Đặc tính Con gà đẻ trứng vàng trong phát triển bền vững du lịch Việt Nam

Các định hướng phát triển bền vững du lịch Việt Nam đều phải xoay quanh hai nhiệm vụ trọng tâm: khai thác đi đôi bảo vệ. Các nguồn tài nguyên du lịch cần được khai thác có định hướng rõ ràng theo từng giai đoạn, tránh tình trạng làm tổn hại đến khả năng duy trì và phục hồi của nguồn tài nguyên. Việt Nam có 54 tộc người với 6 vùng văn hóa; mỗi tộc người, mỗi vùng văn hóa đều có những tài nguyên tự nhiên và nhân văn riêng tạo nên chỉnh thể bức tranh tài nguyên du lịch Việt Nam đa dạng. Những người quản lý và vận hành du lịch Việt Nam, nếu biết tận dụng tốt nguồn tài nguyên này theo định hướng vừa khai thác vừa bảo vệ, có thể khiến cho du lịch Việt Nam tiến xa hơn và lâu dài trong tương lai. Điều đáng quan tâm trong quá trình phát triển bền vững du lịch Việt Nam đó là cần có sự phối hợp hiệu quả giữa các bên liên quan trong tất cả các hoạt động du lịch. Việc tiến hành trao quyền phù hợp cho các bên để họ chủ động phối hợp và tham gia tích cực trong các dự án phát triển du lịch ở Việt Nam là một phương án hữu hiệu cần được thực hiện. Với tất cả nguồn tài nguyên đang có, nếu đi theo định hướng vừa khai thác vừa bảo vệ, cộng thêm đội ngũ nhân lực có tâm huyết, có trình độ và chuyên môn cao dưới đường lối, chính sách phù hợp của Nhà nước thì chắc chắn du lịch Việt Nam trong tương lai sẽ đạt được mục tiêu phát triển bền vững, có thể trở thành trung tâm du lịch của khu vực và nổi tiếng trên toàn thế giới

pdf10 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 10/01/2022 | Lượt xem: 244 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc tính Con gà đẻ trứng vàng trong phát triển bền vững du lịch Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
79Số 29 (Tháng 9 - 2019) VĂN HÓA DU LỊCH NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA ĐẶC TÍNH CON GÀ ĐẺ TRỨNG VÀNG TRONG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG DU LỊCH VIỆT NAM LƯU TUẤN ANH Tóm tắt Con gà đẻ trứng vàng là một cách nói ví von về sự phát triển của du lịch Việt Nam. Tuy nhiên, để đặc tính con gà đẻ trứng vàng mang lại hiệu quả cao cho ngành Du lịch Việt Nam thì cần phải hướng du lịch Việt Nam đến sự phát triển bền vững. Vấn đề đặt ra là cần tiến hành khai thác, phát huy các nguồn tài nguyên du lịch một cách có kế hoạch, song song với việc bảo vệ, khôi phục chúng. Đồng thời cần phát triển nguồn nhân lực du lịch có trình độ và năng lực chuyên môn cao, có đủ điều kiện thuận lợi để cống hiến cho sự nghiệp phát triển du lịch. Với những gì hiện có, cộng với mục tiêu phát triển bền vững và những chiến lược hiệu quả cụ thể, Việt Nam có quyền hy vọng sẽ sớm trở thành trung tâm du lịch quan trọng trong khu vực, đủ sức gây ấn tượng trên khắp thế giới vì một Việt Nam phát triển bền vững và đáng tự hào. Từ khóa: Đặc tính con gà đẻ trứng vàng, du lịch bền vững, du lịch Việt Nam, quản lý du lịch, phát triển du lịch Abstract “The chicken that lays golden eggs” is an analogy of the tourism development in Vietnam. However, in order to make the characteristics of “the golden egg-laying chicken” to bring high efficiency to Vietnam’s tourism industry, it is necessary to direct Vietnam’s tourism to sustainable development. The matter is to conduct exploitation and promotion of tourism resources in a planned manner, simultaneously, protect and restore them. At the same time, it is necessary to develop tourism human resources with high and professional qualifications, giving them favorable conditions to devote to the development of tourism. With what is available, and the goals of sustainable development and specific effective strategies, Vietnam has the right to hope to become an important tourism center in the region soon and be charm enough to impress the world, for a sustainable and proud Vietnam. Keywords: Characteristics of “golden egg-laying chickens”, sustainable tourism, Vietnam tourism, tourism management, tourism development Đặt vấn đề Từ trước đến nay, nhiều người cứ mặc định cho du lịch Việt Nam nói chung hoặc một vài loại hình của du lịch Việt Nam nói riêng đặc tính con gà đẻ trứng vàng. Sự mặc định này vô hình trung trở thành gánh nặng cho sự phát triển du lịch và sự phát triển kinh tế của Việt Nam nếu ngành du lịch không thể đạt được kỳ vọng đó. Nếu xem đặc tính con gà đẻ trứng vàng là kỳ vọng đặt ra cho ngành du lịch để làm động lực phát triển thì đó là một kỳ vọng tốt. Tuy nhiên, nếu xem đó là kết quả tất yếu phải có của ngành Du lịch thì sẽ tạo ra nhiều lực cản và thách thức, đôi khi là những thất vọng không đáng có cho sự phát triển của ngành. Du lịch Việt Nam là một trong những ngành năng động và đang được đẩy mạnh thành trọng tâm để phát triển kinh tế Việt Nam. Có người cho rằng, trong khoảng ít nhất Số 29 (Tháng 9 - 2019)80 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA 60 năm nữa, ngành du lịch vẫn là ngành hấp dẫn nhất trong cơ cấu ngành nghề ở Việt Nam. Tuy nhiên, hiện nay, du lịch Việt Nam thực chất chỉ đang trên con đường phát triển, cần được đổi mới, được đầu tư hơn nữa để có thể bắt kịp với sự phát triển của thế giới, nói gần hơn là với các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á (như Thái Lan, Singapore). Bài viết đưa ra cách nhìn mới mẻ về đặc tính con gà đẻ trứng vàng mà bấy lâu nay người ta vẫn hay kỳ vọng về du lịch Việt Nam. Trên cơ sở phân tích thực trạng