Đảng lãnh đạo thực hiện giải quyết nhiệm vụ dân tộc và dân chủ qua cuộc cải cách ruộng đất ở Việt Nam (1945-1957)

Đảng lãnh đạo thực hiện giải quyết nhiệm vụ dân tộc và dân chủ qua cuộc cải cách ruộng đất ở Việt Nam ( 1945-1957)MỞ ĐẦU Ruộng đất và nông dân là những yếu tố cơ bản của nông nghiệp và nông thôn. Trong sản xuất nông nghiệp, ruộng đất là tư liệu sản xuất quan trọng nhất, là loại tư liệu sản xuất đặc biệt không có gì có thể thay thế được, còn nông dân lao động lại là nhân tố quan trọng quyết định của quá trình sản xuất. Giữa nông dân và ruộng đất có mối quan hệ: hoặc nông dân làm chủ ruộng đất hoặc nông dân chỉ là người làm thuê trên mảnh đất của người khác. Theo như ý kiến của Willian Petty thì: “lao động là cha, đất là mẹ của của cải vật chất” Ở nước ta, trước khi Thực dân Pháp xâm lược, ruộng đất thuộc sở hữu của nhà nước phong kiến, người nông dân chỉ là tá điền cho Nhà nước và địa chủ. Họ bị địa chủ bóc lột bởi địa tô cao. Từ đó nảy sinh mâu thuẫn cơ bản trong xã hội ta lúc này là mâu thuẫn địa chủ và nông dân. Năm 1858, Thực dân Pháp xâm lược nước ta, bên cạnh những hình thức bóc lột của thực dân, chúng vẫn duy trì phương thức bóc lột phong kiến. Xã hội nước ta từ đó có tính chất thuộo c địa với những tàn dư phong kiến nặng nề. Ruộng đất không những bị đế quốc cướp đoạt mà địa chủ người Việt được sự che chở và dung dưỡng của bọn thực dân cũng ra sức cướp đoạt của nhân dân. Bởi vậy mà, nét nổi bật trong bức tranh nông thôn Việt Nam thời thuộc Pháp là cảnh đói nghèo và lạc hậu của người nông dân. Do thực dân Pháp xâm lược nước ta, thống trị và bóc lột nhân dân ta thì chủ yếu là thống trị và bóc lột nông dân. Mặc dù ruộng đất là một yêu cầu thực tế của nông dân, nhưng lúc này đó không phải là yêu cầu số một mà yêu cầu trên hết là dân tộc giải phóng. Nhận thức được những thực tiễn trong xã hội Việt Nam, đầu năm 1930, Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời, trong Cương lĩnh chính trị cảu mình Đảng đã đề ra nhiệm vụ phải giải phóng nông dân khỏi ách đế quốc và phong kiến địa chủ, giải phóng dân tộc phải gắn liền với giải phóng nông dân “ Đảng tập hợp đa số quần chúng nông dân chuẩn bị cách mạng thổ địa và lật đổ bọn địa chủ phong kiến”; “Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng đánh trúc bọn địa chủ và phong kiến”; “ Thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo, bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo” [5; Tr 80, 81,82]. Trong bối cảnh xã hội thuộc địa như Việt Nam Đảng ta luôn coi quyền lợi dân tộc phải được đặt cao hơn quyền giai cấp. Giả phóng dân tộc được xác định là mục đích cao nhất, thực hiện nhiệm vụ dân chủ trở thành động lực mạnh mẽ cho bước phát triển giải phóng dân tộc. Thắng lợi vĩ đại của cuộc cách mạng tháng 8 năm 1945 đã mang lại độc lập, tự do cho dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, trước dã tâm quay lại xâm lược của thực dân Pháp, dân tộc Việt Nam phải tiếp tục đứng lên giành lại quyền làm chủ đất nước . Trước hoàn cảnh đó, Đảng ta đã có một chính sách để giải quyết nhiệm vụ dân chủ (vấn đề ruộng đất) và nhiệm vụ dân tộc hết sức sáng tạo, phù hợp với yêu cầu thực tế cách mạng ở nước ta, đó là cuộc cải cách ruộng đất 1945-1956. Để góp phần vào việc tìm hiểu những chủ trương chính sách của Đảng , những tác dụng của cuộc cải cáchnày trong việc giải quyết các nhiệm vụ dân tộc và dân chủ ở nước ta trong giai đoạn 1945-1946. Tôi chọn nội dung: “Đảng lãnh đạo thực hiện giải quyết nhiệm vụ dân tộc và dân chủ qua cuộc cải cách ruộng đất ở Việt Nam ( 1945-1957)” để làm bài khóa luận của mình

doc27 trang | Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 2297 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đảng lãnh đạo thực hiện giải quyết nhiệm vụ dân tộc và dân chủ qua cuộc cải cách ruộng đất ở Việt Nam (1945-1957), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ho Nhà nước và địa chủ. Họ bị địa chủ bóc lột bởi địa tô cao. Từ đó nảy sinh mâu thuẫn cơ bản trong xã hội ta lúc này là mâu thuẫn địa chủ và nông dân. Năm 1858, Thực dân Pháp xâm lược nước ta, bên cạnh những hình thức bóc lột của thực dân, chúng vẫn duy trì phương thức bóc lột phong kiến. Xã hội nước ta từ đó có tính chất thuộo c địa với những tàn dư phong kiến nặng nề. Ruộng đất không những bị đế quốc cướp đoạt mà địa chủ người Việt được sự che chở và dung dưỡng của bọn thực dân cũng ra sức cướp đoạt của nhân dân. Bởi vậy mà, nét nổi bật trong bức tranh nông thôn Việt Nam thời thuộc Pháp là cảnh đói nghèo và lạc hậu của người nông dân. Do thực dân Pháp xâm lược nước ta, thống trị và bóc lột nhân dân ta thì chủ yếu là thống trị và bóc lột nông dân. Mặc dù ruộng đất là một yêu cầu thực tế của nông dân, nhưng lúc này đó không phải là yêu cầu số một mà yêu cầu trên hết là dân tộc giải phóng. Nhận thức được những thực tiễn trong xã hội Việt Nam, đầu năm 1930, Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời, trong Cương lĩnh chính trị cảu mình Đảng đã đề ra nhiệm vụ phải giải phóng nông dân khỏi ách đế quốc và phong kiến địa chủ, giải phóng dân tộc phải gắn liền với giải phóng nông dân “ Đảng tập hợp đa số quần chúng nông dân chuẩn bị cách mạng thổ địa và lật đổ bọn địa chủ phong kiến”; “Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng đánh trúc bọn địa chủ và phong kiến”; “ Thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo, bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo” [5; Tr 80, 81,82]. Trong bối cảnh xã hội thuộc địa như Việt Nam Đảng ta luôn coi quyền lợi dân tộc phải được đặt cao hơn quyền giai cấp. Giả phóng dân tộc được xác định là mục đích cao nhất, thực hiện nhiệm vụ dân chủ trở thành động lực mạnh mẽ cho bước phát triển giải phóng dân tộc. Thắng lợi vĩ đại của cuộc cách mạng tháng 8 năm 1945 đã mang lại độc lập, tự do cho dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, trước dã tâm quay lại xâm lược của thực dân Pháp, dân tộc Việt Nam phải tiếp tục đứng lên giành lại quyền làm chủ đất nước . Trước hoàn cảnh đó, Đảng ta đã có một chính sách để giải quyết nhiệm vụ dân chủ (vấn đề ruộng đất) và nhiệm vụ dân tộc hết sức sáng tạo, phù hợp với yêu cầu thực tế cách mạng ở nước ta, đó là cuộc cải cách ruộng đất 1945-1956. Để góp phần vào việc tìm hiểu những chủ trương chính sách của Đảng , những tác dụng của cuộc cải cáchnày trong việc giải quyết các nhiệm vụ dân tộc và dân chủ ở nước ta trong giai đoạn 1945-1946. Em chọn nội dung: “Đảng lãnh đạo thực hiện giải quyết nhiệm vụ dân tộc và dân chủ qua cuộc cải cách ruộng đất ở Việt Nam ( 1945-1957)” để làm bài tiểu luận của mình. NỘI DUNG 1. Tình hình quan hệ ruộng đất ở Việt Nam trước cách mạng tháng 8 -1945 Trước khi thực dân Pháp tiến hành xâm lược nước ta, ruộng đất nước ta được quy gọn thành ba hình thức sở hữu là: ruộng đất công Nhà nước, ruộng đất công làng xã, ruộng đất tư. Nhưng từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta