Đại cương lịch sử Triết học

LỜI NGÕ Nhằm đáp ứng nhu cầu học tập và nghiên cứu của sinh viên trường Đại học Y Khoa Huế về “Đại cương Lịch sử triết học”, theo sự phân công của Bộ môn Triết học, Khoa Mác - Lênin, Trường Đại học Khoa học Huế, từ tháng 10/2001 chúng tôi biên soạn và cho ra mắt các cuốn “Đại cương Lịch sử Triết học Phương Đông và Việt Nam”. Cuốn “Đại cương Lịch sử Triết học” ra mắt bạn đọc lần này có kế thừa, bổ sung và sửa chữa đầy đủ hơn lần trước. Do soạn giảng cho chương trình 30 tiết, nên chúng tôi chỉ giới thiệu các đặc điểm cơ bản của Triết học phương Tây qua các thời kỳ, triết học Trung Quốc cổ đại và triết học Ấn Độ cổ trung đại, cũng như chỉ giới thiệu các đặc điểm cơ bản của Lịch sử tư tưởng Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử, mà không giới thiệu tất cả các nội dung thuộc về Lịch sử triết học. Mặc dù đã có nhiều cố gắng biên soạn theo quyết định số 3244/ GD - ĐT ngày 12/ 09/ 1995 của Bộ trưởng Bộ Giáo Dục và Đào Tạo, song cuốn sách cũng không tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được sự góp ý của các bạn đồng nghiệp, đọc giả xa, gần để cuốn sách ngày càng hoàn thiện hơn. Chân thành cảm ơn! Huế, tháng 09 năm 2004 Tác giả

doc72 trang | Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 1998 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đại cương lịch sử Triết học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
oại thứ nhất cho con người có mệnh và do trời phú. Ngô Thì Sỹ nói “người ta sinh ra đều có mệnh... Mệnh là do trời phú”; Phan Huy Ích nói “Trời vì dân đặt vua, đặt thầy, việc lớn vốn là số mệnh”. Những quan điểm này giống với quan niệm của các nhà nho duy tâm thửơ trước nhưng nó còn khiến người ta an tâm với số mệnh, thụ động ngồi chờ như Ngô Thì Sỹ “Người ta sinh ra đều có mệnh, người quân tử chỉ sống đời bình dị. Ra làm quan hay ở ẩn gặp sao hay vậy, sang hay hèn được thế nào hay thế ấy” “Ta cứ yên với thời mệnh dù lật đật cũng phải chịu”. Loại thứ hai thừa nhận có mệnh trời nhưng không thụ động bởi mệnh trời trái lại nó còn yêu cầu con người phải quan sát sự vận động của thế giới bên ngoài và chọn khâu thích hợp để hành động. Theo Ngô Thời Nhậm, một mặt “thịnh suy, dài ngắn vận mệnh do trời, không phải sức người tạo ra được”, mặt khác ông quan niệm thời mỗi lúc một khác “Đạo có thay đổi, thời có biến thông, Đâng thánh nhân theo đạo trời để làm vua trong nước, làm cha mẹ dân, chỉ là có một nghĩa vậy” Tức nói, hành động đúng thời, thuận thời thì có sức mạnh và không phải ân hận. Làm hay không làm, xuất hay xử, nói hay im lặng nhất nhất phải đúng thời Xem S đ d trang 419 - 420. . “Lý và Khí” là cặp phạm trù cơ bản của Tống Nho lần đầu được bàn đến ở thế kỷ XVIII. Tống Nho có mặt ở Việt Nam từ thế kỷ XIV, nhưng “lý” và “khí” của Tống Nho chỉ được bàn đến ở thế kỷ XVIII. Với tư cách là nhà duy vật thô sơ, Lê Quý Đôn coi “Lý (tinh thần) có trong khí (Vật chất) và là cái biểu hiện của khí”. Nhưng lập trường duy vật của ông không triệt để nên có lúc ông nói “Số phận nước nhà, vận mệnh của sỹ phu đều được định trước ở chỗ u minh” Xem S đ d trang 421 . Các nhừ tư tưởng thế kỷ XVIII bàn đến quan hệ Lý và Khí và dùng khí để giải thích nguồn gốc của thế giới họ đa nâng trình độ tư duy của dân tộc lên một bước của lý tính hoá. Tiếc rằng nhà Nguyễn về sau lại tôn sùng Hán Nho nên không cho phép tư duy này phát triển. Đạo trị nước ở thế kỷ XVIII cũng có điều khác trước. Cho đến thế kỷ XVIII các nhà tư tưởng đều nêu cao nhân nghĩa chủ trương đường lối vương đạo của Khổng Mạnh và phê phán bá đạo của Pháp gia. Ở thế kỷ XVIII thì lại khác, trên thực tế các nhà tư tưởng đều chủ trương dùng sức mạnh, dùng quân đội để trừ khử đối phương tức chủ trương dùng bá đạo của Pháp gia nhưng trên lời nói, họ họ đều ca ngợi đường lối nhân nghĩa và giànhcho mình lá cờ vương đạo của Nho gia. Chỉ có Lê Quý Đôn là người chủ trương kết hợp Nho gia và Pháp gia, nhân nghĩa với sức mạnh trong đạo trị nước. Với quan niệm coi “lý” là “ngũ thường” của Nho gia và “thế” là sức mạnh của Pháp gia ông nêu lên sự kết hợp: “Việc trong thiên hạ không ngoài “lý” và “thế”. Nhưng hai cái đó thường dựa vào nhau. Biết lý mà không xét thế việc sẽ không thành, xét thế mà không biết lý cũng không là nên việc” Quan niệm này của ông không được đương thời và hậu thế hưởng ứng, nhưng đây là điểm mới trong lịch sử tư tưởng Việt Nam. Thế kỷ XVIII như là đỉnh cao của lịch sử tư tưởng Việt Nam từ trước cho đến bấy giờ: tác phẩm nhiều hơn, đa dạng hơn, phạm vi tư tưởng rộng hơn, đấu tranh trên lĩnh vực lý luận cũng rõ ràng hơn, nhà tư tưởng có tầm nhìn cao hơn, trong họ yếu tố người đã lấn át yếu tố thần, yếu tố khai sáng đã lấn át yếu tố bảo thủ, nhưng với sự ra đời của triều Nguyễn vấn đề trên đã không được tiếp tục mà trở nên bảo thủ và lúng túng. Các nhà tư tưởng tiêu biểu của thế kỷ XVIII là Lê Quý Đôn, Lê Hữu Trác, Ngô Thời Nhậm... 1- Lê Quý Đôn (1726 - 1784) người làng Duyên Hà, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Lúc nhỏ tên là Lê Danh Phương, tự là Doãn Hậu, hiệu là Quế Dường. Là người thông minh học rộng ông đỗ đầu tất cả các kỳ thi hương, đình và hội. Ông trải qua nhiều chức vụ của triều Lê - Trịnh. Tác phẩm của ông rất đồ sộ như Quốc sử tục biên, Đại Việt thông sử, Phủ biên tạp lục,... Nói chung ông tôn sùng Lê - Trịnh; muốn xây dựng nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc; có ý thức tiếp thu kiến thức nhân loại nhưng ngập ngừng và hoài nghi; có khuynh hướng phủ nhận tính độc tôn của Nho giáo Xem s đ d trang 427 - 441. . 2- Lê Hữu Trác (Hải Thượng Lãn Ông 1720 -1791) người làng Liêu Xá huyện Đường Hào tỉnh Hải Hưng. Năm 20 tuổi cha chết, năm 22 tuổi đi lính, năm 26 tuổi bỏ nghề binh về sống ở quê mẹ tại xã Tình Diệm, Hương Sơn, Hà Tĩnh, năm 30 tuổi học nghjề bốc thuốc chữa bệnh, 61 tuổi vẫn lên Kinh đô chữa trị cho cha con chúa Trịnh Sâm. Hơn hai thế kỷ nay người ta không ngớt ca ngợi và lưu truyền danh y Lê Hữu Trác. Hơn hai thập kỷ nay chúng ta đã khám phá ra tư tưởng triết học và đạo đức của ông, khẳng định vị trị của ông trong hàng ngũ những nhà tư tưởng trưởng thành từ nghiệp y cũng như trong lịch sử tư tưởng dân tộc. Ông chú ý lý luận đạo đức chính trị của Nho giáo, thấy rõ tầm quan trọng của Âm - Dương ( trong Kinh dịch), Ngũ hành. Theo ông, không âm thì không dương sinh, không dương thì không âm hóa. Do vậy phải điều tiết để thuận theo gốc Âm - Dương. Âm trong gìn giữ cho dương, Dương ngoài để bảo vệ cho âm. Dương hại âm thì tinh huyết khô cháy, Âm hại dương thì thần khí lặng tắt. Ông khẳng định thể xác quyết định tinh thần, tinh