sự phát triển du lịch Việt Nam, nhận diện mặt trái của quá trình phát triển ồ ạt, chạy theo lợi nhuận kinh doanh trong du lịch, bài viết xác định sự bền vững phải là mục tiêu quan trọng và là nền tảng chủ yếu để du lịch Việt Nam được phát triển mạnh mẽ, lâu dài hơn, xứng đáng với những tiềm năng hiện có. Từ đó đề xuất một vài định hướng phát triển bền vững du lịch Việt Nam trên tinh thần khai thác, phát huy đi đôi với bảo vệ, khôi phục những nguồn lực tự nhiên và nhân văn của Việt Nam. 1. Mặt trái của thực trạng phát triển du lịch Việt Nam Theo quan sát của chúng tôi, ngành Du lịch Việt Nam mới chính thức phát triển mạnh mẽ trong khoảng 15 năm gần đây, mặc dù trước đó nhiều công ty du lịch lớn đã ra đời (như Saigontourist thành lập được 44 năm, Vietravel thành lập 24 năm, Bến Thành Tourist thành lập 30 năm). Trong khoảng thời gian phát triển này, ngành Du lịch Việt Nam đã vận động liên tục, đổi mới không ngừng nhằm tạo ra những bước phát triển nhảy vọt. Thực tế, cần công nhận thời gian qua du lịch Việt Nam đạt được nhiều thành tựu: cơ sở kinh doanh du lịch được tăng thêm, nhà hàng cao cấp ngày càng chuyên nghiệp với hoạt động ẩm thực đa dạng, khách sạn cao cấp mọc lên ngày càng nhiều từ sự đầu tư nước ngoài lẫn trong nước, số lượng tour, tuyến ngày càng đa dạng, mở rộng ra nhiều nước, đội ngũ nhân viên làm nghề có trình độ cao và chuyên nghiệp hơn Kết quả đạt được xứng đáng là niềm tự hào cho sự cố gắng của du lịch Việt Nam, nhưng nếu để so sánh với những ngành nghề chủ chốt khác của kinh tế Việt Nam (bao gồm các ngành nghề đã có và các ngành nghề mới nổi như xuất khẩu, công nghiệp dệt may, thủy hải sản, thương mại, kinh doanh ngành hàng bán lẻ, công nghệ thông tin, vận tải biển và logistics, kỹ thuật cơ khí) thì vẫn còn những khoảng cách và hạn chế nhất định, hoặc để so sánh với sự phát triển du lịch của các nước có ngành du lịch phát triển trong khu vực và trên thế giới thì du lịch Việt Nam vẫn còn phải học hỏi và cải thiện nhiều điều. Bất kể sự phát triển nào cũng có hai mặt: mặt phát triển và mặt hạn chế, tùy vào năng lực của chủ thể vận hành và những điều kiện xung quanh mà mặt nào sẽ nổi trội hơn, mặt nào sẽ bị kiềm chế. Người ta có thể sẽ bị lóa mắt với những con số phát triển của du lịch Việt Nam, chẳng hạn lượng khách quốc tế đến Việt Nam 6 tháng đầu năm 2019 ước đạt 8.480.993 lượt, tăng 7,5% so với năm 2018 [10]; lượng khách du lịch nội địa năm 2018 là 80.000.000 lượt, tăng 9,3% [9]; tổng thu từ khách du lịch năm 2018 là 620 nghìn tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng là 21,4% [11]; tổng số doanh nghiệp lữ hành quốc tế năm 2018 là 2.022 [8], số lượng cơ sở lưu trú 3 sao - 5 sao năm 2018 là 965 trong tổng số 28.000 cơ sở lưu trú [7]; hoặc giá trị đóng góp trực tiếp về kinh tế của du lịch vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP) liên tục tăng từ 6,3% năm 2015 lên 6,9% năm 2016 và 7,9% năm 2017 [12]. Mọi người có thể sẽ thán phục, tập trung chiêm ngưỡng những con số đó mà quên mất đằng sau chúng là những sự đánh đổi. Nhiều người thường thích nhìn vào kết quả mà quên mất quá trình để đạt được kết quả đó cũng như ít khi ngồi xuống nghĩ đến tương lai sẽ làm gì với những kết quả hiện tại đang đạt được. Du lịch Việt Nam cũng vậy. Để phát triển Phú Quốc thành một đảo ngọc phục vụ cho du lịch như mong đợi, chắc chắn nhiều cánh rừng nguyên sinh, nhiều bờ biển cát trắng sẽ mất đi để thay vào đó là các công trình kiến trúc hiện đại (khách sạn, resort, casino). Theo sự phát triển của du lịch, đời sống người dân địa phương cũng sẽ thay đổi. Người dân Phú Quốc bắt đầu rời bỏ ngành nghề truyền thống của địa phương và học làm du lịch. Người trẻ 81Số 29 (Tháng 9 - 2019) VĂN HÓA DU LỊCH NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA không mặn mà với công việc của gia đình mà chuyển sang làm hướng dẫn viên du lịch hoặc kinh doanh du lịch Nếu nhìn ở góc độ kinh tế địa phương, thì đây là các tín hiệu đáng mừng. Tuy nhiên, nếu nhìn từ góc độ phát triển bền vững văn hóa - xã hội của địa phương thì đây là những tín hiệu đáng lo: thiên nhiên bị tàn phá khiến cho hệ sinh thái của đời sống con người thay đổi tiêu cực; ngành nghề truyền thống dần bị lỗi thời và có khả năng biến mất hoặc còn tồn tại thì cũng chỉ để phục vụ cho du lịch; hiện tượng di dân từ nơi khác đến Phú Quốc làm việc sẽ làm xáo trộn cấu trúc xã hội, an ninh trật tự của địa phương, tăng mức độ cạnh tranh việc làm với người dân bản địa Tác giả Nguyễn Minh Tuệ cho rằng “giữa xã hội và môi trường trong lĩnh vực du lịch có mối quan hệ chặt chẽ. Một mặt xã hội cần đảm bảo sự phát triển tối ưu của du lịch, nhưng mặt khác lại phải bảo vệ môi trường tự nhiên khỏi tác động phá hoại của dòng khách du lịch và của việc xây dựng cơ sở vật chất phục vụ du lịch. Du lịch - bảo vệ môi trường là những hoạt động gần gũi và liên quan với nhau” [13, tr.18]. Đây là quan niệm hoàn toàn đúng đắn cho du lịch Việt Nam. Toàn cầu hóa mang lại sự tiến bộ và phát triển mới, nhưng trong quá trình hội nhập nếu con người bị hòa tan thì có nghĩa sẽ không còn gì là bản sắc riêng. Du khách tìm đến Việt Nam vì Việt Nam khác biệt với những nước khác, ở Việt Nam có nhiều điều để họ trải nghiệm, họ thích thú. Ngày nào còn khác biệt, thì Việt Nam còn có thể tạo động lực và biến chúng trở thành phương tiện để thu hút khách du lịch. Thử nghĩ, nếu Việt Nam trở thành một Singapore hay Hàn Quốc