đến cách mạng tháng Tám thì trong quan hệ sở hữu sở hữu ruộng đất nước ta có thêm “người chủ mới” tham gia cjieems đoạt và có chính sách như thực dân hóa, tư bản hóa khai thác sử dụng đất đai trên nền sở hữu phong kiến về ruộng đất đã có từ lâu đời. Nhìn chung lại, quan hệ ruộng đất trước cánh mạng tháng Tám, chúng ta thấy rõ có bốn chế độ sở hữu chính cùng tồn tại cùng nhau: Chế độ sở hữu của nông dân. Ruộng đất thuộc chế độ sở hữu này đều thuộc về nông dân. Trên những mảnh đất nhỏ bé của họ, người nông dân đã tự cày cấy, làm ăn. Nói là của nông dân nhưng thật ra cũng chỉ là của phần lớn trung nông và một số rất ít bần nông, còn nói chung, bần cố nông và một phần trung nông đều không có ruộng hoặc thiếu ruộng cày. Chế độ sở hữu của nông dân chỉ chiếm một tỉ lệ nhỏ trong toàn bộ diện tích (trên dưới 30%), trong lúc đó về mặt nhân khẩu nông thôn, nông dân lại chiếm đến tuyệt đa số (95% thậm chí là hơn nữa). Chế độ sở hữu này nói chung là chuyển biến theo chiều hướng rút hẹp lại, theo “quy luật phá sản” và bần cùng hóa dần dần của các tầng lớp nông dân, do chế độ kinh tế cũ, thuộc địa và nửa phong kiến gây nên. Chế độ sở hữu của giai cấp địa chủ phong kiến. Ruộng đất thuộc chế độ sở hữu này đều nằm trong tay giai cấp địa chủ phong kiến. Giai cấp này đã dùng phát canh thu tô làm phương thức kinh doanh ruộng đất chủ yếu. Phần lớn ruộng đất nước ta (khoảng 50%) là thuộc chế độ sở hữu này, trong lúc đó giai cấp địa chủ phong kiến chỉ chiếm một tỉ lệ nhân khẩu rất nhỏ trong nông thôn (3% đến 5%). Chế độ sở hữu của giai cấp địa chủ phong kiến dần dần được mở rộng, trên cơ sở chiếm đoạt ruộng đất của nông dân. Chế độ sở hữu của bọn tư bản thực dân Pháp. Đây là những đồn điền lúa, cao su, cà phê, chè, v..v.. ở rải rác khắp nơi trong nước. Bọn tư bản thực dân Pháp đã dùng lối kinh doanh tư bản chủ nghĩa kết hợp với những thủ đoạn bóc lột phong kiến và nửa phong kiến, trên những đồn điền này. Đất đai thuộc chế độ sở hữu của tư bản thực dân Pháp chiếm đến 9% diện tích ruộng đất trồng lúa trong nước, và được phát triển rất nhanh chóng trong 30 năm đầu của thế kỷ XX. Sự phát triển của chế độ sở hữu này cũng là dựa trên sự chiếm đoạt ruộng đất và bóc lột nhân công của bọn thực dân đối với nông dân Việt Nam Chế độ sở hữu ruộng đất công. Loại này về thực chất cũng là một chế độ sở hữu phong kiến, vì phần lớn ruộng đất công bị cường hào và địa chủ lũng đoạn. Những ruộng đất công này tuy vẫn được duy trì nhưng cũng dần dần bị rút hẹp, một phần đã trở thành sở hữu tư nhân (địa chủ phong kiến hoặc tư bản thực dân Pháp) Ngoài bốn loại chế độ sở hữu chính này, còn có những loại chế độ sở hữu ruộng đất chính khác ở vùng thiểu số, vùng công giáo, v.v.... Ở đây chỉ xin nói thêm về chế độ sở hữu ruộng đất của Nhà chung. Sự hình thành chế độ sở hữu này, do mấy nguồn ruộng đất sau đây tạo nên: ruộng đất Nhà chung tậu; ruộng đất do sự quyên cúng của quần chúng giáo dân; ruộng đất do chính quyền thực dân cấp cho; ruộng đất do sự bóc lột và chiếm đoạt của nông dân mà có; ruộng đất riêng của cha cố; v.v.. Chế độ sở hữu ruộng đất của Nhà chung căn bản là có tính chất của loại sở hữu phong kiến. Địa chủ Nhà chung không những chỉ dựa vào bóc lột nông dân như những địa chủ khác để làm giàu tậu ruộng, chiếm đoạt ruộng đất trừ nợ mà còn dựa vào thế lực nhà nước Thực dân, dựa vào uy thế của nhà thờ với giáo dân để mở rộng chế độ sở hữu của mình. Vì vậy, không có gì lạ khi thấy các vùng công giáo là những vùng ruộng đất tương đối tập trung hơn những vùng khác không phải công giáo. Số ruộng đất của Nhà chung chiếm độ 1% diện tích cả nước, tức vào khỏng 4 vạn rưỡi đến 5 vạn hecta, và con số đó có chiều hướng phát triển trong thời gian trước cánh mạng tháng tám. Tất cả các loại chế độ sở hữu ruộng đất nói trên là một cơ sở đầy đủ của tính chất thuộc địa và nửa phong kiến của xã hội Việt Nam trước đây. Thực dân Pháp và giai cấp địa chủ phong kiến Việt Nam nắm quyền chi phối kinh tế nông thôn nước ta và cơ sở của nền kinh tế đó là chế độ sở hữu ruộng đất có tính chất thuộc địa và nửa phong kiến. Trong bản báo cáo về thực hiện cải cách ruộng đất, đồng chí Trường Trinh có nhận định: Đại bộ phận kinh tế nước ta là nông nghiệp... ruộng đất tập trung vào tay số ít người là giai cấp địa chủ phong kiến và một phần vào tay thực dân Pháp. Nông dân là số đông người đã dùng sức lao động của mình để làm thành ra đồng ruộng, có công sản xuất để nuôi dân tộc và giữ vững đất nước từ khi lập quốc đến nay, mà vẫn không có ruộng đất hoặc thiếu ruộng đất bị đế quốc và phong kiến áp bức bóc lột thậm tệ. Quan hệ sở hữu ruộng đất nước ta trước cách mạng tháng Tám nói trên đã giải thích tại sao đời sống nông dân Việt Nam ngày càng khốn quẫn trong những điều kiện sản xuất tương đối thuận lợi, tại sao nông dân đã hăng hái tham gia cách mạng dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân. Nó cũng cắt nghĩa tại sao cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân phải lấy vấn đề ruộng đất làm cơ sở. Nó chứng minh một cách hùng hồn nguyên lí của chủ nghĩa Mác- Lênin về vấn đề dân tộc nói rằng: Vấn đề dân tộc thực chất là vấn đề nông dân 2. Cương lĩnh ruộng đất của Đảng Macxit – Lêninnit Tình hình phân phối ruộng đất và sự áp bức bóc lột của giai cấp địa chủ phong kiến và của bọn địa chủ thực dân đối với nông dân đã nói lên tính chất cực kì nghiêm trọng của vấn đề ruộng đất ở nước ta dưới thời thực dân Pháp thống trị. Nó cũng nói lên tính chất đặc biệt sâu sắc của của mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ, mâu thuẫn này cùng với mâu thuẫn giữa dân tộc ta với đế quốc xâm lược Pháp là hai mâu thuẫn cơ bản của xã hội nước ta trong thời đó. Trước khi chính đảng của giai cấp công nhân Việt Nam ra đời, trong hơn một thế kỷ, nhiều giai cấp và tầng lớp đã đứng lên lãnh đạo nhân dân ta vùng lên chống bọn xâm lược. Nhưng do tính chất hạn chế về mặt giai cấp của họ, chưa có một giai cấp hay tầng lớp nào nhận thức được tính chất bức thiết của vấn đề ruộng đất ở nước ta cũng như mối liên hệ quan hệ khăng khít của nó với vấn đề giải phóng dân tộc. Và đó, chính là nguyên nhân khiến cho họ không lôi cuốn được nông dân đông đảo và do đó, không tránh khỏi thất bại. Chỉ đến khi giai cấp công nhân Việt Nam bước lên vũ đài chính trị thì vấn đề ruộng đất và nông dân mới nhận thức được đúng tầm quan trọng của nó và đặt thành một trong những nhiệm vụ cơ bản của cách mạng. Căn cứ vào học thuyết Mác – Lênin về vấn đề chính quyền, về liên minh công nông và cách mạng ruộng đất, xuất phát từ tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đặt vấn đề cách mạng ruộng đất là nội dung chủ yếu của nhiệm vụ chống phong kiến và là một trong hai nhiệm vụ chủ yếu của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Ngay từ khi mới ra đời, trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam đã vạch rõ: cách mạng Việt Nam là cuộc cách mạng bao gồm làm “cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản” [12; Tr 41]. Lần đầu tiên trong lịch sử nước ta, cách mạng ruộng đất đã đặt thành nhiệm vụ cơ bản của cách mạng, được đặt ngang hành với nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Tháng 10 - 1930, Đảng Cộng sản Đông Dương đưa ra Luận cương chính trị. Luận cương khẳng định cách mạng Đông Dương là cách mạng tư sản dân quyền do giai cấp vô sản lãnh đạo, đó là cuộc cách mạng tư sản dân quyền có tính chất thổ địa và phản đế. Trong đó “thổ địa là cái cốt của cách mạng”. Luận cương đã nhận định: “Nông nghiệp thì phần nhiều là phải làm cho ra đế quốc chủ nghĩa đem bán ở nước ngoài, tuy vậy mà cách kinh dịch vẫn không thoát khỏi lốt phong kiến. Các thứ đồn điền (cao su, bông, cà phê...) thì phần nhiều là của bọn tư bản Pháp. Ruộng đát phần rất nhiều là của bọn địa chủ bổn xứ, kinh dinh theo lối phong kiến, nghĩa là cho dân nghèo cày thuê từng miếng mà lấy địa tô rất cao. Hoa lợi về nghề làm ruộng ở Đông Dương lại kém hơn ở các xứ khác (một hectare ở Mã-lai thì đuaọc 2.150 ki-lô lúa, ở Xiaam 1.870 ki-lô, ở Âu châu 4.570 ki-lô, ở Đông Dương chỉ được 1.210 ki-lô). Lúa gạo xuất cảng hàng năm càng nhiều, nhưng không phải vì nghề nông phát triển, mà chính vì bọn tư bổn cướp gạo của dân mà bán.[5; Tr 86] ... “Đế quốc chủ nghĩa Pháp liên hiệp với bon địa chủ, bộn lái buôn và bọn cho vay bổn xứ mà bóc lột dân cày một cách rất độc ác. Đế quốc chủ nghĩa rút các sản vật nông nghiệp đem bán cho nướ ngoài, đem hàng hóa của nó cho vào bán trong bản xứ, bắt dân đóng sưu cao, thuế nặng, làm dân cày đói khổ và thủ công thất nghiệp rất nhiều. Ruộng đất thì lần lần rút vào tay đế quốc và địa chủ cả, lại có một bon bao đất về cho thuê lại (quá điền), ruộng đất thuê đi mướn lại mấy lần mới đến tay sân cày nghèo, bởi vậy mà địa tô rất cao. Dân cày thiếu vốn đi vay thì phải bị bọn cho vay bóc lột, đến lỗi nhiều khi phải mang ruộng đất hoặc con cái mà gán nợ. Đê giữ nước lụt thì đế quốc không chú ý sửa sang. Dẫn thủy nhập điền thì về tay một bọn tư bổn nó cho thuê rất cao, dân cày nghèo không có tiền thì không có nước. Thành thử nạn mất mùa vì nước lụt và đại hạn ngày càng nhiều. Vì vậy, dân cày chẳng những là không có thể phát triển kinh tế của họ mà lại càng ngày phải phụ thuộc vào bon tư bổn và ngày càng phải suy đồi, số người thất nghiệp và chết đói ngày càng đông. Nền kinh tế cũ thì phá hoại rất mau, mà công nghệ mới thì phát triển rất chậm; những người đói khổ và thất nghiệp không thể hóa ra công nhân hết mà phải đọng lại trong quê nhà. Tình cảnh ở nhà quê cũng rất thê thảm”.[5; Tr 91 – 92] Bởi vậy mà, sự cốt yếu của tư sản dân quyền cách mạng một mặt là phải đấu tranh để đánh đổ các di tích phong kiến,đánh đổ các cách bóc lột theo lối tiền tư bổn và để thực hành thổ địa cách mạng cho triệt để; một mặt nữa là tranh đấu để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập. Hai mặt tranh đấu có liên lạc mật thiết với nhau, vì có đánh đổ đế quốc chủ nghĩa mới phá được cái giai cấp địa chủ và làm cách mạng thổ địa được thắng lợi; mà có phá tan chế độ phhong kiến thì mói đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa. Như vậy, mặc dù Luận cương có những hạn chế nhất định do quá đề cao đấu tranh giai cấp, khi chưa thấy được nhiệm vụ dân tộc mới là nhiệm vụ chủ yếu nhất, khi cho “thổ địa cách mạng là cái cốt của cách mạng” nhưng qua đó ta cũng thấy được việc Đảng ta coi trọng nhiệm vụ ruộng đất, nhiệm vụ dân chủ. Ngay sau khi Đảng và bản Cương lĩnh đầu tiên của Đảng ra đời, theo phương pháp do nó vạch ra, một phong trào cách mạng của công nông dưới sự lãnh đạo của đảng đã diễn ra hết sức sôi nổi. Xô Viết Nghệ Tĩnh là đỉnh cao của phong trào trong những năm 1930-1931. Mặc dù bị dìm trong máu lửa, phong trào xô viết Nghệ Tĩnh đã chứng minhh một cách hùng hồn tính chất đúng đắn của đường lối cách mạng do chính đảng của giai cấp công nhân đề ra và dựng lên khối liên minh công nông vững chắc – nguồn gốc của mọi sự thắng lợi sau này của cách mạng. Giai cấp công nhân Việt Nam từ đó đã tìm thấy lãnh tụ của mình là giai cấp công nhân mà đội tiên phong là Đảng cộng sản. Nhận thức đúng vai trò quan trọng của nông dân trong cách mạng thuộc địa, đặt ra và giải quyết một cách đúng đắn vấn đề ruộng đất và vấn đề nông dân, Đảng đã dấy lên được cao trào cách mạng của nông dân và trở thành lãnh tụ chân chính của cách mạng Việt Nam. Vào giữa những năm 30, trước nguy cơ của cuộc chiến tranh thế giới thứ II và nguy cơ phát xít, Đại hội VII Quốc tế Cộng sản đã chủ trương tập hợp mọi lực lượng dân chủ, hòa bình chống chế độ phản động và phát xít. Trước tình hình đó, Đảng Cộng sản Đông Dương đã chuyển hướng lãnh đạo của Đảng mở đầu từ Hội nghị tháng 6 – 1936 và bổ sung, phát triển trong các Hội nghị mở rộng của Đảng năm 1937 và năm 1938. Tại các hội nghị nói trên, Đảng xác định mục tiêu của cách mạng tư sản dân quyền vẫn là chống đế quốc và phong kiến, nhưng trong tình hình lúc này, mục tiêu trực tiếp trước mắt là chống phát xít chống chiến tranh và bọn phản động thuộc địa, đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hòa bình. Bởi vậy mà Đảng chủ trương tạm gác khẩu hiệu “tịch thu ruộng đất của địa chủ chia cho dân cày” bằng khẩu hiệu “tự do, dân chủ, cơm áo, hòa bình”. Năm 1940, phát xít Nhật đem quân chiếm đóng nước ta. Tình hình thế giới cũng như trong nước có những chuyển biến mới. Trước sự áp bức bóc lột tàn bạo của Pháp – Nhật, giai cấp địa chủ càng phân hóa rõ rệt. Trong thực tiễn, xuất hiện khả năng là giai cấp công nhân có thể trung lập một bộ phận giai cấp địa chủ và tranh thủ một bộ phận khác đi với cách mạng trên vấn đề giải phóng dân tộc. Vì vậy, trên vấn đề ruộng đất, Đảng đã nêu khẩu hệu “Tịch thu tài sản của bọn đế quốc Pháp – Nhật và bọn Việt gian,...thi hành giảm tô, chia lại công điền” (chương trình của mặt trận Việt minh – 1941). Nhiệm vụ giải phóng dân tộc là nhiệm vụ trước mắt của toàn dân tộc. Đảng xác định “cuộc cách mạng ở Đông Dương hiện tại không phải là cuộc cách mạng phải giải quyết hai nhiệm vụ phản đế và điền địa nữa mà là cuộc cách mạng chỉ giải quyết một vấn đề cần kíp “dân tộc giải phóng”. [12; Tr 83 – 84]. Nhưng đó “không phải giai cấp vô sản Đông Dương bỏ mất nhiệm vụ điền địa đi đâu, cũng không phải đi lùi lại một bước, mà chỉ bước một bước ngắn hơn để có sức mà bước một bước dài hơn” [12; Tr 85] Thật vậy, chính trị là nhờ có đường lối mặt trận dân tộc thống nhất đúng đắn của Đảng trong đó quyền lợi của nông dân được giải quyết một cách thỏa đáng, cho nên Đảng đã động viên được lực lượng to lớn của nông dân đồng thời tăng thêm được những lực lượng đồng minh, tạo thành một lực lượng dân tộc thật sự hùng mạnh, tiến lên cuộc tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, lật đổ ách thống trị của đế quốc và phong kiến. 3. Đảng thực hiện giải quyết nhiệm vụ dân tộc và dân chủ qua cuộc cải cách ruộng đất (1945 – 1957) 3.1.Tại sao phải tiến hành cải cách ruộng đất trong kháng chiến? Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945 đã mở ra trang sử mới cho dân tộc Việt Nam. Nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng và ngọn cờ Mặt trận Việt Minh đã lật đổ ách thống trị của phát xít Nhật và thực dân Pháp, giải phóng dân tộc, đồng thời cũng xóa bỏ chính quyền bù nhìn đại biểu cho giai cấp địa chủ phong kiến và tư sản mại bản, tay sai đắc lực của đế quốc xâm lược. Giai cấp địa chủ phong kiến đã mất chỗ dựa và không còn là giai cấp thống trị nữa. Tuy nhiên với dã tâm cướp nước ta một lần nữa, thực dân Pháp với sự hậu thuẫn của Anh và Mỹ đã tiến hành xâm lược nước ta lần hai (23 – 9 – 1945). Trước tình cảnh đó, nhân dân ta lại một lần nữa phải đứng lên tiến hành cuộc kháng chiến toàn quốc để bảo vệ nền độc lập cho dân tộc “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không làm nô lệ”. Trong tuyên ngôn Đảng Cộng sản (1848) Mac nói: “cách mạng ruộng đất là điều kiện để giải phóng dân tộc”. “Dân tộc ta đang kháng chiến, kiến quốc. Lúc này mọi việc đều phải phục vụ kháng chiến thắng lợi kiến lợi, kiến quốc thành công. Cải cách ruộng đất chính là nhằm mục đích ấy”. [3; Tr 384] Đế quốc và phong kiến là hai lực lượng nhất câu kết với nhau để thống trị nước ta đã gần một thế kỷ nay. Triều đình phong kiến đã ươn hèn đầu hàng, bán nước ta cho thực dân, đế quốc. Thực dân Pháp sau khi chiếm được nước ta đã dùng phong kiến làm chỗ dựa để xâm lược và áp bức boc lột đồng bào ta. Bởi vậy mà muốn đánh đổ đế quốc phải đồng thời đánh đổ phong kiến và ngược lại. Hai nhiện vụ phản đế và phản phong kiến có mối liên hệ khăng khít không thể tách rời. Song, cũng cần nhận rõ đế quốc là kẻ thù chủ yếu nhất của nhân dân ta, vì chúng hung ác nhất, đang đem quân xâm lược nước ta, tàn sát, áp bức và bóc lột đồng bào ta. Vì vậy, hai nhiệm vụ phản đế và phản phong kiến đều là chủ yếu, nhưng nhiệm vụ phản đế là chủ yếu nhất. Công nông là những người đóng góp sức người, sức của nhiều nhất, hy sinh cho kháng chiến và cách mạng. Cuộc kháng chiến của ta được xác định là phải lâu dài. Yêu cầu của kháng chiến về sức người và sức của ngày một tăng. Người và của đó chủ yếu là do nông dân cung cấp. Nhưng nông dân vì thiếu thốn ruộng đất và không có ruộng đất, cho nên mới trở nên nghèo khổ và thiếu thốn. Vì vậy, cải cách ruộng đất đã đến lúc cần phải được tiến hành để “bồi dưỡng nông dân, bồi dưỡng kháng chiến, phát triển sản xuất, đẩy mạnh kháng chiến”. Hiện nay, một mặt cuộc kháng chiến bảo vệ tổ quốc ngày càng gay go và quyết liệt. Đế quốc thì tích cực dựa vào phong kiến để xây dựng ngụy quyền. Mặt khác, phong kiến ngày càng tích cực chống lại các chính sách ruộng đất, thuế nông nghiệp và tăng gia sản xuất. “Sau cách mạng tháng Tám, nhiều nơi địa chủ đã đoạt quyền lãnh đạo trong các tổ chức nông thôn. Thế lực chính trị của địa chủ chưa bị làm yếu tới mức độ cần thiết....Do đó, chỗ dựa của ta ở nông thôn chưa được vững mạnh, hậu phương của ta chưa được củng cố”.[3; Tr 394] Cách mạng muốn thành công, sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc của toàn Đảng và toàn dân muốn tháng lợi thì chủ yếu phải dựa vào công nông, trong đó nông dân là lực lượng nòng cốt chủ yếu. Nguyện vọng của hàng chục triệu người nông dân ở nước ta lúc này là dân tộc độc lập và người cày có ruộng. Đó là hai vấn đề không thể tách rời. Vì vậy phải thực hiện khẩu hiệu người cày có ruộng để đẩy mạnh kháng chiến, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc. Thật vậy, thực hiện cải cách ruộng đất thì quần chúng nông dân được ruộng đất, họ sẽ càng thêm phấn khởi tăng gia sản xuất, tham gia kháng chiến, lực lượng kháng chiến từ đó mà càng thêm mạnh. Muốn thực hiện khẩu hiệu người cày có ruộng phải từng bước thực hiện cải cách ruộng đất. “Ngày nay ta cải cách ruộng đất chính là để tích cực giải quyết vấn đề dân chủ và dân sinh”[3; Tr 391], để có thêm sức mạnh đánh đuổi đế quốc Pháp và can thiệp Mỹ ra khỏi nước ta. Hơn nữa, “then chốt tháng lợi của kháng chiến là củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, cúng cố công nông liên minh, củng cố chính quyền nhân dân ...Chỉ có phát động quần chúng cải cách ruộng đất, ta mới có thể tiến hành những công việc đó được thuận lợi”[3; Tr 396]. 3.2. Tiến hành cải cách từng phần – sự sáng tạo đúng đắn của Đảng ta (1945 – 1953) Sau khi cách mạng tháng Tám thành công, Đảng và toàn dân ta phải đứng trước muôn vàn khó khăn do thù trong, giặc ngoài gây nên. Thực dân Pháp được bọn đế quốc giúp sức ráo riết thực hiện âm mưu khôi phục quyền thống trị của chúng ở Đông Dương. Vì vậy. Đảng khảng định cuộc cách mạng ở Đông Dương lúc này vẫn là cuộc cách mạng dân tộc giải phóng; khẩu hiệu đấu tranh vẫn là: “Dân tộc trên hết, tổ quốc trên hết”. Trong tình hình đó, chính quyền cách mạng mới được thành lập chưa thể thực hiện ngay triệt để các chính sách cải cách dân chủ. Song, để đáp ứng một phần nào đó yêu cầu dân chủ của nhân dân, chính phủ lâm đã thi hành một số biện pháp như: Tịch thu ruộng đất của thực dân Pháp và Việt gian phản động chia cho dân nghèo. Chia lại công điền cho công bằng và hợp lý hơn, thực hiện giảm tô, giảm tức, ... Ngày 13 – 10 – 1945, Uỷ ban nhân dân Bắc Bộ đã ra thông tư 55-VP và ngày 20 – 11 – 1945, Chính phủ lâm thời đã ra thông cáo buộc chủ điền phải giảm 25% tô, chia lại ruộng đất công cho công bằng theo nguyên tắc dân chủ cho cả nam và nữ, tạm giao ruộng đất vắng chủ cho nông dân thiếu ruộng. Đây là văn kiện đầu tiên mà chính quyền cách mạng chính thức tấn công vào sự bóc lột của giai cấp địa chủ phong kiến, bảo vệ quyền lợi cho giai cấp nông dân. Ngày 15 – 1 – 1948, Hội nghị Trung Ương Đảng mở rộng được triệu tập. Trên cơ sở nhận định thấy so sánh lực lượng giữa ta và địch có hướng có lợi cho ta, Hội nghị đã ra nghị quyết về một hệ thống chính sách ruộng đất của Đảng trong kháng chiến gồm một số điểm như: “1. Triệt để thực hiện giảm 25% địa tô. 2.Bài trừ những thứ địa tô phụ thuộc như tiền trình gặt, tiền đầu trâu 3. Bỏ chế đọ quá điền. 4. Đem ruộng đất và tài sản của bọn phản quốc tạm cấp cho dân nghèo. 5. Chhia lại ruộng đất công cho hợp lý và công bàng hơn. 6. Đem ruộng đất của đồn điền chia cho dân cày nghèo, ....”[11; Tr 67]. Nghị quyết này có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc giải quyết vấn đề ruộng đất trong điều kiện của cuộc kháng chiến, nhằm phát triển sản xuất nông nghiệp. Việc giảm tô 25% được côi là nhiệm vụ hàng đầu, tiếp đó là việc chia lại ruộng đất công cho hợp lý, tạm cấp ruộng đất vắng chủ,... Tháng 8 – 1948, Trung ương Đảng triệu tập hội nghị cán bộ lần thứ V. Hội nghị đánh dấu một bước tiến mới, quan trọng trong thời kỳ kháng chiến. Từ những đánh giá rất xác đáng về vấn đề dân cày và địa chủ phong kiến, về bối cảnh và tính chất của cuộc cách mạng dân chủ mới ở Việt Nam, Hội nghị đã nhận định: Muốn xóa bỏ những tàn tích phong kiến, phát triển nông nghiệp, phải cải cách ruộng đất. Song, xuát phát từ việc phân tích đặc điểm và hoàn cảnh nước ta lúc này, Hội nghị đã chủ trương: “Dùng phương pháp cải cách dần dần mà thu hẹp phạm vi bóc lột của địa chủ phong kiến bản xứ (ví dụ: giảm tô), đồng thời sửa đổi chế độ ruộng đất (trong phạm vi không có hại cho mặt trận thống nhất chống thục dân Pháp xâm lược). Đó cũng là một cách ta thực hiện cách mạng thổ địa bằng một đường lối riêng biệt”.