thần phụ thuộc thể xác. Thất tình là vô hình nhưng do hữu hình mà có. Tuy vậy, nếu bị tác động thái quá thì hóa bệnh làm tổn hại cơ thể. Ông là người vô thần: Coi sức người có thể thay số trời. Nguyên nhân sinh trai hay gái là ở điều tiết Âm - Dương, Dương thịnh sinh nhiều trai, Âm thịnh sinh nhiều gái. Ông chủ trương cố sức giúp đời, giúp người, không ích kỷ, không màng lợi danh. Nói chung, tư tưởng của Lê Hữu Trác là biện chứng duy vật chất phác thô sơ. Về phương pháp tư duy của ông có ba đặc điểm: Bắt nguồn từ thực tế kinh nghiệm cổ nhân chỉ là tham khảo; Học tập nhưng không bắt chước, học để bàn bạc điều của người xưa và để tìm những điều ngoài sách vở để có những hiểu biết hơn người; Sáng tạo. Tuy vậy, trong tư tưởng chưa thấy ông tiến hành phê phán hệ thống y lý cũ để xác lập y lý mới mà mới chỉ dừng ở vận dụng và phát huy mà thôi. Cuộc sống của ông mang dáng dấp Lão - Trang: ra đi thung dung, trở về ngất ngưỡng. Về lại nơi cũ, nằm yên trên đá, ngủ dưới hoa. Xem thêm S đ d trang 442 - 460 3- Ngô Thì Nhậm (1746 - 1803) là con của Ngô Thì Sỹ người Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai tỉnh Hà Tây, ông là nhà tư tưởng lỗi lạc của thời có nhiều biến loạn xã hội. - Về chính trị - xã hội, ông quan niệm, xã hội loạn là do người và chính sách của triều đình chứ không phải tại trời; Trong cuộc đời phải làm cho Âm - Dương hòa hợp thì xã hội mới thanh bình; Theo ông, vua là tiêu biểu cho xã hội. Lý tưởng của ông là Vua Thánh - Tôi Hiền, nhưng quan trọng vẫn là dân. Thái độ và xu hướng của dân có ảnh hưởng trực tiếp đến vận mệnh triều đình. Để được dân thì không tham ô, tiêu cực. Với quan lại phải được giáo dục lại để vừa có văn vừa có hạnh (thanh, liêm, tiết). Ông chủ trương tìm các nguyên nhân kinh tế cho các vấn đề xã hội: Dân phiêu bạt, loạn lạc là do họ không đủ no, do quan không làm tròn chức phận của mình, thầy giảng không tinh, đại thần thưởng phạt không công minh v. v... Ông chủ trương mọi công việc của triều đình là phải lo cho dân đủ no, quan lại được sung túc. - Về triết học ông thừa kế và phát triển các phạm trù triết học phương Đông như thời, mệnh trời: Thời - Thế, Mệnh trời - Thời - Lòng người. Quan niệm của ông thể hiện bất khả tri, quyết định luận. - Về đạo làm người, ông nhấn mạnh Trung Hiếu, Nhân Nghĩa, Đạo đức. Cuối đời ông chuyển lập trường từ Nho sang Phật. Yêu nước theo kiểu kẻ sỹ. Chiểu theo Thiên mệnh - Thời - Lòng người ông đã theo Tây Sơn. Xem thêm sácg đã dẫn trang 460 đến 484. Nói chung tư tưởng Việt Nam giai đoạn này đầy mâu thuẫn. Ngay như Đào Duy Từ có tư tưởng cách tân nhưng vẫn gương cao Nho giáo và lợi dụng Phật giáo. Các nhà tư tưởng ở thế kỷ XVIII - XIX mỗi người lại đại diện cho một khuynh hướng. 8. Thời kỳ thế kỷ XIX - XX: Dưới thời Nhà Nguyễn, Nho giáo được suy tôn lên địa vị độc tôn nhưng luôn coi Phật giáo là ngọn cờ nhằm thu phục nhân tâm nhưng biểu hiện của nó là rất phức tạp: Ở Gia Long Phật giáo bị bác bỏ, Nho giáo giành địa vị độc tôn tuyệt đối trong hệ tư tưởng chính thống; ở Minh Mạng là khuynh hướng và nổ lực xây dựng một hệ tư tưởng hoàn chỉnh của vương triều mang mầu sắc Việt Nam tuy vẫn lấy Nho giáo làm nòng cốt... Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, chủ nghĩa yêu nước, tinh thần độc lập dân tộc được nêu cao. 1- Gia Long: Nguyễn Ánh đúng đã “cõng rắn cắn gà nhà”, dựa vào giáo sỹ Bá Đa Lộc để cầu viện vua Pháp, sử dụng một số sỹ quan đánh thuê và vũ khí của Pháp, nhưng cũng phải thấy rằng thực thể chính trị bị Nguyễn Ánh đánh bại không phải là phong trào Tây Sơn dưới sự lãnh đạo thiên tài Nguyễn Huệ, mà là một vương triều Tây Sơn đã thoái hoá nhanh chóng sau khi hoàng đế Quang Trung băng hà và bị nhân dân oán ghét, nên sau khi lên ngôi Gia Long đã tự mình tìm cách giũ bỏ sự có mặt của các sỹ quan và giáo sỹ nước ngoài tại triều đình và trong nước. Gia Long đã trả thù hèn hạ hài cốt của vua Quang Trung và dùng cực hình tàn sát nhiều tướng soái Tây Sơn, nhưng ông ta không “chu di tam tộc” dòng họ các lãnh tụ Tây Sơn; trái lại ông đã sử dụng nhiều nhân vật từng phục vụ trong các vương triều cũ từ Tây Sơn đến Lê - Trịnh. Một điểm khác tuy quan trọng nhưng không phải là chủ yếu nhưng cũng không thể không xem xét khi nói đến tư tưởng Gia Long: Để chống lại Tây Sơn, Nguyễn Ánh đã phải dựa vào thế lực Công giáo tại Việt Nam mà đại biểu là Bá đa Lộc. Nhờ ông ta Nguyễn Ánh đã chiêu một được một số sỹ quan đánh thuê người Pháp phong phẩm hàm cao cho họ và sau chiến thắng họ đã ở lại làm đình thần cho nhà vua. Tuy nhiên, Gia Long sớm nhận ra nguy cơ từ các ân nhân da trắng này kể cả giáo sỹ và sỹ quan có thể gây ra cho đất nước. Bởi vây khi chưa tự mình trở mặt qua nhanh, thì ông đã giao việc chống đạo và trục xuất các sỹ quan da trắng cho Minh Mạng. Gia Long là người có nhiều biểu thị hoài nghi đối với Phật giáo và nghiêm khắc với tăng chúng. Với Nguyễn Ánh thì nhà sư dù có chân tu đi nữa cũng chẳng ích gì cho nước, còn với Gia Long thì Nho giáo phải ở địa vị độc tôn tuyệt đối. Bộ luật Gia Long nhanh chóng ra đời, một mặt vì lợi ích của bản thân mà triều đình nhà Nguyễn phải thi hành những chính sách nhằm đè bẹp sự phản kháng của các thế lực tàn dư của các vương triều Tây Sơn và Lê - Trịnh cũng như phải đàn áp các cuộc nổi dậy khác; mặt khác nhà Nguyễn cũng thi hành những chính sách nhằm ổn định xã hội và bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ. Đây là vân đề có ý nghĩa cơ bản, thường xuyên, lâu dài hơn. Gia Long và những người kế nghiệp đã có ý thức rút ra các bài học sụp đổ của tổ tiên họ và cuả các vương triều Lê - Trịnh, Nguyễn Tây Sơn mà rất quan tâm đến việc tranh thủ lòng dân và thấy sự cần thiết phải thi hành đường lối thân dân. Trong lời nói Gia Long bàn “Cất quân đánh dẹp cốt ở yên dân’, “Phép binh cốt ở uy nghiêm, trị nước cốt ở nhân thái, cho nên vương giả dụng binh chỉ cần dẹp yên giặc cho dân yên nghiệp làm ăn, ra trận chém giết là bất đắc dĩ”. Về việc làm thì năm 1799 Nguyễn Ánh đã từng gỉam thuế thân một năm cho dân Bình Định để thu phục lòng người; ông cũng đã có nhiều điều lệnh đảm bảo cho sự an ninh của nhân dân trong chiến tranh và duy trì tốt mối quan hệ giữa quân đội và nhân dân như cấm quân thuỷ không được đổ thuyền ở bến đò, cấm quân bộ không được xin củi lửa rơm cỏ của dân mà phải tự kiếm lấy, cấm quân đội không được tự tiện giết tù binh... Nhà Nguyễn bắt đầu từ “Gia Long thực sự có nhu cầu và có ý chí một mặt bóp chết các âm mưu và hành động chống đối dù là của nhân dân hay là của các thế lực phong kiến khác, một mặt thì phải tranh thủ lòng dân, ổn định xã hội. Với các nguyên tắc