thứ hai thì du khách còn đến Việt Nam để làm gì? Có khách du lịch nói rằng, họ đến Việt Nam không để mua sắm, nếu có thì sẽ mua mặt hàng truyền thống làm quà lưu niệm, còn để mua những mặt hàng cao cấp thì quốc gia của họ cũng có, thậm chí còn tốt hơn, hoặc là họ thích đến Singapore hay Thái Lan mua hơn. Nhận định này của du khách chỉ là một ví dụ nhỏ nhưng qua đó có thể nói đến phần nào bối cảnh hòa nhập của Việt Nam trong sự phát triển chung của thế giới. Trở lại với trường hợp Phú Quốc, nếu biến Phú Quốc thành một khu tổ hợp nghỉ dưỡng, sòng bạc, vui chơi hiện đại thì liệu du lịch Phú Quốc thật sự có phát triển bền vững và nếu có thì nó có thể lâu dài không khi mà bối cảnh sống của người dân Phú Quốc bắt đầu giống Thành phố Hồ Chí Minh? Hay như trường hợp của đảo Hòn Tre ở Nha Trang cũng vậy. Đây là đảo lớn nhất nằm trong vịnh Nha Trang, có hệ sinh thái tự nhiên với những bãi biển hoang sơ, những rừng cây nhỏ. Hiện nay, tại đây những công trình hiện đại đã, đang được hoàn thiện như các khu du lịch, khu resort, cáp treo, khu biệt thự, sân golf Dân số của đảo khoảng 1.500 người trên diện tích 32.5 km2, nhưng việc mở rộng du lịch đã thu hút nhiều người di cư từ nơi khác đến làm việc và số lượng lớn du khách đến đây tham quan. Nếu nhìn thẳng vấn đề, tất cả những sự phát triển đó đều làm đảo lộn ít nhiều đến hệ sinh thái và đời sống xã hội của ngư dân trên đảo. Những vấn đề nêu trên tuy chưa thể khái quát hết các mặt trái của thực trạng phát triển nhanh chóng của du lịch Việt Nam hiện nay nhưng hy vọng có thể góp phần thúc giục sự nhìn nhận, đánh giá và tổ chức lại con đường phát triển du lịch Việt Nam, bao gồm trong đó các chính sách, mục tiêu, định hướng, kế hoạch, chiến lược, phương án hành động, một cách thực tế, cụ thể, chính xác, bài bản và hiệu quả nhất, tránh gây ảnh hưởng đến môi trường tự nhiên và nhân văn tốt đẹp của Việt Nam chỉ vì chạy theo lợi ích nhất thời. Nói như thế, không có nghĩa là du lịch Việt Nam đang phát triển sai con đường hoặc đang gây ra những tác động tiêu cực đến đời sống xã hội Việt Nam. Chúng ta vẫn ghi nhận nhiều thành tựu mà sự phát triển của du lịch mang lại cho các địa phương và cả nước. Những gì tích cực cần được duy trì, củng cố, bổ sung và phát triển một cách có định hướng để du lịch Việt Nam xứng đáng trở thành một “kỳ vọng” cho sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Theo thuyết kỳ vọng (expectancy theory) của Victor Vroom, “sức mạnh của xu hướng hành động theo một cách nhất định của chúng ta phụ thuộc vào sức mạnh của sự kỳ vọng của chúng ta vào một kết quả được đưa ra và sự hấp dẫn của nó” [6, tr.224]. Vậy vấn đề cần Số 29 (Tháng 9 - 2019)82 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA hành động ở đây là các nhà quản lý du lịch phải thể hiện được kỳ vọng tối đa vào sự phát triển bền vững du lịch Việt Nam bằng cách chỉ ra sự hấp dẫn của nó dưới các hình thức nào đó, chẳng hạn quảng bá thông qua các kênh phương tiện truyền thông về những kết quả và lợi ích tốt đẹp mà việc phát triển du lịch bền vững mang lại để tác động vào sự tự ý thức của mọi người, hoặc trực tiếp nhất vẫn là đưa ra những khoản thu nhập hấp dẫn mà mọi người có thể có được từ việc phát triển du lịch bền vững ở các địa phương (bao gồm lương bổng cho đội ngũ nhân viên vận hành các hoạt động du lịch) Từ đây tạo ra những sức mạnh động lực để cùng làm việc, cùng hợp tác, cùng chung tay phát triển bền vững du lịch Việt Nam. Ruth Benedict đã viết: “Xã hội theo nghĩa đầy đủ của nó [] thì chưa bao giờ là một thực thể tách rời khỏi những cá nhân cấu thành nên nó” [5, tr.182]. Nếu mỗi người Việt Nam đều tự ý thức được tầm quan trọng của du lịch bền vững đối với đời sống và xã hội của họ thì mục tiêu phát triển du lịch bền vững của Việt Nam sẽ trở nên dễ dàng và nhanh chóng đạt được hơn. 2. Nhận diện bản chất đặc tính con gà đẻ trứng vàng của du lịch Việt Nam Khi nói đến đặc tính con gà đẻ trứng vàng, chúng ta đang đề cập đến cốt lõi của sự phát triển của ngành Du lịch Việt Nam. Trong mối quan hệ giữa con gà và quả trứng, có người cho rằng con gà có trước, lại có người cho rằng quả trứng có trước. Thực ra, vấn đề không cần phải đi xác định con gà hay quả trứng có trước mà cái cần xác định ở đây chính là đâu là nguồn và đâu là đích đến. Chúng tôi xem tất cả những tài nguyên bao gồm tự nhiên và nhân văn của Việt Nam sẽ là nguồn; sự phát triển bền vững của du lịch Việt Nam sẽ là đích đến; hành động thực hiện của con người là phương tiện kết nối nguồn và đích đến đó. Việc kết nối nhanh hay chậm, hiệu quả hay không, tất yếu sẽ quy về con người cùng những hành động của họ. “Du lịch bền vững (sustainable tourism) có thể hiểu khái quát tức là nói sự phát triển của du lịch luôn được liên tục, đồng đều, vững mạnh và hiệu quả. Sự bền vững không do một phía nào đó quyết định, mà là sự phối hợp của tất cả các yếu tố trong cấu trúc du lịch cùng vận hành đồng loạt hiệu quả, sự vận hành đó chung quy vẫn do con người quyết định và hướng đến con người” [1, tr.18]. Con người, trong sự phát triển du lịch Việt Nam, bao gồm các ban ngành đoàn thể của Nhà nước, các cấp chính quyền của các địa phương, cộng đồng địa phương nơi có các hoạt động du lịch, các đơn vị kinh doanh du lịch, khách hàng và các đối tác khác của các đơn vị kinh doanh du lịch. Trong cách nói con gà đẻ trứng vàng, có thể làm một phép so sánh rằng: con gà sẽ là các tài nguyên du