczak M (2001), “Evaluation and management of infants and young children with fever”, American family physician, 64(7), pp. 1-11. 6. McCarthy PL (1998), “Fever”, Pediatrics in Review, 19(12), pp. 401-407. 7. McCarthy PL (2002), “Approach to the child with fever ”, Pediatric infectious diseases: principles and practice, WB Saunders company, second edition, pp. 263-267. 8. McCarthy PL (2005), “Fever without apparent source on clinical examination”, Current opinion in pediatrics, Lippincott Williams & Wilkins, (17), pp. 93-110. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 11 * Phụ bản Số 1* 2007 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Sức Khỏe Bà Mẹ – Trẻ Em 110 9. Pulliam PN, Attia MW (2001), “C- reactive protein in febrile children 1 to 36 months of age with clinically undetectable serious bacterial infection”, Pediatrics (108), pp.1275-1279. 10. Tạ Thị Anh Hoa (1998), “C- reactive protein”, Miễn dịch lâm sàng trẻ em, Nhà xuất bản Y học, Thành phố HCM, tr. 71-77.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdac_diem_sot_cap_tinh_o_tre_tu_1_36_thang_nhap_khoa_tong_hop.pdf
Tài liệu liên quan