tam cương, ngũ thường, với đường lối nhân chính, với lý tưởng xây dựng một xã hội hòa mục và có kỷ cương, với cả mặt tiến bộ và mặt không tốt của nó Nho giáo là học thuyết duy nhất có khả năng đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của chế độ phong kiến trung ương tập quyền trên nước Đại Nam thống nhất. Đó chính là nguyên nhân chủ yếu khiến cho nhà Nguyễn giành cho Nho giáo địa vị độc tôn” Lê Sỹ Thắng - Lịch sử tư tưởng Việt Nam - Nhà xuất bản KHXH - Hà Nội 1997 - Tập 2 - Tr ang 26. . Lên ngôi năm 1802 thì năm 1803 Gia Long đã cho lập nhà Quốc học ở kinh đô Phú Xuân, khoa thi đầu tiên được mở vào năm 1807, năm 1826 Minh Mạng đổi thành Quốc tử giám dựng thêm ở đó một giảng đường, hai học xá và cấp lương bổng cho các giám sinh. Một hệ thống các cơ quan giáo giáo dục Nho học cả hành chính lẫn sự nghiệp được tổ chức từ Trung ương đến địa phương. Các vua thường đích thân ra đề thi và chấm bài các kỳ thi Đình, hoặc khảo sát các nhà khoa bảng. Tuy nhiên, việc dạy và học Nho học nặng về từ chương, khoa cử, chú trọng nhiều đến các sự kiện lịch sử Trung Quốc, đề cao Tứ thư Ngũ kinh, nhẹ về Việt sử và gạt bỏ khoa học kỹ thuật. Việc đào tạo của nhà Nguyễn có thể đào tạo được những nhà văn hóa lớn hơn giai đoạn trước nhưng không thể đào tạo ra được những nhà kinh bang tế thế đủ sức đáp ứng các yêu cầu của thực tiễn xây dựng và bảo vệ đất nước trong thời đại chủ nghĩa tư và chủ nghĩa đế quốc. Trong các vua triều Nguyễn thì Gia Long là người có thái độ hoài nghi Phật giáo và nghiêm khắc với tăng chúng Phật giáo nhất không chỉ vì ông ta tuyệt đối đối hóa vai trò của Nho giáo mà còn vì Phật giáo cuối thế kỷ XVIII đã phát triển mạnh theo hướng phù thủy, bùa chú, mê tín, dị đoan; một số sư tăng không còn là người có đạo mà chỉ là những kẻ trốn việc quan đi ở chùa, đam mê trần tục, lừa dối chúng sinh; một số chùa thường là nơi hội tụ, ẩn náu của những người phiến loạn hoặc lười biếng. Những người nổi tiếng nhất có vai trò hàng đầu trong việc phục hưng Phật giáo với tư cách là một học thuyết như Ngô Thời Nhậm, Toàn Nhật thì đều đã phục vụ triều Tây Sơn. 2- Minh Mạng (1791 - 1840) và sách “Minh Mạng chính yếu”. Theo giáo sư Lê Sỹ Thắng thì trong lịch sử tư tưởng nước ta, trước Minh Mạng chưa có tác phẩm nào có giá trị nền tảng tư tưởng và đề cập đến gần như tất cả các vấn đề quan trọng nhất của việc trị nước. Đã chỉ có những đoạn ngắn có giá trị tổng kết và nêu lên những những tư tưởng chỉ đạo chung (như lời dặn lại của Trần Hưng Đạo) hoặc những tư tưởng chỉ đạo một vấn đề cụ thể nào đó (như lời tấu của Nguyễn Trãi về vấn đề soạn nhạc). So với Ngũ kinh thì tuy vẫn lấyNho giáo làm nòng cốt nhưng “Minh Mạng chính yếu” đề cấp một cách toàn diện hơn, tập trung hơn, chú trọng cả tư tưởng chỉ đạo lẫn thực tiễn, ít viện dẫn kinh điển Nho giáo và Bắc sử mà thường viện dẫn tình hình cụ thể và các kinh nghiệm của Gia Long, của các chúa Nguyễn để luận chứng cho tư tưởng và việc làm của mình. Nói chung, Minh Mạng là người có khuynh hướng và cố gắng xây dựng hệ tư tưởng riêng mà Nho giáo là nòng cốt. Những vấn đề cơ bản xuyên suốt trong tư tưởng của Minh Mạng trong “Minh Mạng chính yếu” là Đạo làm vua, Đạo làm người, Chủ nghĩa thương dân, yêu nước. - Về đạo làm vua: ông xác định vị trí và lý tưởng của người làm vua là gốc của phong hóa phải làm gương cho thiên hạ, điềm lành của vua không ở chỗ được hưởng nhiều bổng lộc quý hiếm mà ở chỗ không có thiên tai, nhân dân được mùa, quan lại tốt, tướng suái giỏi, đất nước bình yên. Từ đó ông quán triệt tư tưởng “trước phải hữu vi, sau mới được vô vi” thành phương châm sống ‘trước phải siêng năng, sau mới được hưởng thụ” và suốt cuộc đời ông luôn nêu tấm gương làm việc bền bỉ, không mệt mỏi. Đại Nam thực lục đã ghi lại rằng: “Ở ngôi 21 năm, chăm lo mọi công việc thường mọi ngày như một ngày. Phàm các lời phê bảo, dụ, chỉ, chế, cáo đều tự làm ra...” S đ d trang 77. . Minh Mạng coi trời và vua có mối liên hệ gắn bó như quan hệ giữa vua với bầy tôi. Theo ông vua phải kính trời vì trời có thể ban thưởng và giáng họa. Tin trời có một nhân cách là duy tâm, nhưng ông cũng có những kết luận tích cực về đạo đức và chính trị: Mỗi lần có thiên tai, nhà vua cần tự kiểm điểm lại mình có phạm lỗi lầm gì không và ban bố một ân huệ nào đó cho dân. Và ông buộc các quan lại phải thực sự và thường xuyên chăm lo cho dân chứ không phải chỉ dùng văn tự trách mình khi xảy ra thiên tai. Không chỉ tin có trời mà Minh Mạng còn tin có số mệnh, nhưng ông đòi người làm vua không được đổ lỗi cho số mệnh về các tai họa mà nhân dân và đất nước phải gánh chịu, mà chính bản thân người làm vua phải tự kiểm tra và tự tu dưỡng. Dù hạn chế chỉ chăm lo lợi ích cho giai cấp phong, tin vào trời và số mệnh, nhưng việc đòi hỏi người làm vua phải thường xuyên tự tu dưỡng và tự đòi hỏi một tinh thần trách nhiệm cao nhất là một tư tưởng tích cực của Minh Mạng. Minh Mạng cũng thường nhấn mạnh về đạo đức của người làm vua: Với tự mình là không nhàn rỗi và tiết kiệm, phải siêng năng trong công việc, phải tiết kiệm của công trong việc tiêu dùng cho cá nhân và trong ban thưởng cho hoàng thân quốc thích, cận thần. Cần kiệm “cốt phải làm việc ích lợi cho dân sinh” Xem S đ d trang 80 - 84. . Đối với quần thần, ông coi vua tôi như một thân thể. Ông đòi hỏi vua phải thương yêu và chăm sóc bầy tôi. Ông có quy định trong hàng đinh thần nếu ai bị ốm đau phải báo cho ông biết để ông cho ngự y điều trị, phải báo cho ông biết thường xuyên tình hình chữa trị để ông yên lòng. Ông quan niệm: Người làm vua phải biết mở lòng dung nạp để nhờ đó mà “tài trí thiên hạ đều là tài trí của mình”, nhưng phải cảnh giác và gạt bỏ những lời tâng bốc, xu nịnh Xem S đ d trang 84 - 86. . Về tư tưởng dùng người ông đề cập đến cả trên ba phương diện: vị trí của người hiền tài, biện pháp chính trong việc cầu người hiền tài, những nguyên tắc cần tuân thủ trong việc dùng người hiền tài. Theo Minh Mạng, người hiền tài là rường cột của quốc gia cũng giống như rường điện tất phải có cái trụ gỗ đội lên. Ông có thái độ hết sức trân trọng đối với người hiền tài, coi hiền tài là tài sản quý nhất: “Quốc gia chỉ quý người hiền tài, dù có hạt minh châu mình nguyệt, hòn ngọc chiêu thặng cũng không đáng quý”, hoặc “Trẫm quý báu chỉ người hiền, phỏng có ngọc bích soi sáng trước sau mười hai cỗ xe cũng chẳng là cái ta chuộng” Lê Sý Thắng - Lịch sử tư tưởng Việt Nam -Nhà xuất bản Khoa học xã hội - Hà Nội 1997 - Tập II - Trang 87. . Trong 21 năm ở ngôi vua, ông đề cao vị trí của người hiền tài như vậy, theo ông là vì muốn cho nước được trị bình trước hết cần phải có