lịch; quả trứng vàng sẽ là kết quả phát triển bền vững của du lịch. Vậy nếu chỉ tập trung bằng mọi cách, mọi giá, khai thác triệt để nguồn tài nguyên để phát triển tối đa du lịch mà không nghĩ đến việc nuôi dưỡng con gà đó để trước hết nó có thể tiếp tục sống, sau đó nó có đủ sức tiếp tục sinh sản ra các quả trứng vàng, thì liệu con gà đó còn có thể tiếp tục sống, tiếp tục sinh sản? Và rồi nếu không có con gà thì liệu sẽ còn những quả trứng hoặc quả trứng vàng nữa không? Du lịch Việt Nam sẽ đi về đâu khi nguồn tài nguyên ngày càng bị khai thác cạn kiệt mà không được tính đến làm thế nào để bảo vệ, duy trì và phát triển chúng? Chẳng hạn, mỗi năm Sapa đón hàng trăm ngàn lượt khách quốc tế, nếu không có chiến lược và chính sách cụ thể đúng đắn thì đồng bào ở Sapa khó có thể phát triển đời sống song song với việc bảo tồn các giá trị văn hóa tốt đẹp và không gian sống lâu đời của họ. “Một nơi nào đó được quy hoạch phát triển du lịch thì sẽ kéo theo nhiều sự thay đổi trọng đại trong môi trường sống của con người, chẳng hạn thiên nhiên bị tàn phá, không gian xanh và những vẻ đẹp hoang sơ sẽ bị thay thế bởi những kiến trúc công nghiệp hiện đại Quá trình lọc máu được diễn ra, trong quá trình này có thể tạo ra những tế bào mới phát triển nhưng cũng có thể phá bỏ những tế bào truyền thống tốt đẹp, mà nếu mất đi tế bào truyền thống (hay gọi là tế bào cơ sở) thì liệu nơi du lịch A còn là nơi A hay nó đã bị biến đổi hoàn toàn thành một nơi B nào đó. Lúc đó, nơi du lịch đó có còn ý nghĩa du lịch như ban đầu các nhà tổ chức muốn hướng đến hay không? Việc bảo tồn những gì đẹp đẽ của truyền thống, của con người nơi 83Số 29 (Tháng 9 - 2019) VĂN HÓA DU LỊCH NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA nào đó chính là một trong những mục tiêu quan trọng của sự phát triển bền vững trong du lịch. Điều tốt nhất cần làm là biến nơi du lịch A thành nơi du lịch A’, nơi A’ này là một sản phẩm phát triển lên từ nền tảng nơi A, nó đẹp đẽ hơn nhưng không đánh mất đi bản chất ban đầu của nó” [1, tr.18]. Đây là một bài toán không khó cũng không dễ, đòi hỏi các bên liên quan trong phát triển du lịch cần cùng nhau phối hợp hiệu quả và đồng đều. Nếu thiếu một trong các bên hoặc bên nào đó không phối hợp tốt vì lý do lợi ích nhóm nào đó thì đều có thể gây ra tổn thương cho môi trường văn hóa và môi trường tự nhiên của địa phương nơi có hoạt động du lịch. Người đứng đầu và đóng vai trò quan trọng nhất trong sự kết hợp giữa các bên trong phát triển du lịch bền vững ở Việt Nam không ai khác chính là Nhà nước và chính quyền địa phương các cấp. Chúng tôi đưa ra hai minh chứng về trường hợp ở Sapa, trong đó minh chứng 1 về tính tích cực và minh chứng 2 về tính hạn chế để có thể nhìn nhận vấn đề phát triển du lịch bền vững ở Việt Nam rõ ràng hơn. Minh chứng 1: Hiện nay có nhiều cô gái các tộc người ở Sapa kết hôn với người chồng là người phương Tây, sau đó họ cùng mở các cửa hàng cà phê tự sản xuất, phục vụ cho khách du lịch và thậm chí là xuất khẩu ra nước ngoài. Ở đây có sự kết hợp của kiến thức văn minh phương Tây (thông qua người chồng Tây) và kiến thức văn hóa vùng miền Việt Nam (thông qua người vợ). Cà phê là nguồn nguyên liệu sẵn có ở địa phương của cô gái, họ không phải mất thời gian để tìm kiếm, học tập, nhập khẩu mà vẫn có thể đạt được 2 mục đích: (1) làm giàu cho bản thân và gia đình, cộng đồng; (2) quảng bá sản phẩm văn hóa của cộng đồng, của địa phương ra bên ngoài. Minh chứng 2: Thực trạng một vài cô gái các tộc người ở Sapa mang thai khi chưa kết hôn với du khách phương Tây trong thời gian họ đi du lịch ở Sapa. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, có thể là sự gặp gỡ tương đồng nào đó về văn hóa của hai bên, chẳng hạn hầu hết người phương Tây nghĩ thoáng về chuyện tình dục trong khi một vài tộc người ở Sapa có tục ngủ qua đêm để các chàng trai tìm hiểu cô gái trước khi lấy làm vợ; hoặc cũng có thể lý giải là do lối sống cùng suy nghĩ giản đơn của các cô gái tộc người ở Sapa đã gặp phải kiểu sống phóng khoáng của các chàng trai người nước ngoài Điều đáng quan tâm ở đây chính là hậu quả: Cô gái dân tộc mang thai mà không có chồng, làm mẹ đơn thân, đi ngược lại với những quy ước chung của cộng đồng tộc người, thậm chí sẽ phải đối mặt với những hình phạt nghiêm khắc từ cộng đồng. Việc làm mẹ đơn thân hay mang thai mà không có chồng trong văn hóa hiện đại phương Tây có lẽ là điều bình thường, thậm chí một số người hô hào nhau thành một phong trào kiểu tự do của giới trẻ hiện nay ở Việt Nam, nhưng đối với các tộc người ở Sapa và ở nhiều địa phương khác ở Việt Nam thì đây không phải là điều đáng tự hào, đáng khích lệ. Lúc này, vai trò của cơ quan chức năng, chính quyền địa phương là phải tuyên truyền, tổ chức các lớp tập huấn, các chương trình hành động mang tính cộng đồng để cung cấp cho các cô gái ở Sapa những kiến thức về hôn nhân, về gia đình truyền thống và hiện đại, về tình dục, về văn hóa phương Tây, về cách tự bảo vệ họ, tức là tiến hành nâng cao năng lực nhận thức của họ. Đồng thời có chiến lược phát triển du lịch song song với bảo tồn và phát huy tích cực nhất các giá trị văn hóa của các cộng đồng địa phương nhằm mục đích phát triển đời sống cộng đồng vững mạnh, tức là nâng cao năng lực kinh tế cho họ. Phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường sống tốt đẹp cho các cộng đồng địa phương nơi làm du lịch là công việc cấp thiết