[8; Tr 3] Trước yêu cầu bồi dưỡng sức dân để đẩy mạnh cuộc kháng chiến và kiến quốc của dân tộc, Chính phủ ban Sắc lệnh 78-SL ngày 14-7-1949, Nghị định 130 NV ngày 24-7-1949 của Chính phủ và Thông tư số 50 ngày 15-11-1949 của Liên Bộ Nội Vụ - Tư pháp – Canh nông nêu rõ chính sách giảm tô của Đảng và Chính phủ là: Giảm và xóa bỏ địa tô chính, tô phụ. Đối tượng phải giảm tô gồm tất cả những cá nhân hay đoàn thể có ruộng đất cho tá điền lĩnh canh cấy rẽ hay cấy nộp phải nộp tô. Cách thức giảm: Giảm 25% số địa tô chính thức thu trước Cách mạng tháng Tám và địa tô sau khi đã nộp không quá 1/3 tổng số thu hoạch một vụ chính; Điền chủ nào tự nguyện giảm 25% sau Tổng khởi nghĩa nay không phải giảm nữa. Điền chủ nào đã giảm hơn 25% thì cứ để nguyên. Điền chủ nào giảm chưa đủ 25% nay giảm cho đủ; Đối với ruộng cấy rẽ, địa tô cũng phải giảm 25%”[11; Tr 74] Trong Chính cương Đảng Lao Động Việt Nam (2-1951) cũng khẳng định: “Trong kháng chiến chính sách ruộng đất chủ yếu là giảm tô, giảm tức. Ngoài ra thi hành những cải cách khác như: quy định chế độ lĩnh canh, tạm cấp ruộng đất của thực dân Pháp và Việt gian cho dân cày nghèo... Mục đích của những cải cách đó là cải thiện đời sống nông dân, đồng thời xúc tiến tăng gia sản xuấ, bảo đảm cung cấp và đoàn kết toàn dân để kháng chiến”. [11; Tr 73]Đến khi kháng chiến thành công, trọng tâm của cách mạng sẽ chuyển từ nhiệm vụ giải phóng dân tộc sang nhiệm vụ xóa bỏ di tích phong kiến Việt Nam. Khẩu hiệu “thực hiện người cày có ruộng” sẽ được đề ra và thực hiện trong toàn quốc. Phương thức tiến hành cải cách từng phần như trên đã trình bày của Đảng đã kế thừa và phát triển kinh nghiệm giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa nhiệm vụ dân tộc (chống đế quốc) và nhiệm vụ dân chủ (chống phong kiến) trong những năm vận động giải phóng dân tộc trước Cách mạng tháng Tám. Những điều kiện mới quy định phương thức cải cách ruộng đất riêng biệt ở Việt Nam đó là sự bùng nổ của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. Đảng đã giải thích rõ chủ trương tiến hành cải cách từng phần và tiến tới triệt để cải cách ruộng đất trong kháng chiến: “Cố nhiên phải tập trung mọi lực lượng làm cho xong nhiệm vụ phản đế, nhưng nhiệm vụ phản phong kiến không phải hoàn toàn gác kaij sau khi đã làm xong nhiệm vụ phản đế rồi mới tính đến. Lúc này cách mạng dân chủ mới Đông Dương đâu có thể chia đứt ra làm hai khúc dứt đoạn, dành mạch... trong quá trình kháng chiến, việc tịch thu, không bồi thường ruộng đất của thực dân và của bọn phản quốc vẫn phải tiếp tục. Ruộng đát của bọn chúng tịch thu đến đâu, có thể giao cấp cho dân cày đến đó chứ. Nhớ rằng giảm tô, giảm tức, tạm cấp ruộng đất của thực dân Pháp và Việt gian cũng là bắt đầu cải cách ruộng đất một phần nào rồi”.[8; Tr 3-4] Như vậy, có thể thấy Đảng ta đã chủ trương từng bước thực hiện nhiệm vụ dân chủ, từng bước đáp ứng yêu cầu ruộng đất cho nông dân, bằng cách ddanhs mạnh vào chế độ sở hữu ruộng đất của bọn đế quốc, tư bản Pháp và những kẻ phản quốc. Điều đó không những mang lại lợi ích to lớn cho dân cày mà hơn nữa còn có tác dụng làm phân hóa giai cấp địa chủ phong kiến theo hướng có lợi cho cuộc cách mạng kháng chiến, kiến quốc. Như vậy, chủ trương chung của Đảng trong kháng chiến là chưa đánh đổ giai cấp địa chủ, chưa tịch thu ruộng đất của họ vì chính sách đại đoàn kết dân tộc, cô lập tối đa kẻ thù, đảm bảo xây dựng lực lượng toàn dân chống lại thực dân Pháp. Vì nhận thức sâu sắc “Tổ quốc trên hết, dân tộc trên hết” nên Đảng chủ trương dùng phương pphaps cải cách từng phần để thu hẹp dần phạm vi bóc lột của địa chủ phong kiến bản xứ qua hai hình thức chủ yếu là giảm tô, giảm tức. Chính sách cải cách ruộng đát từng phần mà Đảng lãnh đạo thực hiện từ 1945-1952 đã thu được những kết quả to lớn: “Tính từ liên khu IV trở ra, đến năm 1953 đã có 397.000 ha ruộng đất được giảm tô 25%. Ở miền Tây Nam Bộ có nơi mức tô được giảm cao hơn nhiều. Ruộng đất được chia cho nông dân lao động chiếm một diện tích rất lớn. Theo số liệu thống kê của 3035 xã ở miền Bắc truwowcg khi cải cách ruộng đât từ 1945-1953, ruộng đất đã tịch thu của thực dân Pháp chia cho nông dân la 26,8nghìn ha; ruộng đất của địa chủ đem chia nông dân là 156,6 nghìn ha; ruộng đát của nhà chung đem chia cho nông dân là 3,2 nghin ha; ruộng đất công và nửa công được đem chia là 289,3 nghìn ha”.[8;Tr 5] Xuất phat từ sự nhận thức đúng đắn đặc điểm xã hội Việt Nam, Đảng Lao Động Việt Nam đã khéo léo đè ra một phương thức riêng, độc đáo, sáng tạo để thực hiện khẩu hiệu “người cày có ruộng” trong quá trình kháng chiến chống Pháp. Những cuộc cải cách nhỏ được thực hiện từng bước gộp lại thành một cuộc cách mạng mang lại hiệu quả cao thành quả đó chứng minh chủ trương tiến hành cải cách ruộng đất từng phần của đảng ta là hoàn toàn đúng đắn. Đường lối đó, trước hết đã tạo ra được mối trung hòa lợi ích giữa các giai cấp trên cơ sở vì lợi ích chung của cả dân tộc. Nó cho phép Đảng ta giải quyêt một cách khéo léo mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ trên cơ sở những điều kiện lịch sử cụ thể. Với sáng tạo đó, Đảnh vừa giải quyêt được vấn đề ruộng đất cho nông dân, phát huy tinh thần kháng chiến của nông dân, vừa tập hợp được đông dảo tầng lớp nông dân kể cả địa chủ và con em họ đóng góp sức người, sức của cho cuộc kháng chiến, kiến quốc bảo vệ độc lập dân tộc. 3.3 Đảng lãnh đạo phát động quần chúng triệt để giảm tô, giảm tức và cải cách ruộng đất (1953 – 1957) Việc thực hiện từng bước chính sách cải cách dân chủ từ sau cách mạng tháng Tám đến măn 1952 đã tạo ra những chuyển biến quan trọng trong chế độ ruộng đất và quan hệ giai cấp trong nông thôn nước ta.Tuy nhiên, chế độ chiếm hữu và bóc lột phong kiến chưa bị thủ tiêu, khẩu hiệu “người cày có ruộng” chưa được giải quyết căn bản, giai cấp địa chủ vẫn còn tồn tại như một giai cấp. Bởi vậy, trên cơ sở những thành tựu đã đạt được, cần phải tiếp tục tiến lên xóa bỏ hoàn toàn chế độ chiếm hữu và bóc lột phong kiến, đánh đổ giai cấp địa chủ, hoàn thành nhiệm vụ dân chủ . Sự tiến triển của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược vào những năm cuối càng đòi hỏi cấp thiết phải tiến lên hoàn thành nhiệm vụ này. Lúc này, bước sang năm 1953, tình hình cách mạng Việt Nam đã có những chuyển biến tích cực. Vùng tự do của ta được mở rộng và tương đối ổn định. Sự chuyển biến của cuộc kháng chiến chống Pháp ở giai đoạn cuối đòi hỏi chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến càng trở nên cấp thiết. Điều đó đòi hỏi phải không ngừng bồi dưỡng lực lượng nông dân, cải thiện đời sống nông dân. Mặt khác, do nhiều nguyên nhân mà cuộc cải cách từng phần nhiều nơi đã không thu được kết quả như mong đợi, quá trình thực hiện đã xuất hiện những sai phạm. Những cải cách dân chủ thực hiện trong những năm đầu kháng chiến đã có tác dụng tích cực trong thời gian trước, đến nay tỏ ra không đủ nữa. Đã đến lúc phải tiến lên thỏa mãn yêu cầu cơ bản và cấp bách của nông dân Việt Nam: yêu cầu ruộng đất. Bởi, ta cải cách ruộng đất tức là củng cố hậu phương của ta, đồng thời làm tan rã hậu phương của địch. Trên cơ sở và hoàn cảnh đó, Đảng đã tiến hành kiểm điểm chính sách ruộng đất của Đảng trong những năm đầu kháng chiến mà nội dung chủ yếu là chúng ta đã chưa kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ phản đế và phản phong kiến, chính sách ruộng đất chưa được thi hành đây đủ: “ Chúng ta đã quan niệm một chiều về chính sách đoàn kết rộng rãi dân tộc để kháng chiến, chúng ta lại thiếu kinh nghiệm, không thấy hết yêu cầu và triển vọng của cuộc kháng chiến lâu dài.... Chúng ta đã không tích cực thi hành chính sách ruộng đất, không quan niệm thật rõ sự cần thiết phải thực hiện cải cách ruộng đất ngay trong kháng chiến. Vì vậy, đã có lúc chúng ta coi nhẹ nhiệm vụ phản phong kiến, không nhận rõ đẩy mạnh nhiệm vụ phản phong kiến chính là một phương pháp cơ bản để phục vụ nhiệm vụ phản đế, làm cho nhiệm vụ phản đế chóng thành công”. [ 3; Tr 397] Từ trên cơ sỏ nhận định và chủ trương đó Đảng ta đã chủ trương tiến hành triệt để giảm tô, đẩy mạnh hơn nữa việc thực hiện chính sách ruộng đất. Tháng 11 – 1953, Ban chấp hành Trung ương Đảng đã quyết định thông qua “Cương lĩnh ruộng đất” và quyết định cải cách ruộng đất trong kháng chiến. Tháng 12 – 1953, Quốc hội đã thông qua “Luật cải cách ruộng đất”. Theo đó thì cuộc cải cách ruộng đất mà Đảng ta tiến hành thực hiện nhằm: “Thủ tiêu quyền chiếm hữu ruộng đất của thực dân Pháp và của đế quốc xâm lược khác ở Việt Nam, xóa bỏ chế độ chiếm hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ” Để thực hiện chế độ sở hữu ruộng đất của nông dân. Để giải phóng sức sản xuất ở nông thôn, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp và mở đường cho công thương nghiệp phát triển ............. Để đẩy mạnh kháng chiến hoàn thành giải phóng dân tộc, củng cố chế độ dân chủ nhân dân, phát triển công cuộc kiến quốc.” [13; Tr 396] Muốn thực hiện cải cách ruộng đất, điều quan trọng bậc nhất là cần phải xác định rõ được đường lối chung của Đảng ở nông thôn. Là cuộc đấu tranh giai cấp gay go và quyết liệt của nông dân chống địa chủ phong kiến, cách mạng ruộng đất ở nước ta có liên quan tới các giai cấp và tầng lớp trong xã hội. Vì vậy, vấn đề thù, bạn của cách mạng cũng như thái độ với bạn và thù phải được xác định thật rõ ràng, có như thế mới đoàn kết được những người bạn thực sự thành lực lượng mạnh mẽ để đánh vào kẻ thù chủ yếu của cách mạng. Cách mạng ruộng đất ở nước ta lại tiến hành trong điều kiện phải tập trung mũi nhọn của cách mạng chủ yếu chĩa mũi nhọn vào bọn đế quốc xâm lược và tay sai của chúng, trong điều kiện phải giữ vững và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất chống đế quốc, vì vậy vấn đề sách lược đối với kẻ thù cũng là một vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt. Theo đó, Đảng đã đề ra đường lối chung ở nông thôn lúc này là: “Dựa hẳn vào bần cố nông, đoàn kết chặt chẽ với trung nông, liên hiệp với phú nông, tiêu diệt tận gốc chế độ bóc lột phong kiến từng bước và có phân biệt, phát triển sản xuất, đẩy mạnh kháng chiến” [3; Tr 400]. Đường lối trên của Đảng đã thể hiện rõ quan điểm, thái độ của Đảng đối với từng giai cấp, tầng lớp ở nông thôn. Chúng ta thấy rằng, đến năm 1953 thì đường lối chiến lược cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân của Đảng ta đã có sự thay đổi. Nếu như trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chiến, Đảng đề ra khẩu hiệu “Tổ quốc trên hết, dân tộc trên hết” và “Cuộc kháng chiến này chỉ hoàn thành nhiệm vụ giải phóng đất nước, củng cố và mở rộng chế độ dân chủ cộng hòa. Nó không tịch thu ruộng đất của địa chủ chia cho dân cày, chỉ tịch thu ruộng đất và các hạng tài sản khác của Việt gian phản động để bổ sung ngân quỹ kháng chiến hay ủng hộ các gia đình chiến sĩ hi sinh”.[2; Tr 30 – 31] Thì tới nay, bước vào giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến, trước yêu cầu về sức người và sức của ngày càng lớn, trước tình hình những chính sách cải cách dân chủ trong những năm đầu kháng chiến đã không còn đáp ứng được nhiệm vụ bồi dưỡng, động viên lực lượng nhân dân nữa, Đảng ta đã chủ trương tiến hành triệt để giảm tô, giảm tức, phóng tay phát động quần chúng tiến hành cải cách ruộng đất, xóa bỏ toàn bộ giai cấp địa chủ phong kiến Việt Nam, chia hẳn ruộng đất cho dân cày. Đầu tháng 4-1953, đợt 1 phát động quần chúng giảm tô và cũng là đợt thí điểm mở ra trong 25 xã thuộc các tỉnh Thái Nguyên, Phú Thọ và Thanh Hóa nhằm rút kinh nghiệm, xây dựng chủ trương chính sách và kế hoạch cụ thể. Cán bộ Đảng được cử về địa phương đã đi sâu vào quần chúng bần cố nông, tuyên truyền rộng rãi chính sách của Đảng và Chính phủ. Chủ trương phát động quần chúng giảm tô được quần chúng nhiệt liệt hoan nghênh. Đợt thí điểm đã đạt được những kết quả to lớn và căn bản. Đợt 2 giảm tô được tiến hành trong 163 xã và cũng đã đạt được thắng lợi lớn. Khi đợt 2 giảm tô chuyển vào tổng kết thì cũng là lúc chúng ta chuẩn bị mở đợt thí điểm cải cách ruộng đất. Vào đầu tháng 12- 1953, khi cuộc phát động quần chúng giảm tô chuyển sang đợt 3 thì cải cách ruộng đất bắt đầu mở đợt thí điểm. Đợt thí điểm cải cách ruộng đất được tiến hành trong 6 xã thuộc huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên. Tiếp sau thí điểm, đợt 1 cải cách ruộng đất đã diễn ra trong 53 xã thuộc các tỉnh Thái Nguyên, Bắc Giang, Thanh Hóa. Thắng lợi của đợt cải cách ruộng đất đầu tiên và đợt 1 đã vượt ra ngoài phạm vi của những địa phương nhỏ hẹp. Ảnh hưởng của nó vang dội trong toàn quốc, làm nức lòng quần chúng công nông ở hậu phương và các chiến sĩ ngoài tiền tuyến. Khi đó cũng là lúc ta bắt đầu trận đánh quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ. Tin thắng lợi đó đã tiếp thêm tinh thần chiến đấu to lớn, thúc đẩy bộ đội ta thi đua giết giặc. Sức mạnh tinh thần đã chuyển hóa thành sức mạnh vật chất tạo nên những kỳ tích của quân đội Việt Nam. Như vậy, việc thực hiện giảm tô, giảm tức và cải cách ruộng đất vào giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến đã góp phần thúc đẩy mạnh mẽ tinh thần chiến đấu của các chiến sĩ ngoài mặt trận, nhân dân tích cực chi viện cho chiến trường. Cuộc cải cách này đã vượt qua được cả việc hoàn thành nhiện vụ dân chủ là đem lại ruộng đất cho dân cày, biến ước mơ ngàn đời của người nông dân trở thành sự