nhân tài. Trong dùng người, ông nêu lên quan điểm phải tận dụng chỗ mạnh của mỗi người, không vì khuyết điểm nhỏ của họ mà không dùng người có tài đức lớn. Khi dùng người thì phải xem xét cho kỹ, cần cân nhắc cả lời nói lẫn việc làm và còn phải thử thách người ấy qua những công việc cụ thể. Trong tiến cử cũng như trong dùng người đều phải công khai, công bằng, chí công vô tư. Ông thường nói: “Triều đình dùng người như thợ giỏi dùng gỗ. Không nên vì một tấc mà bỏ cây gỗ to vừa người ôm”, hoặc “Về việc dùng người, trẫm vẫn luôn luôn để ý, mỗi khi cất nhắc một người tất phải xem xét lời nói, việc làm...”, hoặc “Triều đình chọn người làm quan, hoặc lấy người có tư cách, hoặc lấy người có công lao, đều đem ra chỗ công bàn định cả chớ có phải riêng tư mà dẫn dắt nhau được đâu”, hoặc “Cất nhắc người có tài cần ở chỗ công bằng. Nếu bảo là người không quen biết mà không tiến cử thì người điềm đạm không cầu cạnh phải chìm đắm, mà kẻ xu nịnh lại được hãnh diện; như thế có phải là đạo công bằng trong việc dùng người chăng?” Sđd Trang 88. . Trên thực tế, vào những dịp thi cử, vua thường dụ cho các quan coi thi phải công minh, trong dùng người, một mặt vua chú ý đến đạo đức, mặt khác vua chú ý đến tài năng của người mình dùng. Vua không dùng những viên quan vô học, hoặc chỉ có nết thật thà, chất phác nhưng tri thức lại nghèo. Vua cũng bác bỏ tư tưởng định kiến, hẹp hòi trong dùng người. Ông nói: “Phàm người ta ai không có điềm lầm lỗi, lầm lỗi mà biết sửa đổi thì cũng có thể bỏ được vết xấu mà dùng”, hoặc “Nhà nước ta đã có thể chế thống nhất, hà tất bo bo giữ hình tích làm gì. Vả bội nghịch như Tây Sơn còn không nỡ giết hết cả họ, nữa là Hoàng Ngũ Phúc và Ngô Hiệu. Không nên quá câu nệ. Hoàng Bỉnh Dy và Ngô Thập có thể đều cho giám thần sát hạch, nếu dự trúng cách thì cũng cho học ở Quốc Tử Giám” Sđd trang 90, 91. . - Về đạo làm người: Minh Mạng là một trong số ít người đứng đầu quốc gia quan tâm đến việc đề ra những tiêu chuẩn đạo đức cụ thể và truyền bá chúng trong dân chúng. Mười điều huấn Sđd trang 92-94. được vua ban bố vào năm Minh Mạng thứ 15 là: 1, Hậu đường luân lý. Tức là vua tôi có nghĩa, cha con có tình thân, vợ chồng có riêng biệt, anh em có thứ bậc, bạn bè có tin cậy. Phải giữ hậu đường luân lý vì “luân lý có trong sáng rồi sau đạo người mới đứng vững được”. Cụ thể hóa thêm nội dung của luân lý, Minh Mạng nói rõ thêm: “Kẻ làm quan thì giữ phép công, đi đường thẳng, hết lòng làm việc. Kẻ sỹ thì chăm học, rõ đạo, mài dũa thành tài. Công, nông, binh, thương thì yêu nghề, chăm chỉ cảnh thường; giữ phận mình, thờ cha mẹ, nuôi vợ con, đối với nước thì nộp tô, đóng thuế, ưa làm việc nghĩa, sốt sắng làm việc công. Quân sỹ thì không trốn tránh, chăm luyện tập, khi có việc thì hăng hái xung phong. Nha lại thì coi trọng pháp luật, không được đục khoét dân đen, chăm chỉ việc công. Con cái thì phải hiếu kính với cha mẹ. Vợ chồng thì phải hòa thuận. Anh em thì phải yêu thương nhau, không tranh giành nhau. Bạn bè thì tin cậy nhau, không lừa dối lẫn nhau. 2, Giữ lòng ngay thẳng. Tức giữ các đức tính mà ai sinh ra cũng vốn có là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí. Có lòng hướng thiện, giàu không kiêu rông xa xỉ, nghèo không gian ngoan giả dối, không bị cám dỗ vì lợi, không sa vào các thói hư tật xấu, không nói lời bất chính, không làm việc bất thiện. 3, Chăm nghề nghiệp. Tức ai cũng phải chuyên cần trau dồi nghề nghiệp của mình. 4, Chuộng tiết kiệm. Tức là làm nhiều ăn ít, làm nhanh dùng thưa, thì tiền của thường đủ. Chống xa hoa phung phí, tế lễ tốn kém. Tức đồ đạc không quá xa xỉ, ăn uống có tiết độ, nhà cửa đồ đạc cốt lấy chất phác, quan, hôn, tang, tế quý ở hợp nghi. 5, Xây dựng phong tục trung hậu. Tức là ân tình đối với họ hàng, hòa thuận trong xóm làng, trên dưới lễ nhượng hòa vui với nhau. Cũng là giàu không khinh nghèo, sang không lấn hèn, khỏe không hiếp yếu, không hay kiện tụng, không lừa dối ác độc với nhau, không tranh giành nhau. 6, Dạy con em. Là các bậc cha anh, sư trưởng phải thấy mình có nhiệm vụ và thực sự chăm lo việc dạy con em. 7, Tôn sùng đạo học chân chính. Là hiếu để và nhân nghĩa. Học là cốt học cái đạo làm người. Đạo làm người chính là hiếu để nhân nghĩa. 8, Răn chừa tà dâm. Tức trai thì theo phép mà giữ nết. Gái thì lấy trinh tiết mà giữ mình. 9, Cẩn thận phép nước. Tức là đem pháp luật mà dạy bảo nhau để tránh vi phạm pháp luật. 10, Rộng việc làm lành. Tức là tích lũy điều thiện, mà điều thiện ấy chính là hiếu, để, trung, tín, nhân, nghĩa, lễ, trí. - Tư tưởng Nhân chính: Minh Mạng đã từng quở trách Diên Khánh công vì việc riêng mà bắt giam người rằng “Dân là gốc nước. Dân không yêu mến thì ngươi có thể hưởng giầu sang được mãi không” Sdd trang 98. Như vậy, vị trí của dân trong tư tưởng của Minh Mạng là gốc nước. Có được dân yêu mến mới giữ được ngôi vua và sự giấuang bền lâu. Ông cũng xác định sức mạnh của dân rằng, Yêu cái dân yêu thì không việc gì không thành, ghét cái dân ghét thì có thể đánh đổ tất cả mọi kẻ thù và trở ngại. Dân là gốc nước, bởi vậy phải yêu cái dân yêu và ghét cái dân ghét. Xác định dân là gốc nước nên ông thường quan niệm “Người làm chính trị không thể trái ý muốn của dân”, hoặc tuy có hạn chế trong việc xác định vua là cha, dân là con, nhưng qua trọng chính là thái độ ân cần, thương yêu lo lắng cho dân “chưa lạnh đã nghĩ đến áo mặc, chưa đói đã nghĩ đến ăn no, há lại đợi đến lúc khóc hu hu rồi mới cho ăn hay sao?” Sdd trang 99. . “Vương giả vui với thiên hạ thì vui gì bằng. Phàm mặc áo gấm, ăn thức ăn ngon vẫn là vui vẻ, nhưng chợt có mất mùa, dân gian đói kém thì vui với ai?” Sdd trang 100. . Ông xác định niềm vui lớn nhất của dân là việc làm ăn. Trong quan hệ lợi ích của nhà nước với lợi ích của dân, ông xác định thà để dân giàu có còn hơn ngồi nhìn dân kêu đói mà kho tàng chứa đầy. Ông từng nói “Đám giặc Ninh Bình ta không lấy làm lo. Điều đáng lo ấy là lo dân ta đói kém thôi” Sdd trang 101. . Trên thực tế nhà vua đã có nhiều chỉ dụ về giảm nhẹ thuế khóa, trợ cấp cho những vùng thiên tai để giảm bớt sự bần cùng và khó khăn cho nhân dân, và các chỉ dụ đó đã được thực hiện. Ông hiểu rõ vị trí của quan lại đối với đời sống của dân. Ông đòi hỏi quan lại phải thường xuyên tâu trình để ông hiểu rõ dân tình. Ông cũng hiểu bọn quan lại thường tham nhũng, ức hiếp dân nên ông từng trừng phạt hết sức nghiêm khắc những kẻ cậy quyền thế ức hiếp dân. Ông từng phạt treo sống ngoài chợ ba ngày rồi sau đó đày đi Côn Lôn đối với người đầu bếp cấy thế mua rẻ hóa vật ở chợ Nam Thọ. Cách chức, phạt đeo gông một tháng, sau đó phạt đánh một trăm trượng rồi