của những người làm quản lý du lịch Việt Nam. Trong cách nói con gà đẻ trứng vàng, cần chú ý đến từ vàng ở đây. Nếu hiểu vàng nghĩa là tiền bạc, lợi nhuận, doanh thu, là mục đích kinh tế cao nhất phải đạt được của ngành Du lịch Việt Nam thì có lẽ cách hiểu này thật sự chưa đầy đủ, dễ gây ra hiểu lầm trong phương pháp vận hành ngành Du lịch và có thể tạo ra những tổn thất cho môi trường xã hội Việt Nam. Nếu mục đích phát triển du lịch chỉ là doanh thu, thì người ta sẽ xây dựng chiến lược và thực hiện các chính sách chỉ nhằm mục đích này mà quên đi nghĩa vụ, trách nhiệm với văn hóa - xã hội Việt Nam và sự đóng góp Số 29 (Tháng 9 - 2019)84 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA quan trọng của nguồn tài nguyên du lịch Việt Nam. Khi nguồn tài nguyên cạn kiệt để phục vụ cho du lịch, các bên liên quan quay lưng với các chính sách phát triển du lịch thì làm sao để con gà tiếp tục đẻ được trứng vàng khi chỉ còn mỗi đội ngũ những người làm du lịch? Cái lợi nhất thời chỉ là cái lợi trước mắt, cái lợi ngắn hạn mà không phải lâu dài thường bị sụp đổ rất nhanh, và khi nó sụp đổ thường kéo theo nhiều hệ lụy do phát triển vội vã, khiến người ta phải bỏ công sức nhiều lần hơn trước để khắc phục chúng. Chính vì vậy, chữ vàng ở đây cần thiết được hiểu là sự phát triển bền vững trong du lịch. “Phát triển du lịch bền vững phải được coi là mục tiêu của quy hoạch du lịch; các nguyên tắc cũng như các loại hình du lịch bền vững phải được xem xét, vận dụng vào trong quá trình quy hoạch du lịch” [14, tr.8]. Khi xác định mục đích và mục tiêu phát triển du lịch Việt Nam đều là phát triển bền vững thì tất cả các chính sách, chiến lược đưa ra cho ngành phải đảm bảo được tính bền vững: Vừa đảm bảo có được doanh thu từ các hoạt động du lịch, vừa đảm bảo duy trì tính ổn định của môi trường sống của cộng đồng địa phương (bao gồm môi trường tự nhiên và môi trường nhân văn). Kinh tế, môi trường tự nhiên, môi trường nhân văn (văn hóa - xã hội) phải là 3 trụ cột quan trọng của sự phát triển du lịch Việt Nam. Chúng phải được xây dựng hướng vào nhau, bổ sung cho nhau, cùng định hướng cho nhau phát triển vì mục tiêu chung phát triển du lịch bền vững để phát triển xã hội Việt Nam ngày càng vững mạnh. Khoản 14, Điều 3, Chương 1 Luật Du lịch Việt Nam 2017 giải thích: “Phát triển du lịch bền vững là sự phát triển du lịch đáp ứng đồng thời các yêu cầu về kinh tế - xã hội và môi trường, bảo đảm hài hòa lợi ích của các chủ thể tham gia hoạt động du lịch, không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu về du lịch trong tương lai” [4]. Khai thác nguồn lực tự nhiên trong phát triển du lịch Việt Nam, cần biết khai thác đúng và đủ, vừa khai thác vừa bảo vệ và khôi phục hệ sinh thái tự nhiên, để 10 hay 20 năm nữa Việt Nam vẫn còn rừng vàng biển bạc, còn đủ nguồn lực tự nhiên để khai thác phát triển du lịch. Khai thác nguồn tài nguyên nhân văn trong phát triển du lịch, chẳng hạn các di sản và sản phẩm văn hóa, cần thiết khai thác đúng (đúng người, đúng nơi, đúng lúc, đúng mục tiêu), vừa khai thác, phát huy vừa bảo tồn, phục hồi các giá trị tốt đẹp của dân tộc để Việt Nam luôn là điểm du lịch nhân văn thú vị cho khách du lịch khắp nơi tìm đến thưởng ngoạn, trải nghiệm. 3. Một vài định hướng phát triển bền vững du lịch Việt Nam nhằm đảm bảo đặc tính con gà đẻ trứng vàng đi đúng hướng 3.1. Khai thác nguồn lực tự nhiên ở các địa phương theo kế hoạch cụ thể, tập trung từng giai đoạn để phát triển du lịch Những nhà quản lý và tổ chức du lịch cần tiến hành khai thác tài nguyên thiên nhiên trong phát triển du lịch ở các địa phương tùy vào điều kiện tự nhiên thực tế ở những nơi đó. Tài nguyên nào là chủ yếu, đại diện cho tự nhiên của vùng, có thể quảng bá cho vùng và tạo dấu ấn trong lòng du khách khi nhắc đến địa phương đó thì có thể được ưu tiên khai thác trước. Tuy nhiên, không nên khai thác ồ ạt, liên tục hay vội vã mà cần có kế hoạch khai thác theo từng giai đoạn cụ thể, khai thác từ từ, khai thác kết hợp với bảo vệ và khôi phục tự nhiên nơi đó để đảm bảo tính nguyên vẹn cho môi trường tự nhiên của địa phương. Quá trình khai thác theo giai đoạn có hai lợi ích: 1) Giúp nhà quản lý du lịch kịp thời nhận ra những thiếu sót, yếu kém để chỉnh sửa và hoàn thiện cho những giai đoạn khai thác kế tiếp; 2) Giúp nguồn tài nguyên tự nhiên có thời gian để tự phục hồi. Nhà quản lý du lịch có thời gian để quan sát rõ hơn về tình trạng và khả năng cung cấp của các nguồn tài nguyên tự nhiên, nếu thấy đó là nguồn tài nguyên kém phong phú, sắp cạn kiệt thì nên đề xuất các phương án phục hồi và không được khai thác cho đến khi hệ sinh thái của chúng khôi phục trở lại. Hiện nay ở nhiều địa phương đang diễn ra tình trạng khai thác tự nhiên quá mức phục vụ cho du lịch mà không có chính sách, chiến lược phát triển đúng đắn, lâu dài dẫn đến hệ sinh thái tự nhiên bị tổn hại nghiêm trọng, chẳng hạn núi bị bào mòn, rừng bị tàn phá, 85Số 29 (Tháng 9 - 2019) VĂN HÓA DU LỊCH NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA bãi biển nơi đón tiếp du khách ngày càng ô nhiễm, tình trạng phân chia khu vực bãi biển của các khách sạn cao cấp, rác thải sinh hoạt của du khách khắp nơi mặc cho các biển cấm xả rác xung quanh Nếu cứ để các tình trạng này diễn ra mà không có biện pháp chế tài, xử phạt chặt chẽ hơn thì lâu dần hệ sinh thái tự nhiên không thể tiếp tục đảm bảo cho phục vụ du lịch, khi đó nhiều