thật mà nó còn góp phần vào việc thực hiện nhiệm vụ dân tộc to lớn. Tuy vậy, thắng lợi quân sự của Việt Nam trong thời điểm này phản ánh quá trình vừa kháng chiến vừa kiến quốc; vừa chiến đấu, vừa xây dựng hậu phương, của cả quá trình thực hiện chính sách ruộng đất từng bước ở nông thôn trước năm 1953. Để tiến thêm một bước trong việc xóa bỏ sự chiếm hữu ruộng đất của điạ chủ, tăng cường hơn nữa sở hữu ruộng đất cho nông dân, bồi dưỡng lực lượng chính cho cuộc kháng chiến, phát triển sản xuất, chi viện cho chiến trường, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước Đảng ta tiếp tiến hành cuộc vận động cách mạng ruộng đất. Đợt 6 giảm tô và đợt 2 cải cách ruộng đất là những đợt đầu tiên được tiến hành trong hòa bình. Từ đó cuộc phát động quần chúng bắt đầu lan rộng vào vùng trung du và đồng bằng mới giải phóng. Đợt 7 và đợt 8 giảm tô, đợt 4 và đợt 5 cải cách ruộng đất tiến hành trên một địa bàn rất rộng, mỗi đợt bao gồm mấy trăm cho đến một nghìn xã. Giữa đợt 5 – đợt cải cách ruộng đất cuối cùng – vào mùa hè năm 1956 (cũng là đợt lớn nhất trong cải cách ruộng đất, được tiến hành tại 1732 xã với khoảng 6 triệu dân ở 20 tỉnh và 2 thành phố), Đảng ta bắt đầu phát hiện những sai lầm nghiêm trọng trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức. Trung ương Đảng đã có chỉ thị kết hợp với những bước cuối của đợt cải cách mà tiến hành kiểm tra và sửa chữa những sai lầm đã phạm phải. Trước những khó khăn do sai lầm của cải cách ruộng đất gây ra, tuyệt đại đa số nhân dân ta vẫn giữ vững niềm tin với Đảng, Chính phủ và Hồ chủ tịch. Đánh giá về cuộc cải cách ruộng đất, Bộ chính trị Ban chấp hành trung ương Đảng đã có kết luận: “Căn cứ vào những kết quả đã đạt được và căn cứ vào hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, thì việc tiếp tục giải quyết nhiệm vụ dân chủ vấn đề ruộng đất, xóa bỏ những tàn dư của chế độ phong kiến là cần thiết. Căn cứ tình hình nông thôn miền bắc nước ta năm 1954, căn cứ vào số ruộng chia cho nông dân trong cải cách ruộng đất, căn cứ vào tác hại rất nghiêm trọng của sai lầm cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức, thì chủ trương cải cách ruộng đất như đã làm là không cần thiết, đó là vì trước khi tiến hành cải cách ruộng đất, giai cấp địa chủ, chế độ phong kiến đã căn bản bị xóa bỏ và mục tiêu người cày có ruộng đã căn bản được thực hiện với tỷ lệ 2/3 ruộng đất đã vào tay nông dân, với quyền làm chủ của nông dân trong nông thôn đã được thực hiện từ Cách mạng tháng Tám đến kháng chiến chống Pháp”. [10; Tr 9] Công tác sửa sai được tiến hành trong những điều kiện phức tạp. Một mặt phải nhằm khắc phục sai lầm, giải quyết những mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, mặt khác phải tiếp tục cuộc đấu tranh chống bọn địa chủ và bọn phản động âm mưu xóa bỏ những thành quả của cải cách ruộng đất. Do chủ trườn đúng dắn của Đảng và được toàn dân ủng hộ, nên sau gần một năm, tới cuối năm 1957, công tác sửa sai đã đem lại kết quả. Nông thôn dần ổn định lại, nội bộ Đảng đoàn kết, lòng tin của nhân dân được khôi phục, sản xuất nông nghiệp được đẩy mạnh, chính quyền nhân dân được ổn định và sự lãnh đạo của Đảng được ttawng cường. Sau một năm sửa sai, năm 1957 công cuộc cải cách ruộng đất đã hoàn thành thắng lợi. Kết quả tổng cộng của cuộc cải cách ruộng đất được tiến hành từ 1953 – 1956,chúng ta đã phát động quần chúng tiến hành 8 đoạt giảm tô và 5 đợt cải cách ruộng đất “trên 3.314 xã thuộc 22 tỉnh, thành phố. Qua đó, 810.000 ha ruộng đất của thực dân, địa chủ phong kiến, ruộng đất tôn giáo, ruộng đất công và nửa công nửa tư ở miền Bắc đã bị tịch thu, trưng thu, trưng mua và đã được chia cho hơn 8 triệu nhân khẩu tức 72,8% nông hộ. Ngoài ra còn 1,8 triệu nông cụ, hơn 10 vạn trâu bò, hàng vạn nhà cửa cũng được đem chia cho nông dân”[8; Tr 9]. Sau cải cách ruộng đất, giai cấp địa chủ đã hoàn toàn bị xóa bỏ hoàn toàn, ruộng đất đã thuộc về tay nông dân. Nhiệm vụ dân tộc giải phóng dân tộc được hoàn thành ở một nửa nước, nhiệm vụ dân chủ “ngày cày có ruộng” đã haonf thành ở miền Bắc. Từ đó, tạo điều kiện để xây dựng hậu phương miền Bắc vững chắc để tiến hành hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam. 4. Mối liên hệ khăng khít giữa nhiệm vụ dân tộc và dân chủ; Một số bài học kinh nghiệm trong việc thực hiện giải quyết vấn đề ruộng đất. Tổng kết kinh nghiệm của cách mạng Việt Nam ta thấy nổi bật lên một đặc điểm: Trong cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân của ta, hai nhiệm vụ phản đế và phản phong kiến khăng khít với nhau, không thể tác rời nhau, nhưng cũng không thể tiến hành song song nhất loạt ngang nhau; khăng khít với nhau là vấn đề chiến lược, không tiến hành song song là vấn đề sách lược. Về sự gắn bó khăng khít giữa hai nhiệm vụ chống đế quốc và chóng phong kiến, muốn đánh đổ bọn đế quốc xâm lược thì phải đồng thời đánh đổ giai cấp địa chủ phong kiến và ngược lại, muốn đánh đổ giai cấp địa chủ phong kiến thì nhất thiết phải đánh đổ bọn đế quốc xâm lược. Sự gắn bó khăng khít giữa nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến còn do đặ điểm của cuộc cách mạng thuộc địa quyết định. “ Cách mạng thuộc địa là cuộc cách mạng lâu dài, gian khổ, phức tạp, khi đấu tranh chính trị, khi đấu tranh vũ trang để tiêu diệt kẻ cướp nước, giành lại độc lập, tự do ....Muốn giành được chính quyền, phải dựa vào nông thôn, xây dựng căn cứ địa cách mạng ở nông thôn, dựa vào nông dân để xây dựng lực lượng vũ trang, đánh chiếm dàn từng vùng ở nông thôn, lấy nông thôn bao vây thành thị và khi có điều kiện thì tổng khởi nghĩa trong toàn quốc, giải phóng cả nông thôn và thành thị”. [9; Tr350] Vai trò của nông dân trong cách mạng thuộc địa là vô cùng to lớn. Do đó, rất dễ thấy rằng sự thành công của cách mạng thuộc địa tùy thuộc vào một phần rất lớn ở sự giải quyết đúng đắn vấn đề nông dân. Cách giải quyết đúng đắn chính là ở chỗ coi hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến không thể tách rời nhau, gắn bó khăng khít không tách rời nhau. Nhưng mặt khác chúng ta lại không thể coi hai nhiệm vụ là cân bằng nhau, phải tiến hành song song nhất loạt ngang nhau. Lý lẽ là ở chỗ, nếu đế quốc và phong kiến là hai kẻ thù chủ yếu của nhân dân ta và sự câu kết giữa chúng với nhau là một sự thật hiển nhiên, thì mặt khác, lại không thể không nhận rằng kẻ thù chủ yếu nhất, mạnh nhất và nguy hại nhất chính là bọn đế quốc xâm lược. Một kinh nghiệm chủ yếu của Đảng ta là, Đảng đã vận dụng một cách sáng tạo những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tế cụ thể của nước ta, đề ra đường lối phương châm cách mạng đúng đắn nhiệm vụ phản đế và phản phong kiến, coi nhiệm vụ chống đế quốc và bè lũ tay sai của chúng là nhiệm vị chủ yếu nhất và nhiệm vụ phản phong kiến phải tiến hành từng bước, kết hợp chặt chẽ với nhiệm vụ phản đế. Qua thực tiễn cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở nước ta, đặc