bắt làm lính vệ tả bộ đối với hữu thị lang công bộ vì tội mượn tiền công làm việc riêng. Xử chém đầu người thủ kho ở kinh thành vì tội sách nhiễu, đòi hối lộ, làm khó dễ người ta. Ông cũng xác định, nếu lương bổng quan lại mà ít, không đủ đảm bảo cuộc sống thì khó giữ được đức thanh liêm. Nên ông thường gia cấp thêm lương cho quan lại. Ông cũng thường chú ý đến cuộc sống của người nghèo khổ mà chuẩn y đề nghị xóa nợ cho người nghèo và khen thưởng người giàu giúp đỡ người nghèo vay vốn làm ăn. Khen thưởng người nói thực trạng đau khổ của dân, ngăn cấm phao tin thất thiệt, lập tức sửa chữa hoặc hủy bỏ những điều gây đau khổ cho dân là nét nổi bật trong tư tưởng và hành động của Minh Mạng. Ông cũng đặt rõ trách nhiệm của nhà nước là đảm bảo cho dân được yên. “Dẹp kẻ ác để yên dân là việc trước tiên của chính trị” Sdd trang 105. . Quan lại phải chịu trách nhiệm về các vụ bạo loạn của nhân dân. Khi dân nổi loạn, ông không trách cứ dân mà quở trách quan lại đã không chăm lo cho dân, quấy nhiễu dân. Nếu quan lại địa phương phạm tội khi quân làm trái lệnh vua nhưng xét đó là vì săn sóc cho dân, vì làm lợi cho dân thì được miễn tội. 9. Những nét đặc trưng của tư tưởng Việt Nam trước khi du nhập chủ nghĩa Mác - Lênin. - Tư tưởng triết học Việt Nam chưa có hệ thống, chưa có các trường phái riêng biệt cũng như chưa có các tác phẩm triết học chuyên biệt. Phần lớn tư tưởng triết học được thể hiểntong các lĩnh vực văn học, sử học, nghệ thuật, chính trị, đạo đức, y học ... Việt Nam chưa có hệ thống các pham trù triết học riêng biệt mà chỉ sử dụng hệ thống các khái niệm, phạm trù triết học của Trung Quốc và Ấn Độ với sự thay đổi một ít cấu trúc, nội dung gốc của nó. - Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm là không rõ nét Cuộc đấu tranh này không thành trận tuyến, không trải ra khắp trên các vấn đề. Chủ nghĩa duy tâm kết hợp với tôn giáo là thế giới quan bao trùm; Chủ nghĩa duy vật và quan niệm vô thần chỉ xuất hiện trên từng vấn đề, từng điểm cụ thể. Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và quan niệm vô thần chống chủ nghĩa duy tâm và quan niệm hữu thần chỉ là sự đấu tranh giữa các yếu tố chống lại hệ thống, cái kinh nghiệm chỉ mới được khảo sát chống lại cái lý luận có bề thế. Lập trường duy vật, duy tâm thể hiện trong giải quyết mối quan hệ giữa tâm và vật, linh hồn với thể xác, lý với khí, giải thích nguyên nhân nguồn gốc tạo nên những sự kiện cơ bản của đất nước, con người: An nguy quốc gia, trị loạn xã hội, hưng vong của các triều đại, vấn đề số mệnh của bản tính con người. Chủ nghĩa duy tâm ở Việt Nam có nguồn gốc từ tam giáo và tín ngưỡng dân gian cổ truyền: Các yếu tố duy tâm trong Nho giáo thể hiện ở sự thừa nhận mệnh trời; Họ cho rằng trong con người có hai phần thiên lý (đạo đức phong kiến) và nhân dục (nhu cầu của con người). Nếu thiên lý thắng thì xã hội trị, nếu nhân dục thắng thì xã hội loạn. Muốn xã hội trị phải tiết dục (hạn chế lòng mong muốn), tri túc ... Như vậy họ đã coi tư tưởng của con người là động lực phát triển của xã hội, họ chủ trương khổ hạnh và ngu dân, không thấy nhu cầu là một trong các động lực phát triển của xã hội. Các yếu tố duy tâm trong Phật giáo thể hiện ở chỗ thừa nhận Nghiệp, Kiếp theo nhân quả luân hồi mà thể hiện rõ nhất, tập trung nhất trong tứ diệu đế. Chủ nghĩa duy vật và quan niệm vô thần tuy không đánh đổ tận gốc chủ nghĩa duy tâm và quan niệm hữu thần, chưa đạt trình độ sâu sắc toàn diện, nhưng cũng đã đối địch trên từng luận điểm cụ thể. Chẳng hạn để chống lại sự trang nghiêm của định mệnh, các nhà tư tưởng Việt Nam đã từng quan niệm “mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”, “lẽ trời là lòng dân”, “xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều”. - Quan niệm về dân tộc độc lập và quốc gia có chủ quyền là tương đối có hệ thống và khá hoàn chỉnh. Quan niệm này biểu hiện ở các điểm sau: Tư tưởng yêu nước là tư tưởng xuyên suốt lịch sử tư tưởng Việt Nam biểu hiện cả trên ba khía cạnh Lý luận về dân tộc, Lý luận về dân tộc độc lập và quốc gia có chủ quyền, Lý luận về chiến lược và sách lược chiến thắng quân thù. Phạm trù dân tộc thường được nhắc đến là Quốc, Nước. Năm 544 - 548, sau khi đánh đuổi được giặc phương Bắc, Lý Bí đã vứt bỏ các tên gọi mà giặc phương Bắc áp đặt cho ta như Giao Chỉ, Giao Châu, An Nam đô hộ phủ mà đặt tên nước là Vạn Xuân. Nhà Ngô 938 - 967 gọi tên nước là Đại Việt. Nhà Đinh 968 - 980 gọi tên nước là Đại Cồ Việt. Nhà Lý và Nhà Lê đều đặt tên nước là Đại Việt, Nhà Hồ đặt tên nước là Đại Ngu. Người đứng đầu đất nước cũng được đổi từ vương sang đế sánh ngang hàng các hoàng đế phương Bắc như Trưng Vương sang Lý Nam Đế, Triệu Việt Vương sang Đinh Tiên Hoàng Đế ... Trong “Bình Ngô đại cáo” Nguyễn Trãi đã phát triển quan niệm dân tộc độc lập với những chất mới và khá toàn diện trên mọi lĩnh vực văn hiến, lãnh thổ, phong tục, lịch sử, hào kiệt. Lý luận về dân tộc độc lập và quốc gia có chủ quyền là những nguyên lý không chỉ nhận thức một lần là xong, mà là một quá trình phát triển không ngừng đi từ huyền bí đến cơ sở hiện thực đanh thép, từ lý lẽ đơn sơ đến lý luận phong phú. Điều này biểu hiện rất rõ trong tư tưởng của Lý Thường Kiệt qua bài “Nam quốc sơn hà”, đến Trần Quốc Tuấn với bài “Hịch tướng sỹ” thì nước Việt độc lập không chỉ vì sách trời đã ghi mà phải đuổi giặc đi để rửa nhục cho nước, để bảo vệ quyền lợi của quốc gia và gia tộc; đến Nguyễn Trãi trong bài ”Bình Ngô đại cáo” thì nước Đại Việt phải sạch bóng quân thù vì Đại Việt là một nước văn hiến, cứu nước trước hết là cứu dân, vì biết đánh và biết thắng trước giặc ngoại xâm tàn ác và bóc lột dã man dân lành... Lý luận về chiến lược và sách lược chiến thắng quân thù thể hiện ở những điểm sau: Phải coi trọng sức mạnh của cộng đồng “vua tôi đồng lòng, anh em hòa mục, cả nước góp sức giặc ắt bị bắt” (Trần Quốc Tuấn), “thiết quân rượu hòa nước, dưới trên đều một dạ cha con” (Nguyễn Trãi); Phải coi trọng vai trò của dân “chở thuyền là dân mà lật thuyền cũng là dân” (Nguyễn Trãi); Phải có trách nhiệm đối với dân, chăm dân và dưỡng sức dân “khoan thư sức dân làm kế sâu gốc bền rễ, đó là thượng sách giữ nước” (Trần Quốc Tuấn). Phương pháp luận trong công cuộc dựng nước và giữ nước, người Việt thường căn cứ vào thời và ý dân, lấy ít địch nhiều, lấy đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí dân thay cường bạo. - Về đạo làm người các nhà tư tưởng Việt Nam thường dựa vào các đạo Nho, Phật, Lão coi đó là cơ sở hành động của mình. Từ sau Lý, Trần Nho giáo dần dần được đề cao hơn. Cụ thể, khi vào đời họ đều khẳng định Nho giáo là tư