loại hình du lịch chủ chốt sẽ biến mất khỏi Việt Nam. 3.2. Khai thác nguồn lực văn hóa có trọng điểm, phù hợp với bối cảnh xã hội của từng địa phương; tiến hành bảo tồn, phục hồi các tài nguyên văn hóa song song với khai thác và phát huy “Nếu chú trọng bảo tồn mà không phát huy được giá trị của các di sản văn hóa thông qua các sản phẩm du lịch thì việc bảo tồn đó không mang lại lợi ích gì cho người dân, nhưng nếu chú trọng vào khai thác mà không quan tâm đến bảo tồn thì sẽ làm cho các di sản ngày càng bị xuống cấp hoặc mất đi giá trị truyền thống vốn có của chúng do bị thị trường hóa, lúc đó hoạt động khai thác cũng khó tiếp tục được” [3, tr.215]. Các nhà quản lý và tổ chức du lịch cần am hiểu rõ nguồn lực văn hóa của từng địa phương. Nếu đó là những nguồn lực tiềm năng, cần được khai thác thì nên có chiến lược cụ thể để nghiên cứu, khảo sát, tiến hành thử nghiệm và chính thức đưa vào phục vụ du lịch. Chẳng hạn, hiện nay tỉnh Bình Phước đang phối hợp với nhiều đơn vị tổ chức các hội thảo xin ý kiến, xây dựng chiến lược cụ thể về việc khai thác những tiềm năng văn hóa của tộc người Stiêng trên địa bàn và triển khai ứng dụng vào phát triển du lịch của tỉnh. Số lượng và các loại di sản ở Việt Nam rất nhiều và đa dạng bao gồm các di sản văn hóa thế giới, di sản văn hóa cấp quốc gia, cấp tỉnh và những di sản chưa được công nhận chính thức nhưng từ lâu đã gắn bó mật thiết với đời sống của người dân các địa phương. Việc đẩy mạnh tiến độ lập hồ sơ đề xuất công nhận di sản các cấp là việc làm rất tốt đối với Việt Nam, góp phần quan trọng quảng bá văn hóa Việt Nam đến với bạn bè quốc tế tích cực hơn. Đây cũng là nguồn lực văn hóa hiệu quả nhất để khai thác phát triển du lịch. Tuy nhiên, việc khai thác và phát huy các di sản cũng cần có kế hoạch cụ thể theo từng giai đoạn giống như định hướng về khai thác nguồn lực tự nhiên. Khai thác phải song song với bảo tồn, khôi phục các di sản, tránh tình trạng khai thác vô tội vạ khiến cho di sản ngày càng bị tàn phá và mất đi giá trị của chúng. Các cơ sở kinh doanh du lịch cần tiến hành khai thác di sản một cách bài bản, có đầu tư, tránh việc chạy theo lợi nhuận khiến cho du khách hiểu lầm về di sản và các giá trị của chúng. Chẳng hạn, nhiều điểm du lịch ở miền Tây Nam Bộ đang khai thác đờn ca tài tử phục vụ du khách tham quan nhưng còn ở quy mô đơn sơ, biểu diễn qua loa khiến cho khách trong nước không cảm nhận được nét đẹp của di sản và du khách nước ngoài, nếu không hiểu tiếng Việt, không hiểu văn hóa Việt Nam lại càng thấy nhạt nhẽo. Họ không biết di sản đó là gì, tại sao phải đưa ra phục vụ ở đây, nó có giá trị gì đối với người Việt Nam. Chúng tôi xin đề xuất các bước cần có khi phục vụ đờn ca tài tử ở các cơ sở kinh doanh du lịch như sau: 1) Giới thiệu sơ lược về đờn ca tài tử và các giá trị văn hóa của loại hình nghệ thuật này bằng tiếng Việt và tiếng nước ngoài (cho khách nước ngoài, tối thiểu là bằng tiếng Anh); 2) Biểu diễn có bài bản và kèm theo lời giới thiệu ngắn gọn về các tiết mục biểu diễn để khách hiểu họ sắp được nghe cái gì, nhất là người nước ngoài; 3) Cho khách tham gia biểu diễn thử những bài bản đơn giản, đối với người nước ngoài thì chỉ cần cho họ tập làm quen với các giai điệu đơn giản. Hiện nay, ở một số điểm du lịch ở miền Tây Nam Bộ có kết hợp biểu diễn một vài bài hát nổi tiếng của các quốc gia của du khách bằng bộ nhạc cụ trong đờn ca tài tử. Đây là một sáng tạo rất hay giúp du khách gần gũi hơn với di sản. 3.3. Khai thác hiệu quả nhất nguồn nhân lực có chuyên môn và trình độ cao để phát triển du lịch, đồng thời không ngừng đào tạo, nâng cấp chất lượng của nguồn lực này Nguồn nhân lực du lịch ở đây bao gồm người quản lý, người vận hành các hoạt động du lịch và cộng đồng địa phương nơi có hoạt Số 29 (Tháng 9 - 2019)86 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA động du lịch. Đội ngũ quản lý và vận hành cần được: 1) Đào tạo trình độ chuyên môn bắt kịp với xu hướng phát triển của đất nước và thế giới; 2) Tạo lập hệ giá trị văn hóa quản lý và vận hành các hoạt động du lịch tốt đẹp cho họ; 3) Có kế hoạch đào tạo những ngoại ngữ cần thiết, tối thiểu là giao tiếp được, để nguồn lực nhân sự này phù hợp với các kế hoạch và từng loại hình kinh doanh của các doanh nghiệp du lịch, phù hợp với bối cảnh phát triển ở từng địa phương có du lịch. Những người quản lý các hoạt động du lịch phải là người có tâm và có tầm, được biểu hiện thông qua các khía cạnh như: 1) Tự ý thức không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn để xứng tầm quản lý, chủ động thực hiện các kế hoạch nghiên cứu thị trường để đưa ra chiến lược phát triển cụ thể cho doanh nghiệp; 2) Tránh bè phái cục bộ và lợi ích nhóm hay lợi ích cá nhân trong quá trình làm việc, tránh việc quản lý nhân sự theo cảm tính; 3) Phối hợp với doanh nghiệp du lịch để xây dựng chính sách tuyển dụng, đãi ngộ, tạo điều kiện phát triển và duy trì nguồn nhân sự, nhất là nhân sự cấp cao để phục vụ cho công tác phát triển du lịch; 4) Có tư duy mở và nhạy để bắt kịp thông tin và những đổi mới của thị trường du lịch trong nước cũng như trên thế giới. Tùy vào điều kiện thực tế của các doanh nghiệp, các tổ chức du lịch ở Việt Nam mà đội ngũ quản lý và nhân viên sẽ có các phương hướng hoạt động khác nhau. Ở thời điểm mới gia nhập thị trường, có thể sẽ còn nhiều khó khăn để phát triển đội ngũ, tuy nhiên, quan trọng là từng cá nhân trong đội