biệt là qua cuộc cải cách ruộng đất (1945 – 1957) chúng ta thấy rằng: Chủ trương tiến hành cải cách ruộng đất ngay trong kháng chiến phản ánh sự trưởng thành của Đảng ta trong việc nhận thức mối liên hệ khăng khít giữa hai nhiệm vụ chiến lược của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ đó. Đồng thời qua cuộc cải cách này, Đảng ta đã rút ra được những bài học kinh nghiệm cụ thể trong quá trình giải quyết vấn đề ruộng đất, Một là, phải nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề ruộng đất; mối quan hệ giữa cách mạng ruộng đất và cách giải phóng dân tộc một cách sáng tạo, linh hoạt, độc lập, tự chủ, phù hợp với yêu cầu khách quan của hoàn cảnh đất nước. Nước ta là một nước nông nghiệp, nông dan chiếm tới hơn 90% dân số. Thực dân Pháp xâm lược và áp bức bóc lột nhân dân ta thì cũng chủ yếu là bóc lột nông dân. Nông dân trở thành lực lượng chủ yếu của cách mạng, vì vậy mà Đảng cần phải liên tục bồi dưỡng sức dân, thực hiện khẩu hiệu “người cày có ruộng”. Tuy nhiên, nói như không có nghĩa là đặt vấn đề dân chủ ngang hàng với vấn đề dân tộc. Ngược lại, cần đặt nó trong mối liên hệ chặt chẽ với vấn đề giải phóng dân tộc, giải quyết quyền lợi cho nông dân từng bước theo yêu cầu, nhiệm vụ và sự cần thiết của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Bở vậy mà, Đảng không những phải nhận thức đúng vị trí của vấn đề ruộng đất ở nước ta mà còn phải có đường lối độc lập, tự chủ, trong giải quyết vấn đề ruộng đất thì mới có thể thu được thắng lợi trọn vẹn cho cách mạng. Hai là, phải đánh giá đúng tâm tư tình cảm, nguyện vọng của người nông dân để đề ra các chủ trương và thực hiện bằng các biện pháp phù hợp với các đặc điểm về phong tục tạp quán, tâm tư tình cảm của dân cư từng vùng miền, từng dân tộc, tôn giáo để giải quyết có hiệu quả vấn đề ruộng đất tránh để xảy ra những sai lầm đáng tiếc Ba là, phải nắm vững đường lối, chính sách của Đảng, giữ đúng nguyên tắc của Đảng khi giải quyết vấn đề ruộng đất. Đặc biệt trong việc tiến hành cải cách ruộng đất thì cần phải nắm vững và tuân thủ theo “đường lối chung ở nông thôn” mà Đảng đã đề ra. Từ đó xây dựng được khối đại đoàn kết toàn dân vững mạnh, đồng thời tiến tới cô lập và tiêu diệt kẻ thù. KẾT LUẬN Sau khi cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, mở ra một trang mới cho lịch sử dân tộc. Đất mới được xây dựng lại phải đối diện với muôn vàn những khó khăn mới do thù trong giặc ngoài gây ra. Thực dân Pháp với dã tâm quay trở lại cướp nước ta một lần nữa, với sự dung dưỡng của Mỹ và Anh tháng 9 – 1945 chúng ta quay lại xâm lược nước ta. Trước hoàn cảnh mới Đảng ta phải tiếp tục lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân với hai nhiệm vụ chiến lược. Từ năm 1945 – 1953, Đảng đã thực hiện nhiều biện pháp để thực thi cách mạng ruộng đất ở nước ta. Chính sách ruộng đất của Đảng trong thời kỳ này có khác nhau, nhưng đều tựu chung lại ở một điểm: chính sách đó một mặt biểu hiện đường lối đại đoàn kết dân tộc, phân hóa giai cấp địa chủ, tranh thủ tất cả các phần tử có thể đấu tranh về phaiis dân tộc chống kẻ thù chủ yếu nhất là đế quốc xâm lược, một mặt cũng biểu hiện không tách rời nhiệm vụ đấu tranh giải phóng dân tộc và nhiệm vụ xóa bỏ sở hữu ruộng đất phong kiến đưa ruộng đất về tay nông dân. Điểm mạnh của hệ thống chính sách cải cách dân chủ trong giai đoạn này là vừa đảm bảo chính sách đại đoàn kết dân tộc, cô lập tối đa kẻ thù, tạo nên sức mạnh rộng lớn đảm bảo kháng chiến thắng lợi. Từ năm 1953 – 1957, trước yêu cầu ngày càng lớn về sức người và sức của ngày càng lướn của cuộc kháng chiến, Đảng đã tiến hành phóng tay phát động quần chúng triệt để giảm tô, giảm tức và cải cách ruộng đất. Trong giai đoạn đầu, cuộc cải cách đã có những giá trị nhất định phục vụ cho việc giải quyết nhiệm vụ dân tộc và dân chủ, đặc biệt là nhiệm vụ dân tộc.Tuy nhiên, càng về sau, cuộc cải cách lại càng bộc lộ những hạn chế, sai lầm của mình. Nó thực sự đã trở thành cuộc đấu tranh giai cấp giằng co, gay go, quyết liệt, gây tổn hại tới khối đại đoàn kết dân tộc. Qúa trình thực hiện khẩu hiệu “người cày có ruộng” ở Việt Nam là quá trình diễn ra tương đối phức tap và kéo dài do đặc điểm của nước nhà là đồng thời phải tiến hành hai nhiệm vụ chiến lược dân tộc và dân chủ. Đường lối chính sách chỉ đạo thực hiện của Đảng đối với vấn đề thực hiện quyền sở hữu ruộng đất cho nông dân chịu tác động ccuar nhiều yếu tố: tác động của hoàn cảnh trong nước, tác động của nhân tố ngoài nước. Quan điểm của Đảng về giải quyết nhiệm vụ “người cày có ruộng” trong những năm 1945 – 1957 có khác nhau, thậm chí mâu thuẫn nhau, đó là điều bình thường khi mà hoàn cảnh lịch sử dân tộc liên tục đổi thay. Nhưng đường lối thay đổi như thế nào cho phù hợp với hoàn cảnh lịch sử mới là điều đáng quan tâm. Có thể nói, kết quả to lớn nhất mà hệ thống những chính sách của Đảng trong việc thực hiện khẩu hiệu “người cày có ruộng” đem lại là đã góp phần tạo nên sức mạnh vật chất và tinh thần để hoàn thành sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ nhân ở miền Bắc, người nông dân đã thực sự trở thành người chủ trên mảnh đất của mình. Từ đó, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng hậu phương vững chắc chi viện cho miền Nam hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thống nhất đất nước. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1, Trường Chinh (1976), Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam, Nxb Sự Thật, tập II, Hà Nội. 2, Trường Chinh (1947), Kháng chiến nhất định thắng lợi, Nxb Sự thật, Hà Nội. 3, Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 14, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 4, Nguyễn Kiến Giang (1958), Phác qua tình hình ruộng đất và đời sống nông dân trước cách mạng thán Tám, Nxb Sự thật, Hà Nội. 5, Lê Mậu Hãn (2008), Các cương lĩnh cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 6, Lâm Quang Huyên (2007), Vấn đề ruộng đất ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội , Hà Nội. 7, Qua Ninh, Vân Đình (Trường Chinh và Võ Nguyên Giáp), Vấn đề dân cày, Đức Cường xuất bản năm 1937. 8, Quỳnh Nga (2010), Quan điểm tiến hành cải cách ruộng đất ở Việt Nam trong những năm 1945 – 1956 qua các nghị quyết Trung ương Đảng, Nguồn tailieu.vn. 9, Trần Phương (1968), Cách mạng ruộng đất ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 10, Nguyễn Duy Tiến (2008), Đề cương bài giảng Lịch sử Việt Nam 1954 – 1975 11, Nguyễn Duy Tiến (2002), Quá trình thực hiện quyền sở hữu ruộng đất cho nông dân ở Thái Nguyên 1945-1957, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 12, Ngô Đăng Tri (2010), 80 năm Đảng cộng sản Việt Nam những chặng đường lịch sử, Nxb Thông tin và truyền thông, Hà nội. 13, Văn phòng quốc hội (2006), Văn kiện quốc hội toàn tập, tập I, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doccch m7841nh dn t7897c dn ch7911 nhn dn.doc
Tài liệu liên quan