tưởng sống của mình, khi bước ra khỏi đời sống chính trị và phải giải quyết các vấn đề ốm đau - sống chết - phúc họa - may rủi thì họ dùng Phật giáo làm chỗ dựa tinh thần, khi sa cơ lỡ vận họ tìm đến đạo Lão để được an ủi, được tự do tự tại. - Nói chung thế giới quan của các nhà tư tưởng Việt Nam trước 1930 là thế giới quan dung hợp Nho - Phật - Lão. Bên cạnh những mặt tích cực nó cũng biểu hiện những hạn chế như: Không chú trọng đến nhận thức luận, thiên về trực giác duy tâm thiếu tư duy khoa học, coi thường pháp chế, coi thường khoa học, kỹ thuật, sùng ngoại và mê tín. II. NHỮNG ĐẶC TRƯNG CỦA TƯ TƯỞNG VIỆT NAM SAU 1930. Đây là thời kỳ xâm nhập và phát triển thành hệ tư tưởng của người Việt trên cơ sở nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam , nhân dân Việt Nam nói chung, các nhà tư tưởng Việt Nam nói riêng đã tiếp thu, vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn nước ta trên cơ sở đổi mới, hiện đại và nêu cao các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc: Yêu nước; Sáng tạo trong lao động; Anh hùng bất khuất trong giữ gìn độc lập dân tộc và chủ quyền của Tổ Quốc; Nhân ái, nhân văn, nhân đạo vì độc lập tự do của Tổ Quốc. Tất cả những giá trị tư tưởng của Việt Nam từ 1930 đến nay, thể hiện tập trung và đầy đủ nhất trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ngày nay, Đảng ta khẳng định: Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là cơ sở nền tảng của tư tưởng và là kim chỉ nam cho mọi hành động cách mạng của toàn Đảng, toàn dân Việt Nam. - Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc: Đây là một trong những ham muốn tột bậc của Người. Người có ý thức dân tộc và truyền thống dân tộc rất cao. Tư tưởng của Người về dân tộc và cách mạng dân tộc là độc lập và có sự sáng tạo khi tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin. Người thực sự là Anh hùng giải phóng dân tộc. Trong tư tưởng của Người sáng ngời ý thức dân tộc và truyền thống độc lập dân tộc của cha ông; tinh thần đấu tranh quật khởi; tinh thần dân tộc vô sản; tinh thần quyền dân tộc tự quyết của dân tộc độc lập; tinh thần Việt Nam là một dân tộc thống nhất, dân tộc Việt Nam phải được thống nhất; chủ nghĩa dân tộc là một động lực của cách mạng Việt Nam; giải phóng dân tộc bằng nổ lực cánh sinh; gắn dân tộc với chủ nghĩa xã hội; gắn cách mạng giải phóng dân tộc với cách mạng xã hội chủ nghĩa. - Tư tưởng Hồ Chí Minh về Chủ nghĩa xã hội và con đường lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam: Người không chỉ ra khuôn mẫu về mô hình chủ nghĩa xã hội một cách cụ thể. Người có nhiều định nghĩa về chủ nghĩa xã hội, nhưng không định nghĩãCnh với tư cách là khuôn mẫu buộc mọi quốc gia đều phải tuân thủ, mà chỉ định nghĩa Chủ nghĩa xã hội với tư cách là mục tiêu. Người kiên trì và nhất quán mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Trong đổi mới không đổi mới mục tiêu Chủ nghĩa xã hội. Người khẳng định tính tất yếu lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội không kinh qua phát triển tư bản chủ nghĩa là điểm khó khăn nhất của Việt Nam. Các động lực của xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là quần chúng nhân dân, vai trò con người, xây dựng chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh; là xây dựng nền văn hóa mới trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin và kinh nghiệm của các nước anh em; khẳng định vai trò quan trọng quyết định của Đảng Cộng sản, nhà nước và tổ chức quần chúng trong xây dựng chủ nghĩa xã hội. - Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản: Hồ Chí Minh là người sáng lập và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam. Điểm độc đáo sáng tạo của Người là thánh lập Đảng Cộng sản ở một nước thuộc địa và lệ thuộc. Người khẳng định một nước thuộc địa tất yếu phải có Đảng lãnh đạo. Đó là Đảng của giai cấp công nhân đồng thời là Đảng của dân tộc, Đảng của nhân dân; Đó là Đảng cầm quyền, Đảng kiểu mới và Đảng trong sạch vững mạnh. Đảng trong sạch vững mạnh có nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lênin, nguyên tắc tổ chức sinh hoạt là tập trung dân chủ; Tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách; Phê và tự phê bình; Giữ gìn sự đoàn kết nhất trí trong Đảng; Gắn bó giữa Đảng viên với quần chúng; người Đảng viên phải luôn rèn luyện mình theo sáu tiêu chuẩn. - Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước: Hồ Chí Minh là người trực tiếp lãnh đạo, khai sinh và làm chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa trong suốt hai mười bốn năm đầu. Người đã quan sát kỹ nhà nước trước đó ở Việt Nam coi đó là nhà nước thuộc địa tay sai. Khi ra nước ngoài Người đã thấy rõ bản chất của nhà nước thực dân và so sánh nó với nhà nước thuộc địa. Tại Liên Xô Người đã thấy rõ ưu thế hơn hẳn của nhà nước Liên Xô với các nhà nước khác. Người đã đưa ra tư tưởng về nhà nước kiểu mới: Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Bản chất của nhà nước ta là nhà nước của giai cấp công nhân, tất cả đều vì dân do dân và có nền tảng là nhân dân.Người kiên quyết chống mọi biểu hiện của đặc quyền, đặc lợi, quan liêu, xa rời dân trong nhà nước. Người nêu ra tư tưởng về nhà nước pháp quyền là điều hành xã hội bằng hiến pháp và pháp luật. Hiến pháp và pháp luật phải đủ mạnh và giáo dục rộng rãi trong quần chúng nhân dân, phải được thực hiện một cách nghiêm túc, vừa gìn giữ vừa là lẽ sống của nhân dân. Là kết hợp đức trị với pháp trị. Bộ máy nhà nước phải trong sạch vững mạnh, dân chủ, có hiệu lực, khoa học và phải chống mọi tệ nạn tiêu cực. Cán bộ công chức nhà nước phải có đạo đức, có trí tuệ. - Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa: Hồ Chí Minh là nhà văn hóa lớn đã được UNSCO công nhận. Người đã nêu ra khái niệm văn hóa đồng thời Người là chủ thể sáng tạo văn hóa. Với Người văn hóa là chính trị là làm sao cho được lòng dân. Người là tấm gương về phong cách, ứng xử văn hóa: khoan dung, nhân ái, bình dị. Người xác định vai trò của văn hóa là vốn quý; văn hóa là một mặt trận, văn hóa là động lực của phát triển, văn hóa là phục vụ nhân dân, văn hóa là sự tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại. - Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đại đoàn kết: Người kế thừa tinh hoa đoàn kết của nhân loại và dân tộc mà khẳng định đoàn kết là truyền thống cực kỳ quý báu của toàn đảng toàn dân ta. Người xác định vai trò của đại đoàn kết là tạo ra được sức mạnh vô địch, tạo ra sức mạnh tổng hợp và phụng sự nhân dân; Nguyên tắc của đại đoàn kết là thống nhất tinh thần yêu nước với tinh thần quốc tế vô sản vì