ngũ phải tự ý thức được vai trò và trách nhiệm trong công việc. Trách nhiệm ở đây gồm trách nhiệm với bản thân, với tổ chức, với xã hội, với đất nước trong công tác du lịch. Để khiến họ ý thức được trách nhiệm và tự nguyện tham gia vào sự phát triển du lịch thì trước hết các tổ chức, doanh nghiệp du lịch cần đảm bảo nhu cầu kinh tế tối thiểu cho họ bằng chế độ lương bổng hợp lý. Kế đến là tạo điều kiện cho họ được nâng cao tay nghề, trình độ, mở ra nhiều cơ hội thăng tiến cho những người có khả năng. Mặt khác, các nhà quản lý khi đưa ra các chiến lược phát triển du lịch cần đảm bảo sự phát triển bền vững, tránh chạy theo doanh số, lợi nhuận nhất thời. Khi có bất kỳ vấn đề gì xảy ra đối với ngành, với nguồn tài nguyên tự nhiên và nhân văn phục vụ du lịch, thì người đầu tiên phải chịu trách nhiệm chính là đội ngũ quản lý du lịch. Ở đây, chúng tôi đưa cộng đồng địa phương vào nguồn nhân lực trong phát triển du lịch, vì thực tế từ trước đến nay họ luôn đóng vai trò rất quan trọng tại các điểm du lịch, tuyến du lịch như một bên tham gia không thể thiếu trong các hoạt động du lịch. Họ là người am hiểu nhất về tuyến điểm và địa phương du lịch, có thể hỗ trợ, tham gia vận hành các hoạt động du lịch ở địa phương. Các hoạt động tham quan, ăn uống, nghỉ ngơi của du khách ít nhiều đều phải tiếp xúc với người dân địa phương và cần đến sự tham gia của họ trong chừng mực nhất định. “Du khách sẽ có tour du lịch khám phá đúng nghĩa khi người dân địa phương chủ động tham gia, tham gia tích cực và có trách nhiệm vào các tour tuyến đó” [2, tr.11]. Vì thế, nếu nhà quản lý, nhà tổ chức, nhà nghiên cứu du lịch phối hợp tốt với họ sẽ thu được nhiều kết quả tích cực ngoài mong đợi trong công tác phát triển du lịch. Tuy nhiên, nếu xu thế du lịch phát triển nhưng nhận thức và kỹ năng về du lịch của cộng đồng địa phương lại không phát triển tương xứng, chẳng hạn, người dân không biết cách làm du lịch, không biết ứng xử khi gặp du khách nhất là người nước ngoài, không biết ngoại ngữ, không biết cách tận dụng hoạt động du lịch để phát triển bản thân, cộng đồng và địa phương; môi trường du lịch như nhà nghỉ, khách sạn, quán ăn, nhà hàng, cửa hàng do người dân quản lý không phục vụ tốt cho du khách, thì sẽ là những lực cản kìm hãm sự phát triển du lịch ở địa phương nói riêng, Việt Nam nói chung. Xuất phát từ vai trò quan trọng của cộng đồng địa phương trong phát triển du lịch, chúng tôi đề xuất một vài phương án để nâng cao chất lượng của nguồn lực cộng đồng địa phương như: 1) Các bên liên quan khác, nhất là chính quyền địa phương và các doanh nghiệp du lịch cần không ngừng phối hợp với cộng 87Số 29 (Tháng 9 - 2019) VĂN HÓA DU LỊCH NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA đồng dân cư địa phương; 2) Hướng dẫn người dân địa phương làm du lịch bằng cách tiến hành mở các lớp đào tạo, các buổi nói chuyện chuyên đề để nâng cao trình độ và nhận thức của họ về du lịch, thường xuyên tuyên truyền các thông tin về du lịch đến người dân; 3) Khuyến khích người dân địa phương tham gia có trách nhiệm vào du lịch, hỗ trợ các hộ dân liên quan đến hoạt động du lịch của địa phương; 4) Đào tạo nhanh về ngoại ngữ giao tiếp cho những người dân trực tiếp tham gia vào hoạt động du lịch; 5) Chia sẻ lợi ích công bằng cho những hộ dân tham gia vào hoạt động du lịch. Nếu làm được những điều này thì cộng đồng địa phương sẽ là kênh trực tiếp đóng góp tích cực trong sự nghiệp phát triển du lịch ở các địa phương. Trong phạm vi bài viết, chúng tôi chưa đề cập cụ thể đến yếu tố công nghệ mà gộp nó vào trong định hướng 3, vì nếu không có con người có trình độ cao để vận hành công nghệ hiện đại thì dù công nghệ có hiện đại thế nào cũng không thể phục vụ tốt cho du lịch Việt Nam. Hơn nữa, với những đặc thù riêng về nguồn tài nguyên của ngành cùng với điều kiện kinh tế của các doanh nghiệp kinh doanh du lịch ở Việt Nam thì không thể đòi hỏi phải đạt được những thành tựu ứng dụng công nghệ cao như trong những ngành công nghệ, kỹ thuật, khoa học cao khác. Nói như thế không có nghĩa là chúng tôi bị lạc hậu giữa bối cảnh nhiều người đang hô hào về thời đại 4.0. Chúng tôi vẫn ủng hộ các chính sách phát triển du lịch Việt Nam có sử dụng công nghệ cao, hy vọng vào một tương lai vận dụng công nghệ hiện đại vào phát triển du lịch, chẳng hạn trong kinh doanh nhà hàng - khách sạn hoặc trong hệ thống quản lý thông tin của các công ty lữ hành. Tuy nhiên, nếu nhìn vào thực tế của ngành Du lịch Việt Nam, công nghệ hiện đại vẫn chưa phải là yếu tố quyết định cho toàn bộ định hướng phát triển bền vững sắp tới của ngành. Đặc biệt là trong hầu hết các loại hình du lịch ở Việt Nam như du lịch di sản, du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng, du lịch tham quan, du lịch hành hương, du lịch về nguồn, thì đôi khi vận dụng công nghệ hiện đại có thể tạo ra những kết quả trái với mong đợi. Liên quan đến khía cạnh này, Ruth Benedict từng viết: “Các xã hội loài người ở khắp mọi nơi đã đưa ra sự lựa chọn trên cơ sở những thiết chế văn hóa của họ. Văn hóa này không coi trọng những giá trị vật chất; văn hóa khác lại coi nó là nền tảng của mọi khía cạnh hành vi. Trong xã hội này khoa học kỹ thuật xuất hiện thậm chí trong những khía cạnh cuộc sống cần thiết để đảm bảo sự sinh tồn; trong xã hội khác, không kém phần đơn giản, những thành tựu khoa học kỹ thuật tương tự lại là sự phức tạp và phù hợp với hoàn cảnh tốt