dân tộc, vì con người; Đại đoàn kết là có niềm tin vững chắc, niềm tin mãnh liệt vào dân; Đại đoàn kết không là khẩu hiệu mà là chiến lược lâu dài, nhất quán. Đàon kết rộng rãi trên cơ sở liên minh công nông; Đoàn kết thực sự, chân thành, giúp nhau cùng tiến bộ; Đoàn kết trên cơ sở nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, quốc tế vô sản có lý có tình. Phương pháp của đại đoàn kết là tuyên truyền giáo dục, nêu gương, đoàn kết bằng các tổ chức đoàn thể quần chúng, đoàn kết là nhất quán thêm bạn bớt thù. Đoàn kết là “đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết”. - Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân văn: Người kế thừa truyền thống nhân ái của dân tộc mà yêu thương con người, suốt đời vì sự nghiệp giải phóng con người, xây dựng thiên đường cho con người ngay trong thế giới hiện thực. Với Hồ Chí Minh nhân văn là la tình yêu thương con người, yêu thương nhân dân sâu sắc, là đồng cảm với người cùng khổ, với người lao động. Nhân văn là tin vào nhâ dân một cách mãnh liệt, là chăm lo đời sống toàn diện và phát triển toàn diện cho con người, cho nhân dân (nước độc lập mà dân không hạnh phúc thì độc lập ấy có nghĩa lý gì). Nhân văn là quan tâm đến tất cả các giới (nâng niu tất cả chỉ quên mình). Nhân văn là hành động chứ không là lý thuyết, là hành động vì cái chung, vì giải phóng con người, tôn trọng cá tính đồng thời là mẫu mực làm gương cho nhân dân. Nhân văn cao cả của Hồ Chí Minh chính là sự nghiệp trồng người của Người. Đạo đức cách mạng ở Người là cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, trung với nước, hiếu với dân, khiêm tốn, thật thà, dũng cảm. TÀI LIỆU THAM KHẢO Nguyễn Hữu Vui (Chủ biên) - Lịch sử Triết học - Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Hà Nội 1998. Hội đồng biên sọan sách giáo khoa Trung ương - Triết học Mác-Lênin - Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Hà Nội 1999. Nguyễn Đăng Thục - Lịch sử Triết học phương Đông - Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh - Bộ 5 tập - 1991. Lê Sỹ Thắng (Chủ biên) - Lịch sử tư tưởng Việt Nam - Tập 2 - Nhà xuất bản Khoa học xã hội - Hà Nội 1997. Nguyễn Tài Thư (Chủ biên) - Lịch sử tư tưởng Việt Nam - Tập 1 - Nhà xuất bản Khoa học xã hội - Hà Nội 1993. Đoàn Đức Hiếu, Nguyễn Văn Hòa - Lịch sử triết học Phương Đông - Đại học sư phạm Huế 1993. Nguyễn Văn Hòa, Võ Ngọc Huy - Đại cương Triết học Phương Đông - Đại học Huế 1994. Hoàng Ngọc Vĩnh - Đại cương Lịch sử Triết học Phương Đông và Việt Nam - Đại học Khoa học Huế 2001. PHỤ LỤC I- BẢNG SO SÁNH NIÊN BIỂU VIỆT NAM VÀ NIÊN BIỂU TRUNG QUỐC Theo Trần Văn Giáp - Niên biểu Việt Nam - Nhà xuất bản Khoa học xã hội - Hà Nội 1970 - Tr 42, 43, 44. . Trung Quốc Việt Nam Tam hoàng: Phục Hy, Thần Nông, Hoàng Đế; Nhị đế: Đường, Ngu; Tam đại: Hạ, Thương, Chu(4477tcn - 247tcn) Hồng Bàng, Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân và 18 đời vua Hùng (2879 tcn - 258 tcn). Tần 246 tcn - 207 tcn. Thục 257 tcn - 208 tcn. Tây Hán 206 tcn - 25 scn Triệu 208 tcn - 111 tcn; Bắc thuộc lần thứ nhất 111 tcn - 39 scn. Đông Hán 25 scn - 220; Tam quốc: Ngụy, Thục, Ngô 220 - 265; Tây và Đông Tấn 265 - 420. Khởi nghĩa Hai Bà Trưng 40 - 42; Bắc thuộc lần thứ hai 43 - 544, trong thời kỳ này có khởi nghĩa của Bà Triệu 248. Nam Triều (Tống, Tề, Lương, Trần) 420 - 589; Bắc Triều( Bắc Ngụy, Tây Ngụy, Bắc Chu, Đông Ngụy, Bắc Tề) 386-581. Tiền Lý (Lý Bí) 544 - 548; Triệu Việt Vương (Triệu Quang Phục) 549 - 570; Hậu Lý 571 - 603 với nước Vạn Xuân. Tùy 581 - 618, Đường 618 - 907. Bắc thuộc lần thứ ba 603 - 938, trong thời kỳ này có khởi nghĩa của Mai Hắc Đế 722, Phùng Hưng (Bố Cái Đại Vương) 791. Ngũ Đại ( Lương, Đường, Tấn, Hán, Chu) 907 -960. Nhà Ngô với nước Đại Việt 938 - 967. Tống 960 - 1279. Nhà Đinh với nước Đại Cồ Việt 968-980; Tiền Lê (Lê Hoàn) 980- 1009; Nhà Lý với nước Đại Việt 1010 -1225. Nguyên Mông 1280 - 1368. Nhà Trần ba lần đánh tan quân Nguyên 1225 - 1400. Nhà Minh 1368 - 1644 Nhà Hồ với nước Đại Ngu 1400 - 1407; Hậu Trần 1407 - 1413; Thuộc Minh 1414 - 1427 với khởi nghĩa của Lê Lợi 1418 - 1427; Nhà Lê với nớc Đại Việt 1428 - 1527; Nhà Mạc 1527 - 1595. Mãn Thanh 1644 - 1911. Lê - Trịnh 1533-1788; Các chúa Nguyễn với nước Việt Nam và sau đó là Đại Nam 1588 - 1775; Tây Sơn 1771 - 1802; Triều đình Nhà Nguyễn 1802 - 1945. Trung Hoa dân quốc 1912 - 1949; Cộng hòa nhân dân Trung hoa 1949 đến nay. Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa 1945 - 1976; Công hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1976 đến nay. II- KHÁI QUÁT VỀ NIÊN BIỂU VIỆT NAM. Thời kỳ đồ đá cũ: Cách ngày nay khoảng 300.000 năm. Thời kỳ đồ đá giữa: Cách ngày nay khoảng 10.000 năm. Thời kỳ đồ đá mới: Cách ngày nay khoảng 5.000 năm. Thời kỳ Hồng Bàng, Văn Lang: Từ 2879 tcn đến 258 tcn. Đây là thời kỳ buổi đầu dựng nước. Thời kỳ đấu tranh giành độc lập dân tộc: Trước đây ta quen gọi là thời kỳ Bắc thuộc. Thời kỳ này kéo dài từ Triệu Đà xâm lược nước ta cho đến thế kỷ X scn. Niên biểu Việt Nam thời kỳ này như sau: - Nhà Thục (257 tcn - 208 tcn). Tổ quốc Việt Nam thống nhất từ mũi Cà Mau đến địa đầu Móng Cái. - Phong kiến phương Bắc đô hộ Việt Nam (207 tcn - 938 scn). Đất nước bị chia cắt. Nước Nam Việt chỉ còn lãnh thổ từ Thanh Hóa trở ra Bắc được chia thành hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân và được sát nhập với tỉnh Quảng Đông Trung Quốc; về sau lại sát nhập thành một châu là Giao Châu do nhà Hán thống trị. - Thời kỳ này có các cuộc khởi nghĩa lớn: Hai Bà Trưng (40 - 43); Bà Triệu (248); Tiền Lý (Lý Bí 544 đến 548) và Triệu Việt Vương (Triệu Quang Phục 549 đến 570) rồi Hậu Lý (571 đến 603) nước ta có tên là Vạn Xuân; Mai Hắc Đế (722); Phùng Hưng (791). Thời kỳ đấu tranh giữ gìn độc lập dân tộc: Thời kỳ này tính từ khởi nghĩa của Ngô Quyền cho đến cải cách của Hồ Quý Ly (938 - 1400). Thời kỳ này có niên biểu và các cuộc khởi nghĩa lớn sau đây: - Nước Đại Việt với Nhà Ngô 939 đến 967 (Có loạn 12 sứ quân 966 - 968); - Nước Đại Cồ Việt với Nhà Đinh (Đinh Tiên Hoàng) 968 đến 980, Tiền Lê (Lê Hoàn) 980 đến 1009; - Nước Đại Việt với Nhà Lý (Lý Công Uẩn) 1010 đến 1225 có chín đời vua: Thái Tổ (1010 - 1028), Thái Tông (1028 - 1054), Thánh Tông (1054 - 1072), Nhân Tông (1072 - 1128) Lý Thường Kiệt đánh tan quân Tống và dẹp loạn Chân Lạp - Chiêm Thành thu hồi lại vùng đất từ Thanh Hóa đến đèo ngang Quảng Bình, Thần Tông (1128 - 1138) thu hồi lại đất Nghệ An, Anh Tông (1138 - 1175), Cao Tông (1176 - 1210), Huệ Tông (1211 - 1224), Chiêu Hoàng (1224 - 1225); - Nước Đại Việt với Nhà Trần (Trần Cảnh) 1225 đến 1400 ba lần đánh tan quân Nguyên Mông, có 13 vua: Thái Tông (1225 - 1258), Thánh Tông (1258 - 1278), Nhân Tông (1279 - 1293), Anh Tông (1293 - 1314) Trần Nhân Tông gả công chúa Huyền Trân cho vua Chế Mân và thu hồi lại vùng đất của Tổ quốc từ Quảng Bình đến Duy Xuyên Quảng Nam, Minh Tông (1314 - 1329), Hiến Tông (1329 - 1341), Dụ Tông (1341 - 1369), Nhật Lễ (1369 - 1370), Nghệ Tông (1370 - 1372), Duệ Tông (1373 - 1377), Phế Đế (1377 - 1388), Thuận Tông (1388 - 1398), Thiếu Đế (1398 - 1400). Thời kỳ ổn định và thịnh trị của xã hội phong kiến thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XVI: Thời kỳ này tính từ cải cách của Hồ Quý Ly (1400 - 1407) cho đến Lê Túc Tông (1504): - Nước Đại Ngu với Nhà Hồ 1400 đến 1427 có bốn vua: Quý Ly (1400 - 1401), Hán Thương (1401 - 1407), Hậu Trần có Giản Định (1407 - 1409) và Quý Khoáng (1409 - 1413). Giặc Minh xâm lược nước ta từ 1413 đến 1427 thì từ 1418 đến 1427 là khởi nghĩa của Bình Định Vương Lê Lợi. - Nước Đại Việt với Nhà Lê (Tiền Lê Sơ) 1428 - 1504 có 8 vua: Thái Tổ (1428 - 1433), Thái Tông (1434 - 1442), Nhân Tông (1443 - 1459), Nghi Dân (1459), Thánh Tông (1460 - 1497) Lê Thánh Tông dẹp loạn Chiêm Thành thu hồi lại lãnh thổ Việt Nam từ Duy Xuyên quảng Nam đến Đồng Xuân Phú Yên và xác lập chủ quyền của người Việt ở Đàng Trong, Hiến Tông (1498 - 1504), Túc Tông (1504). Thời kỳ khủng hoảng và chia cắt của xã hội phong kiến (Thế kỷ XVI - Thế kỷ XVII): Thời kỳ này được tính từ Hậu Lê Sơ (Lê Uy Mục 1505 - 1509) đến Trịnh - Nguyễn phân tranh nước ta thành Đàng Trong - Đàng Ngoài (1624). - Nước Đại Việt, nhà Hậu Lê Sơ với 4 vua: Uy Mục (1505 - 1509), Tương Dực (1510 - 1516), Chiêu Tông (1516 - 1522), Hoàng Đệ Xuân (1523 - 1527). Chế độ phong kiến Lê Sơ đi vào khủng hoảng. - Nhà Mạc 1527 - 1595 Mạc Đặng Dung cướp ngôi Nhà Lê lập nên Nhà Mạc với hai vua Đặng Dung (1527 - 1529), Đặng Doanh (1530 - 1540) sau đó con cháu lên Cao Bằng nối dõi đến 1595. - Thời Lê Trung Hưng (Lê - Trịnh) 1533 - 1624 với 5 vua: Trang Tông (1533 - 1548), Trung Tông (1549 - 1556), Anh Tông (1557 - 1573) Trịnh Nguyễn bắt đầu phân tranh từ 1558, Thế Tông (1573 - 1599), Kinh Tông (1600 -1619), Thần Tông (lần thứ nhất 1619 - 1643) nước ta bị phân chia thành Đàng Trong và Đàng Ngoài và không liên hệ nhau. Trịnh - Nguyễn dùng lũy Trường Dục làm biên giới vào năm 1624 Ở Đàng Ngoài các chúa Trịnh tiếm quyền vua Lê. Ở Đàng Trong giai đoạn này có 2 chúa: Nguyễn Hoàng (1558 - 1612), Nguyễn Phúc Nguyên (1613 - 1634) chúa thu hồi lãnh thổ Việt Nam từ Phú Yên đến Đồng Nai. Thời kỳ chiến tranh nông dân và sự sụp đổ của các chính quyền Đàng Trong, Đàng Ngoài. Thời kỳ này tính từ 1624 đến hết thời Tây Sơn 1802, nước ta bị chia cắt thành gần như hai quốc gia. Khi vua Quang Trung đại phá quân Thanh nước ta cũng mới chỉ thống nhất được từ Bắc vào đến Bình Định. Từ Bình Định trở vào Nam chịu sự chia nhau cai quản của Nguyễn Nhạc và chúa Phúc Thuần: - Thời Lê Trung Hưng (Lê - Trịnh) 1624 đến 1788 còn gọi là thời Lê Mạt, tên nước là Đại Việt: + Ở Đàng Ngoài có 11 vua: Chân Tông (1643 1649), Thần Tông (lần sau 1649 - 1662), Huyền Tông (1663 -1671), Gia Tông (1672 - 1675), Hy Tông (1676 - 1705), Dụ Tông (1705 - 1729), Hôn Đức Công (1729 - 1732), Thuần Tông (1732 - 1735), Ý Tông (1735 - 1740), Hiền Tông (1740 - 1786) và vị vua bán nước, rước voi về dày mả tổ Lê Chiêu Thống (1787 - 1788). + Ở Đàng Trong các chúa Nguyễn đặt tên nước ta là Việt Nam, sau đó đổi lại là Đại Nam, có 7 chúa: Phúc Lan (1635 - 1648), Phúc Tần (1648 - 1687), Phúc Trăn (1687 - 1691), Phúc Chu (1691 - 1725), Phúc Trú (1725 - 1738) chúa thu hồi lãnh thổ Việt Nam từ Đồng Nai đến Cà Mau, Phúc Khoát (1738 - 1765), Phúc Thuần (1765 - 1775). - Nhà Tây Sơn 1778 - 1802 với ba vua Thái Đức (Nguyễn Nhạc 1778 - 1793), Quang Trung (Nguyễn Huệ 1778 - 1792), Cảnh Thịnh (Quang Toản 1793 - 1802). Thời kỳ thế kỷ XIX - XX: Đây là thời kỳ triều đình Nhà Nguyễn với đất nước thống nhất từ mũi Cà Mau đến địa đầu Móng cái. Từ 1858 nước ta bị thực dân Pháp xâm lược. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời năm 1930. Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời 1945. Thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ nước ta thống nhất độc lập năm 1975 và đổi tên thành nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1976. - Nước Việt Nam với Triều đình Nhà Nguyễn 1802 - 1945 có 13 vua: Gia Long (1802 - 1819), Minh Mạng (1820 - 1840), Thiệu Trị ( 1841 - 1847), Tự Đức (1848 - 1883), Dục Đức (ba ngày 1883), Hiệp Hòa (bốn tháng 1883), Kiến Phúc (1883 - 1884), Hàm Nghi (1885), Đồng Khánh (1886 -1888), Thành Thái (1889 -1907), Duy Tân (1907 -1916), Khải Định (1916 - 1925), Bảo Đại (1926 - 1945) Các số liệu trên thống kê theo “Đất nước ta” - Hoàng Đạo Thúy - Nxb KHXH - Hà Nội 1989 và “Kể chuyện vua quan Nhà Nguyễn” của Phạm Khắc Hòe - 1990. . Pháp xâm lược Việt Nam năm 1858 và đã xóa tên nước ta trên bản đồ thế giới. - Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa 1945 - 1976 với hai vị chủ tịch nước là chủ tịch Hồ Chí Minh (1945 - 1969), chủ tịch Tôn Đức Thắng (1970 - 1976). Có hai tổng bí thư Đảng Cộng sản là đồng chí Trường Chinh và đồng chí Lê Duẩn. Việt Nam liên tiếp đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ. - Nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1976 đến nay với năm vị chủ tịch nước là chủ tịch Tôn Đức Thắng (1976 - 1980), chủ tịch Trường Chinh (1981 - 1986), chủ tịch Võ Chí Công (1987 - 1992), chủ tịch Lê Đức Anh (1992 -1997), chủ tịch Trần Đức Lương (1997 - nay). Các tổng bí thư của Đảng Cộng sản Việt Nam thời kỳ này là đồng chí Lê Duẩn (1976 - 1986), đồng chí Trường Chinh (1986), đồng chí Nguyễn Văn Linh (1986 - 1991), đồng chí Đỗ Mười (1991 - 1998), đồng chí Lê Khả Phiêu (1998 - 2001), đồng chí Nông Đức Mạnh (2001 - nay). III- TƯỢNG, HÌNH THỨC BÁT QUÁI VỚI NGŨ HÀNH, CON SỐ stt quái Tên quái tượng t.phần h.thức hướng giờ n.hành mùa số tính 1 º º Kiền Trời 3dương 3liền Nam Ngọ Kim Hạ 4 và 9 Vua, cha, kiên nghị. 2 º º Đoài Đầm 2Dg 1Â Khuyết trên ĐNam Kim 4 và 9 Thiếu nữ, hay chê 3 º º Ly Lửa 2Dg 1Â Rỗng giữa Đông Mão Hỏa Xuân 2 và 7 Con gái, hoạt bát 4 º º Chấn Sấm 1Dg 2Â Bát ngữa ĐBắc Mộc 3 và 8 Con trưởng, phản trắc, khỏe 5 º º Tốn Gió 2Dg 1Â KhuyếtDưới TNam Mộc 3 và 8 Trưởng nữ, cao o quyết đoán 6 º º Khảm Nước 1Dg 2Â Đặc Giữa Tây Dậu Thủy Thu 1 và 6 Kẻ trộm, hay lo âu 7 º º Cấn Núi 1Dg 2Â Bát Úp TBắc Thổ 5 và10 Thiếu nam, nhanh nhẹn 8 º º Khôn Đất 3 Â 3Đứt Bắc Tý Thổ Đông 5 và10 Hoàng hậu,Mẹ Hay ghen

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docbg_lsth_7266.doc
Tài liệu liên quan