đẹp đáng ngưỡng mộ” [5, tr.17]. Thời đại 4.0 nên được hiểu là khoảng thời gian người ta ứng dụng công nghệ hiện đại vào đời sống, mà muốn ứng dụng thì cần phải tạo ra được công nghệ, điểm này Việt Nam còn nhiều hạn chế. Hơn nữa, hiện nay vẫn đang trong giai đoạn đầu của thời đại 4.0, Việt Nam cần nhiều nỗ lực trên mọi phương diện để có thể trở thành đất nước mà ở đó công nghệ hiện đại là phần tất yếu của cả xã hội. Kết luận Cách nói con gà đẻ trứng vàng nên được xem là động lực và là mục tiêu phát triển bền vững của ngành Du lịch Việt Nam, không nên xem nó là mục tiêu lợi nhuận cần đạt được bất chấp những mặt trái trên phương diện kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường tự nhiên. Con gà là một động vật có thể đẻ được nhiều trứng, nhưng nếu con gà đó không đủ sức khỏe, không được nuôi dưỡng tốt thì liệu nó có thể tiếp tục đẻ, hơn nữa lại là đẻ trứng vàng - quả trứng khó tìm trong hàng ngàn quả trứng bình thường. Cách ví von này nhằm hàm chỉ ngành Du lịch Việt Nam cần được phát triển bền vững thật sự trên cơ sở bảo vệ những nguồn tài nguyên sẵn có của quốc gia, xây dựng và bổ sung thêm nguồn tài nguyên mới nếu có thể. Tài nguyên càng phong phú, càng đa dạng thì việc phát triển du lịch Việt Nam sẽ càng thuận lợi. Sự phát triển du lịch Việt Nam không sợ không có được kế hoạch hay chiến lược tốt, mà chỉ sợ không có nguồn lực để vận hành, khi đó dù có chiến lược hay đến mấy cũng không thể sử dụng được, không có kết quả tốt được. Số 29 (Tháng 9 - 2019)88 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA Các định hướng phát triển bền vững du lịch Việt Nam đều phải xoay quanh hai nhiệm vụ trọng tâm: khai thác đi đôi bảo vệ. Các nguồn tài nguyên du lịch cần được khai thác có định hướng rõ ràng theo từng giai đoạn, tránh tình trạng làm tổn hại đến khả năng duy trì và phục hồi của nguồn tài nguyên. Việt Nam có 54 tộc người với 6 vùng văn hóa; mỗi tộc người, mỗi vùng văn hóa đều có những tài nguyên tự nhiên và nhân văn riêng tạo nên chỉnh thể bức tranh tài nguyên du lịch Việt Nam đa dạng. Những người quản lý và vận hành du lịch Việt Nam, nếu biết tận dụng tốt nguồn tài nguyên này theo định hướng vừa khai thác vừa bảo vệ, có thể khiến cho du lịch Việt Nam tiến xa hơn và lâu dài trong tương lai. Điều đáng quan tâm trong quá trình phát triển bền vững du lịch Việt Nam đó là cần có sự phối hợp hiệu quả giữa các bên liên quan trong tất cả các hoạt động du lịch. Việc tiến hành trao quyền phù hợp cho các bên để họ chủ động phối hợp và tham gia tích cực trong các dự án phát triển du lịch ở Việt Nam là một phương án hữu hiệu cần được thực hiện. Với tất cả nguồn tài nguyên đang có, nếu đi theo định hướng vừa khai thác vừa bảo vệ, cộng thêm đội ngũ nhân lực có tâm huyết, có trình độ và chuyên môn cao dưới đường lối, chính sách phù hợp của Nhà nước thì chắc chắn du lịch Việt Nam trong tương lai sẽ đạt được mục tiêu phát triển bền vững, có thể trở thành trung tâm du lịch của khu vực và nổi tiếng trên toàn thế giới. L.T.A (TS., Trường Đại học KHXH&NV Tp. Hồ Chí Minh) Tài liệu tham khảo 1. Lưu Tuấn Anh (2017), “Du lịch từ góc nhìn văn hóa”, Tạp chí Văn hóa và nguồn lực, số 11(3), tr.17-24. 2. Lưu Tuấn Anh (2018), “Cộng đồng địa phương trong công tác bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa ở miền Tây Nam Bộ từ lý thuyết Các bên liên quan”, in trong Kỷ yếu Hội thảo quốc tế Hội nhập quốc tế về bảo tồn - Cơ hội và thách thức cho các giá trị di sản văn hóa, Nxb. Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh, tr.3-14. 3. Lưu Tuấn Anh (2019), “Vận dụng lý thuyết trò chơi trong phát triển sản phẩm du lịch từ các di sản văn hóa ở tỉnh Bình Phước”, in trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học Thực trạng và các nhân tố ảnh hưởng đến sản phẩm du lịch Bình Phước, lợi thế so sánh và năng lực cạnh tranh của sản phẩm du lịch Bình Phước, Trường Đại học Bình Dương, Bình Dương, tr.206-223. 4. Quốc hội Việt Nam (2017), Luật Du lịch, https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Van-hoa- Xa-hoi/Luat-du-lich-2017-322936.aspx 5. Ruth Benedict (1934), Patterns of Culture, Houghton Mifflin company, New York. 6. Stephen P.Robbins, Timothy A.Judge (2013), Organizational behavior, Pearson Education, United States. 7. Tổng cục Du lịch (2019), “Cơ sở lưu trú du lịch giai đoạn 2000-2018”, gov.vn/index.php/items/13461 8. Tổng cục Du lịch (2019), “Doanh nghiệp lữ hành quốc tế giai đoạn 2005-2018”, http:// vietnamtourism.gov.vn/index.php/items/13466 9. Tổng cục Du lịch (2019), “Khách du lịch nội địa giai đoạn 2000-2018”, gov.vn/index.php/items/13460 10. Tổng cục Du lịch (2019), “Khách quốc tế đến Việt Nam tháng 6 và 6 tháng năm 2019”, items/29458 11. Tổng cục Du lịch (2019), “Tổng thu từ khách du lịch giai đoạn 2000-2018”, http:// vietnamtourism.gov.vn/index.php/items/13462 12. Khánh Trang (2018), “Thống kê du lịch có vai trò đặc biệt quan trọng trong công tác quản lý và hoạch định chính sách phát triển ngành”, 13. Nguyễn Minh Tuệ (chủ biên) (1999), Địa lý du lịch, Nxb. Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh. 14. Bùi Thị Hải Yến (2007), Quy hoạch du lịch, Nxb. Giáo dục, Hà Nội. Ngày nhận bài: 6 - 8 - 2019 Ngày phản biện, đánh giá: 26 - 8 - 2019 Ngày chấp nhận đăng: 25 - 9 - 2019

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdac_tinh_con_ga_de_trung_vang_trong_phat_trien_ben_vung_du_l.pdf
Tài liệu liên quan